Đề tài Khủng hoảng tài chính Mỹ và vấn đề giám sát hệ thống Tài chính – Ngân hàng tại Việt Nam

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT LỜI MỞ ĐẦU Chương I: LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ - HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH MỸ HIỆN NAY 1. Tổng quan về hệ thống Tài chính – Ngân hàng của Mỹ. 2. Phân tích nguyên nhân khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay. 2.1. Nguyên nhân sâu xa theo phân tích của nhóm nghiên cứu. 2.1.1 Chứng khoán hoá và các công cụ phái sinh – điểm đặc sắc của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2008. 3. Vai trò tất yếu của hoạt động giám sát hệ thống tài chính – ngân hàng. Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Tổng quan chung về hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam hiện nay. 1.1. Giới thiệu. 1.2. Một vài đặc trưng của hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam. 1.2.1. Đặc trưng về mặt hoạt động vĩ mô của hệ thống tài chính – ngân hàng. 1.2.2. Đặc trưng trên bình diện rủi ro hệ thống. 2. Thực trạng hoạt động giám sát hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam hiện nay. 2.1. Thực trạng. 2.2. Đánh giá thực trạng hệ thống giám sát tài chính – ngân hàng ở Việt Nam. 2.2.1. Kết quả đạt được. 2.2.2. Những mặt hạn chế. 3. Những diễn biến có thể dự đoán. CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 1. Định hướng của hoạt động giám sát hệ thống Tài chính – Ngân hàng tại Việt Nam. 2. Đề xuất các giải pháp. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf71 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1725 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính Mỹ và vấn đề giám sát hệ thống Tài chính – Ngân hàng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p hay tổ chức nào, và hoàn toàn phụ thuộc vào uy tín cá nhân của những nhà môi giới CK không có giấy phép. Trong lĩnh vực BH, các công ty BH mới bắt đầu được thành lập và thực sự đi vào hoạt động ít năm nay, và đương nhiên, vẫn còn chiếm một thị phần hết sức khiêm tốn trong toàn bộ khu vực TCNH nói chung. Tính đến hết năm 2008, thị trường BH VN đã có sự góp mặt của khoảng 40 doanh nghiệp BH phi nhân thọ, nhân thọ, tái BH và môi giới BH. Ngoài ra, vẫn còn một khối lượng không xác định các giao dịch tài chính đang diễn ra trong các khu vực tài chính phi chính thức và bán chính 41 thức, liên quan mật thiết đến các hoạt động kinh tế ngầm, như buôn lậu, sản xuất-kinh doanh bất hợp pháp, rửa tiền ... 1.2. Một vài đặc trƣng của hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam. 1.2.1. Đặc trƣng về mặt hoạt động vĩ mô của hệ thống tài chính – ngân hàng. Thứ nhất, mặc dù gần đây hoạt động của TTCK, các công ty CK có những sự tăng trưởng nhất định nhưng khu vực TCNH VN vẫn tiếp tục chịu chi phối rất lớn bởi hoạt động ngân hàng. Do đó, tính ổn định và chất lượng hoạt động của hệ thống NH sẽ ảnh hưởng quyết định đến sự vững mạnh của khu vực này và từ đó, tác động tới sự ổn định của kinh tế vĩ mô;. Thứ hai, nhiều NHTM đang có xu hướng mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực không truyền thống như BH, CK. Đồng thời, cũng có một số công ty BH, công ty CK cũng đang tìm cách thâm nhập lĩnh vực hoạt động NHTM. Tuy nhiên, do quy định chặt chẽ của pháp luật ngân hàng và các luật lệ khác có liên quan, giữa các hoạt động này vẫn có sự tách biệt rõ ràng; Thứ ba, các NHTM VN nói chung còn nhỏ bé so với NH các nước trong khu vực và còn yếu kém về nhiều mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lực TC, trình độ công nghệ, năng lực quản lý rủi ro, quản trị NH. Uy tín của các NHTM, đặc biệt là các NHTMCP trong công chúng còn hạn chế, do đó nguy cơ đổ vỡ NH do các thông tin lệch lạc còn lớn, dẫn tới nguy cơ đổ vỡ lây lan, hay khả năng rủi ro hệ thống là khá cao. Thứ tư, thể chế thị trường tại VN mới được hình thành; các quy luật vốn có của nó chưa thực sự phát huy tác dụng đầy đủ. Hạ tầng tài chính và khuôn khổ pháp lý tài chính còn yếu, thiếu, lạc hậu. Tính công khai minh bạch về hoạt động của các tác nhân tham gia trên thị trường tài chính còn thấp; các chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt về quản trị điều hành, trên thực tế, vẫn chưa được áp dụng phổ biến, điều này đã gây cản trở lớn không những 42 cho công tác giám sát và việc áp dụng từng bước kỷ luật thị trường mà còn ảnh hưởng tới chất lượng đánh giá, dự báo diễn biến thị trường. Thứ năm, mặc dù đã có những bước tiến lớn trong việc thực thi cam kết về mở cửa khu vực TCNH, do còn có sự khác biệt lớn về văn hóa và sự tồn tại của nhiều loại rào cản vô hình khác, cộng với sự yếu kém, lạc hậu tương đối về hạ tầng tài chính và khuôn khổ pháp lý tài chính, và khả năng hấp thụ thấp của khu vực nội địa, mức độ hội nhập của thị trường tài chính Việt Nam vào với phần còn lại của thế giới (và ngược lại) chưa thể diễn ra mạnh mẽ như nhiều người kỳ vọng. 1.2.2. Đặc trƣng trên bình diện rủi ro hệ thống. Di sản của cơ chế áp chế tài chính mà lộ trình đang tiến hành cải cách, tính minh bạch của hệ thống tài chính Việt Nam hiện còn rất nhiều hạn chế. Thực vậy, hiện không thể đánh giá đầy đủ về tình hình tài sản của khu vực ngân hàng do thiếu thông tin về các chỉ số cho phép phân tích được rủi ro hệ thống như : mức độ vốn hóa, chất lượng tài sản có, dự phòng, thanh khoản, cân bằng bảng tổng kết tài sản bằng ngoại tệ, tỷ suất sinh lời. Việc thiếu thông tin chắc chắn về mức độ vốn hóa và chất lượng của tài sản hiện là một trở ngại cho việc tiến hành đánh giá tình hình một cách đầy đủ do hai yếu tố phân tích trên cho phép đánh giá được tình hình căng thẳng có thể xảy ra đối với hệ thống ngân hàng của các nước mới nổi. 1.2.2.1. Không có thông tin chắc chắn về mức độ vốn hóa Các thông tin hiện có không cho phép đánh giá chính xác hệ số đủ vốn của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, các chuyên gia đều nhất trí cho rằng các ngân hàng Việt Nam nhìn chung hiện chưa đủ vốn, bản thân Ngân hàng Nhà nước cũng có mục tiêu tăng lượng vốn tối thiểu. Năm 2004, bộ phận chuyên môn của IMF đã đánh giá rằng nhu cầu vốn của khu vực ngân hàng sẽ vào khoảng từ 15% tới 25% GDP. Việc Nhà nước tái cấp vốn cho các ngân hàng quốc doanh, nhằm tiến tới tư nhân hóa một phần (cổ phần hóa) các ngân hàng 43 này, cũng như việc vốn nước ngoài tăng mạnh trong một số ngân hàng cổ phần có thể đã cho phép nâng cao mức độ vốn hóa của khu vực ngân hàng song mức độ vốn hóa này hiện vẫn còn