Đề tài Kinh nghiệm bán hàng giá rẻ của Trung Quốc và bài học với Việt Nam

Sau hơn 30 năm xây dựng và phát triển, nền sản xuất Trung Quốc đã thực sự trưởng thành và có những bước phát triển cả về lượng và chất. Hiện nay, lợi thế cạnh tranh lớn nhất của hàng hóa Trung Quốc vẫn là yếu tố giá rẻ và tương lai các nhà sản xuất Trung Quốc sẽ vấn duy trì lợi thế đó. Chúng ta không thể phủ nhận được những măt tích cực của hàng giá rẻ như tạo công ăn việc làm chon người lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng áp lực buộc các nhà sản xuất khác phải hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu mua sắm hàng hóa của một bộ phận không nhỏ người dân có thu nhập thấp Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc đang ngày càng vấp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng: chất lượng hàng hóa không bảo đảm, tình trạng bảo hộ thương mại gia tăng ở các nước đối tác với Trung Quốc, và nghiêm trọng nhất là tình trạng tẩy chay và mất niềm tin ở người tiêu dùng. Đó sẽ là những thách thức rất lớn của Trung Quốc trong tiến trình phát triển sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đối với Việt Nam, chúng ta vẫn đang ở trong gia đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa hiện đai hóa đất nước. Nhu cầu về vốn cho phát triển là rất lớn và chắc chắn rằng, với tình trạng nền ngoại thương như hiện nay, chúng ta khó mà có thể có những khoản tích lũy lớn cho phát triển kinh tế. Trong khi đó, nền sản xuất nước ta vẫn còn đang trong tình trạng nhỏ bé và lạc hậu về công nghệ. Thiết nghĩ, mô hình sản xuất và bán hàng giá rẻ của Trung Quốc cũng là một hướng đi khả thi mà Việt Nam nên cân nhắc trong những bước đi tới.

doc85 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3261 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm bán hàng giá rẻ của Trung Quốc và bài học với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
húc thị trường này, điển hình là các công ty may mặc và giày dép. Còn đối với thị trường loại II, các doanh nghiệp Trung Quốc, theo cách đơn giản nhất, cũng phân đoạn thị trường như sau: Phân khúc thị trường cao cấp, dành cho tầng lớp thượng lưu của xã hội ( chiếm khoảng 5% tới 10% dân số ). Tầng lớp này thường là lớp người mới phất lên nhờ các chính sách cải cách kinh tế, thường có yêu cầu cao về một số loại hàng hóa như ô tô, máy tính, điện thoại… tuy nhiên yêu cầu của họ về tiêu dùng hàng hóa phổ thông thường không có gì khắt khe lắm. Họ vẫn coi trọng về chất lượng nhưng không xem nặng yếu tố giá cả. Tuy thế, đây không phải là phân khúc thị trường tiềm năng với cả khối sản xuất trung ương và địa phương. Phân khúc thị trường trung cấp dành cho bộ phận dân cư có mức sống khá ( chiếm từ 10% tới 40% dân số ). Tầng lớp này có yêu cầu về chất lượng hàng hóa không ngừng tăng lên nhưng vẫn đối tượng tiềm năng của cả khối sản xuất trung ương và địa phương. Tuy vậy, việc chiếm lĩnh phân khúc này lại không hề đơn giản với các công ty Trung Quốc chủ yếu do các vấn đề liên quan tới quan điểm, văn hóa, chính trị gây ra. Phân khúc thị trường bình dân dành cho đa số dân cư ( thường chiếm trên 50% ). Họ là những người bị bỏ lại trong cuộc chạy đua làm giàu ở chính đất nước mình, thường là đối tượng có mức sống nghèo hoặc trung bình. Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa của họ rất lớn nhưng lại bị giới hạn bởi thu nhập. Phân khúc rất lý tưởng cho hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc, thường thuộc về khối sản xuất địa phương nhưng khối sản xuất trung ương vẫn có rất nhiều cơ hội trong phân khúc này. Như vậy, nếu coi thị trường thế giới là 100%, ta dựa vào đánh giá thu nhập các quốc gia của UN năm 2006 thì thị phần tiềm năng cho hàng giá rẻ Trung Quốc là khoảng 70% tới 80% thi trường toàn thế giới. Trên đây chỉ là những phân tích cơ bản nhất về chiến lược phân đoạn thị trường của các doanh nghiệp Trung Quốc. Các doanh nghiệp, tùy theo lĩnh vực sản xuất và thị trường nhắm đến lại có những bước phân đoạn sâu hơn và cụ thể hơn để có thê đưa hàng hóa phù hợp tới từng đối tượng. Cách thức phân đoạn thị trường đã quyết định chính sách của doanh nghiệp tới người tiêu dùng, và qua lý giải trên, ta thấy được đâu mới thực sự là thị trường / phân khúc tiềm năng đối với hàng giá rẻ Trung Quốc. Không phải hàng giá rẻ là được mọi người tiêu dùng đón nhận và cũng không phải rằng phân khúc nào cũng hoàn toàn không quan tâm tới yếu tố giá rẻ của hàng hóa Trung Quốc. Cùng với sự giúp đỡ của chính phủ Trung Quốc về tìm kiếm thị trường, các doanh nghiệp Trung Quốc đã rất thành công trong phân đoạn thị trường và qua đó đưa hàng giá rẻ của mình len lỏi trong từng ngóc ngách ở gần như mọi quốc gia. Đưa hàng giá rẻ Trung Quốc thống trị nhiều thị trường thế giới. 3.2. Kinh nghiệm xây dựng hệ thống phân phối bán hàng Hàng hóa muốn tới tay người tiêu dùng thì tất yếu phải qua khâu phân phôi và bán hàng. Một doanh nghiệp sản xuất thành công luôn là doanh nghiệp có hệ thống phân phối bán hàng tốt và hiệu quả. Tuy nhiên chi phí để một doanh nghiệp tự mình xây dựng,vận hành và quản lý cả hệ thống đó xem như quá lớn,quá khó khăn và thậm chí là phi kinh tế. Nhất là với các tập đoàn, các công ty lớn thì việc trên giường như bất khả thi. Lấy ví dụ của tập đoàn máy tính hàng đầu thế giới hiện nay là Dell của Hoa Kỳ, tập đoàn này có nhà máy sản xuất ở hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 90000 công nhân. Sản phẩm của Dell được bán ở hầu hết các nước trên thế giới và ở mỗi thị trường quốc gia Dell lại có hệ thống phân phối và bán lẻ riêng. Dell có doanh số bán hàng năm 2009 là 61,101 tỷ USD. Nếu hãng tự thiết lập hệ thống phân phối bán hàng ở tất cả các thị trường các nước phát triển như hiện nay thì Dell sẽ phải chi ra khoảng 5 tỷ USD (chưa kể các hoạt động marketing) và chi phí vận hành hệ thống đó hàng năm sẽ không dưới 1 tỷ USD (chưa kể chi phí marketing). Đó thực sự là gánh nặng với các công ty và là lý do mà hầu hết các hãng sản xuất trên thế giới hiện nay đặt nhiệm vụ xây dựng hệ thống phân phối bán bán với chi phí thấp nhất có thể mà hiệu quả lại cao nhất. Và hầu hết họ đã tìm tới việc chỉ định các nhà phân phối cho từng thị trường và để các nhà phân phối tự xây dựng hệ thống bán lẻ. Đây cũng chính là một trong những phương pháp xây dựng hệ thống phân phối bán hàng mà các nhà sản xuất Trung Quốc đang hướng tới trong chiến lược vươn ra thế giới mà họ hằng ấp ủ. Tuy nhiên, trong các phân tích sau, ta sẽ đi sâu hơn vào các phương pháp mà các công ty Trung Quốc đã và đang sử dụng để xây dựng, kiểm soát và vận hành hệ thống phân phối bán hàng của mình, đưa sản phẩm giá rẻ của mình tới tận tay người tiêu dùng ở từng phân khúc như đã phân tích ở phần trên. Đặc biệt, ta sẽ đề cập tới các công cụ mạnh nhất mà các công ty Trung Quốc sử dụng đối với hệ thống phân phối bán hàng của mình, đồng thời đề cập tới vai trò của hơn 50 triệu Hoa kiều (có con số nói rằng số lượng Hoa kiều thực tế là gần 80 triệu). Đội ngũ Hoa kiều là một trong những điểm đặc biệt nhất của hệ thống mà ta sẽ nghiên cứu sau đây. Trước hết, ta bắt đầu từ kết quả của giai đoạn nhận định và phân đoạn thị trường. Các công ty Trung Quốc đã chia thị trường thế giới ra 3 loại là thị trường loại I,II và III. Cả 3 loại thị trường đó, theo lý thuyết thị trường hiệu quả, sẽ lại thích nghi với từng hệ thống phân phối bán hàng. Cụ thể là: Thị trường loại I: do tính chất của đòi hỏi tiêu chuẩn cao của người tiêu dùng, cũng như do trình độ phát triển của nền kinh tế noi chung và thị trường bán lẻ nói riêng, thị trường loại I sẽ rât hiệu quả với hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại. Hệ thống đó bao gồm các hệ thống siêu thị, các chuỗi cửa hàng chuyên doanh và bách hóa bán lẻ, các khu mua sắm lớn shopping mall… các công ty Trung Quốc muốn bán được hàng ở thị trường loại I thì điều đầu tiên họ phải làm là thiết lập quan hệ với các công ty thương mại đầu mối, các siêu thị lớn và các nhà bán buôn hàng đầu. Chính những đối tượng trên sẽ mở đâu cho doanh nghiệp Trung Quốc đưa hàng hóa thâm nhập vào thị trường và khi hàng hóa đó đã dần dân trở nên quen thuộc với người tiêu dùng, nhu cầu của thị trường với hàng hóa sẽ trở nên tự nhiên và ổn định. Tuy nhiên, để hấp dẫn các nhà phân phối lớn, các nhà buôn, các siêu thị, các doanh nghiệp Trung Quốc phải đưa ra cho họ nhiều quyền lợi nhất có thể để họ có thể gắn bó với các nhà sản xuất Trung Quốc. Mấu chốt nằm ở tỷ lệ chiết khấu cao ngất ngưởng mà các nhà sản xuất Trung Quốc sẵn sàng đưa ra cho đối tác thương mại của mình. Hàng hóa Trung Quốc có lợi thế về giá rẻ, rẻ hơn từ 15% tới 300% so với hàng hóa của các hãng khác và đó là lý do vì sao các nhà buôn, các công ty thương mại đầu mối, các siêu thị có thể nhận được chiết khấu thương mại tới vài chục phần trăm khi bán hàng của các công ty Trung Quốc, chưa kể tới khả năng nâng giá bán của sản phẩm lên nhiều lần mà vẫn không lo sản phẩm có giá quá cao so với sản phẩm cùng loại. Ví dụ sản phẩm đồ chơi Trung Quốc như đôi giày trượt patin lạo có đế cao. Giá bán sản phẩm này của các công ty châu Âu là khoảng 20 Euros/đôi, sản phẩm nhập từ Nhật Bản là 62.3 Euro/đôi, sản phẩm của Trung Quốc chỉ có giá 16.2 Euro/đôi. Giá nhập về ( giá CIF ) thực tế chỉ là 9.72 Euro/ đôi. Các nhà sản xuất Trung Quốc sẵn sàng chiết khấu cho đối tác của mình 20% giá bán sản phẩm trong khi các nhà sản xuất Nhật Bản và EU chỉ có thể chiết khấu không quá 12%. Chưa hết, các nhà bán buôn, các công ty thương mại có thể nâng giá sản phẩm đó thêm 50% nữa và kiếm lời rất lớn từ việc bán sản phẩm này so với sản phẩm cùng loại của EU và Nhật. Họ, vì lợi nhuận, cũng sẽ khuyến khích các khách hàng của mình mua sản phẩm và cũng chiết khấu cao cho các nhà bán lẻ để bán được nhiều giày patin của Trung Quốc hơn. Kết quả, các công ty sản xuất giày patin xuất khẩu của Trung Quốc ở Quảng Đông dễ dàng xây dựng được mạng hệ thống phân phối và bán lẻ sản phẩm của mình và cũng dễ dàng đánh bật các đối thủ cạnh tranh. Không những thế, họ hoàn toàn kiểm soát được hệ thống phân phối bán lẻ của mình vì đơn giản, chiết khấu và lợi ích cho các công ty thương mại và các nhà buôn là quá lớn. Điều tương tự cũng diễn ra với các nhà sản xuất dệt may, giầy da, tivi, tủ lạnh, sắt thép…Trung Quốc cũng với kịch bản chiết khấu cao. Các công ty Trung Quốc đã nắm được thóp của cả hệ thống bán buôn bán lẻ trên thị trường và do đó, dễ dàng nắm bắt được cả thị trường. Thậm chí quá trình xây dựng hệ thống phân phối và bán hàng của các công ty Trung Quốc còn đơn giản hơn thế nữa. Trung Quốc có hàng chục triệu Hoa kiều ở các nước phát triển, họ sống thành cộng đồng đoàn kết và rất có ý thức dân tộc. Họ sẵn sàng ủng hộ hàng hóa của nước mình không chỉ bằng cách tiêu dùng mà còn là buôn bán. Rất nhiều Hoa kiều đã mở các cửa hàng, các công ty thương mại ở nước sở tại và tự biến mình thành một đầu mối quan trọng trong chuỗi trao đổi hàng hóa thương mại giữa Trung Quốc và nước mình đang sống. Bài học thành công của cộng đồng người Hoa là quá nhiều trên các mặt báo, các trang tin, các kênh truyền hình… những cái tên như Vancouver, Yokohama, New York, San Francisco, Brisbane là những nơi rất nổi tiếng với cộng đồng Hoa kiều và sự thành công của họ. Thị trường loại II: với điển hình là sự đan xen của cả tính chất phát triển hiện đại và tính chất truyền thống lạc hậu thực sự là nơi cho các công ty Trung Quốc bộc lộ hết tài năng của mình trong lĩnh vực kinh doanh, thiết lập hệ thống phân phối bán hàng. Ngoại trừ hệ thống phân phối bán hàng hiện đại như ở các nước phát triển, thị trường loại II còn tồn tại khu vực hệ thống bán hàng truyền thống kiểu cũ, đó là các thương nhân và các công ty đầu mối, các chợ, các