LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn nỗ lực tìm kiếm các giải pháp nhằm đưa nền kinh tế nước nhà phát triển một
cách toàn diện và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Những giải pháp
đưa ra và được thực hiện trên thực tế đã thu được những kết quả khả quan, trong
đó có những biện pháp quy định về lãi suất (interest rate). Việc điều chỉnh lãi suất
hợp lí sẽ giúp phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, hiện nay những quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản và đặc biệt là
lãi suất có những bất cập nhất định. Những bất cập đó thể hiện ở chỗ những quy định
pháp luật này còn thiếu cụ thể, lỗi thời không phù hợp với thực tế. Sự quy định của pháp
luật đã bộc lộ những khiếm khuyết khi những quy định này được áp dụng trong cuộc
sống. Và khi có rất nhiều tranh chấp xảy ra cộng với tình hình phức tạp của nền kinh tế
hiện nay thì một đòi hỏi nhất thiết là phải sửa đổi luật để đảm bảo lợi ích cho các chủ thể
và xây dựng một hàng rào pháp luật vững chắc.
Với tình hình diễn biến kinh tế ngày càng phức tạp đòi hỏi các nhà chuyên môn phải có
những biện pháp để cải thiện tình hình, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu cuối năm 2008 vừa qua. Nhiều nước chịu ảnh hưởng nặng nề và rất khó khăn
khi khôi phục lại, trong đó có Việt Nam. Việc áp dụng mức lãi suất của từng nước như
nào sẽ giúp điều phối được một phần nền kinh tế của nước đó.
Ngày nay, tỉ lệ lạm phát có nguy cơ tăng cao và biến đổi nhanh chóng khiến các nhà
chuyên môn rất khó khăn để có thể dự đoán được biến đổi của lạm phát như thế nào. Hơn
nữa trong thời gian này lạm phát tăng cao cộng với những khó khăn trong quá trình khôi
phục nền kinh tế sau khủng hoảng càng làm tăng tính quan trọng của lãi suất đối với nền
kinh tế. Vì vậy, việc quy định mức lãi suất hợp lí và thay đổi đúng lúc sẽ giúp giảm tỉ lệ
lạm phát đồng thời giúp khắc phục những khó khăn mà khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu mang lại.
Vay tiền là một hình thức rất phổ biến, trong hợp đồng vay thường có một điều khoản gọi
là lãi suất. Với những tác động tích cực của nó, lãi suất là một yếu tố quan trọng và đôi
khi không thể thiếu trong đời sống. Việc sử dụng lãi suất trong hợp đồng vay tiền cũng
vậy. Lãi suất không chỉ đem lại lợi nhuận và thoả mãn nhu cầu về vật chất của người cho
vay, lãi suất còn đem lại sự đầu tư hay sử dụng có mục đích của người đi vay.
Trên thực tế các tranh chấp về hợp đồng vay tiền ngày càng gia tăng đặc biệt là các tranh
chấp liên quan đến lãi và lãi suất. Tuy nhiên những quy định của pháp luật về vấn đề này
còn rất chung chung và chưa rõ ràng. Điều đó càng làm tăng thêm các tranh chấp và đã bị
một số đối tượng lợi dụng những quy định còn thiếu chặt chẽ của pháp luật để cho vay
nặng lãi, để tổ chức đánh bạc làm biến thái đi mục đích thiết thực của lãi suất. Vì vậy
có rất nhiều điều cần phải nói và bàn bạc thêm về lãi suất nhưng với sự phong phú và đa
dạng của nó nên đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu một số khía cạnh cơ bản, khái quát
nhất.
Có thể nói lãi suất là một vấn đề còn rất mới mẻ và sự biến đổi không ngừng, thất thường
của chính nó đặc biệt trong thời gian gần đây đã thôi thúc rất nhiều nhà khoa học, nhà
chuyên môn và những ai yêu thích tìm hiểu về tiền tệ nghiên cứu với mục đích mong
muốn kìm hãm những rủi ro do lãi suất mang lại. Cụ thể, đặt ra những mục tiêu trước
mắt, giải thích được do đâu lãi suất lại có sự tăng giảm nhanh chóng như vậy, tại sao lãi
suất chịu sự chi phối của nền kinh tế và ngược lại lãi suất có ảnh hưởng gì đối với lạm
phát và giảm phát thì sẽ tìm ra biện pháp khắc phục. Tuy nhiên với kiến thức còn nhiều
hạn chế và sự eo hẹp về tài liệu, thời gian nên đề tài này không thể tránh khỏi những
thiếu sót nhất định. Tôi xin chân thành đón nhận ở thầy cô và các bạn những ý kiến đóng
góp bổ ích để đề tài được hoàn thiện hơn.
Trong đề tài gồm những chương sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hợp đồng vay tiền
Chương 2: Lãi suất trong hợp đồng vay tiền
Chương 3: Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất trong hợp đồng vay tiền và thực
trạng áp dụng
Luận văn dài 77 trang chia làm 3 chương
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1736 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lãi suất trong hợp đồng vay tiền và tác động của nó đến nền kinh tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập có thể làm cho người đầu tư thích đầu tư vào các tài sản tài
chính hơn là vào các dự án đầu tư thật sự. Kết quả là nguồn lực của xã hội bị phân bổ một
cách thiếu hiệu quả và ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện lạm phát biến động, các quyết định tài chính cũng bị bóp méo; các doanh
nghiệp thích vay ngắn hạn hơn là bị buộc chặt vào các hợp đồng vay dài hạn với lãi suất
cố định, chứa đựng rủi ro lãi suất tiềm năng.
Lạm phát cũng gây những ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường lao động khi các công đoàn
tìm cách đấu tranh đòi tăng lương danh nghĩa với nguy cơ của các cuộc đình công hoặc
sự đe doạ của một tỷ lệ lạm phát cao hơn. Về mặt này, lạm phát làm ngừng trệ sự tăng
trưởng kinh tế.
- Phân phối lại thu nhập cá nhân và của cải xã hội.
Khi lạm phát tăng lên tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên nhưng trong đó chứa đựng sự
phân phối lại giữa các nhóm dân cư với nhau; giữa chủ và người làm công; giữa người
cho vay và người đi vay và giữa Chính phủ với người đóng thuế. Nói tóm lại tác động
chính của lạm phát về mặt phân phối lại nảy sinh từ những tác động không thể đoán trước
đối với giá trị thực tế của thu nhập và của cải nhân dân.
Để làm giảm tác động phân phối lại do sự biến động bất thường của lạm phát, nhiều nước
áp dụng phương pháp chỉ số hoá. Phương pháp này cho phép điều chỉnh mức thu nhập và
các khoản nợ danh nghĩa theo sự biến động của mức giá định kỳ. Chỉ số hoá được áp
dụng trong các hợp đồng giá trị dài hạn như hợp đồng tiền lương hợp đồng vay dài hạn.
Thí dụ một trái phiếu được chỉ số hoá có nghĩa là người sở hữu sẽ nhận được mức lãi suất
danh nghĩa bằng mức lãi suất thực tế cố định vào tỷ lệ lạm phát vào thời điểm trả lãi.
Bằng cách đó phương pháp chỉ số hoá cho phép bảo tồn giá trị thực tế của các khoản thu
nhập dài hạn. Nhiều nhà khoa học đã khuyến cáo các Chính phủ nên sử dụng phương
pháp này để chung sống với lạm phát. Tuy nhiên chỉ số hoá không chỉ là phương pháp
hạn chế tác động của lạm phát một cách hoàn hảo; nó đặc biệt không hợp lý trong trường
hợp lạm phát xuất phát từ các cú sốc cung. Hơn nữa chỉ số làm cho phản ứng của tiền
lương nhanh hơn khi tỷ lệ lạm phát biến động, do đó mà đẩy nhanh tốc độ của lạm phát.
- Lãi suất tăng lên.
