Đề tài Kinh tế nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN

Kinh tế nhà nước là thành phần quan trọng chủ đạo trong nền kinh tế. Đó là sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Nó dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất vì vậy việc phát triển nó vừa là mục tiêu trước mắt vừa là bước chuẩn bị để ta đi lên CNXH. Trong giai đoạn hiện nay kinh tế nhà nước đang dần hoàn thiện phát triển, hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh tế nhà nước đã đạt thành tựu đáng kể góp phần vào việc phát triển chung đồng thời cũng khẳng dịnh được vai trò chủ đạo then chốt của mình. Tuy nhiên kinh tế nhà nước cũng bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập, trình độ còn hạn chế, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém nên để nó thực sự trở thành một thành phần chủ đạo thì ta phải có nhiều biện pháp như: đổi mới sắp xếp, tiến hành cổ phần hoá, Đặc biệt là vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đó là một trong những giải pháp tích cực để nâng cao tính năng động, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Nếu ta thực hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì chắc chắn sẽ làm cho các thành phần kinh tế này ngày càng phát triển cả về chất lượng và số lượng. Khẳng định được vai trò chủ đạo của nó, đó là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công để chúng ta xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.

doc36 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng của nĩ trong kinh tế nhiều thành phần của nước ta hiện nay. * Thứ nhất, kinh tế nhà nước mà thành phần chính là các doanh nghiệp nhà nước, phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Là lực lượng kinh tế được nhà nước chú trọng đầu tư, phát triển, do Nhà nước nắm giữ nguồn vốn chi phối do đĩ quy mơ hoạt động của các kinh tế nhà nước và đặc biệt là thành phần doanh nghiệp nhà nước rất rộng lớn, và đang ngày càng được tổ chức sắp xếp lại theo hướng hiện đại nhằm hoạt động cĩ hiệu quả hơn. Bởi nguồn vốn đầu tư lớn, chủ yếu trong các doanh nghiệp nhà nước cĩ 100% vốn của nhà nước hoặc nhà nước giữ cổ phần chi phối) nên các doanh nghiệp nhà nước cĩ điều kiện đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, cơng nghệ hiện đại. Cĩ khả năng tạo ra năng xuất, chất lượng các loại hàng hố, dịch vụ cao, sử dụng tối đa và tận dụng được các nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tiết kiệm được chi phí sản xuất nhưng mang lại hiệu quả sản xuất cao, đĩng gĩp ngân sách lớn. Chỉ cĩ doanh nghiệp nhà nước mới cĩ khả năng đi đầu trong việc việc ứng dụng ác cơng nghệ mũi nhọn, cơng nghệ cao để cĩ thể đưa kinh tế đất nước theo kịp với nền kinh tế thế giới. Kinh tế nhà nước phải tạo được động lực thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác mà cơ bản nhất là thành phần kinh tế tư bản tư nhân và thành phần kinh tế cá thể (mà chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh) cũng đĩng gĩp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Muốn thực hiện được chức năng này thì kinh tế nhà nước phải cần được chú trọng tron các ngành lĩnh vực then chốt của nền kinh tế - bởi chỉ khi các ngành kinh tế này được phát triển thì mới đủ khả năng đưa nền kinh tế phát triển theo. Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ phát triển các lĩnh vực, ngành then chốt sẽ cĩ sự thanh đổi, luân chuyển từ ngành này sang ngành khác, do đĩ việc xác định ngành lĩnh vực then chốt cho từng thời kỳ mà phải tính đến cả xu hướng hội nhập cũng như tiềm năng kinh tế của đất nước là quan trọng. Khi nhà nước đầu tư phát triển đúng hướng thì kinh tế nhà nước sẽ hoạt động cĩ hiệu quả, thu hút dần các thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào – như thế là kinh tế nhà nước đã tạo đà và dẫn dắt được các thành phần kinh tế phát triển, cùng gĩp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Để tạo động lực, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển thì kinh tế nhà nước phải đi đầu trong việc chuyển giao cơng nghệ, áp dụng cơng hiện đại và sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các lĩnh vực mà trước đây ít được đầu tư do ít cĩ khả năng sinh lời, nhưng là lực lượng duy nhất cĩ đủ điều kiện về vốn, lao động nên doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu về cải tiến kỹ thuật cơng nghệ sản xuất để từđĩ mở đờng cho các doanh nghiệp dân doanh mạnh dạn cùng tham gia đầu tư phát triển. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày nay cịn gắn liền với việc bảo vệ mơi trường hạn chế việc gây ơ nhiễm mơi trường, do đĩ đay cũng là mọt tiêu thức của phát triển mà doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu, làm gương để các thành phần kinh té khác đi theo. Việc giảm thiểu ơ nhiễm mơi trườngcĩ liên quan đến vấn đề cơng nghệ và vấn đề lợi nhuận của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dân doanh thường với số vốn ít ỏi thì cơng nghệ cũng lạc hậu, tuy nhiên vì mục đích tối đa hố lợi nhuận mà các doanh nghiệp bỏ qua vấnđề mơi trường. Doanh nghiệp nhà nước cũng phải thể hiện vai trị chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề này đĩ là khi nhạp và cung cấp các thiết bị cơng nghệ cho các doanh nghiệp dân doanh thì doanh nghiệp nhà nước phải chú trọng đến các thiết bị bảo đảm chống ơ nhiễm mơi trường và doanh nghiệp nhà nước phải luơn đi đầu trong việc thực hiện luật bảo vệ mơi trường để các doanh nghiệp khác đi theo. * Thứ hai, bằng nhiều hình thức, kinh tế nhà nước hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN đương nhiên phải xây dựng một lực lượng kinh tế đĩng vai trị chủ đạo, làm tâm điểm ảnh hưởng tới các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ các lực lượng kinh tế khác cùng phát triển theo cùng một định hướng đã chọn và đĩ chính là KTNN. Trên cơ sở xác định, khơng một nền kinh tế nào phát triển mà chỉ dựa trên một thành phần kinh tế mà đĩ phải là sự phát triển đồng bộ của nhiều thành phần kinh tế cĩ thể phát huy được mọi tiềm năng của đất nước. Tuy nhiên như đã phân tích ở các phần trên chúng ta biết rằng quy mơ của các thành phần kinh tế tư nhân của nước ta cịn rất nhỏ hẹp, mặt khác thời gian phát triển cịn ngắn nên các doanh nghiệp dân doanh chưa thể tích luỹ để mở rộng quy mơ lớn hơn đẻ làm nguồn cốt cho việc phát triển kinh tế nước ta. Trong điều kiện đĩ, chỉ các doanh nghiệp nhà nước cĩ đủ điều kiện để trở thành lực lượng nguồn cốt, tạo chõ dạ cững chắc cho để dẫn dắt các doanh nghiệp dân doanh cùng phát triển. Muốn làm được điể đĩ thì kinh tế nhà nước phải xác định được cơ cấu thành phần kinh tế của mình