cửa hàng chuyên doanh và tạp hóa của cá thể và thậm chí là các gánh hàng rong. Ở đây chính là nơi vai trò của Hoa kiều được phát huy rõ rệt nhất và cũng hiệu quả nhất ( hơn 60% Hoa kiều sống ở các nước đang phát triển có cùng điều kiện tương đồng với Trung Quốc ). Kịch bản để các doanh nghiệp Trung Quốc thiết lập và kiểm soát hệ thống phân phối bán hàng ở đây hầu như giống hệt ở thị trường loại I, là chiết khấu cao + nâng giá + Hoa kiều. Điểm riêng biệt của hệ thống phân phối bán hàng truyền thống là tỷ lệ chiết khấu thường không được cao như với hệ thống hiện đại vì bản than hàng Trung Quốc giá đã quá rẻ thì cũng sẽ quá dễ bán và cũng quá dễ kiếm lời. Với việc tận dụng cả hệ thống phân phối bán hàng truyền thống, các công ty Trung Quốc còn đưa được hàng hóa của mình tới mọi nơi và tới mọi người, từ những thành phố hiện đại cho tới những thôn bản xa xôi trên núi. Nơi đâu cũng có những con người sẵn sàng mang hàng Trung Quốc đi bán và thuyết phục người khác mua. Thị trường loại III: hệ thống phân phối truyền thống kiểu cũ tồn tại và chi phối mãnh mẽ các kênh lưu chuyển hàng hóa ở thị trường này. Ở các thị trường loại III, số lượng Hoa kiều thường không phải là đông và họ thường nắm khâu trung gian phân phối hàng hóa. Họ cũng sử dụng tỷ lệ chiết khấu cao cho đối tác, cho phép các đối tác nâng giá bán ở mức độ vừa phải và qua đó đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoa cho mình. Như vậy, công thức chung cho việc xây dựng và làm chủ hệ thống phân phối bán hàng giá rẻ của các công ty Trung Quốc chính là Chiết khấu thương mại cao + cho phép nâng giá + Hoa kiều Đó là những điều tưởng như quá hiển nhiên, nhưng hai nguyên nhân sâu xa nhất làm cho hệ thống phân phối bán hàng của Trung Quốc trở nên hùng mạnh và rông khắp như vậy chính là các công ty Trung Quốc đã lợi dụng tối đa ưu thế giá rẻ của hàng hóa mình sản xuất và sự đoàn kết, tinh thàn dân tộc của đội ngũ Hoa kiều ở nước ngoài. Đây là điều mà không phải dân tộc nào, quốc gia nào cũng ý thức được và làm được và thực tế cho tới này, chỉ duy nhất Trung Quốc, với những chính sách kinh tế xã hội của chính phủ, mới là được điều này. Do đó, họ hoàn toàn xứng đáng nắm trong tay thị trường hàng giá rẻ thế giới. 3.3. Kinh nghiệm đối phó với các rào cản thương mại và giải quyết các tranh chấp thương mại Có thể sẽ có người đặt ra câu hỏi, phải chăng các quốc gia trên thế giới lại không có biện pháp gì để ngăn cản hàng Trung Quốc giá rẻ tràn ngập và bảo vệ thị trường cũng như các nhà sản xuất nội địa? Câu trả lời là không. Thực tế gần như mọi quốc gia có quan hệ thương mại với Trung Quốc đều áp dụng không ít thì nhiều các biện pháp bảo hộ với hàng giá rẻ. Có quốc gia áp dụng các biện pháp bảo hộ cứng rắn, có quốc gia mềm mỏng hơn. Tuy nhiên, họ hầu như đều nhận được chung một kết quả là THẤT BẠI. Đó là lý do vì sao giám đốc một nhà sản xuất đồ chơi đã phá sản của Malaysia đã cay đắng mà phát thốt lên rằng “…hàng hóa giá rẻ của họ (của Trung Quốc) như một cuồng phong quét sạch hàng hóa nội địa (của chúng ta) ra khỏi các cửa hàng, các siêu thị…” Tuy nhiên, để xem xem các biện pháp Trung Quốc áp dụng là gì, trước hết ta phải tìm hiểu các hàng rào bảo hộ mà các nước đặt ra với hàng hóa giá rẻ Trung Quốc. Các hàng rào mà hàng hóa Trung Quốc hay gặp phải và biện pháp ( chủ yếu là mặt vĩ mô ) Trung Quốc đối phó lại là: Hàng rào thuế quan: đây từng là hàng rào nguy hiểm nhất mà các quốc gia từng áp dụng để ngăn hàng hóa giá rẻ Trung Quốc xâm chiếm thị trường nội địa. Mục đích chính của hàng rào này là nhằm triệt tiêu phần nào lợi thế giá rẻ của hàng hóa Trung Quốc, bảo vệ thị trường nội đia và dùng khoản tiền thuế thu được để trợ cấp cho các ngành sản xuất bị thiệt hại. Trong quan hệ với các đối tác lớn trước đây như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc thường không thể hoặc không có đủ điều kiện trả đũa được, do đó các doanh nghiệp Trung Quốc âm thầm tiếp cân các thị trường đó thông qua các kênh trung chuyển hoặc phân phối gián tiếp để đưa hàng hóa qua hàng rào. Ví dụ như các công ty may mặc Trung Quốc một thời gian dài ( trước khi Trung Quốc gia nhập WTO ) phải chấp nhận gia công hoặc sản xuất hoàn chỉnh sản phẩm của mình rồi xuất bán giá thấp cho các công ty sản xuất may mặc ở EU dưới dạng các sản phẩm gia công hay bán thành phẩm. Các công ty may mặc EU khi đó chỉ việc hoàn thiện bằng vài công đoạn nhỏ, dán nhãn mác sản phẩm và bán ra thị trường như là sản phẩm của mình. Đơn giản là mức thuế nhập khẩu hàng may mặc vào thị trường EU khi đó quá cao, ví dụ quần bò zin có mức thuế 31,15%, áo thun là 16,17%. Làm theo cách trên, các công ty Trung Quốc tuy bị thiệt hại rất nhiều nhưng bù lại họ vẫn bán được sản phẩm nhưng điều quan trọng hơn là vẫn có lãi và luôn sẵn sàng xâm nhập thị trường EU khi thuế giảm. Đó là về phía doanh nghiệp, còn về phía mình chính phủ Trung Quốc không ngừng đàm phán với các nước đối tác nhằm được giảm thuế và nhất là được gia nhập WTO. Thực tế khi gia nhập WTO năm 2001, các hàng rào thuế quan với hàng hóa nhập khẩu Trung Quốc hầu như đã bị xóa bỏ. Hàng rào phi thuế quan ( như hạn ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện ): đây cũng là loại hàng rào mà các doanh nghiệp Trung Quốc hay gặp phải trước khi gia nhập WTO. Chính phủ Trung Quốc cũng kiên trì đàm phán đấu tranh nhằm đạt được hạn ngạch cao hơn cho mỗi năm, hoặc bãi bỏ các hạn ngạch đó trên cơ sở mở cửa thị trường của mình cho hang hóa đối tác. Về phía mình, các doanh nghiệp Trung Quốc tìm cách trung chuyển hàng hóa qua nước thức 3 để tránh hạn ngạch. Điển hình là việc rất nhiều công ty may mặc, giày da Trung Quốc đã đầu tư sang Việt Nam thời gian đầu để lợi dụng thị trường Việt Nam xuất khẩu sang các nước khác hoặc xuất sang các trung gian như Singapore để thay đổi nguồn gốc và nhãn hiệu hàng hóa. Qua đó, các công ty Trung Quốc đã thành công trong việc đưa hàng hóa sang các thị trường được bảo hộ. Sau khi gia nhập WTO, các hàng rào phi thuế cũng hầu như bị bãi bỏ với hàng hóa giá rẻ Trung Quốc. Hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật: hiện nay là hàng rào khó vượt nhất của hàng hóa Trung Quốc và cả chính phủ và doanh nghiệp Trung Quốc ra sức đối phó. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc nhanh chóng phát triển và ít nhất đã có thế để mặc cả với các nước khác về viêc giảm các rào cản kỹ thuật với hàng hóa của mình. Về khía cạnh vĩ mô, chính phủ Trung Quốc đã không ngừng hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cấp công nghệ kỹ thuật sản xuất để đáp ứng tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, các cuộc đàm phán hay thực chất là các cuộc “mặc cả” với các đối tác cũng được thực hiện. Thường thì, Trung Quốc sẽ sử dụng thuyết “song thắng” để đạt được mục đích, nếu không họ sẽ dọa trả đũa và trả đũa. Gần đây, khi Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế thứ 2 thế giới, họ đã không ngần ngại trả đũa các quốc gia nào dựng hàng rào với hàng hóa của mình, trong đó có cả Hoa Kỳ. Đối với các đối tác nhỏ, Trung Quốc sẵn sàng dùng sức mạnh để dọa nạt và ép buộc các quốc gia đó phải từ bỏ ý định. Ví dụ như trường hợp của Indonesia, mùa hè năm 2009, nhà chức trách nước này đã kiểm tra hàng hóa giả rẻ Trung Quốc nhập khẩu và tìm ra thủy ngân trong mỹ phẩm, chất hóa học trong hoa quả sấy, chất gây ung thư trong kẹo cho trẻ em… không thể biện hộ cho sự thật đó tháng 8/2009, chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu Indonesia hạ thấp tiêu chuẩn kỹ thuật cho hàng hóa Trung Quốc để đổi lại một số quyền lợi về vốn vay tín dụng, kinh tế nhưng Indonesia đã từ chối. Kết quả, Trung Quốc đã trả đũa bằng việc cấm hàng thủy sản, chuối và một số sản phẩm nhập khẩu từ Indonesia. Cuối cùng, Indonesia phải nhượng bộ. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã đối phó với chủ nghĩa trọng thương mới ( như ở Nhật ) cũng với cách thức hết sức tinh vi. Người Nhật vốn không thích tiêu dùng hàng hóa điện tử và may mặc của Trung Quốc nên thường tẩy chay và các công ty Trung Quốc gần như bó tay trước thị trường này. Tuy nhiên, sau một loạt các biện pháp liên hoàn, canh cửa Nhật Bản đã mở ra. Trung Quốc một mặt đầu tư vào xây dựng nhà máy ở Nhật nhằm sản xuất sản phẩm ngay tại quốc gia đó,mặt khác thu hút các công ty Nhật đầu tư ở Trung Quốc để sản xuất và xuất bán sản phẩm ngược trở về Nhật. Họ cũng sử dụng đội ngũ Hoa kiều ở các thành phố Nhật để marketing và bán hàng hóa của mình. Kết quả, sau một vài năm kiên trì, thị trường Nhật đã chấp nhận hàng điện tử và may mặc giá rẻ của Trung Quốc. Đó là một trong số các biện pháp đối phó với các hàng rào thương mại. Trung Quốc còn nổi tiếng thành công trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại với các đối tác lớn. Thường thì, các tranh chấp ( chủ yếu là vấn đề bán phá giá ) sẽ được giải quyết qua thương lượng và một lần nữa “song thắng” lại phát huy hiệu quả rất tốt. Tuy nhiên ,không phải lúc nào Trung Quốc cũng thành công như vậy và họ phải chấp nhận theo đuổi các vụ kiện. Ngoại trừ các vụ kiện Trung Quốc thắng, nếu thua họ sẽ luôn có giải pháp làm bó tay các nhà chức trách của nước thắng kiện. Gần đây, đứng trước nguy cơ mặt hàng dệt giày dép của mình bị kiện bán phá giá và khả năng thắng kiện là rất thấp,các nhà sản xuất giày dép Trung Quốc đã vội vã chuyển sản xuất sang Canada ( chủ yếu là để đóng mác của Canada ) để xuất khẩu về Mỹ. Chiêu bài này của Trung Quốc thực sự làm đau đầu cả Canada và Hoa Kỳ vì họ khó mà có thể cản được những thương nhân Trung Quốc rất khôn ngoan. Qua một số phân tích trên, ta thấy được phần nào mánh khéo và thủ thuật bán hàng của các công ty Trung Quốc; cũng như các biện pháp hỗ trợ không hề vi phạm luật của WTO mà chính phủ Trung Quốc áp dụng để giúp các doanh nghiệp của mình vượt qua các rào cản và đối phó với tranh chấp thương mại. Sự kết hợp hết sức chặt chẽ,khéo léo, nhip nhàng giữa chính phủ và các doanh nghiệp đã làm cho các biện pháp bảo hộ của các nước đối tác dường như vô ích. Đây cũng là một kinh nghiệm quan trọng mà cả doanh nghiệp và chính phủ Việt Nam cần học hỏi để thành công trong hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và thương mại quốc tế nói riêng. IV. Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc đối với Việt Nam Qua các phân tích trên, ta có thể rút ra một số bài học sau cho chính phủ và các doanh nghiệp. 4.1. Đối với phía chính phủ Thành công của nền ngoại thương Trung Quốc nói chung và sản xuất bán hàng giá rẻ nói riêng đều có những đóng góp hết sức to lớn từ phía chính phủ. Dưới đây là một số bài học của Trung Quốc có thể áp dụng được cho Việt Nam: Một là, phải có chiến lược phát triển sản xuất rõ ràng, chặt chẽ và phù hợp với điều kiện của quốc giá. Chính phủ Trung Quốc ngay từ đầu đã đề ra chiến lược sản xuất phục vụ xuất khẩu rất chi tiết và hoàn chỉnh. Chiến lược đó ngay từ đầu đã được thực thi rất nghiêm túc và tỏ ra rất hiệu quả với nền kinh tế. Chính phủ Trung Quốc từ những năm 70 của thế kỷ trước đã rất chú trọng tới nền sản xuất công nghiệp hàng loạt trên quy mô lớn, đặc biệt là với giá sản phẩm rẻ. Từ khi Trung Quốc mở cửa kinh tế, bước đầu tiên chính phủ nước này đã xác định đất nước mình đầu tiên phải tập trung vào sản xuất các sản phẩm giá rẻ với quy mô lớn nhằm phục vụ cho việc xuất khẩu để có tích lũy cho nền kinh tế. Bước hai, ngay khi có tích lũy, Trung Quốc một mặt tiến hành việc đầu tư ngay cho các tập đoàn kinh tế lớn sản xuất các sản phẩm giá rẻ với chất lượng tốt để cạnh tranh được trên thị trường thế giới nhất là thị trường các nước phát triển ( khu vực sản xuất trung ương ); mặt khác tiếp tục phát triển khu vực sản xuất địa phương với hàng giá rẻ chất lượng thấp hơn nhằm xâm