thấp nếu xét tới tốc độ tăng trưởng nhanh của tín dụng và nguy cơ mất ổn định gắn liền với các nền kinh tế đang nổi có tốc độ tăng trưởng cao. Theo đánh giá do Fitch thực hiện vào năm 2006, hệ số đủ vốn (Capital Adequacy Ratio) của Việt Nam ở mức trung bình khoảng 5%, mức này thấp hơn rất nhiều so với mức của các nước châu Á mới nổi khác (14% ở Thái Lan, 13% ở Malaixia, 22% ở Inđônêxia). Do vẫn còn chịu tác động của chính sách tín dụng theo mệnh lệnh hành chính và cơ chế áp chế tài chính trước đây, kể từ những năm 90, các ngân hàng thương mại quốc doanh đã trải qua nhiều giai đoạn căng thẳng vì thiếu vốn và điều này buộc chính phủ Việt Nam phải nhiều lần tái cấp vốn. 1.2.2.2. Không có thông tin chắc chắn về chất lƣợng tài sản và dự phòng Tính chất mệnh lệnh trong quan hệ tín dụng trước đây (đặc biệt là hoạt động cho vay chính sách) đã cản trở sự phát triển của văn hóa rủi ro trong các tổ chức tín dụng và đặc biệt là trong các ngân hàng quốc doanh. Kết quả là, các ngân hàng quốc doanh hiện tập trung phần lớn các khoản nợ xấu theo thông tin của Ngân hàng Nhà nước. Có lẽ tình hình này đang từng bước được khắc phục ở cấp độ toàn hệ thống vì hai lý do sau: các ngân hàng cổ phần đang phát triển mạnh trong cơ cấu ngân hàng với một phương thức quản trị gần với các tiêu chuẩn quốc tế hơn nếu ta so sánh các ngân hàng cổ phần với các ngân hàng quốc doanh và kể từ năm 2004, hoạt động cho vay chính sách của các ngân hàng quốc doanh được chuyển cho các định chế tài chính chuyên biệt (Quỹ hỗ trợ phát triển và Ngân hàng chính sách xã hội). Dù có thế nào, văn hóa rủi ro vẫn còn trong thời kỳ đầu phát triển của mình trong khi đó tín dụng vẫn phát với một tốc độ rất cao. Trong bối cảnh đó, việc không thể có được một hình ảnh rõ ràng về chất lượng danh mục nợ và dự phòng khiến ta không thể đưa ra một đánh giá đầy đủ về chất lượng tài sản ngân hàng : nếu 44 tính theo chuẩn kế toán trong nước, tỷ lệ nợ xấu vào khoảng 3% theo ngân hàng Nhà nước ; và con số này sẽ vào khoảng 15% theo đánh giá của Fitch trên cơ sở chuẩn mực IAS (International Accounting Standards). 2. Thực trạng hoạt động giám sát hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam hiện nay. 2.1. Thực trạng. Hiện tại, thị trường tài chính Việt Nam đã hình thành đầy đủ cả 3 bộ phận là thị trường tín dụng - ngân hàng, thị trường bảo hiểm và thị trường chứng khoán. Vì vậy, giám sát thị trường tài chính Việt Nam bao hàm hoạt động giám sát cả 3 thị trường này. Giám sát ngân hàng được thực hiện trong quá trình hình thành và vận động các nguồn tín dụng và trong quá trình đầu tư xây dựng, kiểm tra việc tuân thủ các kỷ luật tài chính của các định chế ngân hàng. NHNN chịu trách nhiệm quản lý, thanh tra giám sát hoạt động NH và hệ thống các TCTD, BTC chịu trách nhiệm về lĩnh vực CK và BH. Ngoài ra, còn có Bảo hiểm tiền gửi VN và một vài cơ quan khác cũng có tham gia vào hoạt động thanh tra, giám sát NH, tổ chức tài chính nhưng ở những mức độ khác nhau. Sau ngày thành lập NHQG VN, Ban Thanh tra NH trực thuộc NHQG (tiền thân của Thanh tra NHNN ngày nay) cũng đã được thành lập bởi một Nghị định của Chính phủ. Trải qua hơn 5 thập kỷ xây dựng và trưởng thành, hệ thống Thanh tra NH đã lớn mạnh không ngừng cả về tổ chức bộ máy, nhân sự, quy mô và chất lượng hoạt động. Sự lớn mạnh này phản ánh tốc độ phát triển nhanh chóng của một hệ thống ngân hàng - trụ cột của khu vực TCNH, mà Thanh tra NH chịu trách nhiệm thanh tra giám sát. Mặc dù còn nhiều hạn chế, bất cập trong tổ chức, hoạt động và các nguồn lực, có một điều không thể phủ nhận được: Đây là một cơ quan thanh tra giám sát có bộ máy hoàn chỉnh nhất (từ Trung ương tới khắp 64 tỉnh, thành), quy mô biên chế lớn nhất (khoảng 600 người) và nguồn lực hoạt động đồ sộ nhất, với phương thức, quy 45 trình, các công cụ, kỹ năng, năng lực thanh tra giám sát có thể nói là phát triển nhất so với các cơ quan, đơn vị khác thuộc hệ thống giám sát khu vực TCNH.  UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính: Cùng với quá trình cải cách hệ thống NH, chủ trương xây dựng và phát triển TTCK tại VN đã có từ những năm đầu thập kỷ 90. Một trong những bước đi khởi đầu nhằm thực hiện chủ trương này là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn thuộc NHNN năm 1993. Sau một thời gian chuẩn bị, UBCKNN đã chính thức được thành lập vào ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về CK và TTCK. Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của UBCKNN là quản lý, thanh tra, kiểm tra và giám sát các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động tại TTCK và xử lý các vi phạm về CK và TTCK theo quy định của pháp luật (chủ yếu do Thanh tra UBCK thực hiện). Sau hơn 5 năm hoạt động, UBCKNN đã được Chính phủ quyết định chuyển vào BTC nhằm tăng cường hiệu quả điều phối hoạt động của các Bộ ngành chức năng trong việc thúc đẩy TTCK phát triển. Sự phát triển bùng phát của TTCK từ cuối năm 2006 đến nay dường như vượt quá năng lực quản lý của UBCKNN. Thực tế là cơ quan này (bao gồm Thanh tra UBCKNN) còn quá non trẻ, chưa thể có đủ các điều kiện cần thiết để quản lý và giám sát có hiệu quả trước hết là TCCK có tổ chức. Ngoài ra, thị trường OTC cũng đang hoạt động tự phát, chưa được quản lý và bảo vệ, không có cơ chế hoạt động hiệu quả, công bằng và trật tự, cũng không có được sự minh bạch như ở Sở/TTGDCK. Các quy định về TTCK không được áp dụng bên ngoài SGDCK có tổ chức. Do vậy, UBCKNN chưa có khả năng quản lý TTCK không chính thức. Thiếu một hệ thống báo cáo và công bố thông tin giao dịch minh bạch, vấn đề giá cả trở nên không rõ ràng. Năng lực TC, chuyên môn và năng lực hoạt động của các nhà môi giới không được 46 kiểm chứng cũng không được giám sát, và thông tin về tổ chức phát hành không được xác minh, v.v.. Trước tình hình như vậy, Chính phủ mới đây đã yêu cầu BTC và UBCKNN phải tăng cường quản lý, theo dõi, thanh tra, kiểm tra để bảo đảm cho thị trường phát triển theo đúng định hướng đã đặt ra, phát huy những mặt tích cực, sử dụng các biện pháp phù hợp, hữu hiệu, hạn chế tối đa những mặt tiêu cực đối với thị trường, tuyệt đối không để xảy ra những biến động đột biến vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Trong quá trình quản lý TTCK, cần đặc biệt lưu ý: (i) Phải kiểm soát bằng được luồng vốn đầu tư vào TTCK (thông qua các biện pháp: Đăng ký, lưu ký tập trung, đầu tư ủy thác qua công ty quản lý quỹ, kiểm soát ngoại hối, thuế thu nhập ...); (ii) Tăng cường tính công