một cách hợp lý. Luơn giữ được vị trí, vai trị xứng đáng, phát huy được lợi thế, khai thác được khả năng đĩng gốp thiết thực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, kinh tế nhà nước phải tích luỹ được vốn để phát triển trong các lĩnh vực then chốt, chi phối nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân, để từ đĩ các thành phân kinh tế khác cĩ được chỗ dựa vững mà cùng phát triển, đi lên. Mặt khác, trong cơ chế thị trường, lợi nhuận luơn là mục tiêu mà các doanh nghiệp theo đuổi, do đĩ các thành phần khác thường tập trung kinh doanh ở những ngành kinh tế hoặc những vùng cĩ khả năng đưa đến lợi nhuận cao một cách nhanh chĩng mà ít rủi ro nhất, do đĩ sẽ tạo ra lỗ hổng là những ngành và vùng kinh tế kém tiềm năng hoặc địi hỏi đầu tư lớn: đĩ là các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển cĩ cơ sở hạ tầng thấp kém. Để khắc phục tình trạng đĩ, đồng hởi mở đường kích thích các thành phần khác cùng tham gia vào hoạt động sản xuất thì kinh tế nhà nước phải cĩ mặt để xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển là điều kiện tiên đề tạo thuận lợi trước mắt thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế. Đĩ cũng là một chức năng thể hiện vai trị chủ đạo, mở đường, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển theo đúng đinh hướng XHCN, bởi nĩ cân bằng được trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế, giảm bớt hố ngăn cách giữa thành thị và nơng thơn. Phát triển theo đúng định hướng XHCN cịn thể hiện ở việc tuân theo pháp luật mà nhà nước XHCN đã đề ra. Thực tế hiện nay cho thấy khơng ít chủ các doanh nghiệp dân doanh chỉ vì lợi nhuận cá nhân mà bất chấp cả pháp luật, hoặc cáo những hoạt động thiếu ý thức pháp luật. Tất yếu đấy là vấn đề mà nhà nước phải cĩ biện pháp giải quyết, và DNNN là một trong những cơng cụ mà nhà nước dùng để hạn chế vấn đề này. Vì vậy, DNNN phải là tấm gương mẫu mực trong việc tuân theo phát luật để các doanh nghiệp khác cùng noi theo. * Thứ ba : KTNN là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mơ. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đĩ là : các đơn vị kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, nhà nước đĩng vai trị điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN. Các đơn vị kinh tế luơn phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản đĩ là sản xuất cái gì, cho ai và như thế nào theo mục tiêu là tối đa hố lợi nhuận. Điều đĩ dẫn đến kết quả là các dơn vị kinh tế luơn chạy theo những loại hàng hố và dịch vụ mang đến nhiều lợi nhuận và sẽ rút khỏi thị trường các loại hàng hố khơng cĩ lãi hoặc lỗ. Tuy nhiên khơng phải mọi doanh nghiệp đều luơn thu nhận được thơng đầy đủ để quyết ịnh tham gia vào sản xuất mặt hàng nào, tất sẽ dẫn tới phát sinh những mâu thuẫn giữa cung cầu ở mọi lúc, mọi nơi đỗi với mọi mặt hàng. Để điều tiết được nền kinh tế đĩ thì nhà nước sử dụng KTNN là một lực lượng vật chất hay một cơng cụ điều tiết hiệu quả, là vì : Thứ nhất: KTNN từ khi được hình thành cho tới nay luơn được chú trọng đầu tư ở hầu khắp các kĩnh vực, ngày kinh té, vả ngành khơng cĩ khả năng sinh lợi nhuận. (Các hàng hố, dịch vụ cơng cộng) do đĩ nĩ làm cân đối giữa các ngành của nền kinh tế. Với tư cách là cơng cụ điều tiết, các DNNN được nhà nước đầu tư phát triển theo phương châm: “Ở đâu, khi nào nền kinh tế quốc dân đang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đĩ mà các thành phần kinh tế khác khơng muốn hoặc khơng cĩ khả năng kinh doanh thì khi đĩ cần cĩ sự cĩ mặt của DNNN”, đến một lúc nào đĩ khi khả năng sinh lời tăng lên thì doanh nghiệp dân doanh nhày vào hoạt động và đủ khả năng cung cấp cho thị trường thì DNNN rút ra và tiếp tục hoạt động ở các lĩnh vực khác. Thứ hai : trong các vùng kinh té luơn cĩ sự phát triển mất cân đối giữa các ngành kinh tế đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển. Nhà nước đã rất chú trọng đầu tư phát triển ở các vùng này từ rất lâu và hiện nay nĩ đã phát huy chức năng điều tiết cho kinh tế của các vùng đĩ tương tự như tạo ra sự cân bằng trong nền kinh tế vĩ mơ của cả nước. Thứ tư : kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo dẫn nền tảng kinh tế cho chế độ xã hội mới, XHCN. Theo luận điểm của Mác-Lenin thì chế độ XHCN phải được xây dựng dựa trên chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất, tức là mọi tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu chung của tập thể, của tồn dân, khơng một cá nhân nào được biến TLSX thành tài sản riêng của mình. Đĩ được coi là chế độ sở hữu tiến bộ nhất trong lịch sử phát triển của xã hội lồi người. Khi xem xét về nguồn gốc hình thành KTNN ta đã biết rằng KTNN được xây dựng dựa trên hình thức sở hữu tồn dân, cịn kinh tế tập thể được xây dựng dựa trên hình thức sở hữu tập thể, trong thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta thì đây là hai hình thức sở hữu được xem là tiến bộ nhất, nĩ đại diện cho QHSX mới XHCN. Vì vậy để xây dựng nền kinh tế XHCN thì KTNN cùng kinh tế tập thể cĩ vai trị là nền tảng cơ bản . II. Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay. 1. Những bước chuyển biến chủ yếu của KTNN trong thời kì đổi mới: Từ giai đoạn đầu thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển từ kinh tế kế hoạch hố tập trung sang kinh tế thị trường cĩ sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN (Giai đoạn 1986 – 1990), một nền kinh tế đa phần được hình thành, nhưng cũng ngay từ đây KTNN đã giữ vững và khẳng định được vai trị chủ đạo của nĩ. Năm 1990 KTNN tạo ra 66% tổng sản phẩm xã hội với số lượng DNNN là 1200 doanh nghiệp. Sang thập niên 90 – là giai đoạn Đảng và Nhà nước ta thực thi nhiều chính sách, biện pháp lớn mạnh nhằm cải tổ và sắp xếp lại cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước để hoạt động hiệu quả hơn. Với các chính sách, cơ chế đổi mới để DNNN tự chủ trong cơ chế thị trường, về kế hoạch, các doanh nghiệp được chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho đĩ là kế hoạch sản xuất, cung ứng vật tư kỹ thuật, đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính, lao động… trên cơ sở tính tốn nhu cầu thị trương về sản phẩm, dịch vụ của Doanh nghiệp mình. Về tài chính Doanh nghiệp được Nhà nước giao vốn, tự chủ sử dụng vốn và sử dụng quỹ khấu hao để đầu tư, đổi mới tài sản… Về tổ chức bộ máy và nhân lực: Doanh Nghiệp cĩ quyền tự chủ động tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao, được đào tạo và sử dụng lao động theo quy định của pháp luật trên cơ sở hợp đồng ký kết với người lao động và thoả ước lao động tập thể, thực hiện trợ cấp cho người lao động khi thơi việc, mất việt… Về quản lý Nhà nước đối với DNNN: từng bước xố bỏ chế độ chủ quan của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp can thiệp quá sâu vào các hoạt dộng của DNNN, chỉ quản lý trên các mặt cĩ tính tổng quan, chiến lược, tạo mơi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và kiểm tra việc chấp hành pháp luật. Về thực hiện chức năng chủ sở hữu, Nhà nước đối với DNNN: cĩ một bước đổi mới lớn dựa trên cơ sở phân cơng, phân cấp giữa chính phủ và các cấp quản lý với đại diện chủ sở hữu ở Doanh nghiệp. Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách đã hình thành được khung pháp lý tương đối rõ ràng và cơ bản để DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị trường, xác lập dân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã được sử dụng hiệu qủ hơn tiền vốn và tài sản, nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và ổn định việc làm cho người lao động. Kết quả hoạt động của các DNNN sau các chính sách đổi mới đĩ được thể hiện qua những con số sau: thời kỳ 1991 – 1995, tốc độ tăng trưởng của các DNNN bình quân theo GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế và bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ngồi quốc doanh. Từ 1990 đến nay do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới cùng những thiên tai liên tiếp xảy ra thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế giảm dần, DNNN cũng nằm trong tình trạng đĩ, tỷ trọng tổng sản phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm 1991 lên 40,07% năm 1996 và 41,23% năm 1998. Tỷ lệ nộp vốn ngân sách trên vốn nhà nước năm 1993 là 6,8% và năm 1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp làm 40,2% GDP trên 50% giá trị xuất nhập khẩu, đĩng gĩp 39,25% ngân sách Nhà nước. Từ 1995 đến nay, hằng năm DNNN đĩng gĩp từ 26 – 28% nguồn thu thuế nội địa. Từ thập niên 90 trở lại đây, Nhà nước đã sắp xếp, tổ chức, củng cố và phát triển các DNNN, các tổng cơng ty Nhà nước: Chính phủ đã liên tục chỉ đạo và thực hiện sắp xếp lớn các DNNN đĩ là đợt 2 (1990 – 1993), đợt 2 (1994 – 1997), đợt 3 (1998 – 1999), qua mỗi đợt sắp xếp đĩ là các DNNN đã cĩ sự đổi mới về quy mơ, về cơ cấu tổ chức quản lý bằng cách sát nhập, giải thể phá sản các doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ kéo dài, chuyển doanh nghiệp nhà nước thành các cơng ty cổ phần hoặc giao, bán, khốn, cho thuê DNNN cĩ quy mơ nhỏ. Kết quả sau 3 đợt sắp xếp đổi mới đĩ là hiệu quả hoạt động của các DNNN tăng lên, mặc dù số DN giảm xuống rất nhiều từ 12000 doanh nghiệp (năm 1990) xuống cịn 5280 doanh nghiệp (năm 2000). Hiện nay cĩ 17 tổng cơng ty 91 và 77 tổng cơng ty 90 đang hoạt động, các tổng cơng ty này được tập trung xây dựng hầu hết trong tất cả các lĩnh vực kinh tế của đất nước. Các tổng cơng ty nhà nước cĩ 1605 DN thành viên, chiếm 28,4% tổng số doanh nghiệp nhà nước, 65% vốn nhà nước và 61% lao động. Năm 2000, các tổng cơng ty đã cung cấp cho nền kinh tế quốc dân 98% sản lượng điện, 97% sản lượng than, 54% sản lượng xi măng, 52% sản lượng thép, các ngân hàng thương mại giữ 70% thị phần vốn vay. Một bộ phận DNNN đã được cổ phần hố mà Nhà nước khơng cần nắm giữ 100% vốn và DNNN đầu tư một phần vốn để thành lập mới cơng ty cổ phần. Tính đến năm 2001, cả nước đã cổ phần hố được 529 DN và 102 bộ phận DN bằng 11% tổng số doanh nghiệp hiện cĩ so với tổng số vốn Nhà nước khi đánh giá lại khi cổ phần hố các doanh nghiệp là 2714 tỷ đồng bằng 1,97% tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN. Sau một thời gian hoạt động, phần vốn nhà nước ở các cơng ty cổ phần đã tăng được giá trị tuyệt đối, theo báo cáo của 202 DN đã cổ phần hố được trên 1 năm, phần vốn Nhà nước khơng những được bảo tồn mà cịn tăng thêm 65.420 tỷ đồng bằng nguồn lợi nhuận để lại; doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng gấp 2 lần, nộp ngân sách tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng cơng nhân viên tăng 5,1% và khơng cĩ doanh nghiệp cổ phần nào lâm vào tình trạng phá sản. Những kết quả đạt được đĩ đã chứng tỏ rằng chính sách cổ phần hố các DNNN là một chính sách đúng đắn và đã phát huy được những tính tích cực của DNNN, tạo cơ hội cho DNNN thực sự hoạt động trong cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng với mọi DN khác. Thực hiện chính sách giao, bán, khốn kinh doanh, cho thuê những DNNN quy mơ nhỏ, thua lỗ kéo dài – Đĩ là những doanh nghiệp nhỏ cĩ vốn dưới 1 tỷ đồng, kinh doanh thua lỗ kéo dài mà khơng cần thiết duy trì sở hữu Nhà nước, cần áp dụng các hình thức xử lý thích hợp như: sát nhập, đấu thầu cơng khai, cho thuê, khốn kinh doanh hoặc bán, giao cho tập thể cán bộ, cơng nhân với điều kiện đảm bảo cơng ăn việc làm cho người lao động và thực hiện luật pháp của nhà nước. Theo nghị quyết hội nghị TW lần thứ tư (Khố VIII) đã nêu trên, đến thực hiện, tình hình sản xuất kinh doanh của các DN này khá lên rõ rệt: so với trước khi chuyển đổi vốn kinh doanh tăng 67,3% , doanh thu tăng 42,5%, nộp ngân sách nhà nước tăng 44,5% lao động tăng 12,8%, thu nhập bình quân đầu người bằng 38,7%, một số cịn tích luỹ thêm và đã mở rộng được sản xuất. Đĩ là thành quả rất đáng mừng đối với sự phát triển của kinh tế nhà nước. Như vậy trong suốt quá trình đổi mới từ 1986 đến nay, nhờ những chính sách đổi mới, sắp xếp tổ chức lại các DNNN của chính phủ mà các DNNN đã cĩ những chuyển biến tích cực: việc tách quyền sở hữu đã tác động tích cực đến quyền tự chủ của các doanh nghiệp và do đĩ hoạt động cĩ hiệu quả hơn trước, trình độ cơng nghệ và quản lý cĩ nhiều tiến bộ, vốn được bảo tồn và tăng thêm, bước đầu đa dạng các nguồn vốn để phát triển, vốn tích luỹ tự bổ sung tăng lên 27,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của DNNN đang từng bước được nâng lên, giúp KTNN thực hiện được vai trị chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, chi phối được các ngành lĩnh vực then chốt, là lực lượng nịng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đĩng gĩp cho ngân sách Nhà nước, bảo đảm cân đối vốn và gĩp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mơ, là lực lượng rất quan trọng trong việc bảo đảm các sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang ở trong thời kỳ cơng nghiệp hĩa,hiện đại hĩa nền kinh tế quốc dân và bước đầu đạt được những thành tựu khiến thế giới phải kinh ngạc.Từ một nước nơng nghiệp lạc hậu chịu thiệt hại nặng nề của chiến tranh nước ta đang từng bước vươn lên với những bước đi đúng đắn.Trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP : 8,44%, chỉ đứng sau Trung Quốc, GDP tính theo giá trị thực tế 1141 tỉ đồng, bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng.Nếu tính bằng USD theo giá hối đối hiện nay thì GDP đạt 71,3 tỉ, GDP bình quân đầu người đạt 835USD.