LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tiền tệ Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện gắn liền với tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, mặc dù thị trường tiền tệ Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Đặc biệt, thị trường đã thực hiện chức năng cân đối, điều hòa nguồn vốn giữa các ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, hoạt động an toàn và hiệu quả. Thông qua các hoạt động trên thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền tệ nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Có thể khẳng định rằng, thị trường tiền tệ Việt Nam đã góp phần nhất định trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết cấu đề tài bao gồm:
Bài viết dưới đây tập trung đề cập khái quát về quá trình hình thành và phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam, các kết quả đạt được, các hạn chế và mục tiêu, định hướng phát triển thị trường trong những năm tới, cũng như nêu lên một số giải pháp, chính sách chủ yếu để tiếp tục hoàn thiện thị trường tiền tệ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I 2
I. Khái niệm thị trường tiền tệ 2
II. Các thành viên tham gia thị trường tiền tệ 2
1. Các Ngân hàng thương mại (NHTM) 2
2. Ngân hàng Trung ương (NHTW) 2
3. Các tổ chức tài chính phi Ngân hàng 2
4. Các tổ chức phi tài chính (Các công ty sản xuất kinh doanh) 2
5. Các cá nhân 3
III. Các bộ phận của thị trường tiền tệ 3
1. Thị trường tiền tệ liên Ngân hàng. 3
2. Thị trường mở 3
3. Thị trường chứng khoán ngắn hạn 3
4. Chức năng của thị trường tiền tệ 3
5. Giá cả trên thị trường tiền tệ(lãi xuất) 3
6. Các công cụ chủ yếu trên thị trường tiền tệ điển hình 3
7. Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và lạm phát 4
PHẦN II 5
I. Một số nét khái quát về quá trình hình thành và phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam 5
1. Các bộ phận cấu thành của thị trường tiền tệ ở Việt Nam 5
2. Một số nguyên nhân làm cho thị trường tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển 8
II. Một số hạn chế, bất cập của thị trường tiền tệ 10
1. Hạn chế về công cụ giao dịch, loại nghiệp vụ trên thị trường 10
2. Hạn chế về thành viên tham gia thị trường 11
3. Hạn chế về lãi suất trên thị trường tiền tệ 12
III. Những định hướng và các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập của thị trường tiền tệ 12
PHẦN III 16
I. Mục tiêu, định hướng chiến lược phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam 16
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường tiền tệ 16
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho sự phát triển của thị trường tiền tệ 16
3.2.2. Thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn thị trường của NHNN. 17
3.2.3. Tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn, năng lực kinh doanh của các tổ chức tín dụng- các thành viên chủ yếu của thị trường 17
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1869 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tiền tệ Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện gắn liền với tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, mặc dù thị trường tiền tệ Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Đặc biệt, thị trường đã thực hiện chức năng cân đối, điều hòa nguồn vốn giữa các ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, hoạt động an toàn và hiệu quả. Thông qua các hoạt động trên thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền tệ nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Có thể khẳng định rằng, thị trường tiền tệ Việt Nam đã góp phần nhất định trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết cấu đề tài bao gồm:
Bài viết dưới đây tập trung đề cập khái quát về quá trình hình thành và phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam, các kết quả đạt được, các hạn chế và mục tiêu, định hướng phát triển thị trường trong những năm tới, cũng như nêu lên một số giải pháp, chính sách chủ yếu để tiếp tục hoàn thiện thị trường tiền tệ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
PHẦN I
Một số khái niệm về thị trường tiền tệ
I. Khái niệm thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, là thị trường vốn ngắn hạn. Nó đóng vai trò là thị trường thứ cấp của các công cụ nợ dài hạn, là thị trường có độ an toàn cao và là thị trường bán buôn hữu hiệu. Thị trường tiền tệ được biết đến như là một thị trường phi tập trung, sôi động và mang tính toàn cầu.
Các giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có thời hạn ngắn và rất ngắn, đặc biệt thị trường cho vay qua đêm rất phát triển và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong doanh số hoạt động của thị trường tiền tệ. Khởi nguồn từ hoạt động cho vay,đi vay giữa các ngân hàng, thị trường tiền tệ ngày càng phát triển đa dạng và linh hoạt. Với mục tiêu ban đầu là thị trường để bảo đảm khả năng thanh khoản của các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ đã phát triển trở thành thị trường đầu tư vốn ngắn hạn, thị trường kinh doanh chênh lệch giá, thị trường của các công cụ phòng ngừa rủi ro và các thị trường phái sinh. Thị trường tiền tệ là thị trường hết sức nhạy cảm với những sự kiện biến động về kinh tế, chính trị, xã hội vì vậy nó được coi như là thước đo của nền kinh tế.
II. Các thành viên tham gia thị trường tiền tệ
Các Ngân hàng thương mại (NHTM)
Các NHTM là các đơn vị tham gia thị trường này tích cực nhất và thường xuyên nhất thông qua các hoạt động huy động vốn, cho vay ngắn hạn, đầu tư tài chính ngắn hạn nhằm mục đích bảo đảm khả năng thanh toán chi trả của ngân hàng. Nhằm thu lợi nhuận và sữ dụng các khoản vốn dư thừa hiệu quả nhất.
Ngân hàng Trung ương (NHTW)
NHTW mua bán tín phiếu kho bạc nhà nước, tín phiếu. NHTW cho vay chiết khấu vói NHTM, tái chiết khấu các chứng từ có giá của NHTM nhằm mục đích điều hoà tiền tệ trong lưu thông và thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Các tổ chức tài chính phi Ngân hàng
Khác với Ngân hàng là không được thanh toán cho khách hàng và không tham gia hoạt động tạo tiền
Tham gia vào thị trường tiền tệ với mục đích giống như NHTM
4. Các tổ chức phi tài chính (Các công ty sản xuất kinh doanh)
Bộ phận kế toán của các tổ chức phi tài chính tham gia vào thị trường tiền tệ thường xuyên và tích cực.