khai, minh bạch trên TTCK, ngăn chặn có hiệu quả các hiện tượng lừa đảo, đầu cơ và các biểu hiện tiêu cực trong việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp; (iii) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám sát các hoạt động của các Công ty CK, Công ty quản lý quỹ, Công ty niêm yết và các quỹ đầu tư CK để đảm bảo các hoạt động này đúng pháp luật, công khai, minh bạch. Chính phủ cũng yêu cầu: - NHNN có trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các NHTM có ảnh hưởng đến TTCK, đặc biệt là kiểm soát đối với việc sử dụng nguồn vốn NH để đầu tư chứng khoán cũng như hoạt động cho vay cầm cố; - Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với NHNN và các cơ quan liên quan xây dựng trình cấp có thẩm quyền các biện pháp kiểm soát TTCK trong tình hình đặc biệt, khi có các biến động lớn;  Các cơ quan giám sát NH-TC khác: Vụ BH trực thuộc Bộ Tài chính mới được tách ra từ Vụ Tài chính các NH và tổ chức tài chính, và thành lập mới từ tháng 7 năm 2003. Vụ có chức năng giúp Bộ trưởng BTC thống nhất quản lý nhà nước về kinh doanh BH 47 trong phạm vi cả nước, trong đó có nhiệm vụ “Kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp BH và doanh nghiệp môi giới BH VN, văn phòng đại diện của doanh nghiệp BH nước ngoài và doanh nghiệp môi giới BH nước ngoài tại VN; Phối hợp với Thanh tra Bộ trong việc xây dựng kế hoạch và thực hiện thanh tra hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh BH”. Vụ BH, với biên chế khoảng trên 20 cán bộ, với một thị trường BH mở cửa đang đặt ra nhiều cơ hội lẫn thách thức, chắc chắn Cơ quan quản lý ngành BH này sẽ cần phải được tăng cường, củng cố nhiều về năng lực thì mới có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. BH Tiền gửi VN (DIV) được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2000. Sau 7 năm hoạt động, DIV đã hình thành được một mạng lưới các chi nhánh, mở rộng địa bàn hoạt động, phát triển các nghiệp vụ, nâng cao một bước về năng lực TC và cải thiện công tác quản trị điều hành. Tuy nhiên, so với quá trình cải cách, mở cửa và hội nhập của nền kinh tế nói chung, hệ thống NH-TC nói riêng, thì sự phát triển của DIV thời gian qua còn chậm và hạn chế. Vì vậy, một yêu cầu được Chính phủ đặt ra đối với DIV là làm thế nào để góp phần tích cực thúc đẩy thị trường TC - tiền tệ VN phát triển theo hướng nhanh, an toàn, bền vững và bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của những người gửi tiền và của các nhà đầu tư. Trong thời gian tới, DIV phải trở thành một trong những mắt xích của dây chuyền giám sát an toàn hệ thống NH - TC. Trong khu vực NH-TC của VN, đã hình thành những cơ sở của một hệ thống giám sát an toàn hoạt động NH-TC, trong đó NHNN giữ vai trò quan trọng nhất với nòng cốt là Thanh tra ngân hàng. Năng lực thanh tra giám sát các định chế tài chính khác còn non yếu, bất cập so với yêu cầu. Trên thực tế, hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng là phát triển nhất và được tổ chức có hệ thống nhất so với hoạt động giám sát các tổ chức tài chính phi ngân hàng. 48 2.2. Đánh giá thực trạng hệ thống giám sát tài chính – ngân hàng ở Việt Nam. 2.2.1. Kết quả đạt đƣợc. Sau gần 20 năm đổi mới, Thanh tra NHNN đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam và an toàn hệ thống tài chính – ngân hàng. Từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hệ thống các quy chế, cơ chế thanh tra, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra. Thanh tra NHNN đã chủ động xây dựng các cơ chế, chính sách và soạn thảo để ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước và thanh tra hoạt động ngân hàng. Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam liên quan đến hoạt động ngân hàng của NHTM, hoạt động giám sát của NHNN đối với NHTM về cơ bản được đánh giá là ngày càng tiến sát lại gần hơn với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý của NHNN (thông tin qua giám sát từ xa của Thanh tra ngân hàng, thông tin qua báo cáo thống kê, thông tin từ Trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền thuộc Thanh tra ngân hàng, Trung tâm thông tin tín dụng - CIC, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam …). Thông qua việc quy định và thực hiện các quy định về cung cấp, thu thập, phân tích, xử lý thông tin liên quan đến hoạt động của các NHTM, nguồn cung cấp thông tin cho NHNN ngày càng trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn, các thông tin mà NHNN có được liên quan đến tổ chức và hoạt động của NHTM ngày càng cập nhật, có chất lượng, giúp NHNN chủ động trong điều hành vĩ mô của NHNN cũng như xử lý vi phạm cụ thể sát thực, kịp thời; phục vụ đắc lực việc giám sát rủi ro hoạt động NHTM. Đến nay, NHNN đó thực hiện được một số biện pháp để đề phòng khủng hoảng đối với hệ thống ngân hàng. Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng từng bước được đổi mới trên cơ sở xây dựng và ban hành các quy định an toàn phù hợp dần với các nguyên 49 tắc và chuẩn mực quốc tế. Phương pháp giám sát từ xa dựa trên hệ thống chỉ tiêu CAMELS đã được xây dựng nhằm thiết lập hệ thống thông tin báo cáo phục vụ giám sát từ xa. Chương trình và nội dung thanh tra tại chỗ cũng được cải tiến một bước, các kết quả kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập đã được Thanh tra NHNN sử dụng như công cụ hỗ trợ cho hoạt động thanh tra ngân hàng. Thanh tra NHNN đã thực hiện thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên cơ sở đó phát hiện, ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền đảm bảo sự tuân thủ luật pháp, hoạt động lành mạnh của các TCTD. Trong những năm vừa qua, hoạt động thanh tra cũng góp phần vào việc chấn chỉnh và sắp xếp lại các TCTD cổ phần. Công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ thanh tra cũng được chú trọng. Bên cạnh việc tăng cường số lượng cán bộ từ trung ương tới các địa phương, Thanh tra NHNN đã coi trọng việc nâng cao chất lượng cán bộ vì công tác này là một trong những yêu cầu cấp bách của quá trình đổi mới Thanh tra NHNN. 2.2.2. Những mặt hạn chế. Trong hệ thống tài chính của Việt Nam, công cụ điều tiết và giám sát chủ yếu là cấp phép. Theo đó, các tổ chức tài chính phải được cấp phép và hoạt động theo giấy phép. Cấp phép đem lại một số rào cản trong việc tham gia thị trường của các định chế tài chính tại Việt Nam thông qua các yêu cầu về vốn, thẩm định chủ sở hữu và quản lý để kiểm tra tính phù hợp. Việc cấp phép còn được thực hiện chi tiết đến các sản phẩm của các tổ chức tài chính. Sau cấp phép, việc giám sát được thực hiện chủ yếu trên quá trình kiểm tra giấy tờ và thanh tra tại chỗ, cũng như quá trình thanh tra thuế. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện này và các giai đoạn khó khăn của hệ thống ngân hàng Việt Nam cho thấy những yếu kém trong hệ thống hiện hành. Thứ nhất, các quy định an toàn hoạt động ngân hàng và các biện pháp thận trọng khác còn nhiều bất cập. Về mặt hình thức pháp lý, nhiều quy định 50 phù hợp với chuẩn mực Basel I và thông lệ quốc tế nhưng trên thực tế về cơ bản chưa phù hợp. Một số thông lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng đó được áp dụng ở Việt Nam, song chưa đồng bộ và không triệt để dẫn đến cách nhìn nhận, đánh giá hệ thống ngân hàng chưa phản ánh đầy đủ thực chất trạng tình hình, kể cả việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và các tỷ lệ an toàn khác. Ngoài ra, các quy định về tổ chức, hoạt động NHTM, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng mới, công cụ phái sinh, còn thiếu hoặc có nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện của Việt Nam. các NHTM Việt Nam cả quốc doanh và ngoài quốc doanh (trừ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và NHLD) đều ở tình trạng không an toàn, không đáp ứng các chuẩn mực về an toàn không chỉ của quốc tế mà ngay cả chuẩn mực (qui định) của Việt Nam, đặc biệt đáng lo ngại là các chỉ tiêu về vốn và nợ quá hạn. Nếu trong một vài năm tới không có những giải pháp kiên quyết thì hệ thống NHTM của chúng ta khó có thể tránh khỏi nguy cơ chịu tác động và ảnh hưởng xấu của khủng hoảng ngân hàng. Thứ hai, NHNN vẫn chủ yếu thực hiện phương pháp giám sát tuân thủ, chưa thực sự thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro. Mặc dù đó sơ khởi thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro, nhưng xét về phương diện pháp lý và so với thông lệ và chuẩn mực quốc tế thì có thể đánh giá: NHNN vẫn chủ yếu thực hiện phương pháp giám sát tuân thủ đối với hoạt động của các NHTM. Giám sát tuân thủ đó bộc lộ những hạn chế như:  Khả năng phát hiện, cảnh báo sớm, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro trong hoạt động ngân hàng của NHNN cũng yếu. NHNN chủ yếu chỉ có khả năng phát hiện các vi phạm pháp luật và tập trung xử lý các vi phạm phát hiện được, các rủi ro (biến cố) đó xảy ra trong thực tế như vi phạm các quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các NHTM… chưa đánh giá được rủi ro tổng thể của NHTM. 51  Chưa đánh giá được tổng thể rủi ro của từng TCTD (trong đó có NHTM) và toàn hệ thống TCTD. NHTM luôn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro trong suốt quá trình hoạt động, ở tất cả các khâu, các lĩnh vực. Dù NHTM được đánh giá là tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật không có nghĩa là nó sẽ không phải đương đầu với rủi ro, nếu NHTM không có khả năng nhận biết, phát hiện, đo lường và có các biện pháp kiểm soát rủi ro hữu hiệu thì vẫn có thể bị đổ vỡ khi rủi ro xuất hiện.  Không đảm bảo nguồn lực của NHNN được phân bổ một cách hợp lý và hiệu quả theo nguyên tắc tập trung cho những lĩnh vực, những NHTM bị đánh giá có tiềm ẩn rủi ro cao hơn đối với sự an toàn hệ thống. Thứ ba, NHNN còn yếu và lỏng lẻo trong việc giám sát dựa trên cơ sở giám sát hợp nhất tất cả các lĩnh vực hoạt động của các NHTM. Hiện nay, không ít NHTM có hoạt động trên thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm nhưng NHNN (Thanh tra ngân hàng) không thể tiếp cận và giám sát được các hoạt động này, mặc dù các hoạt động này có thể đem lại những rủi ro không nhỏ cho các NHTM nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung. Thứ tư, giám sát thị trường tài chính ở Việt Nam hiện được thực hiện theo mô hình phân tán: các tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ Tài chính và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có trách nhiệm thanh tra, giám sát; lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán chịu sự kiểm tra, giám sát của Bộ Tài chính. Ngoài ra, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong lĩnh vực bảo hiểm, các công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước cũng chịu sự giám sát của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Tại Bộ Tài chính và NHNN, công tác giám sát cũng được thực hiện bởi nhiều vụ, cục. Điều này đồng nghĩa, mô hình tổ chức, cơ chế giám sát của Việt Nam là phân tán nhưng rất chồng chéo, nên chăng vẫn theo mô hình giám sát theo lĩnh vực nhưng có tính tập trung trong từng lĩnh vực để tránh sự chồng chéo, 52 làm giảm hiệu quả công tác giám sát, gây khó khăn cho các định chế tài chính. Ngoài Thanh tra NHNN tại trụ sở chính, bộ phận thanh tra ngân hàng cũng được thiết lập tại các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, nghĩa là Thanh tra NHNN tại các chi nhánh NHNN chịu sự quản lý của Giám đốc chi nhánh, đồng thời chịu sự quản lý của Chánh Thanh tra NHNN. Thanh tra NHNN còn chịu sự điều chỉnh đồng thời của Luật NHNN và Luật Thanh tra, nghĩa là không có sự khác biệt đáng kể giữa bản chất thanh tra chuyên ngành ngân hàng với cơ quan thanh tra của các bộ, ngành khác. Về cơ bản, Thanh tra ngân hàng không tham gia vào qui trình quản lý dịch vụ ngân hàng và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Thanh tra ngân hàng không có thẩm quyền xây dựng quy chế an toàn hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép thành lập NHTM và hoạt động ngân hàng. Hệ thống thông tin tín dụng tách rời khỏi hệ thống giám sát ngân hàng. Trong khi đó, thiếu một cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin hữu hiệu giữa các đơn vị tham gia vào thực thi nhiệm vụ, quản lý, giám sát hoạt động ngân hàng. Xét trong nội bộ NHNN, việc phân công nhiệm vụ giữa các Vụ, Cục của NHNN như hiện nay gây ra trùng lắp, hạn chế hiệu lực của hoạt động thanh tra, giám sát. Thực tế là không một đơn vị nào ở NHNN, ngay cả Thanh tra ngân hàng có được một cái nhìn toàn diện về hoạt động và tình trạng của một NHTM và đôi khi xảy ra sự lệch pha hoặc có độ trễ trong thực hiện các biện pháp giám sát đối với các NHTM. Tóm lại rằng, cơ chế giám sát vẫn còn nhiều bất cập: phương pháp giám sát hiện đại về hình thức, song nội dung giám sát bị hạn chế do các chỉ tiêu giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu của chuẩn mực quốc tế, đội ngũ cán bộ mỏng và khả năng phân tích, đánh giá cũng như dự báo còn hạn chế; giám sát từ xa chưa gắn