(Theo số liệu của tổng cục thống kê).Bên cạnh đĩ khối lượng đầu tư tốn xã hội thực hiện trong quý I năm 2008 theo giá trị thực tế: 105,1 nghìn tỉ đồng tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2007.Việt Nam cũng đang là một trong những nước đứng đầu thế giới về một số mặt hàng xuất khẩu như :gạo, cà phê,…nhưng chủ yếu là các sản phẩm nơng nghiệp.Bên cạnh đĩ mức thu hút vốn đầu tư của nước ta trong năm 2007 cũng đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua kể từ khi Việt Nam thực hiện mở cửa thu hút vốn trực tiếp nước ngồi: Con số lên tới 20,3 tỉ USD.Xuất khẩu đạt mức tăng 21%, tỷ lệ hộ nghèo giảm dưới 15% và tạo thêm 1,7 triệu việc làm mới cho người lao động.(Nguồn: Thời báo viêt.com)Tin tức kinh tế 23533.tbv) Trong những thành tích đĩ kinh tế nhà nước cho thấy vai trị chủ đạo của mình qua những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới. Trước hết xét về tỉ lệ đĩng gĩp của kinh tế trong nước và kinh tế cĩ vốn đầu tư nước ngồi cũng như kinh tế nhà nước và kinh tế ngồi nhà nước đối với kết quả tăng trưởng GDP thời kỳ 2001 cho thấy: Kinh tế nhà nước đĩng gĩp nhiều nhất(46,3%, tiếp sau đến kinh tế ngồi nhà nước 38,4%, thấp nhất là kinh tế cĩ vốn đầu tư nước ngồi 15.3%, tuy nhiên với tốc độ tăng trưởng bình quân 13,2%/năm trong thời kỳ 2001_2006, khu vực này đang khẳng định vai trị ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân).duwois đây là số liệu về cơ cấu kinh tế trong GDP của Việt Nam giai đoạn 2000-2006.Đơn vị % Tỷ trọng GDP(giá thục tế) Tốc độ tăng trưởng(giá so sánh) Năm KTNN KTNNN FDI KTNN KTNNN FDI 2000 38,52 48,2 13,27 7,72 5,04 14,44 2001 38,4 47,84 13,76 7,44 6,36 7,21 2002 39,08 46,65 14,47 7,11 7,04 7,16 2003 39,10 45,77 15,13 7,65 6,36 10,52 2004 38,40 45,61 15,99 7,75 6,95 11,5 2005 37,32 45,66 17,02 7,37 8,21 13,2 2006 35,8 45,83 17,86 6,36 8,24 13,3 Ta cĩ thể thấy tỷ lệ đĩng gĩp vào GDP của kinh tế nhà nước ngày càng giảm và tơc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế nhà nước ngày càng giảm.Tuy nhiên nguồn vốn của khu vực kinh tế nhà nước khá lớn:187,8 nghìn tỷ đồng chiếm 40,7% (số liệu 2007 )trong khi vốn đàu tư nước ngồi chỉ 74,1 nghìn tỉ đồng chiếm 16%.Như vậy khu vực kinh tế nhà nước tạo nguồn vốn chủ yếu trong ngân sách nhà nước. Theo số liệu của tổng cục thống kê (Thơng cáo báo chí về thành tựu kinh tế-xã hội quý I năm 2008)đã cho thấy tổng thu ngân sách nhà nước tính từ đầu năm đên 15/3/2008) đạt 22,3% trong đĩ kinh tế nhà nước chiếm 22,7% khối lượng đầu tư tồn xã hội quý I/2008 lên tới 105,1 nghìn tỉ đồng tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2007.Trong đĩ vốn của khu vực kinh tế nhà nước :47,8 nghìn tỉ đồng chiếm 45,5 tổng đầu tư và tăng 14,6% trong khi khu vực kinh tế ngồi nhà nước 30,5 nghìn tỉ đồng chỉ chiếm 25,5% tổng vốn và tăng 24,1%so với cùng kỳ năm 2007.Đặc biệt nhiều doanh nghiệp nhà nước đã giữ vững vị trí then chốt của mình đi đàu trong nền kinh tế quốc dân, đĩng gĩp vào mức tăng trưởng kinh tế của đất nước, gĩp phần đưa đất nước thốt khỏi tình trạng nghèo nàn,lạc hậu.Trong nền kinh tế đất nước hiện chính sách xã hội,khắc phục hậu quả thiên tai và đảm bảo nhiều sản phẩm,dịch vụ cơng ịch thiết yếu cho xã hội,quốc phịng,an ninh (nghị quyết trung ương khĩa IX) Đặc biệt là thành tựu trong việc cổ phần hĩa doanh nghiệp nhà nước-hướng đi đúng đắn mà Đảng và nhà nước ta đang hướng tới.Theo báo cáo gần đây của ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước (tháng 5-2006)trong 15 năm qua nước ta đã cổ phần hĩa được 2935 doanh nghiệp nhà nước ,trong đĩ hơn 80% số doanh nghiệp được cổ phần hĩa từ năm 2001 đến nay.Thực tế đã cho thấy sau khi CPH cĩ tới 90% doanh nghiệp hoạt động cĩ hiệu quả hơn, chỉ cĩ 10% số doanh nghiệp náy hoạt động kém hiệu quả.Theo kết quả nghiên cứu cho thấy chưa cĩ doanh nghiệp nhà nước nào sau khi cổ phần hĩa biến thành tư nhân hĩa.Đây là thành tựu đáng mừng trong việc định hướng XHCN của Đảng và Nhà nước ta.Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hĩa, cổ đơng là nhà nước nắm 46,3% cổ phần, là cán bộ iên chức nắm 29,6%, cổ phần và cổ đơng ngồi nhà nước nắm 24,1% cổ phần.Như vậy cơ cấu cổ đơng như trên tạo điều kiện thuận lợi cho mọi nhà đầu tư tham gia vào quá trình xây dựng doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh việc cổ phần hĩa doanh nghiệp nhà nước thì việc chuyển các cơng ty trong nước sang cơng ty trách nhiệm hữu hạn và hoạt dộng theo mơ hình cơng ty mẹ- cơng ty con hình thành các tập đồn kinh tế cũng là một biện pháp thiết thực, phù hợp với tình hình kinh tế đất nước giai đoạn hiện nay.Cơ cấu này bước đầu phát huy hiệu quả , lợi thế so sánh về vốn cơng nghệ, thị trường , khả năng cạnh tranh phù hợp với yêu cầu thích ứng của thị trường, chúng ta đã cĩ 8 tập đồn kinh tế nhà nước: bưu chính viễn thơng(VNPT), than- khống sản(Viracomin), Dầu khí cĩ Petro Việt Nam, điện lực cĩ EVN, CN tàu thủy cĩ Vinashin, dệt may (Vinatex), cao su (VRG) , tài chính- bảo hiểm(Bảo Việt).Rõ rang lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp này cĩ ý nghĩa chiến lược trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước, cĩ sức cạnh tranh cao trên trường. Qua phân tích ở trên đã cho ta thấy những thành tựu to lớn của kinh tế nhà nước hiện nay.Nĩ tác động trực tiếp đến các thành phần kinh tế khác cũng như khả năng điều tiết nền KTTT đúng định hướng XHCN.Thành phần kinh tế nhà nước là một thành phần kinh tế đặc biệt,nĩ khơng chỉ đĩng vai trị trong kinh tế mà cịn quyết định các vấn đề của xã hội.Lĩnh vực cơng nghiệp luơn tạo được hiệu quả cao với tỷ trọng đĩng gĩp vào GDP lớn.Năm 2007 tăng trưởng cao của cơng nghiệp đạt được ở cả 3 khu vực:Riêng khu vực kinh tế nhà nước trong năm 2007 tăng cao nhất so với 2 năm trước đĩ(2005 chỉ tăng 7,2% ;2006 tăng 9,3%).Trong khu vực này các doanh nghiệp trung ương tăng với 13,3% cao hơn tốc độ tăng trưởng của 2 năm trước đĩ(2005 tăng 12,4%; 2006 tăng 11,9%), các doanh nghiệp địa phương tăng 3% cũng cao hơn năm trước (2006 tăng 2%) Tuy nhiên hiệu quả lao động trong khu vực Kinh tế nhà nước cịn thấp, sức cạnh tranh cịn yếu nên tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước thấp nhất trong 3 khu vực.Vì vậy việc đổi mới, sắp xếp cơ cấu doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua đã làm giảm đáng kể số lượng doanh nghiệp nhà nước khơng cĩ hiệu quả gĩp phần nâng cao năng lực nĩi chung của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước , tập trung chủ yếu vào những ngành lĩnh vực quan trọng.tính đến 31/12/2005, cả nước chỉ cịn 3067 cơng ty nhà nước (bằng 58,2%) số lượng cơng ty nhà nước năm 2000 và 944 doanh nghiệp cĩ cổ phần chi phối của nhà nước. 5428 4773 4273 3808 3067 Số DN 7000 6000 5000 5266 4000 3000 2000 1000 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nguồn: Tổng cục thống kê Các doanh nghiệp khơng chỉ giảm về số lượng mà cịn tăng về chất lượng.Kết quả sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu cơ bản như doanh thu, lợi nhuận , nộp ngân sách nhà nước cĩ sự tăng trưởng : số doanh nghiệp kinh doanh cĩ lãi chiếm 79,4%, hịa vốn 5,4% và thua lỗ 15,2%; doanh thu bình quân 11,2% (số liệu năm 2005).