Lạm phát làm cho lãi suất danh nghĩa tăng lên bởi tỷ lệ lạm phát dự tính tăng lên. Vấn đề
sẽ nảy sinh khi tỷ lệ lạm phát dự tính cấu thành trong mức lãi suất danh nghĩa không phù
hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế và làm ảnh hưởng đến mức lãi suất thực. Điều này, đến
lượt nó, lại gây những ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu tư, cuối cùng là ảnh hưởng đến
mức tăng trưởng kinh tế. Tác giả xin đưa ra bảng tỷ lệ ảnh hưởng của lạm phát tới nền
kinh tế từ 1983 – 1999 để minh chứng cho sự tác động của lạm phát tới lãi suất.
Ảnh hưởng của lạm phát tới lãI suất thực của nền kinh tế từ 1983 – 1999
Năm Lãi suất (%) Lạm phát (%) Lãi suất thực (%)
1983
1984
1985
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
24
36
36
96
96
96
144
48
48
35
21.6
16.8
16.8
142
156
211
557
389
400
35
67
68
17.6
5.2
14.4
12.7
-138.8
-119.8
-174.9
-461,4
-293
-304
110.7
-19.2
-19.6
17.4
16.4
2.4
4.1
1996
1997
1998
1999
13.5
12.6
10
8.5
4.5
3.6
9.2
0.2
9
9
0.8
8.3
Nguồn: IMF và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam([37])
- Ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế.
Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn tỷ lệ lạm phát nước bạn hàng, thì hàng xuất khẩu
trong nước trở nên kém hấp dẫn vì giá cả tăng lên, trong khi hàng xuất khẩu của nước
ngoài lại trở nên rẻ hơn, thúc đẩy nhập khẩu làm xấu đi tình trạng của tài khoản vãng lai
gây áp lực đối với tỷ giá (trong điều kiện chế độ tỷ giá linh hoạt). Tỷ lệ lạm phát cao
cùng với bội chi tài khoản vãng lai có thể tạo nên tâm lý trông đợi một sự giảm giá của
đồng nội tệ tạo nên áp lực mạnh hơn đối với tỷ giá. Và nếu điều này thực sự xảy ra, nó có
thể đẩy mức lạm phát trong nước cao hơn bởi giá nội địa của hàng nhập khẩu trở nên đắt,
đẩy mức giá cả chung tăng lên.
- Ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp.
Mức giá chung tăng lên có thể sự giảm sút của tổng cầu và công ăn việc làm, do đó gia
tăng tỷ lệ thất nghiệp. Tổng cầu giảm khi lãi suất danh nghĩa tăng lên, giá trị tài sản thực
tế giảm xuống và sự giảm sút của khả năng cạnh tranh quốc tế. Tất cả các yếu tố này là
hệ quả tất yếu của lạm phát.
* Các giải pháp giảm tỷ lệ lạm phát
Về mặt dài hạn việc kiềm chế lạm phát, giữ cho tiền tệ ổn định sẽ tạo điều kiện tăng sản
lượng thực tế và giảm thất nghiệp. Vì vậy, duy trì sự ổn định của tiền tệ là mục tiêu dài
hạn của bất kỳ nền kinh tế nào, nhưng trong từng thời kì việc lựa chọn các giải pháp kiềm
chế lạm phát cũng như liều lượng tác động của nó phải phù hợp với yêu cầu tăng trưởng
và áp lực xã hội mà nền kinh tế phải gánh chịu. Chính phủ các nước có thể chọn chiến
lược giảm lạm phát từ từ ít gây biến động cho nền kinh tế hoặc chiến lược giảm lạm phát
nhanh chóng tạo nên sự giảm mạnh về sản lượng trong qua trình điều chỉnh. Việc đưa ra
cái giải pháp chống lạm phát thường xuất phát từ sự phân tích đúng đắn nguyên nhân gây
ra lạm phát.
Từ những vấn đề lí luận nêu trên, tác giả xin trình bày thời kì lạm phát ở Việt Nam qua
đó để thấy rõ sự ảnh hưởng của lạm phát tới sự tăng trưởng kinh tế và lãi suất trong hợp
đồng vay như thế nào. Việt Nam đã trải qua thời kỳ lạm phát cao kéo dài với những ảnh
hưởng nặng nề trong suốt thập kỷ 80, được coi như là hậu quả tất yếu của cơ chế quản lý
kinh tế thiếu hiệ quả và tình trạng bao cấp tràn lan của thời kỳ chiến tranh. Mặc dù tỷ lệ
lạm phát đã được kiềm chế ở mức một con số trong những năm 90, nhưng sự bất ổn của
nó cùng với tình trạng giảm phát liên tục trong những năm gần đây luôn đặt ra nhiều vấn
đề cho các nhà làm chính sách. Có thể phân chia lạm phát ở nước ta qua 3 giai đoạn: giai
đoạn 1976 – 1980, giai đoạn 1980 – 1988 và giai đoạn 1989 đến nay. Trong phạm vi của
đề tài này, tôi xin được phân tích cuộc lạm phát gần đây nhất: Giai đoạn từ 1989 đến nay.
Có thể nói lạm phát được kiềm chế thành công từ năm 1989 và giảm tới mức một con số
trong suốt thập kỷ 90. Nhưng tỷ lệ lạm phát biến động qua các năm và những biểu hiện
của giảm phát gần đây đang gây nên sự bất ổn định trong môi trường kinh tế.
Nguồn: NHNN Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm: 1997, 1998, 1999, 2000, 2001,
2002([38])
Các giải pháp đồng bộ trong chiến dịch chống lạm phát vào cuối thập niên 80 đã đem lại
một kết quả đáng kể. Chính sách lãi suất cao được áp dụng lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ
người gửi tiền tiết kiệm nhận được mức lãi suất dương, nó có tác động lớn trong việc
giảm tiêu dùng và giảm mức độ biến động giá thậm chí xuống tới mức âm trong tháng 5,
6, 7 năm 1989.
Bên cạnh những biện pháp nhằm làm giảm áp lực của tổng cầu, Chính Phủ Việt Nam tập
trung vào việc nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nhằm giảm chi phí, tăng năng suất lao
động và sử dụng tiết kiệm có hiệu quả nguồn lực xã hội; từ năm 1988 nền kinh tế bắt đầu
bước vào cải cách theo cơ chế thị trường, năng lực sản xuất của xã hội bắt đầu được khai
thác và có điều kiện phát huy tác dụng thông qua chính sách phát triển kinh tế đa thành
phần. Các chính sách giá cả, tài chính tín dụng đã được xây dựng phần nào phù hợp với
cơ chế thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh và có hiệu quả. Sự thay đổi căn bản
này thực sự đã mở rộng mức sản lượng tăng tiềm năng của xã hội và tạo nên thời kỳ tăng
trưởng vững chắc trong những năm sau. Việc hạn chế tình trạng đóng cửa nền kinh tế
trong giai đoạn này cũng tạo điều kiện thu hút một khối lượng lớn hàng nhập khẩu tiểu
ngạch góp phần làm giảm nhẹ áp lực của lạm phát.
Các giải pháp chiến lược nhằm tạo sự ổn định tiền tệ vững chắc vẫn tiếp tục được hoàn
thiện trong suốt thập kỷ 90; tăng trưởng hiệu lực của chính sách tiền tệ, kết hợp với điều
chỉnh hợp lý tỷ giá ngoại tệ, cải cách chính sách tài khoá, chính sách thuế, thực hiện cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước một cách triệt để… là cơ sở để duy trì mức lạm phát
vừa phải trong nhiều năm.
Mặc dù tỷ lệ lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, nhưng dường như Ngân hàng Nhà
nước không chủ động trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng, do phải đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của Chính phủ cho các đối tượng chính sách, bù đắp tổn thất do thiên tai, kênh tín
dụng còn chưa hiệu quả, do ảnh hưởng của thị trường tiền tệ khu vực hoặc do chính sách
tiền tệ chậm phát huy hiệu quả. Điều này làm cho mức cung tiền tệ tăng lên hoặc giảm
xuống không dự kiến trước được, kéo theo sự biến động bất thường của tỷ lệ lạm phát về
phân phối và hiệu quả.