chặt với phân tích, xử lý thông tin; công khai tài chính còn xa với chuẩn mực quốc tế; hệ thống thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu giám sát; kiểm toán nội bộ chưa phát huy được vai trò, trong nhiều trường 53 hợp chỉ là hình thức để hợp lý hóa; việc giám sát các lĩnh vực mới (rửa tiền, thanh toán điện tử...) chưa được thực hiện; sự phối hợp đồng bộ giữa 3 bộ phận giám sát (từ xa, tại chỗ, xử phạt) chưa đạt được sự đồng bộ, đặc biệt là chưa bảo đảm được sự độc lập của cơ quan giám sát. Vì vậy, cải cách quan trọng nhất trong bối cảnh hội nhập là chuyển sang một cơ chế giám sát hiệu quả đối với các định chế tài chính, nhất là đối với các định chế tài chính Nhà nước. Đây là các định chế tài chính có vị trí chi phối trong hệ thống tài chính. Việc Chính phủ thành lập ủy ban Giám sát tài chính quốc gia có tác dụng hỗ trợ, định hướng hoạt động và chuẩn hóa các quy tắc và công cụ giám sát tài chính cho các cơ quan giám sát chuyên ngành, nhưng cơ quan này mới được thành lập nên chưa thể đánh giá một cách đầy đủ. 3. Những diễn biến có thể dự đoán. Tại Việt Nam, cơ sở hạ tầng của thị trường tài chính còn đang trong giai đoạn phát triển với nhiều bất cập. Những vấn đề nổi cộm lên trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ như cho vay thế chấp dưới chuẩn, chứng khoán hoá, các công cụ phái sinh, hoạt động của khu vực tài chính phi ngân hàng (ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư, tổ chức cho vay thế chấp)… đều là những khái niệm còn mới mẻ và đang trong giai đoạn phôi thai ở Việt Nam. Để dự đoán một cuộc khủng hoảng tương tự như ở Mỹ sẽ xảy ra ở Việt Nam thì rất khó để xác định chắc chắn, tuy nhiên trong thực trạng hiện nay tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu cho rằng Việt Nam có thể xảy ra một mô hình khủng hoảng đã được nghiên cứu bởi các chuyên gia của Ngân hàng Nhà nước, mà ít nhiều trong đó có những nét giống Mỹ. Tất nhiên là mô hình khủng hoảng này được xây dựng dựa trên đặc điểm riêng biệt của các nước đang phát triển, nhưng nó cũng phảng phất ba đặc điểm mà nhóm nghiên cứu cho rằng giống như cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là:  Các bước trình tự dẫn tới khủng hoảng thường tương đối độc lập với diễn biến của các chỉ số cơ bản về kinh tế vĩ mô. 54  Rủi ro tài chính tăng cao bắt nguồn từ hiện tượng có một dòng vốn ồ ạt chảy vào trong hệ thống đã có nhiều bất cập về thông tin và cẩn trọng, dần dần làm giảm khả năng sinh lời của đồng vốn (giảm hiệu suất biên).  Khủng hoảng bảng tổng kết tài sản của các định chế tài chính. Đây là mô hình nghiên cứu về căng thẳng tài chính đã được xây dựng kể từ cuối những năm 90 nhằm thuật lại các động thái nối tiếp nhau dẫn tới khủng hoảng tại các nước mới nổi. Các mô hình này kết hợp tính động năng của các luồng luân chuyển vốn quốc tế với diễn biến thay đổi của các cơ cấu tài chính trong nước, đặc biệt ở cấp kinh tế vi mô. Chính vì vậy, các bước trình tự dẫn tới khủng hoảng thường tương đối độc lập với diễn biến của các chỉ số cơ bản về kinh tế vĩ mô. Xét trên góc độ thực nghiệm, các mô hình này có tính chính xác cao đối với trường hợp của các nền kinh tế mới nổi đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đang từng bước hội nhập vào nền tài chính quốc tế. Trong loại mô hình này, tình trạng rủi ro tài chính vi mô tăng cao bắt nguồn từ hiện tượng các nguồn vốn đầu vào tăng tốc đổ vào hệ thống tài chính trong nước vốn đã có nhiều bất cập về mặt thông tin và cẩn trọng. Trong giai đoạn đầu, ngay cả khi cho phép củng cố đà tăng trưởng, các nguồn vốn nước ngoài đầu vào vẫn là một trong những yếu tố gây ra tình trạng mất cân đối cho bảng tổng kết tài sản. Điều này đặc biệt đúng với các hệ thống ngân hàng mà ở đó sự tiếp cận dễ dàng với các nguồn vốn nước ngoài đã tạo điều kiện cho vay nợ bằng ngoại tệ nhằm tài trợ cho các khoản tín dụng bằng nội tệ (do lãi suất đi vay bằng ngoại tệ thấp hơn so với lãi suất cho vay bằng đồng nội tệ, nên biên độ trung gian chênh lệch là lớn). Trong giai đoạn đầu này, tăng trưởng đi kèm với tình trạng mất cân đối về tài chính và thị trường chỉ nhìn nhận được một cách hết sức phiến diện trước tác động của không khí “hưng phấn” nói chung. Trong giai đoạn thứ hai, ngược lại đó lại là trạng thái “trầm uất”: thực vậy, trong một bầu không khí ngày càng mất lòng tin khiến 55 các nhà đầu tư và đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài giảm dần thời gian đáo hạn của các các khoản cho vay, tình trạng mất cân đối của bảng tổng kết tài sản bằng ngoại tệ (tài sản có bằng đồng bản tệ được tài trợ bởi các tài sản nợ bằng ngoại tệ) sẽ đi liền với tình trạng mất cân đối về kỳ hạn (tài sản có tức là các khoản cho vay thì mang tính dài hạn trong khi đó các khoản này lại được tài trợ bởi các khoản đi vay tức tài sản nợ với thời hạn đáo nợ ngày càng bị rút ngắn). Tình trạng ngày càng căng thẳng đối với tính thanh khoản của hệ thống tài chính cũng chính là tình trạng nợ nước ngoài ngắn hạn ở mức rất cao (hệ số nợ nước ngoài ngắn hạn trên dự trữ ngoại hối tăng). Thanh khoản ngân hàng như vậy nằm ở vị trí trung tâm trong các bước trình tự do loại mô hình này miêu tả. Như vậy khủng hoảng xảy ra do một cú sốc ngoại sinh hoặc do sự cạn kiệt nội sinh của chu trình tài chính : i. Các mô hình có sử dụng cú sốc ngoại sinh nhấn mạnh tới tác động của kỳ vọng. Đối với các chủ nợ quốc tế, do tình hình bảng tổng kết tài sản ngày một xấu đi, chỉ cần một sự kiện tương đối nhỏ là đủ để làm thay đổi đột ngột về dự báo đối với tính bền vững của việc huy động tài chính phục vụ nền kinh tế. Một cú sốc như vậy có thể làm khủng hoảng xảy ra nhanh hơn: các ngân hàng trong nước không còn khả năng đáo nợ bằng ngoại tệ dễ dàng như trước đây, điều này dẫn tới việc các luồng vốn thuần nước ngoài bị rút khi thời hạn trả nợ đến. Tình trạng căng thẳng về thanh khoản ngoại tệ làm sụt giảm tỷ giá hối đoái và yếu tố này đến lượt mình lại làm cho các ngân hàng mất khả năng thanh toán do hiện tượng chênh lệch tiền tệ (currency mismatch). Thu nhập từ tài sản có bằng đồng nội tệ không còn đủ để chi trả cho các khoản nợ bằng đồng ngoại tệ đã đến kỳ thanh toán khi tỷ giá hối đoái sụt giảm gây mất giá đối với đồng bản tệ. Tình trạng mất khả năng thanh toán càng nghiêm trọng hơn khi khủng hoảng lan sang các lĩnh vực của nền kinh tế thực, làm giảm sút chất lượng của tài sản ngân hàng do tình trạng nợ xấu tăng và do sự sụt giảm của giá chứng khoán và bất động sản. 56 ii. Các