- Sự nhầm lẫn và bất tiện: Với tư cách đơn vị hạch toán, tiền là một thước đo mà chúng ta sử dụng để đo lường và tính toán các giao dịch kinh tế. Khi ngân hàng trung ương tăng mức cung tiền và gây ra lạm phát, giá trị của tiền giảm và thước đo kinh tế này bị co lại. Điều này làm cho việc hạch toán lợi nhuận của các doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn và việc lựa chọn đầu tư của các doanh nghiệp trở nên phức tạp hơn. Nó cũng làm cho các giao dịch hàng ngày trở nên dế nhầm lẫn hơn.
- Tác hại đặc biệt của lạm phát không được dự tính trước- tái phân phối của cải một cách tuỳ tiện: Những tác hại của lạm phát mô tả ở trên tồn tại ngay cả khi lạm phát ổn định và được dự báo trước. Tuy nhiên, khi xảy ra bất ngờ, tức là nằm ngoài dự kiến của mọi người, lạm phát có thể gây ra một tác hại nữa đối với nền kinh tế bởi vì nó tái phân phối của cải một cách tuỳ tiền.
32 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam thời gian vừa qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
1.4. Thứ tư là lạm phát do cầu kéo: Thực tiễn của nền kinh tế thị trường thế giới xác nhận rằng, lạm phát thường có mối liên hệ mật thiết với TTCK và thị trường bất động sản.Tình trạng này đã tác động quyết định đối với lạm phát xét trên các điểm chủ yếu sau đây:
- Một là, tạo nên sự phân hoá hai cực, một cực là tình trạng bội thực vốn trong giới đầu cơ do thu được những khoản lợi nhuận rất lớn từ đầu cơ chứng khoán và bất động sản, hệ quả một mặt là tiền tiếp tục đổ vào thị trường bất động sản làm cho giá cả tăng vọt. Mặt khác là chuyển vào các kênh dự trữ như vàng, ngoại tệ mạnh hay chuyển ra nước ngoài do giá cổ phiếu giảm mạnh, gây thiếu hụt cung tiền làm tăng lãi suất; cực còn lại chủ yếu là các DN dân doanh, khu vực chủ yếu tạo ra tăng trưởng, thiếu vốn nghiêm trọng cho dù đã chấp nhận vay với lãi suất cao. Tình trạng này đương nhiên làm nảy sinh một hậu quả kép, một mặt, làm chệch hướng phân bổ đầu tư hiệu quả, do vậy làm giảm tăng trưởng. Mặt khác, gây nên tình trạng thiếu hụt tiền có thể coi là giả tạo trong lưu thông, khoảng cách cung và cầu tiền bị kéo doãng quá mức, vừa làm tăng giá hàng hoá vừa làm tăng chi phí đầu tư, do vậy lạm phát tăng.
- Hai là, do siêu lợi nhuận có được từ đầu cơ trên cả hai TTCK và bất động sản đã làm nảy sinh phương thức tiêu dùng mà đặc trưng của nó, mua vét với khối lượng lớn trong một thời gian rất ngắn nhiều loại hàng hoá như đất đai, vàng, ngoại tệ... Mặt khác, tạo nên một kênh lưu chuyển riêng biệt về hàng hoá và tiền với khối lượng rất lớn trong giới đầu cơ, vừa làm biến dạng lưu thông tiền tệ, vừa tạo nên sự kích hoạt làm tăng giá đồng loạt nhiều loại hàng hoá một cách đột biến. Thêm vào đó, sự kích hoạt này được sự bổ trợ của hàng loạt tác nhân mà đáng kể nhất là tăng lương, tăng giá xăng dầu, giá nguyên liệu của nhiều loại hàng hoá nhập khẩu... sự chênh lệch giữa mặt bằng giá nội địa thấp và mặt bằng giá cao trên thị trường thế giới đã được khai thông theo nguyên lý bình thông nhau do độ mở của nền kinh tế, kết quả là mặt bằng giá của thị trường nội địa đã bị đẩy lên cao mang tính hệ thống để xích lại gần với giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới. Chưa hết, chính sách kiềm chế tăng giá của chính phủ trong một thời gian dài bất ngờ bị hụt hơi. Giá của nhiều loại hàng hoá rơi vào trạng thái gần như tăng tự do. Kết cục, giá cả tăng mạnh, lạm phát nhất thiết tăng cao.
- Ba là, giá cổ phiếu giảm mạnh vốn là bài toán không xa lạ đối với các nhà đầu cơ. Họ chờ thời điểm chạm đáy và không vội vàng mua vào, một mặt do sự liên kết giữa họ. Mặt khác, họ kỳ vọng các phản ứng của Chính phủ, chẳng hạn như đổ tiền vào TTCK tạo nên sự kích hoạt tăng giá. Hậu quả đương nhiên là lạm phát gia tăng.