Bắt đầu từ 1996 nền kinh tế có dấu hiệu của giảm phát, từ cuối quý I giá cả giảm liên tục
và chuyển sang “âm” từ 0.5% đến 0.7% trong 4 tháng tiếp theo 5, 6, 7, 8 năm 1996, chỉ
đến quý IV/1996 giá cả mới nhích lên chút ít do điều chỉnh mức tăng của tổng phương
tiện thanh toán. Tình trạng tương tự xảy ra trong các năm 1997 và 1999. Như vậy tỷ lệ
lạm phát thấp ở mức một con số trong các năm 1996, 1997, 1999 không phải là kết quả
của sự tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm mà chủ yếu
do mức mua chung của xã hội giảm bởi thu nhập giảm. Lý do xuất phát từ mức sản xuất
giảm là do không tiêu thụ được hàng, sức cạnh tranh của tổng thể nền kinh tế thấp, hàng
nội bị chèn ép bởi hàng ngoại. Đặc biệt trong lĩnh vực Nông Nghiệp thu nhập giảm nhanh
mặc dù đã có chính sách trợ giá thu mua. Thu nhập giảm còn do thất nghiệp tăng lên đặc
biệt do thực hiện cổ phần hoá và sắp xếp lại các doang nghiệp Nhà nước, lao động dôi
thừa trong các khu chế xuất, trong các công ty liên doanh với nước ngoài… Vì thế các
giải pháp kích cầu có lẽ không có hiệu quả và nếu có cũng không kéo dài. Hiện tượng
giảm phát này xuất phát từ chính các yếu tố của quá trình sản xuất xã hội và còn do ảnh
hưởng chu kỳ suy giảm toàn cầu, nên điều quan trọng là phải tìm được các giải pháp tác
động vào sức sản xuất của xã hội, tăng cường khả năng cạnh tranh thông qua chất lượng
và khai thác thị trường tiêu thụ, từ đó mà tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập.
Mặc dầu lạm phát cao “dù ở đâu cũng là vấn đề thuộc về tiền tệ” theo nghĩa là không có
lạm phát nếu không có sự tăng lên của mức tiền cung ứng, nhưng cũng có những lý do
buộc các nhà chính sách phải mở rộng cung ứng tiền và chấp nhận một mức lạm phát.
Những lý do đó là: theo đuổi chính sách thất nghiệp thấp hoặc tình trạng bội chi Ngân
sách Nhà nước.
Các nguyên nhân trực tiếp của lạm phát có thể xuất phát từ phía cầu hoặc xuất phát từ
phía cung. Tuy nhiên những hậu quả của một cuộc lạm phát cụ thể phụ thuộc vào mức độ
biến động của tỷ lệ lạm phát và khả năng dự đoán mức độ biến động đó. Những hậu quả
điển hình của lạm phát thường xảy ra với loại lạm phát không thể dự tính được.
Việc đưa ra các biện pháp kiềm chế lạm phát trên cơ sở phân tích những nguyên nhân của
lạm phát và giá mà nền kinh tế phải trả cho 1% giảm lạm phát, nghĩa là xác định cho
được tỷ lệ hi sinh của lạm phát.
Việt Nam đã trải qua thời kỳ lạm phát phi mã trong thập kỷ 80 với những hậu quả của
một cuộc lạm phát xuất phát từ tổng các nguyên nhân cầu kéo, chi phí đẩy, nguyên nhân
mất cân đối cơ cấu và yếu tố tâm lý. Một hệ thống các giải pháp được đánh giá là đồng
bộ và có hiệu quả đã được sử dụng và đem lại kết quả nhất định trong thập kỷ 90. Đặc
biệt là lạm phát năm 90 là mức lạm phát thấp nhưng thiếu ổn định kèm theo giảm phát
vào những năm cuối thập kỷ 90. Lý do chủ yếu của tình trạng này do thu nhập của đại bộ
phận dân cư, đặc biệt là nông dân tăng chậm hơn mức tăng giá hàng công nghiệp làm cho
sức mua giảm sút.
Như vậy, có thể khẳng định lạm phát chính là nguyên nhân chính làm biến đổi lãi suất.
Với xu thế hiện nay, chúng ta luôn phải cảnh giác với những cuộc khủng hoảng kinh tế
và lạm phát để luôn bình ổn giá cả đồng thời bình ổn mức lãi suất. Với nền kinh tế hội
nhập, đặc biệt khi ra nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), Việt Nam sẽ đứng trước
những triển vọng lớn và những thách thức lớn. Một vấn đề đáng lo ngại là lạm phát và tỉ
lệ phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc. Có những người dư thừa của cải có nhu cầu
cho vay tiền còn những người không đủ chi trả cho cuộc sống hay muốn đầu tư thì đi vay.
Vậy lãi suất luôn là yêu cầu “nóng bỏng” của nhiều người, nhiều nhà đầu tư nên Nhà
nước cần quan tâm và quản lí sát sao.
Chương 5
NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
Hợp đồng vay tiền là quan hệ tương đối phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Nó có tác
động giúp cho bên vay giải quyết những khó khăn khi thiếu thốn để sản xuất và lưu thông
hàng hoá, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của con người, nhu cầu kinh doanh của các doanh
nghiệp. Hợp đồng vay tiền trong nhân dân thường mang tính chất tương trợ giúp đỡ lẫn
nhau để giải quyết những khó khăn tạm thời trong cuộc sống, trong sản xuất, kinh doanh.
Dựa trên những phân tích ở các chương trước, tác giả xin có một số nhận xét về quy định
của pháp luật và quá trình thực hiện. Cụ thể như sau:
Lãi suất cho vay trong nền kinh tế nói chung, của các ngân hàng nói riêng không được
vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN quy định. Giới hạn này đã có hiệu lực từ ngày
01/01/2006 theo Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, cho đến tận ngày 19/5/2008 các
ngân hàng mới “phải” thực hiện, sau khi có Quyết định số 16 của NHNN. Trước đó, các
ngân hàng tha hồ cho vay vượt 150% lãi suất cơ bản. Chính NHNN cũng áp lãi suất đấu
thầu giấy tờ có giá lên tới 171% lãi suất cơ bản vào giữa tháng 02/2008.
Điều luật trên vẫn giữ nguyên giá trị, nhưng lại được các văn bản dưới luật vận dụng
ngược lại. Ngày 3/12/2008, NHNN ban hành Quyết định số 33, cho phép Quỹ tín dụng
nhân dân cơ sở cho vay với mức khống chế là 165% lãi suất cơ bản. Ngày 23/01/2009,
NHNN ban hành Thông tư số 01 hướng dẫn các TCTD được cho vay phục vụ đời sống
không bị giới hạn theo mức lãi suất 150% nói trên.
Tuy trong văn bản không thể hiện rõ điều này, nhưng trên thực tế được chấp nhận lãi suất
cho vay trên 200% lãi suất cơ bản. Các văn bản này được ban hành sau khi có Nghị quyết
ngày 6/11/2008 của Quốc hội, trong đó có nội dung: “Các TCTD điều hành lãi suất cho
vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN theo quy định của pháp luật và được phép cho
vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản xuất – kinh doanh có hiệu quả cao”.
Với câu chữ như thế này, thì không thể hiểu rằng pháp luật đã cho phép cho vay vượt
150% lãi suất cơ bản, đặc biệt là đối với loại cho vay tiêu dùng. Không những thế, cả về
nguyên lý cũng như thực tế, thì những “dự án sản xuất – kinh doanh có hiệu quả cao” sẽ
là những khoản vay có lãi suất thấp nhất chứ hoàn toàn không cần đến nghị quyết “bật
đèn xanh” để cho vay vượt trần lãi suất.
Như vậy, trước yêu cầu thực tiễn thì có thể là cần thiết, nhưng tất cả lại đều chưa đủ cơ sở
pháp lý và việc được làm hay phải làm của các ngân hàng đều không bảo đảm về luật
pháp. Ngân hàng không thể không lo ngại nếu giao dịch bị đưa ra xử kiện trước toà án.