mô hình mô phỏng tình trạng cạn kiệt nội sinh đƣợc xây dựng trên cơ sở lý thuyết của Mishkin về chu trình tài chính. Theo chúng tôi, các mô hình này cho phép ta biết được một cách rất hoàn chỉnh về tình hình căng thẳng tài chính có thể xảy ra trong một nền kinh tế mới nổi năng động và có sức hấp dẫn cao trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Tăng trưởng GDP mạnh trong một thời gian dài sẽ thu hút vốn nước ngoài và điều này đẩy giá chứng khoán lên cao. Như vậy, các doanh nghiệp sẽ thuận lợi khi huy động vốn, cả từ thị trường (tăng vốn, phát hành trái phiếu) và từ các ngân hàng (giá trị chứng khoán của các nguồn vốn tự có của các ngân hàng tăng là một tác động). Tuy nhiên, giá chứng khoán tăng mạnh, khi thổi phồng giá trị thị trường của tài sản vốn tự có của doanh nghiệp, dần dần có thể dẫn tới tình trạng chênh giữa khu vực tài chính và khu vực thực : hệ số nợ/vốn tự có có xu hướng giảm trong khi đó hệ số nợ/thu nhập lại tăng. Điều này được giải thích bằng việc song song với việc khắc phục hạn chế về thanh khoản và tăng đầu tư về khối lượng, tín dụng tăng trưởng cộng với hiện tượng vốn nước ngoài ồ ạt đổ vào dần dần sẽ dẫn tới tình trạng khả năng sinh lời của đồng vốn dần dần giảm (tăng tích trữ vốn sẽ làm giảm năng suất biên). Xét về mặt thực nghiệm, có thể có ba giai đoạn: trong giai đoạn đầu, chỉ số cổ phiếu và tín dụng ngân hàng tăng nhanh hơn cả giá trị gia tăng song giá trị gia tăng vẫn tiếp tục có xu hướng tăng đều. Giai đoạn này tương ứng với tình trạng “hưng phấn” trên thị trường, điều này làm công tác đánh giá đúng rủi ro trở nên phức tạp. Tuy nhiên, chính trong giai đoạn tăng trưởng này tình hình có nguy cơ dần dần xấu đi; trong giai đoạn thứ hai, hiệu ứng của việc đầu tư quá mức bắt đầu có tác động rõ rệt trong một số lĩnh vực (bất động sản, xây dựng) và tăng trưởng GDP bị chậm lại. Chất lượng tài sản ngân hàng bị suy giảm (tỷ lệ nợ xấu tăng). Song song với đó, tình trạng nghi ngờ gia tăng của các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, sẽ gây sức ép đối với thanh khoản bằng ngoại tệ. Tình trạng kinh tế tăng trưởng chậm lại sẽ 57 làm tăng áp lực nợ; trong giai đoạn thứ ba, tình trạng mất lòng tin ngày càng lan rộng gây ra tình trạng rút vốn thuần, làm giảm giá chứng khoán và sụt tỷ giá. Đây chính là giai đoạn trong đó chu trình tài chính sau một giai đoạn đỉnh cao bắt đầu đi vào giai đoạn tụt dốc trước sức ép của tình trạng nợ của nền kinh tế thực. Trước đây, tình trạng này đã bị che dấu khi thanh khoản còn dư thừa: tình trạng tăng của hệ số nợ/thu nhập đã bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn trước sẽ ngày càng gia tăng và hệ số nợ/vốn tự có cũng tăng theo do giá giảm trên thị trường tài chính. Căng thẳng về thanh khoản sẽ gây căng thẳng về khả năng thanh toán và tình hình này sẽ gây khan hiếm thanh khoản theo cơ chế “chu trình tương tác”. Nền kinh tế sẽ lâm vào khủng hoảng tài chính vĩ mô. Trong bất cứ trường hợp nào (cú sốc ngoại sinh hay cạn kiệt nội sinh), các luồng vốn đầu vào sẽ đột ngột giảm (sudden stop) và kéo theo tính trạng mất khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng và tiếp đó, một cuộc khủng hoảng ngoại hối sẽ dẫn tới tình trạng mất khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng. Tình hình trên có thể được đánh giá là một cuộc khủng hoảng kép. Nếu như các chỉ số cơ bản về kinh tế vĩ mô không phải là nguyên nhân gây khủng hoảng, thì cuộc khủng hoảng này cũng gây ra mất cân đối kinh tế vĩ mô ở mức độ nghiêm trọng (tỷ giá sụt giảm, lạm phát tăng cao, bùng nổ nợ chính phủ và đặc biệt là GDP giảm). Một số yếu tố mất cân bằng có thể ảnh hưởng lâu dài tới tính hiệu quả của chính sách kinh tế vĩ mô: công tác thực hiện ngân sách sẽ gặp khó khăn do tình trạng nợ công tăng cao vì Nhà nước phải tái cấp vốn cho các ngân hàng và do tỷ giá hối đoái bị mất giá; chính sách tiền tệ sẽ được thắt chặt nhằm thiết lập lại tình trạng cân bằng với bên ngoài và kiềm chế lạm phát. Vì vậy, khả năng tăng trưởng có thể chịu tác động tiêu cực từ kiểu khủng hoảng này. 58 HÌnh 10: Mô hình bùng phát khủng hoảng do cạn kiệt nội sinh của chu trình tài chính Giai đoạn 1: Hệ số (Nợ/Vốn tự có theo giá thị trường) giảm do giá tăng Giai đoạn 2: Hệ số (Nợ/Thu nhập) bắt đầu tăng, tương tự như vậy với hệ số (chi phí tài chính/Thu nhập) Giai đoạn 3: Hệ số (Nợ/Vốn tự có) tăng và các hệ số (Nợ/Thu nhập) và (Chi phí tài chính/Thu nhập) cũng tăng theo. Khủng hoảng ở đây là khủng hoảng bảng tổng kết tài sản Trên đây là một kịch bản mà trong nhiều kịch bản có thể xảy đến với nền kinh tế Việt Nam, điểm hay của nó là có những nét gắn với thực tại và Luồng vốn quốc tế ồ ạt đổ vào Tăng trưởng tín dụng > tăng trưởng GDP Giá tài sản tài chính tăng Chênh lệch tiền tệ trong bảng tổng kết tài sản GDP tăng trưởng chậm lại Khả năng sinh lời của vốn giảm trong khu vực thực Đầu tư thái quá/Dư thừa năng lực sản xuất Mất cân đối kỳ hạn tái sản trong ngân hàng Các nhà đầu tư quốc tế mất lòng tin trước tình trạng hệ số nợ/thu nhập tăng cao Hệ số nợ ngắn hạn/dự trự ngoại hối tăng Rút vốn Ngân hàng bị khủng hoảng thanh khoản ngoại tệ Giá tài sản giảm Dự trữ và tỷ giá sụt giảm Ngân hàng khủng hoảng khả năng thanh toán làm giảm lượng tín dụng cấp cho doanh nghiệp GDP giảm + mất khả năng chi trả các cam kết với bên ngoài 59 gần gũi với thị trường tài chính Việt Nam. Mô hình khủng hoảng này cũng cho chúng ta thấy được vai trò nổi bật của hoạt động giám sát trong hệ thống ngân hàng, việc giám sát tốt và chặt chẽ sẽ sớm giúp hạn chế rủi ro và điều chỉnh tích cực mọi hoạt động các ngân hàng trên thị trường. Các giải pháp cho những vấn đề thiết yếu và cấp bách này sẽ được đề xuất trong chương III dưới đây. Kết luận chƣơng II Chương II tập trung phân tích những đặc điểm hiện tại của hệ thống TCNH Việt Nam, thực trạng trong hoạt động giám sát và dự đoán một cuộc khủng hoảng từ những vấn đề riêng của Việt Nam nhưng lại có vài nét phảng phất giống như Mỹ hiện nay. Các phân tích cho thấy, vai trò của hoạt động giám sát đã có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển ổn định của hệ thống TCNH nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung từ sau giai đoạn đổi mới đến nay. Tuy nhiên, trong đó vẫn còn nhiều mặt hạn chế của các nhà quản lý do những yếu kém trong trình độ phát triển. Để cải tổ và nâng cao năng lực cho hoạt động giám sát hệ thống TCNH thì cần hoàn thiện các điều kiện cần thiết như: xây dựng định hướng hoạt động giám sát trong sự phát triển ổn định của hệ thống TCNH, nâng cao năng lực quản lý Nhà nước, hoàn thiện môi trường pháp lý, ứng dụng những tiêu chuẩn hiện tại của Basel về giám sát trên thế giới để nâng cao chất lượng hoạt động cho các định chế tài chính. 