Các cá nhân
Bất kỳ một cá nhân nào có một khỏan tiền gửi từ 12 tháng trở lại thì xem là tham gia vào thị trường tiền tệ
III. Các bộ phận của thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ liên Ngân hàng.
Là thị trường tiền tệ diễn ra giữa các ngân hàng với nhau thông qua hoạt động vay cho vay lẫn nhau.
Đặc trưng: + Thời hạn ngắn (vay qua đêm)
+ Lãi xuất thấp
+ Giải quyết nhu cầu thiếu hụt tạm thời của các Ngân hàng
Thị trường mở
Là thị trường tài chính ngắn hạn. Diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán ngắn hạn của NHTW và của chính phủ với mục đích điều hoà mức cung tiền trong lưu thông.
Thị trường chứng khoán ngắn hạn
Là thị trường mua bán giao dịch các chứng khoán ngắn hạn
Chức năng của thị trường tiền tệ
Điều hoà cân đối vốn của các thành viên tham gia thị trường chủ yếu là các trung gian tài chính
Cân đối các nguồn vốn giữa NHTW vớI hệ thống Ngân hàng. Từ đó tác động tới việc điều hoà vốn trên thị trường
Giá cả trên thị trường tiền tệ(lãi xuất)
Các công cụ chủ yếu trên thị trường tiền tệ điển hình
+ Thanh toán một công cụ trước hạn
Khi sở hửu một công cụ tài chính ngắn hạn người ta có thể thanh toán nó trước hạn trên thị trường tiền tệ một cách dễ dàng
Giá bán công cụ này phụ thuộc vào lãi xuất của công cụ tương đương có kỳ hạn bằng kỳ hạn còn lại của công cụ đang nắm giữ
Thông thường lãi xuất của kỳ hạn ngắn bé hơn lãi xuất dài. Vì vậy việc bán diễn ra dễ dàng và có lợi. Trong trường hợp lãi xuất của kỳ hạn ngắn lớn hơn lãi xuất dài hạn vẫn bán được nhưng người bán chịu lỗ
+ Nghiệp vụ kinh doanh dựa vào sự chênh lệch giá
Tại một thời điểm nhất định trên thị trường hai công cụ khác nhau cùng kỳ hạn có lãi xuất khác nhau
Hai công cụ giống nhau, khác nhau vè kỳ hạn thì lãi xuất khác nhau
Thông thường mức chênh lệch giữa chúng là ổn định
+ Kinh doanh dựa vào dự đoán thời điểm lãi xuất (đường cong lãi xuất)
Theo lý thuyết : Thời hạn càng dài thì lãi xuất càng cao. Vì vậy dựa vào điều kiện này người ta có thể tìm kiếm một khoản lời nhất định. Có 2 trường hợp
Đối với người cho vay: Khi họ có một món tiền nhàn rổi trong thời hạn ngắn nhưng họ sẽ đầu tư vào một công cụ có kỳ hạn dài hơn để hưởng lãi cao hơn. Khi đến hạn cần tiền thì sẽ bán ra.
Đối với người đi vay: Mặt dù họ thiếu vốn trong thời hạn dài nhưng họ dự đoán lãi xuất cho vay sẽ giảm xuống trong tương lai gần. Họ sẽ vay tiền như thời gian dự đoán đến lúc đó lãi hạ xuống như dự đoán họ sẽ vay mới để trả nợ cũ
Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và lạm phát
Trên thị trường tiền tệ người ta mua bánỉơ hữu mua bán các chứng khoán ngắn hạn để hưởng lãi với mức thấp. Vì vậy nếu lạm phát xãy ra với mức cao thì thị trường tiền tệ không tồn tại
Trong trường hợp lạm phát cao nếu không có sự tồn tại và phát triển của thị trường tiền tệ thì lạm phát sẽ càng trở nên tăng mạnh
Thông thường nhà nước phải lựa chọn một trong hai mục tiêu trước mắt đó là
+ Duy trì lạm phát
+ Chấp nhận suy thoái để thực hiện chính sách lãi xuất để gây dựng thị trường tiền tệ nhằm khắc phục lạm phát
PHẦN II
Một số nét khái quát về quá trình hình thành và phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam
I. Một số nét khái quát về quá trình hình thành và phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, là thị trường vốn ngắn hạn (có thời hạn dưới 1 năm). Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức tín dụng (sửa đổi) cho phép các giấy tờ có giá dài hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ còn giúp cho thị trường tiền tệ đóng vai trò là thị trường thứ cấp của các công cụ nợ dài hạn. Với sự tham gia của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương, các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ được đánh giá là thị trường có độ an toàn cao và là thị trường bán buôn hữu hiệu. Thị trường tiền tệ được biết đến như là một thị trường phi tập trung, sôi động và mang tính toàn cầu. Các giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có thời hạn ngắn và rất ngắn, đặc biệt thị trường cho vay qua đêm rất phát triển và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong doanh số hoạt động của thị trường tiền tệ. Khởi nguồn từ hoạt động cho vay,đi vay giữa các ngân hàng, thị trường tiền tệ ngày càng phát triển đa dạng và linh hoạt. Với mục tiêu ban đầu là thị trường để bảo đảm khả năng thanh khoản của các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ đã phát triển trở thành thị trường đầu tư vốn ngắn hạn, thị trường kinh doanh chênh lệch giá, thị trường của các công cụ phòng ngừa rủi ro và các thị trường phái sinh. Thị trường tiền tệ là thị trường hết sức nhạy cảm với những sự kiện biến động về kinh tế, chính trị, xã hội vì vậy nó được coi như là thước đo của nền kinh tế.
1. Các bộ phận cấu thành của thị trường tiền tệ ở Việt Nam
Có thể thấy rằng, mặc dù đến nay quy mô của thị trường tiền tệ Việt Nam còn rất khiêm tốn, nhưng các bộ phận cấu thành của thị trường đã hình thành ở một mức độ nhất định. Đó chính là thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc, các hoạt động nghiệp vụ tiền tệ của NHNN như nghiệp vụ cho vay của NHNN dưới các hình thức cho vay cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ …Thành viên tham gia thị trường, hàng hóa giao dịch trên thị trường cũng như doanh số hoạt động của các nghiệp vụ thị trường tiền tệ đều được từng bước mở rộng; hoạt động của thị trường đã từng bước được hiện đại hoá, đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
Trước hết, cần phải kể đến thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, nơi thực hiện việc điều tiết vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ giữa các ngân hàng.