Đồng thời khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ được vai trị quan trọng :”Lực lượng quan trọng trong 1.2 Kết quả bước đầu phát huy vai trị chủ đạo của KTNN từ những bước đổi mới: Thứ nhất, hệ thống kinh tế Nhà nước các thể chế thống nhất đang làm địn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá. Thứ hai, trong những năm lại đây, hồ chung vào xu thế tồn cầu hố nền kinh tế thế giới, kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngồi rất được phát triển mà chủ yếu là với thành phần KTNN. Điều đĩ khẳng định là thành phần kinh tế đi đầu trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo xu hướng chung của nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới. Thứ ba, KTNN phát triển ổn định là một nhân tố cơ bản, quan trọng giúp Nhà nước giải quyết được một số vấn đề kinh tế vĩ mơ và vấn đề xã hội như giảm thất nghiệp, bảo hiểm cho người lao động, trợ cấp mất việc hay thơi việc, gĩp phần xĩa đĩi giảm nghèo, cân bằng kinh tế, phát triển văn hố, giáo dục… Thứ tư, KTNN đang tạo ra lực lượng vật chất tối thiểu cần thiết để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mơ, ổn định xã hội, hạn chế khuyết tật của kinh tế thị trường. Thứ năm, KTNN phát triển, vừa tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, vừa là tấm gương để các thành phần kinh tế khác đi theo trong việc quản lý, tuân thủ pháp luật, bảo vệ mơi trường… Nhờ đĩ tạo nên sự phát triển đồng bộ, ổn định cho nền kinh tế quốc dân. Thứ sáu, KTNN đã gĩp phần tạo nên con người mới XHCN với những phẩm chất, trình độ cần cĩ để xây dựng chế độ xã hội mới. Điều đĩ được thể hiện qua đội ngũ cán bộ lao động trong các DNNN đang ngày càng cĩ trình độ cao, phẩm chất tốt, năng lực quản lý tiến bộ… từ đĩ tạo điều kiện phát huy vai trị giai cấp cơng nhân trong xây dựng xã hội mới – XHCN. 1.3 Nguyên nhân những thành quả đạt được: Thứ nhất, xuất phát điểm đầu tiên cho sự đổi mới nền kinh tế nước ta đĩ là nhờ chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương xây dựng một nền Kinh tế mở của Đảng đã rất phù hợp với thực tế tình hình đất nước ta do đĩ đã mở ra một thời kỳ kinh tế mới năng động, sáng tạo, nhanh chĩng đưa đến hiệu quả phát triển của nền kinh tế, - xã hội đất nước, xuyên suốt thời kỳ đổi mới (1986 đến nay), giã các văn kiện đại hội lần thứ VI đến đại hội lần thứ IX luơn đặt KTNN lên nắm vai trị chủ đạo: “Làm địn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mơ, tạo nền tảng cho chế độ XHCN” (Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII) Thư hai, nhà nước XHCN VN đang từng bước hồn thiện dần hệ thống các cơng cụ quản lý vĩ mơ, của mình đối với thành phần KTNN đặc biệt là đối với các DNNN.Bằng các văn bản pháp quy các chính sách kinh tế mà nhà nước đã thể chế hố các quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trị chủ đạo của KTNN, DNNN; một loạt các văn bản được thực thi như quyết định về hạch tốn kinh doanh trong DNNN, quy chế quản lý tài chính đối với DNNN. Luật DNNN, luật thương mại, chỉ thị về đẩy mạnh và sắp xếp, đổi mới các DNNN, nghị quyết về giao, bán, khốn, đĩ là những cơng cụ điều tiết, quản lý kinh tế của nhà nước, thể hiện sự chỉ đạo hết sức kiên trì của chính phủ các cấp, các ngành. Thứ ba, sự cố gắng phấn đấu của các DNNN, của đội ngũ cán bộ, quản lý và người lao động trong cơ chế mới mà Đảng đề ra địi hỏi các DNNN cũng như các cán bộ quản lý người lao động, phải cĩ một sự thay đoỏi nhất định, đáp ứng được những địi hỏi của cơ chế kinh tế mới. Càng ngày ta nhận thấy tính năng động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của nhiều cán bộ, cơng nhân viên ở các DNNN được nâng cao. Các DNNN đã cĩ những việt làm nhằm đưa hoạt động của sản xuất của mình hiệu quả hơn như đổi mới cơng nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ…. Thứ bốn: Hợp tác đa phương, đa hình thức, hướng về xuất khẩu, của các DNNN được phát triển cả về quy mơ và hiệu quả, nhờ đĩ mà tranh thủ sự đầu tư, giúp đỡ của quốc tế, của các DN nước ngồi, khơng chỉ cho thành phần KTNN mà cịn cho các thành phần kinh tế khác về thị trường, về đổi mới cơng nghệ, về phương pháp sản xuất, kinh doanh…. nhờ đĩ mà KTNN thực hiện được vai trị mở đường, đãn dắt các thành phần kinh tế, phát triển theo đúng định hướng XHCN của Đảng. 2. Những tồn tại yếu kém trong quá trình đổi mới và thực hiện vai trị chủ đạo của KTNN: 2.1. Những hạn chế yếu kém của KTNN trong thời kỳ đổi mới: Bên cạnh những thành quả đã đạt được của KTNN (DNNN) mà ta đã ghi nhận ở trên (trang 21) thì KTNN cịn những hạn chế, yếu kém, mà đã được hội nghị TW Đảng khố IX đánh giá: “Những mặt hạn chế, yếu kém, cĩ mặt rất nghiêm trọng của DNNN và DNNN đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.” Như chúng ta đã biết trong nền KTTT các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bắt buộc phải năng động, phải tạo ra tính cạnh tranh cao.Muốn sản phảm của mình cĩ mặt trên thị trường , tiêu thụ tốt các doanh nghiệp luơn luơn cĩ biện pháp nâng cao chất lượng,tiết giảm chi phí để giảm giá thành, nâng cao tính năng động rtong các doanh nghiệp.