60 CHƢƠNG III: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 1. Định hƣớng của hoạt động giám sát hệ thống Tài chính – Ngân hàng tại Việt Nam. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và sự gia tăng hoạt động của các công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế tạo ra xu hướng tất yếu của thời đại. Quá trình này đã và đang có ảnh hưởng lớn tới tất cả các khía cạnh của hoạt động kinh tế của các nước, nhất là các nước đang phát triển và tài chính - ngân hàng là một hoạt động dịch vụ có hàm lượng chất xám cao sẽ đặc biệt chịu tác động. Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế và toàn cầu hoá mang lại cho hệ thống ngân hàng nhiều lợi ích, nhưng cũng không ít những thách thức. Thách thức rõ nhất là cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn, đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Đồng thời, rủi ro của thị trường đối với các hoạt động ngân hàng ngày càng tăng, bởi mối quan hệ nhạy cảm của thị trường trong nước với những cú sốc ngoài ý muốn của thị trường quốc tế ngày càng tăng. Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO - đỉnh cao của hội nhập kinh tế quốc tế, những thách thức nêu trên là không tránh khỏi đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng. Trong tình hình này, vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý là làm thế nào để cho các NHTM Việt Nam với qui mô, mức độ phát triển còn nhiều hạn chế và còn khoảng cách xa với các NH trong khu vực đứng vững và phát triển trong bối cảnh hội nhập. Những thay đổi về môi trường hoạt động tài chính tất yếu dẫn tới yêu cầu cần đổi mới cơ quan giám sát hệ thống tài chính - ngân hàng để theo kịp 61 sự phát triển của hệ thống tài chính - ngân hàng và bảo đảm quản lý, giám sát hữu hiệu các định chế tài chính. Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trong đó nêu rõ: “Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn chủ chốt trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng, đồng thời phối hợp chặt chẽ với bộ Tài chính trong việc quản lý, giám sát toàn bộ hệ thống tài chính… Trên cơ sở bộ máy Thanh tra Ngân hàng Nhà nước hiện có, xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại và hữu hiệu (về thể chế, mô hình tổ chức, con người và phương pháp) nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam và thực hiện đúng các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng. Thành lập Cơ quan Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở bộ máy Thanh tra Ngân hàng Nhà nước hiện nay… Mục tiêu và trách nhiệm chính của Cơ quan Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước là góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng và chấp hành nghiêm minh pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, bảo vệ lợi ích của công chúng”… Tựu chung lại, định hướng của hoạt động giám sát hệ thống tài chính – ngân hàng là cải tổ và hoàn thiện bộ máy giám sát, đảm bảo các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật, môi trường vĩ mô, cơ cấu định chế luật pháp và thị trường để chống đỡ với các cú sốc bên trong (như sự thay đổi không mong muốn về cầu tiền, đầu tư và tiết kiệm trong dân chúng, sự đổ vỡ hệ thống ngân hàng), cũng như những cú sốc bên ngoài (khủng hoảng kinh tế, chiến tranh..). Cơ quan giám sát phải cập nhật tốt thông tin về rủi ro và có khả năng để hành động nhanh để giải quyết các sự kiện đe dọa đến sự ổn định của hệ thống vì mục tiêu tăng cường ổn định tài chính trong dài hạn. 2. Đề xuất các giải pháp. 62 Cải cách quan trọng nhất về công tác giám sát hoạt động ngân hàng trong bối cảnh hội nhập là chuyển sang một cơ chế giám sát hiệu quả đối với các định chế tài chính, nhất là đối với các NHTM Nhà nước - là các ngân hàng có vị trí chi phối trong hệ thống ngân hàng. Các giải pháp được luận giải dưới đây nhằm khắc phục những nguyên nhân dẫn đến hạn chế của hoạt động giám sát hệ thống tài chính – ngân hàng ở nước ta hiện nay: Thứ nhất, mục tiêu hoạt động giám sát ngân hàng cần phải được nêu rõ, khả thi và công khai minh bạch. Cụ thể, mục tiêu của giám sát ngân hàng là nhằm: Đảm bảo thị trường tài chính hiệu quả, ổn định và có khả năng cạnh tranh; tạo ra hệ thống quản trị rủi ro hiệu quả đối với các rủi ro như: Rủi ro hoạt động, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro pháp lý, rủi ro thị trường, rủi ro uy tín và rủi ro chiến lược. Quyền lực của cơ quan giám sát ngân hàng (Thanh tra NHNN) cần phải được qui định rõ trong luật, đủ để cho phép cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng thực hiện các chức năng của họ có hiêu quả. Đồng thời, cơ quan giám sát ngân hàng cần phải có đủ nguồn lực và vị trí tương đối độc lập về mặt chính trị để đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Mặt khác, cơ quan giám sát ngân hàng phải có cơ chế công khai minh bạch và chịu trách nhiệm rõ ràng, để các cơ quan giám sát có thể đề ra được các quyết định công bằng hiệu quả và chất lượng cao. Thứ hai, các thanh tra viên cần phải có kiến thức đầy đủ về các rủi ro trong hoạt động ngân hàng và các công cụ quản lý rủi ro, hiểu rõ môi trường hoạt động ngân hàng và các kênh chuyển tải các rủi ro. Do vậy, NHNN cần đổi mới phương pháp đào tạo thanh tra viên. Kiến thức về hoạt động NH của thanh tra viên phải toàn diện, ví dụ, đối với NHTW Thái Lan, để trở thành thanh tra viên, các cán bộ thanh tra điều phải qua chương trình đào tạo thanh tra viên 6 năm. Thứ ba, hoạt động giám sát của NHNN đối với các định chế tài chính phải chuyển từ cơ chế giám sát việc chấp hành như hiện nay sang cơ chế giám 63 sát rủi ro dựa vào cơ chế thị trường gián tiếp. Cơ chế này sẽ giúp nâng cao các kỹ năng và công cụ quản lý rủi ro. Phương pháp quản lý theo rủi ro là yêu cầu không thể thiếu đối với hoạt động kinh doanh hàng ngày của các TCTD, nó đòi hỏi việc phân tích tín dụng một cách chặt chẽ hơn, yêu cầu việc thu thập và xử lý thông tin một cách có hệ thống hơn. Thứ tư, việc thực hiện các chuẩn mực của Basel I phải trở thành một sự bắt buộc đối với tất cả các ngân hàng trong nước cũng như nước ngoài. Điều này, trước mắt sẽ tạo ra những thách thức cho các NHTM, nhưng lại là bước quan trọng để có thể cạnh tranh hiệu quả trong trung