- Về thị trường nội tệ liên ngân hàng được hình thành từ năm 1993 dưới hình thức ban đầu là một thị trường tập trung, có tổ chức qua NHNN. Tuy nhiên, từ năm 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau không thực hiện thông qua NHNN. Nhìn chung, các ngân hàng thường có quan hệ với nhau đã dựa trên mức độ tín nhiệm để thỏa thuận phương thức giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như các điều kiện đảm bảo tiền vay. Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay…. Thậm chí một số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn nhau. Cho đến nay, doanh số hoạt động trên thị trường đã tăng đáng kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao dịch đều thực hiện qua mạng.
- Về thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: Từ khi chính thức hình thành năm 1994 đến nay, thị trường đã có những chuyển động đáng kể, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối cung cầu ngoại tệ cho các ngân hàng. Thông qua thị trường, NHNN đã theo dõi được các giao dịch về ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, nắm bắt diễn biến cung cầu và tham gia thị trường với vai trò người mua bán cuối cùng. NHNN thực hiện can thiệp thị trường khi cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm 1999 đến nay, bên cạnh việc điều hành linh hoạt tỷ giá, việc NHNN thực hiện các biện pháp can thiệp kịp thời trên thị trường đã hỗ trợ cho các ngân hàng cân đối ngoại tệ và đặc biệt là góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước.
- Về thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc, có thể khẳng định rằng, từ năm 1995, việc đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã mở ra một kênh huy động vốn với chi phí thấp cho Ngân sách Nhà nước. Doanh số và tỷ trọng tín phiếu Kho bạc phát hành dưới hình thức đấu thầu qua NHNN trong tổng doanh số huy động vốn của Kho bạc Nhà nước ngày càng tăng qua các năm. Điều này phù hợp với xu thế phát triển thị trường và thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc đã trở thành nguồn cung cấp hàng hóa chủ yếu cho các giao dịch nghiệp vụ tiền tệ giữa NHNN với các ngân hàng thương mại (NHTM) nhất là nghiệp vụ thị trường mở để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Kỳ hạn tín phiếu Kho bạc đến nay đã đa dạng hơn trước, gồm 364 ngày, 273 ngày và 182 ngày. Bên cạnh các NHTM Nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng đã từng bước trở thành thành viên tham gia thị trường.
- Về các hoạt động nghiệp vụ tiền tệ của NHNN: Từ tháng 7/2000, với việc NHNN chính thức khai trương nghiệp vụ thị trường mở, đã đánh dấu một bước đổi mới mạnh mẽ trong việc điều tiết tiền tệ gián tiếp theo các nguyên tắc thị trường. Từ năm 2000 đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã được từng bước hoàn thiện và chú trọng sử dụng để trở thành công cụ điều tiết tiền tệ chủ yếu của NHNN. Tổng doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở theo cả 2 chiều mua và bán tăng mạnh qua các năm; kỳ hạn giao dịch cũng được đa dạng hóa từ 7-182 ngày; khối lượng giao dịch qua từng phiên, định kỳ giao dịch cũng ngày càng tăng thêm. Việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở ngày càng mang tính thị trường hơn, qua đó tăng cường khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và các điều kiện trên thị trường tiền tệ.
Bên cạnh nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn của NHNN cũng được từng bước đổi mới, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ gián tiếp của NHNN. Đến nay tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM chủ yếu được thực hiện dưới các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có giá. Các hình thức cho vay theo chỉ định của Chính phủ trước đây (từng chiếm tỷ trọng lớn trong cho vay tái cấp vốn) đã giảm mạnh qua các năm. Thủ tục, quy trình xử lý đề nghị vay tái cấp vốn từng bước được tinh giản, tạo thuận lợi cho các ngân hàng. Cơ chế tái cấp vốn được áp dụng bình đẳng cho tất cả các ngân hàng, không phân biệt loại hình sở hữu. Đặc biệt từ năm 2003, thực hiện Luật sửa đổi một số Điều Luật Ngân hàng Nhà nước, NHNN đã cho phép cả các giấy tờ có giá dài hạn như các loại trái phiếu Chính phủ được sử dụng trong các giao dịch giữa NHNN và các ngân hàng. Điều này làm tăng đáng kể khối lượng giấy tờ có giá được giao dịch với NHNN, mở rộng khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với các kênh hỗ trợ vốn của NHNN, tạo điều kiện nâng cao khả năng điều tiết của NHNN đối với thị trường tiền tệ. Đến nay, bên cạnh các NHTM Nhà nước, khá nhiều NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã tiếp cận các kênh hỗ trợ vốn nêu trên của NHNN.
Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu ngày càng được điều hành linh hoạt, phù hợp với mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ. Từ năm 2003, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu được điều chỉnh dần để hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường. Cùng với việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu để trở thành lãi suất sàn, NHNN đã thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng. Qua đó, nghiệp vụ chiết khấu được điều hành như một kênh hỗ trợ vốn thường xuyên với giá rẻ từ NHNN. Trong khi đó, nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá áp dụng lãi suất tái cấp vốn là mức lãi suất trần để NHNN từng bước thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng trên thị trường.
Ngoài các kênh hỗ trợ vốn ngắn hạn của NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn, NHNN còn thực hiện cho vay thấu chi và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. Thêm vào đó, từ 7/2001, NHNN bắt đầu thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ các tổ chức tín dụng gặp khó khăn tạm thời về vốn khả dụng VND và nhằm đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ. Thực tế công cụ này đã phát huy tác dụng trong những thời điểm các NHTM thực sự khan hiếm về vốn khả dụng VND, nhất là đối với các ngân hàng nước ngoài có ngoại tệ dư thừa nhưng lại khó khăn về vốn VND và không sở hữu giấy tờ có gía ngắn hạn nên không có điều kiện tiếp cận các kênh hỗ trợ vốn khác của Ngân hàng Nhà nước.