Thực tiễn hoạt động cho thấy TCTD thường xác định mức lãi suất cho vay khác nhau đối
với từng loại khách hàng khác nhau. Do vậy, việc khống chế mức lãi suất trần cho vay
đối với hoạt động cho vay của TCTD ngoài ngân hàng thì có thế hạn chế được việc cho
vay nặng lãi nhưng nếu áp dụng cho các ngân hàng thương mại là không cần thiết. Đây
cũng chính là một lý do để NHNN thay đổi chính sách lãi suất, từ việc khống chế mức lãi
suất cho vay tối đa sang tự do hoá lãi suất – cho phép TCTD và khách hàng tự thoả thuận
lãi suất trên cơ sở cung cầu của thị trường từ 01/6/2002.
Ngoài ra, các quy định của BLDS về lãi suất không khả thi trên thực tế vì theo quy định
của Luật Ngân hàng Nhà nước, hàng tháng Ngân hàng Nhà nước chỉ công bố một mức lãi
suất cơ bản duy nhất. Do vậy, các quy định về mức lãi suất cơ bản của loại cho vay tương
ứng tại điều 476 BLDS 2005 là không thÓ thực hiện trên thực tế.
Với quy định khống chế mức lãi suất cho vay tối đa tại Điều 476 BLDS 2005, rất nhiều
thoả thuận về mức lãi suất cho vay trong các Hợp đồng tín dụng giữa TCTD và khách
hàng có mức lãi suất trên 10,5%/năm tại thời điểm hiện tại (quá 150% mức lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố). Hậu quả là các TCTD có thể không thu được tiền
lãi từ các hợp đồng tín dụng có mức lãi suất cho vay vi phạm pháp luật này, nếu khách
hàng yêu cầu Toà án tuyên vô hiệu thoả thuận vi phạm điều cấm của pháp luật. Để giải
quyết bất cập này, về lâu dài việc sửa đổi Điều 476 BLDS 2005 theo hướng không áp
dụng quy định này đối với hoạt động cấp tín dụng của các TCTD là rất cần thiết.
Một vấn đề nữa, những dấu hiệu của lãi suất quá cao, tín dụng “nóng” được thể hiện ở 3
mặt: thứ nhất: khối lượng tiền lưu thông và dư nợ tín dụng tăng cao; thứ hai: lãi suất huy
động vốn và cho vay vốn liên tục tăng; thứ ba: kinh doanh tiền tệ luôn sôi động. Các
ngân hàng thương mại liên tục tung ra các chiến dịch huy động vốn với lãi suất cao, hình
thức đa dạng kèm theo khuyến mãi hấp dẫn.
Các ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động vốn tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn của họ
và là quyền của họ. Tuy nhiên, một khi cuộc chiến đã được khơi ra thì dù muốn hay
không muốn cũng phải theo nhưng chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra trở nên đáng lo
ngại. Tình trạng thiếu vốn, đặc biệt là vốn dài hạn cho các dự án lớn đã được kí kết, buộc
các ng©n hàng phải gia tăng lãi suất huy động vốn thực tế. Tuy nhiên, nguy cơ tiềm ẩn
vẫn có thể xảy ra khi mặt bằng lãi suất huy động vốn tăng nhanh trong khi mặt bằng lãi
suất cho vay tăng chậm.
Ngay từ đầu năm nay, lãi suất huy động tiền göi tiết kiệm đã được các ngân hàng liên tục
điều chỉnh. Thực tế, nhiều ngân hàng bất đắt dĩ bước vào cuộc đua này. Với các ngân
hàng cổ phần mới xuất hiện trên thương trường, lãi suất là công cụ chủ yếu để huy động
vốn. Các ngân hàng khác điều chỉnh tăng lãi suất, không lẽ ngân hàng mình lại đứng yên.
Với việc liên tục đẩy lãi suất huy động tăng cao như hiện nay, các ngân hàng đã tự đẩy
mình vào tình thế khó khăn. Mặt bằng lãi suất huy động chung của các ngân hàng hiện
nay ở mức 8,5%/năm, trong khi lãi suất cho vay ở mức 9%/năm. Rõ ràng hiệu quả kinh
doanh rất thấp. Khi tăng lãi suất huy động thì đương nhiên các ngân hàng phải cho đầu ra
tăng theo, theo đó các doanh nghiệp đi vay buộc lòng phải cho tăng sản phẩm đầu ra theo
tỷ lệ thuận. Do vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ giảm đi, kéo theo đó là kinh doanh dễ
gặp rủi ro, và cuối cùng người cho vay là ngân hàng sẽ gặp rủi ro rất lớn. Tình trạng này
sẽ dẫn tới nợ quá hạn trong các ngân hàng tăng lên. Nhu cầu vốn trong nền kinh tế tăng là
điều tốt, người gởi tiền được hưởng lãi suất cao cũng là điều tốt nhưng nếu lãi suất huy
động tăng mà lãi suất cho vay không tăng được thì các chuyªn gia tài chính cần xem xét
lại.
ở một khía cạnh khác, nếu coi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước kia là một ngôi
nhà ba tầng và lãi suất tín dụng là cầu thang trong ngôi nhà đó thì khi Việt Nam chuyển
sang nền kinh tế thị trường được ví như một toà nhà chọc trời và lãi suất tín dụng là chiếc
cầu thang máy giúp việc đi lại, lưu thông trong toà nhà được dễ dàng, thuận tiện. Tuy
nhiên vấn đề đặt ra ở đây là phải đặt vị trí của cầu thang ở chỗ nào để mang lại hiệu quả
sử dụng tốt nhất. Tại Việt Nam, trong những năm qua lãi suất tín dụng đã được cải cách
rất nhiều và đã mang lại những hiệu quả nhất định, cũng như vẫn còn tồn tại một số mặt
còn yếu kém như:
· Tại Việt Nam ngân hàng Nhà Nước đóng vai trò là ngân hàng trung ương, là cơ quan
quản lý Nhà Nước giám sát hoạt động khu vực tiền tệ và kiểm soát khối lượng tiền trong
nền kinh tế. Ngân hàng Nhà Nước là cơ quan duy nhất có khả năng phát hành tiền. Và
ngân hàng Nhà Nước có ba chức năng: thứ nhất, kiểm soát các ngân hàng thương mại
hoạt động đúng luật; là người cho vay cuối cùng, hay là ngân hàng của các ngân hàng và
cuối cùng là chức năng kiểm soát mức cung tiền. Trong khi đó thì ngân hàng thương mại
là ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay với lãi suất, thông qua đó thu được một khoản tiền
lời từ sự chênh lệch lãi suất. Như vậy có thể nói lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam
chủ yếu là do các ngân hàng thương mại đảm trách. Các ngân hàng thương mại quốc
doanh của Việt Nam nhìn chung vẫn là các chủ thể giữ vị trí chủ chốt trong hệ thống này.
· Về vấn đề nợ quá hạn: Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản của
ngân hàng thương mại, là nguồn chủ yếu đem lại lợi nhuận. Nghiệp vụ này luôn phải gắn
với rủi ro tín dụng, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn của ngân hàng. Trong hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam, tỷ lệ nợ quá hạn là một vấn đề khá nghiêm trọng.
Các nguyên nhân của tình trạng tỷ lệ nợ quá hạn ngày càng gia tăng trong hệ thống ngân
hàng Việt Nam có thể tóm lược là: một số khoản nợ từ thời bao cấp không chi trả được;
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đi vay vẫn chưa cải thiện được nhiều; nhiều
doanh nghiệp vẫn được cho vay theo chỉ thị chỉ đạo … mà không tính toán đến rủi ro tín
dụng, đến điều kiện hoàn vốn và có lãi, các doanh nghiệp này lại chiếm một tỷ lệ vốn vay
rất lớn; bản thân hoạt động của ngân hàng còn nhiều yếu kém, bất cập, một số cán bộ
ngân hàng trình độ chưa đáp ứng yêu cầu, một số khác bị biến chất, gây các vụ thiệt hại
lớn.