hạn và sẽ tạo ra sự bình đẳng trên sân chơi đầy cạnh tranh. Đồng thời tạo những nền tảng cơ bản để tiến tới áp dụng Basel II trong tương lai. Ngoài việc qui định các tỷ lệ an toàn cho hoạt động của các TCTD như tỷ lệ đủ vồn, tỷ lệ thanh khoản... NHNN cần có các chính sách giám sát đối với các rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, chính sách về duy trì trạng thái ngoại hối, duy trì các tài sản có tính thanh khoản, chính sách quản lý về dịch vụ ngân hàng điện tử. Trong các chính sách này phải qui định rõ quyền hạn và tránh nhiệm của ban điều hành, qui định qui trình quản lý rủi ro, hướng dẫn đánh giá, kiểm soát và giám sát rủi ro. Bên cạnh đó, NHNN phải có các qui định về các công cụ tài chính phái sinh, như giao dịch phái sinh ngoại hối, lãi suất, hàng hoá, hoán đổi cổ phiếu và trái phiếu... Thứ năm, hội nhập kinh tế, tất yếu sẽ hình thành các tập đoàn tài chính tại Việt Nam, vì vậy NHNN cần sớm xây dựng chính sách giám sát tổng hợp, tức là giám sát toàn bộ các đơn vị phụ thuộc, nhằm đảm bảo an toàn về năng lực, sự ổn định cả về số lượng và chất lượng của tập đoàn tài chính. Giám sát tổng hợp tập trung vào các rủi ro trong nội bộ tập đoàn tài chính và bản thân mỗi đơn vị phụ thuộc. Thứ sáu, phát triển hệ thống Bảo hiểm tiền gửi hiện tại theo hướng góp phần giải quyết được các yếu kém của cơ chế giám sát và những yếu kém về 64 thể chế khác. Do vậy, điểm mấu chốt của Bảo hiểm tiền gửi là phải xác định được những yếu kém của ngân hàng và có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Hiện nay Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sau hơn 7 năm hoạt động đã có những đóng góp nhất định vào việc bảo đảm an toàn hệ thống, song với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều rủi ro tiềm ẩn mà hệ thống ngân hàng phải đối mặt. Điều đó cũng đòi hỏi Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phải có những đổi mới mạnh theo hướng hình thành một tổ chức BHTG đa năng, với các chức năng nhiệm vụ đa dạng, gắn với mức độ rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm, nhằm thực hiện tốt chức năng giám sát, kiểm tra, thực hiện cảnh báo sớm để giảm thiểu rủi ro, hỗ trợ tài chính, chi trả...Để có thể làm được điều này, trước hết BHTGVN phải có một khung pháp lý đủ tầm để thực hiện nhiệm vụ này, theo đó cần sớm nâng tầm Nghị định thành Luật cho hoạt động của BHTG. Đồng thời, NHNN cần sớm có ý kiến và trình Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển BHTGVN theo hướng một tổ chức BHTG đa năng. Bên cạnh đó, việc tăng cường nguồn lực về tài chính và con người là vấn đề mang tính rất cấp thiết: năng lực về tài chính phải đủ mạnh, nguồn nhân lực phải có chất lượng cao, được đào đạo bài bản, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của việc chuyển đổi mô hình BHTG đa năng và yêu cầu hội nhập của nền kinh tế. Kết luận chƣơng III Giám sát là hoạt động thiết yếu có vai trò vô cùng quan trọng đối với hệ thống TCNH. Việc giám sát chặt chẽ sẽ là nền móng vững chắc cho sự phát triển của hệ thống TCNH, ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro khi xảy ra khủng hoảng, nâng cao khả năng hoạt động cho các định chế tài chính. Hệ thống TCNH là trụ cột chính cho nền kinh tế quốc gia, chính vì vậy, rất cần phải có một hoạt động giám sát mạnh mẽ và sâu rộng, thực hiện được những điều này sẽ là cơ sở phục vụ cho việc phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thực hiện các mục tiêu kinh tế theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đảng và Chính phủ đề ra. 65 Để nâng cao năng lực hoạt động giám sát hệ thống TCNH trong nước, các giải pháp của nhóm nghiên cứu được luận giải từ những bài học kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và hạn chế của hoạt động giám sát hiện nay. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp là điều kiện quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của đề tài nghiên cứu. 66 KẾT LUẬN Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 đã là đề tài được mổ xẻ phân tích của nhiều chuyên gia kinh tế trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Cuộc khủng hoảng lần này có nhiều tính chất khác biệt, việc tìm hiểu rõ nguồn gốc và nguyên nhân của nó sẽ gợi mở ra những bài học có tính ứng dụng cao cho hoạt động của hệ thống TCNH. Đây chắc chắn sẽ còn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu đặc biệt, tại nhiều quốc gia trong tương lai hàng trăm năm sau này. Áp dụng những bài học kinh nghiệm từ hoạt động giám sát của Mỹ sẽ góp phần tăng cường mạnh mẽ cho hoạt động giám sát tại Việt Nam trong công cuộc phát triển hệ thống TCNH. Bằng việc vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã thực hiện được các mục tiêu nghiên cứu đặt ra: Thứ nhất, hệ thống hoá các vấn đề lý luận về cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và vấn đề giám sát hệ thống TCNH. Thứ hai, phân tích đặc điểm của hệ thống TCNH Việt Nam và thực trạng của hoạt động giám sát, từ đó đánh giá các điều kiện và điểm mạnh, yếu của mô hình giám sát hiện tại. Thứ ba, đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động giám sát hệ thống TCNH tại Việt Nam. Nội dung nghiên cứu của đề tài nghiên cứu khoa học này là một vấn đề phức tạp và có tính vĩ mô cao ở Việt Nam trên phương diện lý luận và thực tiễn, vì vậy chắc chắn trong đề tài nghiên cứu khoa học này còn rất nhiều hạn chế. Tuy nhiên, với mong muốn được tìm tòi nghiên cứu và bày tỏ quan điểm về tầm quan trọng của hoạt động giám sát hệ thống TCNH, nhóm nghiên cứu hy vọng sẽ nhận được nhiều sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và các bạn để có thể lĩnh hội và hiểu biết sâu sắc hơn về lĩnh vực này. 67 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tham khảo tiếng Việt. 1. Các bài báo trong www.vneconomy.com.vn 2. Các bài báo trong www.vnexpress.net 3. Các bài nghiên cứu và số liệu trong website của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, bộ Tài Chính. 4. Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 6. Báo cáo của World Bank về tình hình phát triển kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2009 – www.worldbank.org.vn 7. Các bài viết của TS Nguyễn Thị Kim Thanh, ThS Nguyễn Lĩnh Nam, ThS Vũ Thị Ngọc Liên thuộc Ngân hàng nhà nước. 8. Blog của TS Lê Hồng Giang II. Tài liệu tiếng Anh. 1. www.bis.org 2. www.imf.org 3. www.federalreserve.gov

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNgan hang tai Viet Nam.pdf
Tài liệu liên quan