2. Một số nguyên nhân làm cho thị trường tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển
Thứ nhất, sự hoạt động hiệu quả thấp của thị trường vốn. ở các nước thị trường phát triển thì huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu và các công cụ nợ dài hạn phải đáp ứng trên 60% nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế. Việt Nam với tốc độ tăng trưởng GDP liên tục nhiều năm đạt mức trên 7% đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn, trong khi đó huy động thông qua thị trường chứng khoán hầu như không đáng kể; gánh nặng về vốn đầu tư đổ dồn lên vai các ngân hàng với tư cách là các trung gian tài chính, đi vay để cho vay. Nói cách khác, áp lực về vốn tín dụng đầu tư đối với các ngân hàng thương mại là rất lớn và các ngân hàng nhận thấy rằng việc đầu tư vào thị trường tín dụng hiệu quả hơn nhiều so với đầu tư thông qua các công cụ trên thị trường tiền tệ. Điều này hoàn toàn khác với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đó là hầu hết các doanh nghiệp lớn, làm ăn có hiệu quả đều lựa chọn việc huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu và các trái phiếu công ty, vì chi phí rẻ và doanh nghiệp chủ động hơn là vay tín dụng ngân hàng. Các ngân hàng chỉ có thể tiếp cận được với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có “thương hiệu” trên thị trường; tuy nhiên, việc cho vay với các đối tượng khách hàng loại này là rủi ro rất cao; vì vậy, các ngân hàng phải cân nhắc và họ thích đầu tư vào thị trường tiền tệ hơn. Sự thiếu quan tâm tới các “sản phẩm” trên thị trường tiền tệ vì cho rằng không hiệu quả bằng đầu tư vào thị trường tín dụng của các ngân hàng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hoạt động trầm lắng của thị trường tiền tệ trong thời gian qua.
Các ngân hàng thương mại là những trung gian tài chính rất quan trọng trên thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng, bởi vì các ngân hàng thương mại có khả năng tài chính lớn, phạm vi hoạt động rộng và đưa ra các “sản phẩm dịch vụ ” thoả mãn được nhu cầu đa dạng của thị trường. Các ngân hàng thương mại thường đóng vai trò là những người tạo lập thị trường (market maker), cụ thể là phải thường xuyên yết giá 2 chiều của tất cả các công cụ của thị trường. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa làm được điều này. Ngay thị trường vốn ngắn hạn liên ngân hàng là thị trường hoạt động tích cực nhất hiện nay thì các ngân hàng tham gia cũng nhằm đáp ứng mục tiêu bảo đảm thanh khoản là chủ yếu (chưa đặt vấn đề kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường này). Vì vậy, các ngân hàng cũng thường chỉ đặt giá 1 chiều (vay hoặc đi vay) khi có nhu cầu phát sinh. Vai trò tạo lập thị trường của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn rất mờ nhạt.
Thứ hai, sự thiếu chuyên nghiệp trong hoạt động của thị trường tiền tệ. Sự thiếu chuyên nghiệp thể hiện ở chỗ các công cụ của thị trường không theo những quy chuẩn của thị trường. Hiện nay, trên thị trường tiền tệ Việt Nam đã hình thành một số “hàng hoá” nhất định, có thể tham gia giao dịch như tín phiếu, trái phiếu Kho bạc Nhà nước; giấy tờ có giá của các ngân hàng thương mại; trái phiếu của chính quyền địa phương (Tp. Hồ Chí Minh), trái phiếu doanh nghiệp (Tổng Công ty dầu khí) và tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, khối lượng các công cụ có thể giao dịch được trên thị trường không lớn và chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Để thị trường thứ cấp giao dịch giấy tờ có giá phát triển đòi hỏi các thủ tục mua - bán, trao đổi phải hết sức đơn giản, thuận tiện trong khi đó phần lớn các giấy tờ có giá hiện nay đều là các giấy tờ có giá ghi danh. Những tín phiếu, trái phiếu vô danh chiếm một tỷ trọng rất nhỏ vì thế gây ra sự bất tiện khi giao dịch trên thị trường. Mặt khác, thời hạn của các giấy tờ có giá đơn điệu và phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu vốn của người phát hành. Tín phiếu kho bạc là một ví dụ điển hình: Bộ Tài chính trong những năm qua chủ yếu phát hành loại tín phiếu kho bạc có thời hạn là 364 ngày, vì thế không thể căn cứ vào lãi suất tín phiếu kho bạc để xác định đường cong lãi suất chuẩn của thị trường. Sự thiếu tính chuyên nghiệp của thị trường tiền tệ Việt Nam còn thể hiện ở chỗ thiếu những nhà tạo lập thị trường, những tổ chức trung gian trên thị trường như các nhà kinh doanh chuyên nghiệp, các công ty môi giới, những công ty xếp hạng tín dụng… Người kinh doanh chuyên nghiệp và tạo lập thị trường là những người được yêu cầu phải yết giá mua và giá bán của tất cả các công cụ đang giao dịch trên thị trường, nói cách khác, họ phải mua của những người cần bán và bán cho những người cần mua trên thị trường và được hưởng chênh lệch giá. Tuy nhiên, ở Việt Nam, các ngân hàng chưa làm tốt vai trò này, nhiều ngân hàng phát hành các kỳ phiếu có cam kết sẽ mua lại trước hạn và coi đó như là sự “ưu việt” của kỳ phiếu của ngân hàng mình còn hầu hết người chủ sở hữu các giấy tờ có giá có nhu cầu tạm thời về vốn phải đi vay có thế chấp bằng các kỳ phiếu, trái phiếu, sổ tiết kiệm… mà mình đang nắm giữ với thủ tục rất phức tạp. Do chủ sở hữu các công cụ của thị trường khi cần vốn không biết bán ở chỗ nào cho nên đã phản ứng tiêu cực lại đối với thị trường sơ cấp phát hành ra các công cụ đó. Vào thời điểm giữa năm 2003, trong khi hầu hết các ngân hàng đều thực hiện việc tăng lãi suất như là đòn bẩy kinh tế để mở rộng huy động vốn, tuy nhiên,l vẫn không thu hút được nguồn vốn trung dài hạn mà lý do là những người đầu tư không dám “mạo hiểm” đầu tư vào các công cụ có thời hạn dài mà khi cần vốn họ không thể bán lại được trên thị trường.