Đây chính là các mà các doanh nghiệp nhà nước đang thiếu.Chính sự độc quyền và luơn cĩ bàn tay của nhà nước can thiệp tạo nên sự ỷ lại trong các doanh nghiệp nhà nước, từ các cán bộ quản lý lẫn người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước.Thực tế vẫn cịn tồn tại những doanh nghiệp nhà nước khơng những khơng nơi nổi người lao động của mình mà cịn luơn địi hỏi nhà nước cứu trợ cho sự tồn tại của nĩ.Chính điều này đã làm cho dư luận xã hội trở nên gay gắt đối với bộ phận kinh tế nhà nước.Xét từ gĩc độ lợi ích của xã hội mà nhà nước là người đại diện cho những doanh nghiệp trên thực sự là gánh nặng,cần giải quyết càng sớm càng tốt. Thực tế vốn của doanh nghiệp nha nước là rất ít.Bình quân mỗi doanh nghiệp chỉ cĩ 45 tỷ đồng.Trong đĩ vốn lưu động chưa đến 10 tỷ đồng mà phần lớn lại tạp trung vào các cơng ty lớn như : xăng dầu, viễn thơng điện lực…vì vậy cĩ tới 47% doanh nghiệp nhà nước cĩ vốn chưa đầy 5 tỉ đồng.Xem xét kỹ khơng ít doanh nghiệp chỉ cĩ vốn trên sổ sách,hoặc trong tài sản chưa dùng đến vốn thực tế cho sản xuất chỉ cĩ hơn 50%.Theo số liệu năm 2007 mặc dù cĩ trên 82,4% doanh nghiệp làm ăn cĩ lãi nhưng mức lãi chỉ bằng hoặc cao hơn lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại chỉ khoảng 40%.Tuy tổng số nộp ngân sách nhà nước của khu vực doanh nghiệp nhiều nhưng chủ yếu là thuế giãn thu. Bên cạnh đĩ sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước so với doanh nghiệp nước ngồi cịn ở mức độ yếu, chi phí sản xuất , giá thành cao, nhất là chi phí về quản lý, trả lương cho người lao động.theo kết quả cuộc điều tra lao động, tiền lương, thu nhập và nang suất lao động trong các loại hình doanh nghiệp do bộ lao động – thương binh xã hội cho biết: tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động và lợi nhuận trong các doanh nghiệp nhà nước tăng hơn rất nhiều so với khu vực kinh tế cĩ vốn đầu tư nước ngồi. Tỷ suất lợi nhuận DN cĩ vốn đầu tư nước ngồi:9%-->13% trong khi DNNN:2,4à3,1% Lợi nhuận tăng Năng suất lao động Tiền lương FDI 41,2% 13,8% 12,6% Ngồi NN 54,3% 10,3% 3% DNNN 16,4% 7,6% 8,2% Một số doanh mục đầu tư của nhà nước coi kém hiệu quả chỉ đầu tư trước mắt mà chưa cĩ định hướng lâu dài gây nên nhiều bất cập.Cụ thể doanh nghiệp nhà nước đã bỏ hoang hơn 2 triệu m2 đất ở thành phố Hồ Chí Minh, chỉ riêng chi tiêu cho việc cho thuê đất đã làm thâm hụt ngân sách nhà nước hàng chục tỷ đồng.Việc đầu tư ồ ạt những dây chuyền khơng hiệu quả, bổ nhiệm nhiều chức vụ chỉ nhằm mục đích giảm căng thảng nội bộ dẫn đến tình trạng thiếu tiền trả lương cho cơng nhân, nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng lớn mà khả năng thanh tốn lại han chế.Tất cả đều ảnh hưởng đến tình hình tài chình của doanh nghiệp nhà nước nĩi chung cũng như ngân hàng thương mại nhà nước. Về nguồn nhân lực trong khu vực kinh tế nhà nước lại là vấn đề đã tốn nhiều giấy mực của các phương tiện thơng tin.Đĩ là tỉ lệ lao động trong các doanh nghiệp nhà nước cĩ tay nghề cao nhưng chất lượng lao động thấp.Thời gian qua số lao dộng mà các doanh nghiệp tuyển dụng giảm đáng kể và ngược lại ở các doanh nghiệp cĩ vốn đầu tư nước ngồi (2% so với 5,6%).Điều này cho thấy các doanh nghiệp ở tình trạng đơng cứng làm cản trở sự phát triển của doanh nghiệp.Trong khi tỷ lệ lao động gián tiếp ở doanh nghiệp nhà nước là 21% so với FDI:7,8%.Mặt khác các cán bộ và giám đốc của doanh nghiệp nhà nước cĩ trình độ và chuyên mơn chưa cao, họ chưa thực sự năng động sáng tạo trên con đường hội nhập.Hơn thế nạn tham nhũng và sự suy thối về tư tưởng chính trị,đạo đức lối sống của nhiều cán bộ đảng viên đang gây bức xúc cho dư luận xã hội.Tham nhũng làm cho tài sản nhà nước bị thất thốt, kinh tế nhà nước giảm sút, tạo mơi trường cạnh tranh khơng lành mạnh.Nĩ đang ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực (đầu tư cơ bản,quản lý quỹ đất,thuế…)Mức độ tham nhũng cũng cao hơn lên tới hàng trăm tỉ đồng.Thời gian gần đây đã cĩ rất nhiều cán bộ cấp cao bị đưa ra xét xử vì tệ nạn này.Thực sự tham nhũng đang trở thành quốc nạn như một căn bệnh nan y. Với thực trạng nêu trên việc sắp xếp , đổi mới doanh nghiệp nhà nước đang thực sự là vấn đề cấp bách tuy nhiên việc thực hiện lại khơng hề đơn giản và hiệu quả chưa cao.Trong năm 2007, số doanh nghiệp được cổ phần hĩa là 116 đạt 21% so với kế hoạch cả năm được chính phủ phê duyệt.Đây là kết quả quá thấp,tốc độ cổ phần hĩa cịn chậm.Vẫn cịn tình trạng mua bán cổ phần chưa cơng khai trên thị trường thiếu minh bạch mang tính nội bộ, cổ phần hĩa khép kín gây thất thốt trong hoạt động kinh doanh và rơi vào tay một số tư nhân.Tỷ lệ cổ đơng la nhà nước nắm giữ lượng cổ phần cao chưa khuyến khích được các nguồn đầu tư từ phía ngồi doanh nghiệp. Tất cả những hạn chế trên của khu vực kinh tế nhà nước đều cĩ nguyên nhân khách quan và chủ quan của nĩ.Nhưng hậu quả mà nĩ để lại là lạm phát tăng.Vào những tháng cuối năm 2007 tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam là n12,63% và đến thàng 2/2008 là 15,7%.Nguy cơ chảy máu chất xám ngày càng cao khi các doanh nghiệp nhà nước khơng thu hút được tài năng , đặc biệt là các bạn sinh viên sau khi ra trường.Chình mơi trường làm việc, tư tưởng trì trệ của các doanh nghiệp tạo nên sự mất cân đối với sự năng động của các bạn trẻ cũng như tính năng động sáng tạo của cơ chế thị trường. 2.2. Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trên: Nghị quyết TW III đã khẳng định: “Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước cĩ nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu do những nguyên nhân chủ quan.” *Thứ nhất: Chưa cĩ sự thống nhất cao, trong nhận thức về vai trị, vị trí của kinh tế nhà nước và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp đổi mới, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Rất nhiều ý kiến hồi nghi, thiếu tin tưởng vào sự vào sự cần thiết cũng như vai trị chủ đạo của KTNN và DNNN, dẫn đến sự bất dồng trong quan điểm, nhận thức và vai trị của KTNN trong nền kinh tế. Theo họ, DNNN khơng thể hoạt động cĩ hiệu quả, khơng cĩ khả năng cạnh tranh bằng DN tư nhân và do vậy khơng nhất thiết phải duy trì, vì những lý do: Theo họ, vấn đề quan trọng khơng phải là DNNN hay DN tư nhân, và là sản xuất cĩ hiệu quả hay khơng, vì quy cho đến cùng thì sẽ hữu thi là phương tiện, tăng trưởng kinh tế mới là mục tiêu. Hai là: Chỉ chủ tư nhân – là chủ sở hữu tài sản một cách chính đáng mới quan tâm chăm lo cho DN của mình, quản lý chi phí hợp lý, tiết kiệm đồng thời cĩ khả năng nhanh nhạy, linh hoạt trong cơ chế thị trường. Ba là: DNNN cĩ chủ sở hữu là nhà nước nên cĩ một bộ phận khơng nhỏ cán bộ quản lý lấy tài sản tài sản ra sử dụng lãng phí, mặt khác, DNNN bị chi phối bởi nhiều cơ quan quản lý nên hạn chế nhiều khả năng kinh doanh dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém. Trong việc hoạch định các chính sách, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả DNNN cũng gặp những trở ngại, bởi sự bất đồng về các giải pháp, về yêu cầu và vị trí của KTNN hay DNNN trong nên kinh tế, điều đĩ dẫn đến chia ra những chính sách thiếu tính khả thi. * Thứ 2: Chất lượng đội ngũ quản lý cĩ nhiều sai sĩt hạn chế về phẩm chất cũng như khả năng quản lý. Cơng tác tổ chức quản lý và khuyến khích sản xuất chưa hợp lý. -Một bộ phận khơng nhỏ cán bộ cơng nhân nhân viên bị thối hố, biến chất đã vi phạm chính sách, pháp luật gây thất thốt tài sản, tiền vốn và làm tổn hại cho nhà nước và