Các ngân hàng vẫn thường xuyên áp dụng các biện pháp hỗ trợ lãi suất trong nhiều năm
gần đây tuy nhiên bên cạnh hầu hết các đối tượng được hỗ trợ có nhu cầu và đủ điều kiện
để tiếp cận được nguồn vốn rẻ này vẫn có nhiều trường hợp chưa thụ hưởng ưu đãi, hoặc
chủ động không nhận ưu đãi dãi do khó và ngại đáp ứng yêu cầu đặt ra. Một số doanh
nghiệp sẽ vay theo hình thức thông thường mà không nhận hỗ trợ. Lý do của các doanh
nghiệp này là ngại thủ tục, xét duyệt và quá trình chứng minh nhiêu khê có thể làm lỡ cơ
hội cần vốn gấp để kinh doanh. Hơn nữa, lượng vốn vay không lớn, trong khi nhu cầu
vốn “nóng” để nắm cơ hội kinh doanh, đặc biệt là ở những doanh nghiệp phân phối và
dịch vụ với vòng quay vốn nhanh. Khi cân nhắc giữa lợi ích từ hỗ trợ với yếu tố cơ hội,
tính “đơn giản” trong thủ tục và trách nhiệm, họ chọn vay thông thường. Thực tế cho thấy
“hiện tượng” từ chối ưu đãi có một nguyên nhân chính nữa là doanh nghiệp không “đào”
đâu ra hoá đơn để đáp ứng điều kiện của chính sách hỗ trợ đặc biệt là với các doanh
nghiệp nhỏ, hoạt động trong các làng nghề, hoặc có đầu vào gắn với các cá thể sản xuất
kinh doanh. Từ đây, tình trạng bí hoá đơn đầu vào là trở ngại lớn để chính sách kích cầu
thực sự đến được với doanh nghiệp. Phía ngân hàng tiếp vốn đứng trước một thực tế là
doanh nghiệp có triển vọng phát triển, sẽ sử dụng vốn hiệu quả, có đầu vào đầu ra “nhìn
tận mắt” nhưng lại lưỡng lự khi cấp vốn có hỗ trợ lãi suất. Nhiều doanh nghiệp trong các
làng nghề thu mua phế liệu, nông lâm sản phục vụ sản xuất, hay những doanh nghiệp xây
dựng trả lương nhân công bên ngoài… đều bó tay trước yêu cầu trình hoá đơn cho ngân
hàng. Ngân hàng cũng khó xuôi với những trường hợp này bởi hoá đơn liên quan đến
nghĩa vụ thuế và có thể bị truy cứu trách nhiệm sau đó. Trước thực tế ngân hàng theo sát
các bước chi tiết của đồng vốn và quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và vẫn
quyết định giải ngân. Và để có thể hợp thức chính sách hỗ trợ, một giải pháp “lách” quy
định là doanh nghiệp tập hợp chi phí đầu vào bằng bảng kê thay cho hoá đơn, tập hợp
chữ ký của các đối tượng liên quan và xin chứng thực của chính quyền địa phương để
trình ngân hµng nhưng trong các văn bản hướng dẫn thực hiện hỗ trợ lãi suất không có
chỗ nào dùng từ “bảng kê” để xét duyệt cả vµ thanh tra ngân hàng đã vào cuộc.
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam trong năm 2008 đãcó Công văn gửi Chủ tịch Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội và Chủ nhiệm Ủy ban Kinh
tế Quốc hội về việc cho vay thoả thuận của các tổ chức tín dụng không áp dụng trần lãi
suất có dẫn Điều 476 của Bộ luật Dân sự. Lý do để xoá trần lãi suất:
Thứ nhất, việc khống chế trần lãi suất cho vay như thời gian qua là một biện pháp can
thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ động và
linh hoạt của các ngân hàng thương mại trong vấn đề huy động vốn và cho vay, vì lãi suất
(giá cả) hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn của thị trường. Mức lãi suất cho vay
của các tổ chức tín dụng được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi, chi phí huy động vốn,
chi phí cho vay, uy tín của khách hàng, mức độ rủi ro của từng khoản vay và yếu tố cạnh
tranh trên thị trường.
Thứ hai, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất của các loại hình
tín dụng làm cho các ngân hàng rất khó đa đạng hóa các sản phẩm dịch vụ, vì mỗi loại
hình tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau, chi phí khác nhau, vì vậy lãi suất cho vay khác
nhau, lãi suất tín dụng tiêu dùng và tín dụng bán lẻ khác với lãi suất cho vay doanh
nghiệp và các loại hình tín dụng thông thường. Mặt khác, chính sách lãi suất trần cứng
nhắc cũng làm hạn chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính mới của các ngân hàng như
tín dụng bán lẻ, tín dụng tiêu dùng, đây là những sản phẩm tất yếu của ngân hàng hiện
đại.
Thứ ba, để kiểm soát sự biến động bất thường của lãi suất trên thị trường tiền tệ, NHNN
đã có các công cụ để kiểm soát như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ
thị trường mở và điều hành khối lượng tiền cung ứng mà không cần giải pháp hành chính
cứng nhắc như điều 476 của Bộ Luật dân sự đã quy định. Thứ tư, Nghị quyết số
23/2008/NQ-QH12 ngày 6/11/2008 của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tư, trong đó có
cho phép “Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của
NHNN theo quy định của pháp luật và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với
một số dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao”. mục tiêu chính của quy định này là
nhằm ngăn chặn việc cho vay nặng lãi trong nền kinh tế, thường xảy ra trong quan hệ
giữa dân với dân và để tạo ra căn cứ cho tòa án xét xử khi có tranh chấp xảy ra Tuy
nhiên, quy định trên trong thực tế vẫn được hiểu là áp dụng để xử lý lãi suất cho vay cho
các tổ chức tín dụng, mặc dù hoạt động của tổ chức tín dụng được điều chỉnh bởi 2 Luật
Ngân hàng Nhà nước và Luật Tổ chức tín dụng.
Vì vậy, căn cứ vào quy định trên tại Bộ Luật dân sự, ngày 16/5/2008, NHNN đã ban hành
Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng VND;
trong đó, định kỳ hàng tháng, NHNN công bố lãi suất cơ bản.
Kể từ đó đến nay, NHNN đã 7 lần công bố thay đổi mức lãi suất cơ bản, do vậy, mức trần
lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng cũng thay đổi tương ứng theo từng lần
công bố.
Đối với các hình thức họ, hụi, biêu, phường: các hình thức cho vay này vẫn diễn ra một
cách tự do và các cơ quan chức năng rất khó kiểm soát. Việc chơi họ, hụi, biêu, phường
ngày càng được tổ chức lén lút và tinh vi hơn. Thực trạng cũng cho thấy các tranh chấp
về họ, hụi, biêu, phường ngày càng gia tăng. Vậy nên cần quán triệt ngay các việc chơi
họ, hụi, biêu, phường không lành mạnh.
Để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về lãi suất trong hợp đồng vay tiền, dựa vào
thực trạng và những nhận xét nêu trên tác giả xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau
đây:
Thứ nhất, trong Bộ luật dân sự cần có quy định rõ về khái niệm lãi suất và các loại lãi
suất.
Việc quy định của pháp luật còn bất cập ở chỗ vô tình đồng nhất lãi suất đúng hạn và lãi
suất quá hạn, cần có một sự điều chỉnh. Như đã biết lãi suất không được vượt quá 150%
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, nhưng khi tính lãi suất quá hạn thì được
tính như thế nào? Nếu vẫn áp dụng lãi suất quá hạn nhỏ hơn hoặc bằng 150% lãi suất cơ
bản thì chẳng khác nào khẳng định hai loại lãi suất này không có gì khác nhau. Vậy có
thể tính lãi suất quá hạn như sau:
Lãi suất quá hạn = 150% lãi suất đúng hạn
Lưu ý lãi suất đúng hạn không được vượt quá bằng 150% lãi suất cơ bản (để phù hợp với
điều 476 – BLDS 2005).