Thứ ba, các văn bản pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ chưa đồng bộ. Có thể nói, các nội dung cơ bản của thị trường tiền tệ đều đã được luật pháp hoá, cụ thể là ở các mức độ khác nhau (Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quy chế, Thông tư…), chúng ta đã ban hành các quy định đối với hoạt động của thương phiếu; phát hành tín phiếu và trái phiếu Chính phủ, phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu của các tổ chức tín dụng, quy định về quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng… Tuy nhiên, các quy định này còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ. Mặc dù Pháp lệnh Thương phiếu đã ban hành từ năm 1999, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã có Nghị định và các văn bản hướng dẫn, tuy nhiên cho đến nay các quy định này vẫn chưa đi vào cuộc sống. Tín phiếu kho bạc là một công cụ tài chính rất được ưa chuộng giao dịch trên thị trường tiền tệ; tuy nhiên, hiện nay việc phát hành tín phiếu kho bạc chủ yếu với mục đích bù đắp thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước mà chưa chú trọng đến vai trò thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển của nó, cho nên hiện nay, Bộ Tài chính chỉ phát hành một loại kỳ hạn 364 ngày là chủ yếu (ở nhiều quốc gia, ví dụ Singapore, mặc dù Ngân sách luôn bội thu nhưng Trái phiếu Chính phủ vẫn được phát hành với khối lượng lớn, thời hạn đa dạng để phục vụ cho hoạt động của thị trường tiền tệ).
Thứ tư, xuất phát điểm thấp của nền kinh tế và công tác thông tin tuyên truyền cho các sản phẩm của thị trường tiền tệ chưa đáp ứng được yêu cầu. Xuất phát điểm từ một nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, lại trải qua một thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cho nên cơ sở hạ tầng cũng như nhận thức của công chúng về nền kinh tế thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính - thị trường tiền tệ còn rất hạn chế. Đơn cử ví dụ, hình thức gửi tiền truyền thống của dân chúng hiện nay vẫn là gửi tiết kiệm tại các ngân hàng thương mại và giữ đến khi đáo hạn để hưởng lãi; Đa phần người dân chưa có thói quen mua các công cụ nợ (như tín phiếu, trái phiếu) và mua bán lại các công cụ nợ đó trên thị trường. Vì vậy, muốn thị trường tiền tệ phát triển thì đòi hỏi các đơn vị có liên quan (đặc biệt là hệ thống ngân hàng) phải tích cực thông tin, tuyên truyền, quảng cáo về các tiện ích của các giao dịch trên thị trường tiền tệ. Trong thời gian qua, do các ngân hàng chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động của thị trường tiền tệ; vì vậy, công tác thông tin, tuyên truyền còn hạn chế; thị trường giao dịch giữa khách hàng với các ngân hàng không phát triển, dẫn đến thiếu cơ sở vững chắc cho thị trường giữa các trung gian tài chính.
II. Một số hạn chế, bất cập của thị trường tiền tệ
Bên cạnh những kết quả chủ yếu nêu trên, cho đến nay thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập.Trước hết, thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn còn phát triển ở mức độ thấp xét trên cả góc độ quy mô, nhất là chủng loại hàng hóa, công cụ giao dịch trên thị trường. Thứ hai, do nhiều nguyên nhân mà thị trường tiền tệ Việt Nam chưa thực sự thực hiện có hiệu quả vai trò tiếp nhận và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.
1. Hạn chế về công cụ giao dịch, loại nghiệp vụ trên thị trường
Theo Luật NHNN, các giấy tờ có giá ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ gồm tín phiếu Kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác. Tuy nhiên, trên thực tế đến trước năm 2003, công cụ chủ yếu được sử dụng trên thị trường tiền tệ là tín phiếu Kho bạc và tín phiếu NHNN.
Thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật NHNN, từ sau năm 2003 đến nay danh mục giấy tờ có giá có thể giao dịch trong các nghiệp vụ thị trường tiền tệ đã được tăng cường bao gồm cả các giấy tờ có giá dài hạn như các loại trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, các giấy tờ có giá có thể sử dụng trong các giao dịch trên thị trường tiền tệ vẫn tập trung chủ yếu ở các NHTM Nhà nước. Một số công cụ đã được sử dụng khá phổ biến trên thị trường tiền tệ các nước như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi... nhưng hầu như vẫn chưa được hình thành, hoặc còn ít sử dụng ở Việt Nam. Vừa qua, Luật công cụ chuyển nhượng đã được Quốc hội chính thức thông qua, song NHNN hiện đang trong quá trình phối hợp với các cơ quan hữu quan để triển khai soạn thảo các văn bản hướng dẫn.
Kỳ hạn của các trái phiếu Chính phủ – công cụ chủ yếu sử dụng trong nghiệp vụ thị trường tiền tệ vẫn chưa thực sự đa dạng hóa, nhất là tín phiếu Kho bạc với thời hạn ngắn dưới 364 ngày ít được phát hành. Thậm chí, đến nay chưa có tín phiếu Kho bạc với kỳ hạn ngắn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng …Điều này cũng làm cho nhiều NHTM khó có điều kiện đầu tư vào giấy tờ có giá, tạo công cụ tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ.
Các giao dịch giữa các ngân hàng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chủ yếu được thực hiện dưới hình thức giao ngay. Các công cụ mang tính phòng ngừa rủi ro, công cụ phái sinh còn ít được áp dụng hoặc mới bước đầu triển khai, nhất là giao dịch kỳ hạn, quyền chọn và giao dịch hoán đổi với các hình thức hoán đổi lãi suất, hoán đổi tiền tệ.