tập thể rất nhiều. -Một bộ phận khơng nhỏ các cán bộ quản lý từ khối kinh tế cũ bảo thủ ỷ lại, thiếu năng động nhưng vẫn giữ các chức vụ quản lý, lãnh đạo quan trọng trong DN. Số cán bộ quản lý thiếu trách nhiệm, thiếu kiến thức về kinh doanh, quản lý chưa được đào tạo, bồi dưỡng lại dẫn đến những sai sĩt gây hậu quả khơng nhỏ cho nền kinh tế như: thua thiệt trong liên doanh với những chủ đầu tư nước ngồi, kinh doanh kém hiệu quả, lãng phí tài sản nhà nước. -Số lượng cơng nhân viên chức trong các DNNN tuy lớn nhưng trình độ học vấn văn hố, kỹ thuật cịn thấp, cơng nhân thiếu tay nghề do đĩ khơng đáp ứng được yêu cầu chất lượng sản phẩm, trong khi giá thành cao, sức cạnh tranh yếu và phục vụ nhu cầu cơng cộng khơng tốt. -Các DNNN cịn chậm đổi mới cơng nghệ, cịn nhiều bất cập trong việc tổ chức sản xuất, bố trí xây dựng dây chuyền sắp xếp cán bộ, cơng nhân viên chưa đúng chức năng, Trong khi đĩ bộ máy quản lý DN cịn nặng nề, cồng kềnh số lượng lao động cịn dư thừa chưa được giải quyết nên năng suất thấp. -Việc quản lý, sử dụng tài sản và tiền vốn hiện cĩ trong các DN cịn thiếu chặt chẽ, chính xác, hiệu quả sử dụng vốn thấp dẫn đến tình trạng thiếu vốn tăng lên. Tình trạng tiền lương, khen thưởng phân phối cho người lao động chưa cơng bằng, chưa đúng với năng lực làm việc của mỗi người, do đĩ chưa khuyến khích phát triển tài năng và nâng cao năng suất lao động. -Cơng tác kiểm tra, kiểm sốt của cơ quan quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của các DN và thủ trưởng của các đơn vị sản xuất cịn bị buơng lỏng. * Thứ ba: Quản lý của nhà nước đối với KTNN vịn nhiều thiết sĩt. -Một là: Chưa cĩ chiến lược quy hoạch dài hạn đầy đủ về phát triển các ngành kinh tế, kinh doanh, đặc biệt là quy hoạch phát triển DNNN trên các vùng kinh tế, khu kinh tế trọng điểm trong các ngành kinh tế, dịch vụ then chốt mũi nhọn. Do vậy mà hệ thống DNNN chưa cĩ cơ cấu hợp lý, chưa cĩ chiến lược kinh doanh và phát triển DN một cách đầy đủ và đúng. Đĩ là nguyên nhân dẫn đến việc tổ chức sản xuất, kinh doanh chưa cĩ hiệu quả. Hoặc do cơ quan quản lý khơng đầu tư đúng hướng dẫn đến sản phẩm làm ra khơng tiêu thụ được đưa DN đến làm ăn thua lỗ, phá sản. -Hai là: Chính sách đổi mới cơng nghệ, phương pháp, phương tiện trong sản xuất – kinh doanh và quản lý chậm được thực hiện. Trong những năm đổi mới, cơng nghệ thiết bị, phương tien trong sản xuất kinh doanh và quản lý tuy cĩ hiện đại hơn trước nhưng lại nhập từ các nước khác nhau dẫn đến thiếu đồng bộ, khi muốn thay thế địi hỏi chi phí rất lơn do đĩ mà cơng nghệ rất chậm được cải tiến. Mặt khác, do thiếu trình độ mà một số DNNN khi đã cĩ kinh phí để đổi mới cơng nghệ thì lại mua về “rác thải cơng nghiệp” là những máy mĩc lạc hậu của các nước tiên tiến về mình, làm cho cơng nghệ nước ta vốn đã lạc hậy thì nay vẫn cứ lạc hậu. -Ba là: một số chính sách vốn để phát triển doanh nghiệp và kinh doanh chưa hợp lý và đồng bộ khi chuyển sang cơ chế mới, DN cần phải lo cho cả ba loại vốn: vốn cho đầu vào, vốn cho sản xuất, vốn cho tiêu thụ, khác với trước đây nhà nước chỉ lo vốn mỗi khâu đầu vào, do đĩ nhà nước khơng cung cấp đủ vốn cho DN sản xuất – kinh doanh, dẫn đến hoạt động sản xuất bị trì trệ. -Bốn là: Hệ thống pháp luật cơ chế ban hành và thực hiện chưa cơ bản. Luật pháp nước ta cịn rất nhiều bất cập , thương mang tính tình thế, thay đổi liên tục.Diều đĩ gây trở ngại cho các nhà hoạt động kinh tế trong việc hoạch định kế hoạch sản xuất lâu dài cho DN. Hiệu quả thực thi pháp luật cịn rất chậm, chưa nghiêm túc. Một điều bất ổn đĩ là các chính sách cịn chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các cấp làm cho các DN khĩ nắm bắt để thực hiện. Mơi trường pháp luật như vậy cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hợp tác với các nước trên thế giới. -Năm là: Quy định về trách nhiệm hoạt dơng cụ thể của từng đại diện chủ sở hữu chưa được thực hiện đầy đủ. * Thứ 4: Do nguyên nhân lịch sử Nhiều DNNN phải gánh chịu hậu quả do quá trình lịch sử hình thành và phát triển: cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, giá trị sử dụng của số tài sản, thiết bị thấp, nhưng tính giá trị để bảo tồn vốn và khấu hao vốn. Cơ chế bao cấp để lại một đội ngũ lao động quá lớn trình dộ thấp, sức khoẻ yếu, khơng đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hiện nay. Mặc dù chủ sở hữu DNNN là nhà nước song phải thơng qua nhiều đại diện chủ sở hữu gián tiếp - trách nhiệm bị phân tán một cách khơng đồng bộ dẫn đến rất phức tạp khi cần quyết định một vấn đề kinh tế cần thiết. DNNN cịn vai trị rất lớn là thực hiện những nhiệm vụ xã hội cơng cộng làm cơ sở xây dựng nền tảng cho chế độ xã hội mới. Vì lẽ đĩ mà ngồi hoạt động kinhdoanh, DNNN cịn hoạt động trong các lĩnh vực cơng ích, điều đĩ cĩ tác động đến tốc độ tăng trưởng của KTNN sẽ chậm hơn so với các thành phần kinh tế khác chỉ hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Những tồn tại yếu kém: + Xét chung tất cả các thành phần của KTNN thì bộ phận nào cũng cĩ hạn chế: -Quản lý cịn chưa chặt chẽ và thiếu rõ ràng về tài chính, ngân sách. -Làm ăn cịn kém hiệu quả do tính chất là KTNN được nhà nước bao cấp một số mặt, do đĩ cịn thiếu năng động trong cạnh tranh trên thị trường, rất ít DN làm ăn cĩ hiệu quả và thực sự đứng vững độc lập để cạnh tranh với các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nếu khơng cĩ sự bảo trợ của nhà nước. III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân. 1. Một số giải pháp: Một là: Thực hiện chính sách đầu tư thích đáng cho các bộ phận KTNN nhằm vừa đảm boả hoạt động của chúng vừa tạo tính tự lực, năng động của chúng trong kinh tế thị trường. Hiện nay, do những trợ cấp về tài chính của nhà nước đối vớicác DN vịn thiếu tính thực tế, cĩ khi DN làm ăn đã cĩ lãi vẫn được trợ cấp mà trong khi DN cần vốn hơn thì lại được trợ cấp quá ít. Điều đĩ địi hỏi việc quản lý của chính phủ về tài chính, về thực trạng hoạt động của các DN sẽ rõ hơn để cĩ chính sách đầu tư thích đáng, vừa tạo động lực vừa khuyến khích các DN hoạt động cĩ hiệu quả hơn. Hai là: Đổi mới, sắp xếp lại cơ cấu lại những bộ phận cịn nhiều yếu kém, nhất là các DNNN. Cần tổ chức lại một cách cĩ quy mơ, hoạt động cĩ hiệu quả và thực hiện được vai trị chủ đạo, chính yếu trong nền kinh tế, quốc dân. Muốn thực hiện được giải pháp này địi hỏi các nhà hoạch định phải cĩ chính sách đúng đắng, cĩ khả năng thực thi và phù hợp với tình hình thực tế của các doanh nghiệp. Muốn nắm được tình hình hoạt động quy mơ của các doanh nghiệp, địi hỏi nhà nước phải cĩ một hệ thống chi tiêu, hoặc theo tiêu chuẩn trong nước hoặc