Ví dụ: A cho B vay 1.000.000 đồng trong thời hạn 1 năm với lãi suất là 10%/năm (lãi
suất cơ bản tại thời điểm hiện nay do Ngân hàng Nhà nước công bố là 7%/năm). Sau 1
năm kể từ ngày hợp đồng được giao kết, B phải trả cho A 1.000.000 đồng (gốc) cộng với
một khoản lãi là: 100.000 đồng. Nhưng 2 năm sau B mới trả tiền cho A, lúc này phát sinh
lãi suất quá hạn, ngoài số tiền gốc và lãi suất đúng hạn, A còn được nhận lãi quá hạn vì 1
năm chậm trả của B. Hai bên thoả thuận mức lãi suất quá hạn là 150% lãi suất đúng hạn
tức khoản tiền là 150.000 đồng x 2 năm = 300.000 đồng.
Nếu lãi suất đúng hạn là 10.5%/năm (150% lãi suất cơ bản (7%) do Ngân hàng Nhà nước
công bố), khi tính lãi suất quá hạn vẫn áp dụng cách tính là nhỏ hơn hoặc bằng 150% lãi
suất cơ bản thì không ổn, lúc này lãi suất đúng hạn bằng lãi suất quá hạn. Có nghĩa là: A
cho B vay 1.000.000 đồng, lãi suất là 10,5%/năm trong thời hạn là một năm. Sau 1 năm B
phải trả cho A 105.000 đồng tiền lãi cho A. Nhưng sau một năm B vẫn chưa trả, lúc này
sẽ phát sinh lãi suất quá hạn. áp dụng công thức: Lãi suất quá hạn = 150% lãi suất đúng
hạn thì lúc này lãi suất quá hạn sẽ lớn hơn lãi suất cơ bản:
Lãi suất quá hạn = 150%/năm x 10.5%/năm = 15.75%/năm.
Do vậy, BLDS cần bổ sung thêm khái niệm lãi suất và các loại lãi suất như sau:
Lãi suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền
đã vay tính theo đơn vị thời gian.
Lãi suất đúng hạn là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay tính trên số
tiền đã vay tương ứng với thời hạn mà các bên đã thoả thuận.
Lãi suất quá hạn là tỉ lệ phần trăm tính trên nợ gốc mà bên vay phải trả cho bên cho
vay tương ứng với thời gian chậm trả.
Để không gây mâu thuẫn trong các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật nhất thiết
phải chỉ rõ:
- Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng;
- Lãi suất đúng hạn mà các Ngân hàng thương mại, các TCTD hoặc các hình thức chơi
họ, hụi, biêu, phường chọn không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản;
- Lãi suất quá hạn không được vượt quá 150% lãi suất đúng hạn.
Thứ hai, về việc xử lí hậu quả của hợp đồng vay tiền vi phạm quy định về lãi suất: đối
với một số hợp đồng vay tiền đã có hiệu lực và việc thoả thuận lãi suất vượt quá quy định
cho phép của Nhà nước của bên cho vay thì không nên tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Trong
trường hợp này, để bảo vệ quyền lợi cho các bên Toà án sẽ áp dụng và quy định lại lãi
suất chuẩn và hợp lí tại thời điểm bấy giờ trong hợp đồng vay tiền và hợp đồng cho vay
tiền này tiếp tục có hiệu lực. Cũng cần phải cân nhắc điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
và dự liệu “những trường hợp khác do pháp luật quy định” để không gây mâu thuẫn trong
chính Bộ luật dân sự.
Thứ ba, về vấn đề hụi, họ, biêu, phường: có thể thấy việc quy định lãi suất trong hợp
đồng vay là rất cần thiết, nó càng hiện thực hơn nữa trong nền kinh tế hiện nay khi trị giá
của đồng tiền luôn có những biến đổi không ngừng. Làm sao để quy định mức lãi suất có
thể đem lại lợi nhuận cho người cho vay nhưng cũng đem lại khả năng đầu tư có hiệu quả
trong việc vay lãi của người vay để họ có khả năng trả nợ, trả lãi và có thể đem lại lợi
nhuận. Trên thực tế, không phải lúc nào các hợp đồng vay tiền cũng đảm bảo đầy đủ các
giá trị pháp lí. Hơn nữa các hình thức cho vay có thể biến thái thành các hình thức tiêu
cực. Trong nhân dân, các hình thức họ, hụi, biêu, phường diễn ra phổ biến mang tích chất
là giúp đỡ nhau trong sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt… là chính. Tuy nhiên không phải
lúc nào các hình thức cho vay này cũng lành mạnh nhất là trong xã hội ngày nay, các tệ
nạn xã hội diễn ra ngày càng phức tạp. Hơn nữa để định nghĩa một cách rõ ràng thế nào
là họ, là hụi, là biêu, là phường rất khó. Có nhiều người cho rằng bốn hình thức cho vay
này trong nhân dân có cùng bản chất. Với ý kiến Ông Hà Đức Lệnh – Đại biểu quốc hội
cho hụi và họ bản chất không giống nhau: "Họ mang tính chất tương trợ, không tính lãi.
Còn hụi là cho vay với lãi suất cao, dễ phát sinh tiêu cực, ảnh hưởng lớn tới xã hội, nhất
là khi đường dây hụi đổ bể". Ông Lệnh cũng như nhiều đại biểu nhất trí Nhà nước cần
quản lý hụi bằng cách khống chế mức lãi suất cho vay, nếu vượt quá giới hạn quy định
thì có chế tài xử lý. Theo quan điểm của tác giả, cả bốn hình thức này đều có thể thoả
thuận có lãi suất. Bởi bản chất của hợp đồng vay tiền mà nhờ bản chất này có thể phân
biệt dễ dàng với các hợp đồng khác đó là lãi suất. Hợp đồng vay tiền có lãi suất chính là
thể hiện đặc điểm “đền bù” trong các hợp đồng dân sự.
Ví dụ về đường dây hụi ngày: Vay 30.000 đồng một ngày, trả lãi 500 đồng/ngày, sau 1
tháng phải trả cả vốn và lãi là 45.000 đồng (tương đương lãi suất 100%). Nhưng trên thực
tế có nhiều trường hợp chơi hụi với hình thức cho vay lãi cao: 200%, 300%… thậm chí
còn cao hơn thế nữa. Vì thế nhà nước cần quản lý hụi, không thể cứ không quản được thì
cấm, biến hụi trở thành cái gì đó xấu xa.
Theo tác giả, đối với các hình thức cho vay trong nhân dân: họ, hụi, biêu, phường cần
phải được kiểm soát sát sao. Các chủ họ, hụi, biêu, phường (nhà cái) cần phải được đăng
kí và được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền mới được phép hoạt động. Làm như
vậy để kiểm soát được sự hoạt động của các hình thức này. Thông thường việc quy định
lãi suất của các hình thức cho vay này rất khó kiểm soát và hầu hết là trái với quy định tại
Điều 476 – BLDS 2005. Các hình thức cho vay này thường quy định mức lãi suất rất cao,
nếu như cho vay với mục đích tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và áp dụng mức lãi suất phù
hợp với pháp luật thì Đảng và Nhà nước ta rất khuyến khích, bởi trong tình hình hiện nay
với sự khan hiếm của đồng tiền các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đôi khi không
xoay sở kịp cần phải có những hình thức cho vay khác để đảm bảo được nhu cầu của
người dân. Tuy nhiên trên thực tế các nhà cái lại lợi dụng tình hình này để hoạt động cho
vay nặng lãi. Hơn nữa có một số các chủ hụi cũng huy động góp vốn với lãi suất cao rồi
sau đó “ôm tiền bỏ chạy” để những người góp vốn không biết tìm đâu để thấy tiền của
mình. Việc chơi họ, hụi, biêu, phường có thể coi là một hình thức kinh doanh vậy nên
việc đăng kí hoạt động với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là rất cần thiết, không chỉ
giúp Nhà nước quản lý được các giao dịch dân sự mà còn đảm bảo quyền lợi cho nhân
dân.