2. Hạn chế về thành viên tham gia thị trường
Cho đến nay lượng thành viên tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ vẫn còn hạn hẹp. Chẳng hạn, trên thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc, thành viên chủ yếu vẫn là các NHTM Nhà nước. Ngoài ra, có khoảng 10 NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã bước đầu tham gia nghiệp vụ này. Trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ giữa NHNN và các ngân hàng, ngoài các NHTM Nhà nước, cũng chỉ có khoảng 12-14 NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là thành viên thường xuyên tham gia.
Đặc biệt, trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã hình thành nhóm các ngân hàng thường cung ứng nguồn tiền VND chủ yếu là các NHTM Nhà nước và ngược lại nhóm các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh là các ngân hàng thường có nhu cầu vay tiền VND. Việc điều chuyển vốn thường chỉ diễn ra một chiều giữa nhóm các ngân hàng thường cho vay và nhóm ngân hàng thường đi vay.
Trên thực tế thị trường hầu như chưa hình thành các thành viên có tính chuyên nghiệp như các nhà môi giới, các nhà tạo lập thị trường, các công ty đánh giá xếp loại…Điều này làm hạn chế sự phát triển của thị trường.
Ngoài ra, việc tham gia của các thành viên trên thị trường tiền tệ còn hạn chế chủ yếu là do các NHTM (là thành viên chủ yếu của thị trường), vẫn đang trong quá trình cơ cấu lại và đang triển khai dự án hiện đại hoá hệ thống thanh toán. Việc quản lý vốn tập trung trực tuyến trong hệ thống còn khó khăn. Nhiều ngân hàng chưa thực hiện được việc theo dõi, phân tích luồng luân chuyển vốn theo từng kỳ hạn, nên năng lực quản lý vốn còn hạn chế. Bản thân một số ngân hàng chưa thực sự quan tâm, chưa chủ động trong việc tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ.
Về phía NHNN, cũng chưa thực sự phát huy hiệu quả vai trò hướng dẫn, điều tiết thị trường. Cho đến nay, NHNN chưa có hệ thống mạng theo dõi kịp thời toàn bộ diễn biến trên thị trường tiền tệ nên việc thực hiện vai trò điều tiết tiền tệ còn có khó khăn. Hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động thị trường tiền tệ đã được NHNN triển khai một bước nhưng chưa đồng bộ. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ tiền tệ ở NHNN còn một số bất cập như các giao dịch tái cấp vốn, hệ thống lưu ký giấy tờ có giá chưa được thực hiện qua mạng... Điều này cũng phần nào hạn chế sự tham gia thị trường của các thành viên.
3. Hạn chế về lãi suất trên thị trường tiền tệ
Về nguyên tắc, thị trường tiền tệ là nơi hình thành lãi suất tham chiếu cho các hoạt động đầu tư khác trên thị trường tài chính. Nhất là lãi suất của các tín phiếu, trái phiếu do Chính phủ phát hành thường được coi là lãi suất chuẩn trên thị trường. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề lãi suất trên thị trường tiền tệ Việt Nam còn nhiều bất cập. Trong đấu thầu tín phiếu Kho bạc vẫn áp dụng lãi suất chỉ đạo, nên lãi suất trúng thầu chưa hình thành theo các nguyên tắc thị trường.
Các lãi suất do NHNN công bố như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản đã phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ (thắt chặt hay nới lỏng), nhưng chưa thực sự phát huy hiệu quả vai trò kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ. Kể cả trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở, số lượng thành viên tham gia hạn hẹp nên lãi suất nghiệp vụ thị trường mở cũng chưa phản ánh đúng quan hệ cung-cầu về vốn trên thị trường. Nhìn chung, các mức lãi suất của NHNN chưa thực sự có mối quan hệ gắn kết với lãi suất thị trường tiền tệ. Và các lãi suất trên thị trường tiền tệ nói chung cũng chưa có sự gắn kết chặt chẽ với lãi suất của các công cụ dài hạn trên thị trường tài chính.
III. Những định hướng và các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập của thị trường tiền tệ
Để khắc phục những hạn chế trên, thị trường tiền tệ Việt Nam cần phát triển theo định hướng sau:
Phát triển thị trường tiền tệ an toàn hiệu quả, đồng bộ, mang tính cạnh tranh cao nhằm tạo cơ sở quan trọng cho hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Theo đó, thị trường tiền tệ sẽ phát triển mạnh trên cơ sở tổ chức lại và củng cố thị trường liên ngân hàng với cơ chế hoạt động thông thoáng, tăng cường vai trò giám sát, điều hành, khả năng kiểm soát, điều tiết thị trường của NHNN; phát triển thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc; tăng cường hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, tăng số lượng và chủng loại chứng khoán có độ an toàn và tính thanh khoản cao được phép giao dịch; tăng cường sự liên kết giữa các thị trường tiền tệ bộ phận, giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán nhằm tăng tính linh hoạt của thị trường, khả năng phòng ngừa và khả năng chuyển đổi rủi ro giữa các thị trường; hạn chế can thiệp hành chính vào hoạt động thị trường tiền tệ.
Để thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển cần có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp đồng thời thực hiện một cách đồng bộ
Một là, chuẩn hoá các công cụ giao dịch trên thị trường tiền tệ: Để thị trường thứ cấp phát triển thì một mặt, phải tạo nên nhiều “hàng hoá” đồng thời phải chuẩn hoá các công cụ tài chính trên thị trường. Trong thời kỳ đầu, cần phải tăng cường việc phát hành các giấy tờ có giá dưới dạng chứng chỉ để công chúng nắm giữ (sau này khi thị trường đã phát triển thì có thể phát hành thông qua ghi sổ tại ngân hàng). Các giấy tờ có giá này phải bảo đảm lưu thông một cách dễ dàng, điều này đồng nghĩa với việc các giấy tờ có giá này phải không ghi danh và có thể chuyển nhượng, chiết khấu, thanh toán một cách dễ dàng (như vậy các giấy tờ có giá này sẽ phải được thiết kế an toàn giống như tiền). Ngoài ra, thời hạn của các giấy tờ có giá này phải đa dạng để đáp ứng nhu cầu của thị trường (nhất là tín phiếu kho bạc và các chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng).