chiếm thị trường các nước đang phát triển. Bước ba, khi đã có đủ tích lũy, Trung Quốc sẽ tiến hành hiện đại hóa toàn bộ nền sản xuất và đưa Trung Quốc trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Chiến lược phát triển trên cũng đã quyết định toàn bộ các quy hoạch phát triển và chi phối các chính sách của chính phủ Trung Quốc sau này. Việt Nam với nhiều điều kiện tương đồng, hoàn toàn có thể học tập chiến lược này của Trung Quốc. Việt Nam cũng như Trung Quốc là một quốc gia đang phát triển và mang những đặc trưng của một nước đang phát triển. Hai nước có cùng mô hình nhà nước và chế độ chính trị; hệ thống luật pháp cũng khá tương đồng với nhau. Bên cạnh đó, cả hai nước có nhiều điều kiện tự nhiên, văn hóa và xã hội tương đồng. Cùng chung một mục tiêu là công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi và áp dụng các chiến lược của Trung Quốc vào thực tiễn của mình. Hiện nay,Việt Nam đang tiến hành đi tắt đón đầu ở nhiều lĩnh vực sản xuất nhưng xem ra hiệu quả không được như mong đợi. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa khai thác được tiềm năng của thị trường các nước đang phát triển. Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước phát triển cũng gặp những rào cản rất lớn, nhất là các rào cản kỹ thuật. Vì thế, đối với Việt Nam việc chuyển hướng sản xuất và xuất khẩu là khó tránh khỏi. Việt Nam trước hết có thể hướng mũi nhọn xuất khẩu sang các nước đang phát triển và chiếm lĩnh các thị trường này. Đồng thời với việc chuyển hướng xuất khẩu, Việt Nam nên tiến hành tăng xuất khẩu nhằm xuất siêu và tăng tích lũy vốn. Tích lũy thu được từ các xuất siêu sẽ được dùng vào đầu tư đổi mới sản xuất. Khi trình độ sản xuất đã phát triển tới mức độ nhất định, Việt Nam có thể chuyển hướng xuất khẩu dần sang thị trường các nước trung bình và phát triển. Tuy nhiên, muốn làm được điều đó, trước hết Việt Nam phải sản xuất được các loại hàng hóa giá rẻ, nhất là các loại hàng hóa tiêu dùng thiết yếu. Để sản xuất được các loại hàng hóa giá rẻ, Việt Nam cần phải xây dựng được lợi thế cạnh tranh quốc gia trên các lĩnh vực mình quan tâm. Nếu Việt Nam vận dụng và áp dụng lý thuyết Lợi thế cạnh tranh Quốc gia của M.Porter một cách thành công thì các bước trên sẽ trở nên dễ thực hiện. Hai là, phải xác định trước được các tiềm năng và nguồn lực của đất nước cho phát triển sản xuất. Chính phủ Trung Quốc ngay từ đầu đã xác định được tiềm năng của đất nước mình và nguồn lực cho phát triển đất nước. Nguồn lực về con người, đất đai, tài nguyên thiên nhiên cũng như vị trí của mình trên thế giới. Trung Quốc cũng biết biến điểm yếu thành điểm mạnh. Điển hình là vấn đề dân số. Trung Quốc có hơn 1,3 tỷ dân và có thời kỳ, nhiều đánh giá cho rằng quy mô dân số quá tải của Trung Quốc sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển kinh tế của nước này. Tuy nhiên, Trung Quốc đã biến những điểm yếu đó thành điểm mạnh như xây dựng thị trường tiêu thụ hàng hóa khổng lồ dựa trên quy mô dân sô, nguồn lao động giá rẻ gần như vô tận. Đó quả thực là lợi thế rất lớn cho sản xuất hàng giá rẻ và tiêu thụ hàng hóa chỉ riêng trong thị trường nội địa. Việt Nam là một quốc gia có rất nhiều tiềm năng và nguồn lực phát triển. Các tiềm năng về điều kiện tự nhiên và nguồn lực con người của Việt Nam hoàn toàn có thể bảo đảm cho khả năng sản xuất hàng hóa giá rẻ của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có một tiềm năng nữa chưa được khai phá hết là vị trí của Việt Nam đối với các nước lớn. Điều này được nhìn nhận như là một thách thức lớn nhưng thực tế nó cũng là tiềm ẩn nhiều cơ hội cho phát triển. Nếu khéo léo tận dụng những mâu thuẫn trong quan hệ giữa các nước lớn, Việt Nam có thê mở rộng ảnh hưởng của mình, tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư và xuất khẩu, phục vụ cho sự phát triển của nền sản xuất. Bài học từ Đài Loan, Hàn Quốc có thể minh chứng cho điều đó. Ba là, phải có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp một cách đồng bộ. hiệu quả và kiên định với mục tiêu đã đề ra. Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp hỗ trợ sản xuất cho doanh nghiệp một cách hợp lý với mục tiêu giúp doanh nghiệp giảm thiểu giá thành sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hóa Trung Quốc trên thị trường nội đia và quốc tế. Chính phủ Trung Quốc đã chính sách thuế rất tích cực để giúp đỡ các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp xuất khẩu như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tăng tỷ lệ hoàn thuế cho xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu các yếu tố đàu vào sản xuất… Đồng thời, cung cấp tín dụng giá rẻ cho doanh nghiệp, miễn giảm các khoản lệ phí hải quan, thực hiện khấu hao nhanh ở một số ngành sản xuất và nhiều chính sách khác. Việt Nam cũng đã thực hiện hầu hết các biện pháp trên, tuy nhiên điểm yếu kém nhất của Việt Nam chính là sự mâu thuẫn và bất hợp lý khi áp dụng các biện pháp hỗ trợ. Nhiều biện pháp hỗ trợ tỏ ra không có hiệu quả chính vì lẽ trên. Ngoài ra, do chưa có nguồn tích lũy dồi dào, chính phủ Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều khó khăn khi muốn hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Do đó, cách tốt nhất với Việt Nam hiện nay chính là việc thống nhất mục tiêu khi đề ra các chính sách, trong đó có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Bốn là, tăng cường thu hút đầu tư và thi hành khéo léo chính sách bảo hộ thương mại đông thời thúc đẩy xuất khẩu. Có thể nói, Trung Quốc thực thi một chính sách thương mại và đầu tư hết sức khéo léo và kiên quyết. Trung Quốc đã thi hành rất nhiều chính sách hấp dẫn nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Các luồng vốn đầu tư khổng lồ đổ vào nước này trong suốt hơn 30 năm qua đã giúp nền kinh tế được trang bị thêm các máy móc thiết bị công nghệ hiện đại và xây dựng được một