Thứ tư, về chính sách lãi suất: Có thể nói khi lãi suất của ngân hàng Nhà nước tăng cao
hoặc việc cho vay tiền của các cá nhân có quy định mức lãi suất quá cao sẽ làm giảm nhu
cầu đầu tư. Nhu cầu đầu tư là lượng tiền được nắm giữ nhằm quản lý tài sản một cách
linh hoạt và có hiệu quả trên cả hai góc độ: tối đa hoá lợi nhuận và an toàn. Nói cách
khác, công chúng nắm giữ tiền với tư cách như là một công cụ đầu tư mà không phải là
phương tiện để trao đổi. Mức sinh lời của tiền tệ là bằng 0 hoặc rất thấp so với các hình
thức đầu tư khác. Mặc dù loại hình đầu tư này vẫn tốt hơn mức sinh lời âm mà các loại
hình đầu tư đó có thể mang lại. Tỷ lệ sinh lời của một công cụ đầu tư trong một giai đoạn
là tổng của tỷ lệ lãi suất và tỷ lệ tăng giá; trong khi mức sinh lời từ lãi suất luôn lớn hơn 0
thì tỉ lệ biến động giá có thể là một số âm. Trong chừng mực sự thiệt hại từ mức giá biến
động vượt quá lợi nhuận mang lại từ lãi suất thì tỉ lệ sinh lời của một công cụ đầu tư là
một số âm. Việc đầu tư vừa phải mang lại lợi nhuận, vừa phải an toàn. Với mức lãi suất
cao, người đi vay khó có khả năng cáng đáng được được cả gốc lẫn lãi. Hệ quả xảy ra là
ít người, ít công ty… vay hoặc vay nhiều để đầu tư có quy mô. Ngược lại, với lãi suất quá
thấp, người dân sẽ không gửi tiền và dẫn đến hoạt động của các Ngân hàng kém hiệu quả,
ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy, ban hành một chính sách lãi
suất phù hợp kích thích được các hoạt động cho vay tài sản nói chung và vay tền nói
riêng sẽ có tác động không nhot tới sự phát triển ổn định của kinh tế – xã hội.
Thứ năm, cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng
nói riêng và nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân nói chung: sự biến đổi của đồng
tiền và sự khan hiếm của chính nó tại một số thời điểm trong thời gian qua đã tạo cơ hội
cho các đối tượng cho vay nặng lãi vượt nhiều lần so với sự quy định của Nhà nước. Trên
thực tế, các Ngân hàng có những lúc không có đủ tiền để cho vay hay chỉ là đưa ra những
lí do để tạo khó khăn cho người đi vay? Chính phủ đưa ra các gói giải pháp để hỗ trợ cho
những người nghèo nhưng việc tiếp cận của các gói giải pháp này tới người dân còn rất
khó khăn. Người dân không chạm tới được những sự hỗ trợ của Nhà nước, may chăng
được tiếp cận nó nhưng cơ chế cho vay tiền của các Ngân hàng đặc biệt là các tổ chức tín
dụng ở vùng sâu, vùng xa đã gây khó khăn cho người đi vay. Từ những nguyên nhân
trên, những người có nhu cầu đi vay, để tránh “phiền phức”, họ không vay ở các Ngân
hàng hay các tổ chức tín dụng mà vay của những người “dư dật” của cải và có nhu cầu
cho vay để thoả mãn nhu cầu vật chất của chính mình, nhưng sự biến đổi bất thường của
giá trị đồng tiền và việc vay khó khăn tại các Ngân hàng khiến cho những người cho vay
đã cố tình nâng lãi suất. Một đòi hỏi bức thiết là Nhà nước cần đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ Ngân
hàng và tăng cường kiểm soát các hợp đồng vay tiền.
Thứ sáu, có thể sửa đổi Điều 474 và 476 của Bộ Luật dân sự theo 2 phương án([39]):
Phương án 1: Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Điều 474 và Điều 476 Bộ Luật dân
sự theo hướng “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150%
của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố”, quy định này không điều chỉnh các
quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng hoạt động theo quy định của
Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng.
Phương án 2: Chỉnh sửa Điều 474 và Điều 476 của Bộ Luật dân sự theo hướng quy định
này không áp dụng đối với các tổ chức tín dụng.
Theo tác giả các cơ quan làm luật nên sửa Bộ Luật dân sự theo phương án 1 để đáp ứng
kịp thời cho tình hình kinh tế hiện nay với một nền kinh tế đa dạng, năng động và nhiều
thách thức, nếu chậm ngày nào sẽ gây ách tắc và sự cứng nhắc trong hoạt động ngân
hàng, không đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của nền kinh tế, nhất là trong giai
đoạn ®ang suy thoái do cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu mang lại. Nếu chọn
phương án 2, chúng ta sẽ mất nhiều thời gian để sửa đổi luật vậy nên Uỷ ban thường vụ
Quốc hội giải thích luật theo tác giả là phương án tối ưu. Về lâu dài, để hợp lý hơn chúng
ta có thể quy định điều 476 không áp dụng đối với hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm
giảm bớt khó khăn cho các ngân hàng thương mại và đảm bảo phù hợp với chủ trương tự
do hoá lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước đang phấn đấu.
Thứ bảy, về vấn đề tranh cãi có nên nâng trần lãi suất? Quy định của pháp luật hiện hành
tại điều 476 BLDS 2005 nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về vay, cho vay vốn và các
giao dịch dân sự, nhằm ngăn chặn cho vay nặng lãi, mang tính bóc lột không phù hợp với
bản chất của Nhà nước ta. Trong bối cảnh lạm phát hiện nay, chúng ta cần tính đến các
nhà sản xuất bởi khi không có vốn họ đi vay nhưng vay với lãi cao không đủ sức trả nợ
thì phá sản, lại ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế. Tác giả cho rằng, tạm thời Nhà nước
nên giữ nguyên quy định của điều 476 bởi việc thay đổi lãi suất cần phải cân đối giữa các
lợi ích nhằm chống cho vay nặng lãi, suy giảm kinh tế… và đặc biệt cần phải phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế xã hội. Đồng thời kết hợp hài hoà với việc giải thích luật của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội về vấn đề điều 476 BLDS 2005 không điều chỉnh các quan hệ tín
dụng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng hoạt động theo quy định của Luật Ngân
hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Khi nền kinh tế đi vào ổn định, lạm phát phi
mã chấm dứt, kinh tế phát triển… chúng ta sẽ nghĩ đến việc nâng trần lãi suất.
PHẦN KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu đề tài liên quan đến lãi suất trong hợp đồng vay tiền không chỉ có ý
nghĩa trên mặt lý luận bởi các quy định của pháp luật về lãi suất còn quá khái quát và khó
hiểu mà còn có ý nghĩa trên thực tế. Cuộc sống hàng ngày với những giao dịch nhỏ con
người cũng có những lúc túng thiếu và đi vay của nhau, đó là những điều dễ hiểu và cho
thấy hợp đồng vay tiền có ý nghĩa thiết thực như thế nào. Thực trạng về các hợp đồng
vay tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức… đi vay để đầu tư, sản suất cũng ngày càng
gia tăng. Hơn nữa trong các giao dịch dân sự mang tích chất tài sản thường phải mang lại
lợi nhuận cho ít nhất một bên hoặc cả hai bên chủ thể để đảm bảo và thoả mãn về nhu cầu
vật chất hoặc tinh thần lại càng củng cố thêm phần quan trọng của lãi suất đối với hợp
đồng vay tiền trong cuộc sống hàng ngày. Một đòi hỏi bức thiết là phải có quy định của
pháp luật về lãi suất trong hợp đồng vay tiền một cách cụ thể, rõ ràng. Đồng thời cần
kiểm soát việc cho vay với mức lãi suất nào để phù hợp với quy định pháp luật.
Với những ý nghĩa quan trọng của nó, hình thức của hợp đồng vay tài sản nói chung và
hợp đồng vay tiền nói riêng đã trở thành một công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên tham gia hợp đồng (đặc biệt là hợp đồng dưới hình thức văn bản). Theo
quan điểm của tác giả, cần tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật cho nhân dân về ý
nghĩa thiết thực của hợp đồng và cho họ thấy rằng việc lập một hợp đồng vay tiền bằng
văn bản sẽ đảm bảo quyền lợi sát sườn cho chính mình. Đồng thời những người tham gia
giao dịch dân sự nói chung và tham gia kí kết hợp đồng nói riêng cũng nên ý thức được
điều này để góp phần làm giảm những vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tiền đặc biệt là
lãi suất trong hợp đồng vay.