Để phát triển thị trường tiền tệ và thị trường tài chính, đề nghị Bộ Tài chính xem xét phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc thêm nhiều loại kỳ hạn, như 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng… (Kho bạc Mỹ thường công bố kế hoạch đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc hằng năm, với thời hạn từ 4 tuần đến 10 năm).
Hai là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ cần tập trung vào các nội dung sau:
- Rà soát và hoàn thiện các quy định hiện hành về phát hành các công cụ trên thị trường sơ cấp như phát hành thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng thương mại;...
- Xây dựng và hoàn thiện các quy định liên quan tới các nghiệp vụ của thị trường tiền tệ, xây dựng các định chế chuyên nghiệp cho thị trường như các văn bản hướng dẫn liên quan đến nghiệp vụ chiết khấu, REPO, nghiệp vụ hoán đổi… để các ngân hàng thương mại thực hiện; quy trình thành lập các định chế tài chính trung gian trên thị trường (Broker, Dealer…).
- Khuyến khích các ngân hàng xây dựng các thoả thuận khung (có thể trong khuôn khổ của Hiệp hội Ngân hàng) để làm cơ sở thực hiện các giao dịch trên thị trường tiền tệ, như quy định về hợp đồng mẫu REPO, các thoả thuận về thanh toán bù trừ các giấy tờ có giá do các ngân hàng phát hành; thoả thuận chia sẻ thông tin và liên kết mạng …
Ba là, nâng cao vai trò của các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ, như là những người tạo lập thị trường.
Trên cơ sở các công cụ tài chính được quy chuẩn giao dịch trên thị trường, các ngân hàng thương mại (đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước, các ngân hàng TMCP quy mô lớn) phải đóng vai trò là các tổ chức tạo lập thị trường; cụ thể là:
- Phải quan tâm và dành một nguồn vốn nhất định để tham gia trên thị trường tiền tệ và đưa ra nhiều “sản phẩm” để đáp ứng nhu cầu về vốn, đầu tư, phòng ngừa rủi ro của thị trường, như chiết khấu các giấy tờ có giá, các hợp đồng REPO, các hợp đồng SWAPS, Option…
- Phải niêm yết giá chào 2 chiều (cả cho vay và đi vay) trên thị trường liên ngân hàng và sẵn sàng thực hiện các giao dịch theo các mức lãi suất đã niêm yết.
- Phải niêm yết lãi suất chiết khấu; giá mua, giá bán các giấy tờ có giá công khai tại các hội sở và chi nhánh của ngân hàng và thực hiện giao dịch theo các mức giá đã được niêm yết đó. Đối với các trái phiếu do ngân hàng phát hành, phải cam kết sẽ chiết khấu (mua lại) trước hạn theo mức lãi suất chiết khấu của ngân hàng tại thời điểm chiết khấu.
- Thực hiện việc liên kết giữa các ngân hàng trong việc sẵn sàng chiết khấu các giấy tờ có giá do các ngân hàng khác phát hành; hoặc tổ chức thanh toán bù trừ về nghiệp vụ này.
- Nâng cao vai trò người cho vay cuối cùng của Ngân hàng Nhà nước, thông qua nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ cho vay qua đêm đối với các ngân hàng.
Bốn là, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để phục vụ cho các giao dịch trên thị trường tiền tệ và thu thập xử lý thông tin của thị trường.
Các giao dịch trên thị trường tiền tệ đòi hỏi phải thực hiện nhanh và trên phạm vi rộng (toàn cầu) vì vậy đòi hỏi việc chào giá, thoả thuận và thực hiện giao dịch phải thông qua hệ thống mạng có độ an toàn cao. Hiện nay, gần 30 ngân hàng thương mại đã thực hiện giao dịch vốn (gửi tiền/cho vay và nhận tiền gửi/ đi vay) liên ngân hàng thông qua hệ thống giao dịch của Hãng Reuters.
Tuy nhiên, do thông tin (lãi suất, thời hạn…) trên thị trường liên ngân hàng rất quan trọng đối với Ngân hàng Trung ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia cho nên ở các nước có thị trường phát triển thì Ngân hàng Trung ương thường xây dựng các mạng riêng của mình (như Fed Wire của Mỹ; BOK Wire của Hàn Quốc…) và cho phép các ngân hàng thực hiện các giao dịch vốn ngắn hạn liên ngân hàng thông qua mạng này. Việc hình thành mạng này có vai trò tích cực đối với hoạt động của thị trường vì thông qua việc cho phép các ngân hàng giao dịch qua mạng này, Ngân hàng Trung ương có thể nắm bắt được đầy đủ các thông tin về thị trường và thực hiện vai trò kiểm soát thị trường của mình. Đối với các ngân hàng thì giao dịch qua mạng của Ngân hàng Trung ương sẽ tiết kiệm được chi phí (nhiều nước Ngân hàng Trung ương còn miễn phí giao dịch thông qua mạng này) so với thuê của các tổ chức khác. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để đầu tư một thiết bị mạng tương tự.
Ngoài ra, cần phải thu thập, phân tích và công bố các chỉ số cơ bản của thị trường để công chúng và các định chế tài chính tham khảo. Trong các thông số đó thì lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng là một thông số quan trọng để đánh giá sự biến động của thị trường. Hiện nay, Hãng Reuters đã xây dựng được trang lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam (VNIBOR) trên cơ sở chào giá hằng ngày của một số ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế lãi suất này ít được tham chiếu vì nó chưa phản ánh chính xác lãi suất của thị trường vì vậy cần phải tổ chức lại cho phù hợp hơn.
Năm là, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, đào tạo cán bộ phục vụ cho hoạt động của thị trường tiền tệ.