theo tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế, để từ đĩ phân các DN vào những mức độ cụ thể, từ đĩ cĩ giải pháp đổi mới, sắp xếp phù hợp hơn. Ba là: đẩy mạnh cơng tác cổ phần hố các DNNN. Qua thực tế tiến hành cổ phần hố một số lượng các DNNN từ trước đến nay, ta thấy rằng đĩ là một giải pháp mang nhiều ưu điểm và cĩ khả năng cao nhất trong việc đây nhanh hiệu quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của các DN: hầu hết các DN sau khi cổ phần hố thì doanh thu, thu nhập của người lao động, vốn, nộp thế đều tăng hơn so với trước. Mặt khác, thực chất của cổ phần hố là nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn dầu tư xã hộ, do đĩ mà khả năng mở rộng sản xuất, kinh doanh được nâng lên. Muốn thực hiện được cổ phần hố thì cần phải thựchiện một số giải pháp sau: Thứ nhất: Thực tiễn đã chứng tỏ rằng cổ phần hố là giải pháp tích cực, song trên thực tế, sau khi chính sách này được thực hiện một thời gian thì bị chững lại. Nguyên nhân vì sao? Địi hỏi cần phải làm rõ để khắc phục. Ta cần phải hiểu rõ cổ phần hố là như thế nào. Ở nước ta, đĩ là quá trình đa dạng hố sở hữu cĩ bản chất khác hẳn các nước, là hình thức xã hội hố một bộ phận DNNN để nhiều người cùng sở hữu DN theo tỷ lệ cổ phần nhằm huy động vốn, nâng coa hiệu quả quản lý và phát huy tính năng động, sáng tạo của người lao động. Tiếc rằng, hiện nay một số quan điểm cho rằng cổ phần hố là hình thức tư nhân hố và làm mất vai trị của KTNN. Do đĩ ta cần phải làm rõ vấn đề cổ phần hố để mọi người cùng cĩ nhận thức thống nhất thì cĩ như vậy chính sách này mới được thực thi một cách đồng bộ và cĩ hiệu quả cao. Thứ hai: Việc cổ phần hố hiện nay gặp trở ngại lớn trong việc xác định giá trị DN do chưa rõ ràng về giá trị tài khoản của DN và của nhà nước. Để giải quyết vấn đề này thì trước hết phải cĩ sự thống nhất giữa nhà nước và DN trong việc xác định giá trị, trước mắt khơng đưa giá trị quyền sở hữu sử dụng đất vào việc giá trị DN, mà thực hiện thí điểm rút kinh nghiệm, đồng thời chấp nhận phương án hiệu chỉnh để cĩ giá trị cho thuê đất hợp lý trên cùng một địa bàn đối với các thành phần kinh tế. Để việc đánh giá tài sản của DN được khách quan, chuẩn xác hơn hệ thống cơ quan định giá cũng cần cĩ sự thay đổi, hình thành những cơng ty trung gian để dựa trên các quan hệ cung – cầu của thị trường theo nguyênn tắc “thuận mua - vừa bán”. Thứ ba, để làm rõ và nâng cao tính trách nhiệm trong quá trình cải cách DNNN, cần khẩn trương cĩ sự phân cấp các đại diện chủ sở hữu. Trong quá trình thực hiện phân cấp các nguyên nhân chậm trễ, chần chừ tiến hành cổ phần hố sẽ được làm rõ và xác định được trách nhiệm cho từng cá nhân, từng đơn vị. Thứ tư: Nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao đọng trong quá trình cải cáchDN hay cổ phần hố DNNN nên cĩ biện pháp hữu hiệu boả vệ cổ phần của người lao động lâu dài, để họ thực sự là người chủ đích thực DN họ đang cống hiến lao động. * Bốn là phải sửa đổi, bổ sung, hồn thiện cơ chế chính xác của nhà nước nhằm tạo hành lang pháp lý cho các DN được hoạt dộng hiệu quả hơn: +Phân biệt quyền với sở hữu và quyền kinh doanh của nhà nước nhằm tạo ra mơi trường và quyền tự chủ đề DNNN cạnh tranh trên thị trường một cách bình đẳng, tự chịu trách nhiệm sản xuất của minh. +Cĩ cơ chế kiểm tra, kiểm sốt, thanh tra của nhà nước đối với DNNN nhất là về vấn đề tài chính, ngân sách, trình độ quản lý của cán bộ. +Nhà nước phải ổn định các chính sách kinh tế vĩ mơ, đề ra những chiến lược kinh tế lâu dài, ổn định để tạo lịng tin cho các DNNN hoạt động cĩ hiệu quả hơn. +Khơng phân biệt quá sâu sắc giữa DNNN và DNTN tạo ra khoảng cách giữa các DN, mà phải tạo mơi trường pháp lý bình đẳng để các DN cạnh tranh một cách cĩ hiệu quả nhất. 2. Một số kiến nghị: -Để dánh giá hiệu quả hoạt động của các DNNN, cần cĩ hệ thống chỉ tiêu đánh giá từ đĩ cĩ chính sách khen thưởng hợp lý kích thích, tạo động lực để các DN hoạt động tốt hơn Tăng cường việc phân tích tài chính trong các DNNN bởi một vấn đề nổi bật hiện nay là tài chính khơng rõ ràng - mọi khoản trợ cấp, chi phí đều phải được báo cáo, quyết tốn rõ ràng. Cần phải cĩ ban thanh tra, kiểm tra tài chính của các DN – địi hỏi đĩ phải là những cán bộ cĩ phẩm chất đạo đức tốt. Trong quá trình đổi mới DNNN, trong nâng cao quy trình cơng nghệ hiện đại nhưng vẫn phải đảm bảo tạo cơng ăn việc làm cho số lao động bị dơi dư. Kết luận: Kinh tế nhà nước là thành phần quan trọng chủ đạo trong nền kinh tế. Đĩ là sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mơ. Nĩ dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất vì vậy việc phát triển nĩ vừa là mục tiêu trước mắt vừa là bước chuẩn bị để ta đi lên CNXH. Trong giai đoạn hiện nay kinh tế nhà nước đang dần hồn thiện phát triển, hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh tế nhà nước đã đạt thành tựu đáng kể gĩp phần vào việc phát triển chung đồng thời cũng khẳng dịnh được vai trị chủ đạo then chốt của mình. Tuy nhiên kinh tế nhà nước cũng bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập, trình độ cịn hạn chế, cơng nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém nên để nĩ thực sự trở thành một thành phần chủ đạo thì ta phải cĩ nhiều biện pháp như: đổi mới sắp xếp, tiến hành cổ phần hố, Đặc biệt là vấn đề cổ phần hố các doanh nghiệp nhà nước. Đĩ là một trong những giải pháp tích cực để nâng cao tính năng động, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Nếu ta thực hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì chắc chắn sẽ làm cho các thành phần kinh tế này ngày càng phát triển cả về chất lượng và số lượng. Khẳng định được vai trị chủ đạo của nĩ, đĩ là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành cơng để chúng ta xây dựng mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đề tài của em kêt thúc tại đây.Do lần đầu thực hiện nên tiểu luận của em cịn cĩ nhiều thiếu sĩt.Vì vậy em mong nhận được sự đĩng gĩp ý kiến của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo “Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ CNH-HĐH” – T.S. Phan Đăng Tuất (chủ biên).` Tạp chí CS từ 1997 đến nay. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. Tạp chí nghiên cứu lý luận. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin. V.I.Lenin tồn tập - tập 39, tập 43 Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII, VIII, IX Một số tạp chí kinh tế, tài chính, lý luận khác… Mục lục I - Một số vấn đề lý luận về KTNN II- Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường. III- Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc27022.doc
Tài liệu liên quan