Có thể nói hoạt động cho vay tiền là một hoạt động kinh doanh bởi có bỏ vốn ra đầu tư
(đối tượng đầu tư là tiền tệ), có thu được lợi nhuận (tiền lãi) và có những khả năng rủi do
(bên vay không có khả năng chi trả…) nên “hoạt động kinh doanh” này cần phải được
pháp luật chú trọng nhiều bởi đã là kinh doanh thì phải có nhiều hình thức kinh doanh mà
đằng sau những hình thức kinh doanh hợp pháp còn có những hình thức biến thái đi…
Qua những nỗ lực của mình, tác giả đã cố gắng làm nổi bật lên những ưu điểm, nhược
điểm của vấn đề nghiên cứu. Có thể nói lãi suất có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền
kinh tế và một quốc gia vững mạnh cần có một nền kinh tế phát triển bền vững, lâu dài.
Quan tâm hơn nữa đến lãi suất sẽ là cơ sở để kinh tế nước nhà phát triển. Vấn đề lãi suất
trong hợp đồng vay tiền không chỉ liên quan đến Luật Dân sự, Luật Ngân hàng mà còn
liên quan đến lĩnh vực tiền tệ nên khá phức tạp cộng với rất nhiều bất cập của lãi suất tác
giả rất hi vọng các nhà làm luật xem xét và sửa đổi. Triển vọng của đất nước đang rất cần
sự nỗ lực của tất cả chúng ta.
CHÚ THÍCH
1. Điều 471 – BLDS 2005
2. Điều 2, Quy định phương pháp tính và hoạch toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng Ban hành kèm theo Quy?t d?nh s?
652/2001/Qé-NHNN ngày 17/5/2001 c?a Th?ng d?c Ngân hàng Nhà nu?c
3. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.63
4. Điều 476 – BLDS 2005
5. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.64
6. Khoản 12, Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước 1997
7. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.67
8. Lấy tên của nhà kinh tế học nổi tiếng Irving Fisher (1867 – 1947) người đã phát
hiện ra mối quan hệ giữa ba biến số trên
9. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.69
10. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.70
11. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.95
12. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.95
13. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.96
14. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.98
15. Khoản 12 Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997
16. Điều 18 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997
17. ản 1 Điều 476 BLDS năm 2005
18. Luật sư Trương Thanh Đức chủ tịch công ty luật BASICO, nguồn
VnEconomy.com.vn
19. Nguồn
20. Khoản 1 éi?u 476 BLDS nam 2005
21. Luật sư Lưu Trường Hận, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, Trưởng Bộ
phận Pháp Chế Ngân hàng Phương Đông
22. M?c b kho?n 4 ph?n I thông tu s? 01 – TT/LT ngày 19/6/1997 c?a Liên t?ch Tòa
án nhân dân T?i cao – Vi?n Ki?m sát Nhân dân T?i cao – B? Tu Pháp – B? tài
Chớnh
23. Kho?n 1 éi?u 476 BLDS 2005
24. Kiến nghị của tác giả được trình bày ở Chương 5: Nhận xét và kiến nghị
25. Luật sư Nguyễn Sa Linh, Đoàn Luật sư Thành Phố Hồ Chí Minh, nguồn
VnEconomy
26. Luật sư Nguyễn Thanh Lương Đoàn Luật sư B?n Tre, nguồn VnEconomy
27. Tham khảo phần phụ lục để nhận thấy rõ điều này
28. Đi?u 163 B? lu?t Hình s? 1999
29. Theo bản án số 44/2008/DS-ST vụ việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản, Toà án
nhân dân huyện Giồng Trôm Tỉnh Bến Tre
30. Ngày Nghị định 144/2006/Né-CP quy d?nh v? hỡnh th?c h?, h?i, biờu, phu?ng;
quy?n, nghia v? và trỏch nhi?m c?a nh?ng ngu?i tham gia h? có hiệu lực thi hành
31. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.92
32. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.92
33. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.93
34. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.94
35. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.94
36. Theo bài viết của Cẩm Vân và Đại An, nguồn
37. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lý thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.239
38. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lý thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb Thống
kê, tr.249
39. Theo Hiệp Hội Ngân hàng Việt Nam
PHỤ LỤC
Bảng lãi suất tiền gửi đối với cá nhân tại thời điểm ngày 28-06-2009
(so sánh lãi suất của các ngân hàng và đối chiếu với quy định của Pháp luật)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự 1995;
2. Bộ luật dân sự 2005;
3. Luật số 06/1997/QH10 về Ngân hàng Nhà nước do Quốc hội ban hành;
4. Luật số 10/2003/QH11 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam do Quốc hội ban hành;
5. Luật các Tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12 1997;
6. Nghị định 144/2006/NĐ-CP quy định về hình thức họ, hụi, biêu, phường; quyền, nghĩa
vụ và trách nhiệm của những người tham gia họ;
7. Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17-5-2001 về việc ban hành quy định
phương pháp tính và hạch toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín
dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành;
8. Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về việc cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng
Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành;
9. Quyết định số 479/QĐ-NHNN về việc mức lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành;
10. Thông tư số 01 – TT/LT ngày 19/6/1997 của Liên tịch Tòa án nhân dân Tối cao –
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao – Bộ Tư Pháp – Bộ tài Chính;
11. Quyết định số 479-QĐ/NHNN ngày 29/02/2008 về lãi suất cơ bản;
12. Quyết định 241/2000/QĐ-NHNN1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay
của tổ chức tín dụng đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà nước ban hành;
13. Công điện 02/CĐ-NHNN ngày 26/2/2008 của Ngân hàng Nhà nước;
14. Báo cáo thẩm tra sơ bộ dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLDS 2005 S?:
272/UBPL12 của Uỷ ban pháp luật ngày 26/3/2008;
15. Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2005;
16. So sánh Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005, Toà án nhân dân tối
cao, Viện khoa học xét xử;
17. Trường Đại Học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân;
18. Trường Đại Học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân;
19. Học viện Ngân hàng (2005), Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng, Nxb Thống kê;
20. Trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
21. Trang web của Ngân hàng Công thương;
22. Trang web của Ngân hàng Ngoại thương;
23. Trang web của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn;
24. Trang web của Ngân hàng HD BANK;
25. Trang web của Ngân hàng HABU BANK;
26. Trang web của Ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn;
27. Trang web của Ngân hàng Kiến long;
28. Trang web của Ngân hàng Đại dương;
29. Trang web của Ngân hàng Việt Nam – Russia;
30. Trang web của Ngân hàng SHB;
31. Trang web của Ngân hàng Đông á;
32. Trang web của Ngân hàng Phương Nam;
33. Trang web của Ngân hàng BIDV;
34. Trang web của Ngân hàng Techcombank;
35. Trang web của Ngân hàng VINASAM;
36. Trang web của Ngân hàng Shinhanvina;
37. Trang web của Ngân hàng ngoài quốc doanh;
38. Trang web của Ngân hàng thương mại cổ phần hàng hải;
39. Trang web của Ngân hàng Sài gòn;
40. Trang web của Ngân hàng quân đội;
41. Trang web của Ngân hàng Bảo Việt;
42. Trang web của Ngân hàng Gia đình;
43. Trang web của Ngân hàng OBC;
44. Trang web của Ngân hàng Seabank;
45. Trang web của Ngân hàng Việt ;
46. Trang web của Ngân hàng Liên Việt;
47. Trang web của Ngân hàng Nam á;
48. Trang web của Ngân hàng Western bank;
49. Trang web của Ngân hàng An Bình;
50. Trang web của Ngân hàng Nam Việt;
51. Trang web của Ngân hàng Tiền phong;
52. Trang web của Ngân hàng Đại á;
53.
54.
55.
56.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lai_suat_trong_hd_vay_tien_8889.pdf