Các nghiệp vụ của thị trường tiền tệ là các nghiệp vụ rất mới mẻ đối với công chúng và cả các ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng cần phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo để các khách hàng biết được những tiện ích mang lại khi họ tham gia các nghiệp vụ này. Đối với các ngân hàng thì việc đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ có trình độ về chuyên môn, ngoại ngữ để thực hiện kinh doanh trên thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế là hết sức quan trọng, đảm bảo hoạt động hiệu quả và thành công của ngân hàng trên thị trường tiền tệ.Để thực hiện mục tiêu, định hướng nêu trên, một số giải pháp chủ yếu về phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam cần được tập trung thực hiện là:
PHẦN III
Một số mục tiêu, định hướng phát triển thị trường tiền tệ trong những năm tới và các giải pháp, chính sách thực hiện.
I. Mục tiêu, định hướng chiến lược phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam
Thời gian qua, chúng ta đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhập như gia nhập khối ASEAN, tham gia vào khu mậu dich tự do ASEAN (AFTA), ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa kỳ và đang đàm phán để chuẩn bị gia nhập WTO, tham gia nhiều tổ chức quốc tế và hợp tác song phương khác. Từ nay cho đến năm 2010 và nhất là đến năm 2020, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ diễn ra ở trình độ cao hơn và ngày càng mạnh mẽ. Thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam sẽ hội nhập ngày càng sâu với thị trường khu vực và thế giới.
Chính vì vậy, mục tiêu chiến lược phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam trong thời gian tới là phát triển thị trường tiền tệ để thực hiện có hiệu quả vai trò điều tiết cung cầu vốn ngắn hạn, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường tiền tệ
Để thực hiện mục tiêu, định hướng nêu trên, một số giải pháp chủ yếu về phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam cần được tập trung thực hiện là:
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho sự phát triển của thị trường tiền tệ
(i) Sớm hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Công cụ chuyển nhượng để mở rộng áp dụng các công cụ mới (như thương phiếu) trên thị trường. Đối với các công cụ đã hình thành trên thị trường như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu của các NHTM... cần tiếp tục chuẩn hóa để tạo điều kiện cho các công cụ này được giao dịch trên thị trường thứ cấp.
(ii) Ban hành đồng bộ văn bản hướng dẫn thực hiện các công cụ phái sinh, công cụ phòng ngừa rủi ro theo thông lệ quốc tế; đẩy mạnh các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi, cho phép các NHTM thực hiện giao dịch quyền chọn, tương lai để phòng ngừa rủi ro tỷ giá, góp phần cải thiện tính thanh khoản cho thị trường.
(iii) Tiếp tục hoàn thiện các văn bản tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường thứ cấp (như ban hành quy định về việc mua bán giấy tờ có giá giữa các TCTD; bổ sung, sửa đổi quy định về việc chiết khấu giấy tờ có giá của TCTD đối với khách hàng...) nhằm tăng tính thanh khoản của các công cụ trên thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và các thành viên khác trên thị trường.
(iv) Tiếp tục triển khai việc hoàn thiện các văn bản pháp lý cho việc hình thành và phát triển các thành viên chuyên nghiệp trên thị trường tiền tệ nhất là các nhà tạo lập thị trường.
3.2.2. Thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn thị trường của NHNN.
(i) Nâng cao năng lực, hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc đổi mới và hoàn thiện các công cụ CSTT gián tiếp nhất là nghiệp vụ thị trường mở.
(ii) Tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất của NHNN, xác định rõ lãi suất chủ đạo định hướng lãi suất thị trường. NHNN phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính để hình thành đường cong lãi suất chuẩn, tăng cường tính thị trường của lãi suất tín phiếu Kho bạc, cũng như đa dạng hóa kỳ hạn của tín phiếu.
(iii) Tăng cường đào tạo về kinh tế vĩ mô và kinh tế lượng, nâng cao trình độ phân tích, dự báo cho cán bộ ngân hàng; Đổi mới công tác phân tích, dự báo tiền tệ theo hướng áp dụng mô hình kinh tế lượng để có các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, hiệu quả.
(iv) Nâng cấp và đồng bộ hóa máy móc thiết bị, chương trình phần mềm, ứng dụng nối mạng trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ, đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Chính phủ qua NHNN.
(v) NHNN sớm xây dựng hệ thống mạng theo dõi các hoạt động trên thị trường tiền tệ, nhất là hoạt động trên thị trường liên ngân hàng nhằm nắm bắt kịp thời thông tin về tình hình thị trường phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ ngành theo hướng tin học hóa, đảm bảo nắm bắt được đầy đủ, kịp thời, chính xác thông tin; tăng cường phối hợp trao đổi, cung cấp thông tin giữa các Bộ, ngành để phục vụ công tác phân tích, dự báo tiền tệ.
(vi) NHNN tăng cường công tác phổ biến, hướng dẫn các thành viên thị trường tiếp cận với các công cụ thị trường tiền tệ.
3.2.3. Tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn, năng lực kinh doanh của các tổ chức tín dụng- các thành viên chủ yếu của thị trường
(i) Các TCTD có biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn phù hợp với thông lệ quốc tế, thực hiện phân tích lưu chuyển vốn trên cơ sở theo dõi kỳ hạn của các khoản mục trên bảng cân đối.
(ii) Hoàn thiện hệ thống thông tin thanh toán nhằm thực hiện quản lý vốn tập trung, trực tuyến điều chuyển vốn linh hoạt trong nội bộ từng hệ thống ngân hàng, cũng như giữa các ngân hàng ; đẩy mạnh thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực quản lý kinh doanh, năng lực tài chính và sức cạnh tranh.
(iii) Chuẩn hoá tổ chức hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ ở các NHTM đảm bảo tách bạch rõ ràng giữa chức năng kinh doanh với chức năng thanh toán và quản lý rủi ro.
(iv) Các NHTM tăng cường công tác đào tạo cán bộ trong hoạt động thị trường tiền tệ, nâng cao trình độ kinh doanh, giao dịch tiền tệ cùng với việc xây dựng các biện pháp đảm bảo an toàn và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lmd_8268.doc