nền sản xuất lớn. Các ngành công nghiệp phụ trợ cũng được chính phủ định hướng xây dựng từ rất sớm và thường sử dụng các nguồn vồn đầu tư trong nước. Kết quả là Trung Quốc đã có một nền sản xuất lớn, hiện đại và khá hoàn chỉnh ở nhiều ngành sản xuất. Về thương mại, Trung Quốc kiên định với chính sách bảo hộ thị trường nội địa và thúc đẩy xuất khẩu. Trung Quốc khéo léo dựng các hàng rào bảo hộ vô hình như hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng…và tinh vi hơn cả là kích thích tinh thần dân tộc với việc bảo hộ sản xuất trong nước. Trong suốt hơn 30 năm đổi mới, Trung Quốc đã kiên trì mở rộng và phát triển quan hệ thương mại với hầu hết các quốc gia trên thế giới nhằm tìm kiếm và mở cửa các thị trường cho hàng hóa của mình. Trung Quốc đã ký kết rất nhiều các hiệp định thương mại, tham gia các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế. Khi các doanh nghiệp gặp các xung đột, tranh chấp trong thương mại, chính phủ Trung Quốc bao giời cũng đứng ra giải quyết giúp bằng những biện từ mềm mỏng cho tới kiên quyết như thương lượng, tham gia các vụ kiện, trả đũa… qua đó liên tục mở rộng và duy trì thị trường cho hàng hóa của nước mình. Việt Nam đang thực hiện khá hiệu quả việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên đa phần các dự án đầu tư vào Việt Nam tập trung vào các ngành sản xuất cần nhiều lao động phổ thông giản đơn. Các máy móc công nghệ nhập về Việt Nam phần nhiều còn lạc hậu. Các dự án đầu tư cho các ngành công nghiệp phụ trợ có rất ít. Do đó rất nhiều nghành sản xuất của Việt Nam sẽ khó mà có được lợi thế cạnh tranh so với các quốc gia khác. Vê thương mại, Việt Nam chưa có hàng rào bảo hộ hữu hiệu để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước áp lực cạnh tranh từ bên ngoài. Việt Nam đã có quan hệ thương mại với phần lớn các quốc gia trên thế giới và cũng thường xuyên đối mặt với các tranh chấp thương mại. Trong trường hợp các tranh chấp thương mại nảy sinh, Việt Nam khó mà có thể áp dụng các biện pháp can thiệp như chính phủ Trung Quốc có thể làm. Do đó, biện pháp tốt nhất mà Việt Nam có thể thực hiện là ngăn chặn trước các tranh chấp thương mại có thể xảy ra, đồng thời liên kết chặt chẽ về mặt lợi ích với các đối tác ở nước nhập khẩu nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ ở ngay nước nhập khẩu khi xảy ra tranh chấp. Năm là, duy trì ổn định tiền tệ và duy trì tỷ giá có lợi cho xuất khẩu. Trung Quốc đã duy trì ổn định tỷ giá đồng Nhân dân tệ trong thời gia rất dài, kìm hãm sự tăng giá đồng tiền của mình và biến CNY thành một đồng tiền mạnh. Sở dĩ Trung Quốc giữ giá đồng tiền thấp như vậy là do có lượng dự trữ ngoại tệ và vàng khổng lồ, cộng với tài sản quốc gia không ngừng tăng. Việc neo giữ tỷ giá thấp đã làm hàng hóa Trung Quốc rất có lợi thế về giá khi quy đổi sang ngoại tệ khác. Chính sách tỷ giá của chính phủ Trung Quốc đã giữ vai trò quyết định trong sự thành công của chính sách khuyến khích xuất khẩu trong suốt những năm qua. Việc ấn định tỷ giá thấp nhằm thúc xuất khẩu đối với Việt Nam là điều không dễ dàng. Trước hết, Việt Nam là nước nhập siêu rất lớn, do đó tỷ giá thấp sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhập khẩu nhất là đối với các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Thứ hai, Việt Nam hiện tại chưa có nguồn dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để có thể duy trì tỷ giá thấp, chứ chưa nói đếnviệc phá giá đồng nội tệ. Đó là chưa kể tới việc Việt Nam có thể bị trả đũa từ các quốc gia khác nếu hạ thấp tỷ giá hoặc phá giá đồng tiền. Cách tốt nhất hiện nay là duy trì ổn định tỷ giá Việt Nam đồng và kìm chế lạm phát ở mức vừa phải. Nếu có duy trì tỷ giá thấp để thúc đẩy xuất khẩu, Việt Nam cần cân nhắc kỹ lượng biên độ dao động tỷ giá và thời điểm. Biên độ dao động tỷ giá nên được duy trì vừa phải và chỉ nên duy trì tỷ giá thấp trong ngắn hạn. 4.2. Bài học với các doanh nghiệp Từ sự thành công của các doanh nghiệp Trung Quốc trong việc sản xuất và bán hàng giá rẻ, ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau cho các doanh nghiệp Việt Nam. Một là nghiên cứu và tìm hiểu thị trường thật kỹ lưỡng trước khi tiến sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp Trung Quốc ngay từ đầu đã rất quan tâm tới công đoạn nghiên cứu và tìm hiểu thị trường. Họ nghiên cứu một thị trường trên rất nhiều khía cạnh và tiêu thức khác nhau nhằm thu được nhiều thông tin nhất có thể và tìm ra những cơ hội và xác định những thách khi gia nhập thị trường đó. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Trung Quốc thường nghiên cứu rất kỹ pháp luật nước sở tại, các đối thủ cạnh tranh và sản phẩm cạnh tranh. Họ cũng nghiên cứu và phân đoạn thị trường theo rất nhiều tiêu thức, đặc biệt là theo thu nhập và theo văn hóa, truyền thống. Sau khi xác định được các thông tin quan trọng, các doanh nghiệp sẽ xác định được lượng cầu thực sự về hàng hóa của mình và sản xuất mới hiệu quả. Tuy nhiên,không phải thị trường nào cũng chấp nhận hàng hóa giá rẻ và cũng rất nhiều người tiêu dùng luôn quan niệm hàng giá rẻ đồng nghĩa với chất lượng thấp, nên các công ty Trung Quốc biết rằng họ chỉ có thể sản xuất để bán giá rẻ ở đâu và ở đâu thì không. Nghiên cứu và tìm hiểu thị trường là khâu yếu đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nó thể hiện trình độ phát triển cũng như định hướng chiến lược sản xuất kinh doanh trong dài hạn của các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam thường mắc căn bệnh là chỉ muốn sản xuất những cái hiện tại mình có thể sản xuất và chỉ bán những cái mình có, do đó khâu đầu ra cho các doanh nghiệp Việt Nam là rất bấp bênh. Bên cạnh đó, sự đoàn kết giữa các doanh nghiệp trong nước là chưa chặt chẽ, sự hỗ trợ lẫn nhau chưa hiệu quả và chưa thiết thực. Đó là nguyên nhân làm cho cơ chế trao đổi hỗ trợ thông tin lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, nhất là trong việc tìm hiểu thị trường, không có tác dụng. Rất ít doanh nghiệp Việt Nam sẵn sàng bỏ chi phí công sức ra để nghiên cứu thị trường hay đơn giản chỉ là mua lại thông tin của các hãng điều tra thị trường. Có lẽ trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư nhiều hơn cho việc phát triển chất lượng nhân lực và thay đổi tư duy trong kinh doanh. Hai là xây dựng hệ thống phân phối bán hàng hiệu quả nhất cho từng loại thị trường. Hệ thống phân phối và bán hàng là xương sống của nền ngoại thương Trung Quốc, đặc biệt là với các hoạt động buôn bán hàng hóa giá rẻ. Hàng hóa giá rẻ thường co chất lượng không cao, không có thương hiệu mạnh và không nổi tiếng nên không dễ dàng thâm nhập được vào các thị trường, nhất là các thị trường khó tính. Do đó, muốn bán được hàng giá rẻ, hoặc sản phẩm đó phải do các nhà phân phối bán lẻ có uy tín bán, hoặc các kênh phân phối phải thật hiệu quả để đưa hàng hóa tới tận tay người tiêu dùng. Đó là lý do các công ty Trung Quốc thường rất quan tâm tới các đối tác thương mại của mình và đặc biệt quan tâm tới quyền lơi của các nhà phân phối và bán lẻ hàng hóa. Điều này không chỉ thể hiện ở chiết khấu thương mại cao mà thực tế các doanh nghiệp Trung Quốc rất thường xuyên tiến hành gặp gỡ đối tác, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của họ để khắc phục những vấn đề cản trở sự hợp tác giữa hai bên. Đây cũng là điểm yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam. Chỉ trừ một số ít công ty như Kinh Đô hay Vinamilk, phần lớn các doanh nghiệp sản xuất đều có hệ thống phân phối bán hàng rất kém hiệu quả. Hệ thống phân phối bán hàng của các công ty Việt Nam thường cồng kềnh và bất hợp lý. Nhiều công ty muốn bán sản phẩm phải qua bốn, năm khâu phân phối, gây lãng phí to lớn về thời gian và chi phí. Sự gắn bó giữa các khâu cũng rất lỏng lẻo mà nguyên nhân chính do lợi nhuận thu được từ việc phân phối và bán hàng không cao. Bên cạnh đó, sự cồng kềnh của các khâu này cũng làm cho tính liên kết của toàn hệ thống trở nên kém chặt chẽ. Để hạn chế vấn đề trên,có công ty lại thiết lập hệ thống phân phối bán hàng quá quá đơn giản tới mức bị phụ thuộc rất lớn vào một hay một số kênh, gây nên tình trạng bị động trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để khắc phục những vấn đề trên, giải pháp tốt nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam có lẽ là tập trung đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ làm công tác thị trường và bán hàng. Một đội ngũ nhân viên làm tốt công tác bán hàng sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng hệ thống phân phối bán hàng hiệu quả nhất và phù hợp nhất với điều kiện của mình. Ba là xây dựng cơ cấu doanh nghiệp hợp lý, tiết kiệm triệt để chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp Trung Quốc đã tìm mọi cách giảm giá thành sản phẩm. Trong đó, có một số cách các doanh nghiệp Việt Nam có thể học hỏi được như cắt giảm tối đã các khoản chi phí phụ trong sản xuất, tiêt kiệm nguyên nhiên liệu, tìm kiếm các nguồn đầu vào sản xuất giá rẻ… tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý rằng giảm giá thành sản phẩm không đồng nghĩa với việc tạo ra các sản phẩm kém chất lượng mà phải là sự cắt giảm chi phí một cách hợp lý. Bốn là chú trọng đầu tư cho máy móc và khoa học công nghệ kỹ thuật cũng như đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng. Rất nhiều công ty Trung Quốc hiện đang sản xuất bằng công nghệ mới hiên đại. Họ không ngại khi phải đầu tư một lượng tư bản lớn cho máy móc thiết bị vì họ nhìn trước rằng doanh thu và lợi nhuận sẽ gia tăng khi họ sản xuất được nhiều sản phâm hơn với giá thành hạ hơn.Hiện nay nhiều người Việt Nam vẫn lầm tưởng rằng, lao động Trung Quốc phần lớn không có trình độ chuyên môn và chỉ là lao động phổ thông. Điều này đã thực sự thay đổi trong những năm gần đây, nhiều lao đông Trung Quốc đã được đào tạo lại hoặc tiếp cân với máy móc và khoa học kỹ thuật mới nên trình độ của họ đã tăng nhanh. Trung Quốc chính là một trong 3 nước có năng suất là động tăng cao nhất thế giới trong những năm qua. Trong điều kiện của mình, các doanh nghiệp Việt Nam khó có khả năng đầu tư cho máy móc và kỹ thuật hiện đại, cũng như không có khả năng tự đào tạo cho nguồn nhân. Giải pháp tốt nhất là tiến hành góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài. Sau một thời gian liên doanh, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tự tách ra sản xuất kinh doanh độc lập. Trường hợp như các doanh nghiệp của Malaysia là bài học rất thiết thực đối với các công ty Việt Nam. Năm là tăng cường hợp tác với các đối tác lớn trong và ngoài nước. Các sản phẩm giá rẻ thực sự rất khó vươn ra tầm quốc tế vì vấp phải vấn đề thương hiệu và chất lượng, do đó nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã tiến hành hợp tác với các đối tác lớn có tên tuổi ở nước ngoài để dựa vào thương hiệu của họ để dễ tiếp cận khách hàng hơn. Trong những năm gần đây, tình trạng các doanh nghiệp sản xuất của Trung Quốc mua lại hay xin được nhương quyền thương hiệu trở nên rất phổ biến và bằng cách này hàng giá rẻ của Trung Quốc dưới nhiều tên gọi và thương hiệu khác nhau đã dễ dàng được thị trường chấp nhận, nhất là ở thị trường các nước phát triển. KẾT LUẬN Sau hơn 30 năm xây dựng và phát triển, nền sản xuất Trung Quốc đã thực sự trưởng thành và có những bước phát triển cả về lượng và chất. Hiện nay, lợi thế cạnh tranh lớn nhất của hàng hóa Trung Quốc vẫn là yếu tố giá rẻ và tương lai các nhà sản xuất Trung Quốc sẽ vấn duy trì lợi thế đó. Chúng ta không thể phủ nhận được những măt tích cực của hàng giá rẻ như tạo công ăn việc làm chon người lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng áp lực buộc các nhà sản xuất khác phải hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu mua sắm hàng hóa của một bộ phận không nhỏ người dân có thu nhập thấp… Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc đang ngày càng vấp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng: chất lượng hàng hóa không bảo đảm, tình trạng bảo hộ thương mại gia tăng ở các nước đối tác với Trung Quốc, và nghiêm trọng nhất là tình trạng tẩy chay và mất niềm tin ở người tiêu dùng. Đó sẽ là những thách thức rất lớn của Trung Quốc trong tiến trình phát triển sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đối với Việt Nam, chúng ta vẫn đang ở trong gia đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa hiện đai hóa đất nước. Nhu cầu về vốn cho phát triển là rất lớn và chắc chắn rằng, với tình trạng nền ngoại thương như hiện nay, chúng ta khó mà có thể có những khoản tích lũy lớn cho phát triển kinh tế. Trong khi đó, nền sản xuất nước ta vẫn còn đang trong tình trạng nhỏ bé và lạc hậu về công nghệ. Thiết nghĩ, mô hình sản xuất và bán hàng giá rẻ của Trung Quốc cũng là một hướng đi khả thi mà Việt Nam nên cân nhắc trong những bước đi tới. *********************************** DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO GS.TS.Đỗ Đức Bình, PGS.TS.Nguyễn Thường Lạng: Giáo trình Kinh tế Quốc tế. Nhà xuất bản Đại Học Kinh tê Quốc dân 2008 Amita Batra,Zeba Khan.Revealed comparativeness advantage:An analysis for India and China Brad Setser.The problem with relying on the dollar to produce a real appreciation in China .July 27, 2009 Ben-David, D., H.Nordstrom, and L. Alan Winters, Trade, Income Disparity and Poverty WTO Special Study May.2000. Cheng Zhenghua. Towards the Garment Market of 2000, A Collection of Treatises on Clothing and Accessories in China, 1985-1995, Shanghai Fashion & Accessories Society, Shanghai, April, 1995. Dornbusch, R., S. Fisher, and P. Samuelson (1977), “Comparative Advantage, Trade, and Payments in a Ricardian Model with a Continuum of Goods,” American Economic Review Françoise Lemoine,Deniz Ünal-Kesenci.China in the International Segmentation of Production Processes.2002 F. Gerard Adams.Why Is China So Competitive? Measuring and Explaining China’s Competitiveness. 2004 Freese, R. 2001. China’s Construction Market: A New Star in the East. AgExporter Feenstra R.C., G.H. Hanson.Globalization, Outsourcing, and Wage Inequaliy.1996. Michael Porter. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia. Nhà xuất bản trẻ.2006 James Harrigan,Haiyan Deng.China's local comparative advantage. Oct.2008 Judith M. Dean. Why Trade Matters For The Poor.Jan 2003 Hans- Rimbert Hemmer, K. Bubl, R. Kruege, H. Marienburg Toàn cầu hóa với các nước đang phát.Bản dịch.Nhà xuất bản đại học Quốc gia Hà Nội, 2002 Hildegunn Kyvik Nordås. The Global Textile and Clothing Industry post the Agreement on Textiles and Clothing. World Trade Organization.Geneva, Switzerland Heston, Alan and Summers, Robert. (1996). “International Price and Quantity Comparisons: Potentials and Pitfalls”. American Economic Review, Paul Bingham.Principal, Global Trade and Transportation Practice.Long Beach,Califonia June 2006. Philip Kotler.Bàn về tiếp thị.Nhà xuất bản trẻ 2005 Song-Yi Kim,Louis Kuijs.Raw material prices, wages and profitability in China industry.World Bank China Research paper No.8.October 2007 SUNG Yun-Wing.Costs and Benefits of Exports-oriented Foreign Investment: The Case of China. Asian Economic Journal2000 Rajivnayan R Bajaj. Why Chinese goods are so cheap.Sep.2003 Xi Yujun, The Information of Textile Foreign Trade, China Textile News Publishing House, Sep.2000 Ying Fan.The globalisation of Chinese brands.Brunel University, London, UK 2006. Yu Chen.Foreign Direct Investment and Manufacturing Productivity in China.CERDI – Université d’Auvergne. Autralian Industry Report: Car Cost Struture.Dec 2009 China’s Productivity Performance and its Impact on Poverty in the Transition Period. CSLS Research Report 2003-07 CHINA EU BILATERAL TRADE AND TRADE WITH THE WORLD. EU report Sep.2009 Bài giảng chương trình kinh tế Fulbright niên khóa 2006-2008 The Development of the China apparel Industry.China Textile University & Harvard Center of Textile and Apparel Research.November 1999 Consumer Perception Survey “MADE IN CHINA” May.2007 Một số website www.economywatch.com www.chinaeconomicreview.com www.china-window.com MỤC LỤC DANH MỤC ĐỒ THỊ BẢNG BIỂU Hình 1.1.1.1: Tỷ lệ phần trăm hàng hóa xuất khẩu trong GNP của Hoa kỳ và Thế giới 7 Hình1.1.1.2:Tương quan giũa kim ngach xuất nhập khẩu so với GDP Trung Quốc giai đoạn 1978 tới 2006 9 Hình 1.1.1.3: Tỷ trọng tổng kim ngạch thương mại một số quốc gia trong thương mại thế giới 10 II. Nguyên nhân giá rẻ của hàng hóa Trung Quốc 21 Bảng 2.2.1.1: Lương của người lao động trong lĩnh vực sản xuất một số quốc gia năm 2001. 25 Đồ thị 2.2.1.2: Lương và năng suất lao động tại một số quốc gia 26 Bảng 2.2.1.3 Chi phí nhân công/giờ trong ngành dệt may ở một số quốc gia 28 Hình 2.2.1.3: Phân vùng phát triển kinh tế ở Trung Quốc, vành đai phát triển nhất ở miền đông được tô đậm 31 Hình 2.5.1.Tỷ giá CNY so với một số đồng tiền chủ chốt 46 Hình 2.5.2.Kim nghạch xuất khẩu và thặng dư thương mại Trung Quốc với Hoa Kỳ và tỷ giá CNY/USD 49 DANH MỤC ẢNH MINH HỌA Hình 1.Công nhân dệt Trung Quốc đang vận hành máy, cùng một lúc nữ công nhân này phải chịu trách nhiệm cho 86 chiếc máy……………………………………………………………………….28 Hình 2.Xe Chery QQ và GM Deawoo Matiz………………………………………………………...38 Hình 3.Một nhà máy đang vô tư xả khói ô nhiễm ra môi trường mà không hề bị các cơ quan chức năng xử lý…………………………………………………………………………………………….41 Hình 4.Mẹ của một nạn nhân trong vụ sữa nhiễm Melamin đang đấu tranh cho công lý. Con trai bà đã mất vì suy thận sau vì sữa nhiễm Melamin của nhà máy Tam Lộc…………………………………41

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26838.doc
Tài liệu liên quan