- Bốn là, tạo nên tình trạng khó có khả năng kiểm soát. Sự tồn tại lâu dài của đầu cơ và lũng đoạn trên TTCK và thị trường bất động sản đã bao hàm trong nó cơ sở của tình trạng phân bổ vốn đầu tư vào lĩnh vực có nhiều rủi ro mà rất khó kiểm soát đương nhiên tự nó sẽ sản sinh ra lạm phát.
Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng: sự yếu kém của hệ thống này thể hiện trên hai điểm chủ yếu: Nếu như trước đây hệ thống này có chức năng chủ yếu là cho các xí ngiệp quốc doanh vay tiền, nghiã là nguồn vốn chủ yếu của quốc gia được tập trung đầu tư vào lĩnh vực không có, hoặc ít có khả năng sinh lời, thì từ khi đổi mới đến nay, nó đã thực hiện một bước chuyển theo chiều ngược lại, chủ yếu tập trung cho vay ở lĩnh vực có khả năng sinh lợi cao nhất của nền kinh tế, cụ thể là tập trung cho vay mua cổ phiếu và bất động sản. Vì rằng mua cổ phiếu và bất động sản chủ yếu là nhằm mục tiêu đầu cơ, thành thử trên thực tế, hệ thống ngân hàng trở thành một bộ phận hay chỗ dựa của các hoạt động đầu cơ và lũng đoạn thị trường. Điều này hàm ý rằng, trong trường hợp giá cổ phiếu sụt giảm mạnh như hiện nay và thị trường bất động sản khó tránh khỏi khủng hoảng trong thời gian tới, ngân hàng đã và sẽ mất khả năng thanh toán, tạo ra tình trạng hoảng loạn, người gửi ồ ạt rút tiền để chuyển sang các hình thức dự trũ khác ít rủi ro hơn, như vàng hay những hàng hoá có khả năng đảm bảo khác làm cho thị trường tài chính rối loạn.
Bên cạnh đó, tình trạng hàng loạt công ty đua nhau lập ngân hàng chủ yếu nhằm kinh doanh chứng khoán và bất động sản, từng dòng người chen chúc nhau mua vét vàng ở các hiệu vàng tư nhân không thể không làm suy yếu hệ thống ngân hàng và gia tăng thêm tình trạng hỗn loạn của thị trường tài chính.
Vì rằng chính sách tài chính tiền tệ chỉ có thể phát huy tác dụng trong điều kiện hệ thống ngân hàng đủ mạnh, nên trong bối cảnh nêu trên, chính sách tài chính tiền tệ quốc gia hoặc là sẽ bị tê liệt, hoặc là không có thậm chí phản tác dụng, lạm phát như là kết quả tất nhiên không thể tránh khỏi.
Mặt khác, việc tổ chức hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập với các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Quan sát vẻ bề ngoài thì dường như sự phân cấp của hệ thống ngân hàng hiện nay là tương thích với hệ thống ngân hàng của các nước có nền kinh tế thị trường. Thế nhưng trên thực tế, ngân hàng trung ương nước ta cũng chỉ giống như một bộ ngành thực hiện chức năng quản lý hành chính chứ không phải làm nhiệm vụ quản lý hệ thống ngân hàng chuyên doanh mà nhiệm vụ quan trọng nhất là định hướng các ngân hàng này chuyển tiền vào các lĩnh vực đầu tư có hiệu quả chứ không phải chủ yếu chuyển vào các cuộc chơi đầy may rủi như hiện nay.
Thực tế của nền kinh tế thị trường xác nhận rằng, quy định lãi suất, mức dự trữ bắt buộc hay lớn hơn là quyết định mức cung tiền vẫn đơn thuần là các nghiệp vụ hành chính chừng nào không có khả năng định hướng các ngân hàng chuyên doanh nhằm vào mục tiêu tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Xét trên giác độ này, ngân hàng trung ương đã không thực hiện được chức năng định hướng các ngân hàng chuyên doanh hoạt động hiệu quả. Thực tế là, ngân hàng trung ương có rất ít mối quan hệ với các ngân hàng chuyên doanh. Mối quan hệ tương tác xét trên bình diện quản lý kinh tế thực sự là chưa được xác lập. Bằng chứng là, các hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng chuyên doanh, về cơ bản không có mối liên hệ nào với ngân hàng trung ương. Rõ ràng là các hoạt động tín dụng của ngân hàng vì mục tiêu đầu cơ trong TTCK và thị trường bất động sản đã tồn tại trong một thời gian dài, trong khi ngân hàng trung uơng thực ra chỉ tồn tại bên cạnh nó như một cơ quan quản lý hành chính bất lực trước các hoạt động đầu cơ của các ngân hàng chuyên doanh. Với một hệ thống ngân hàng như vậy, lạm phát chỉ là vấn đề thời gian ngay cả trong trường hợp giá nguyên liệu thế giới cũng như giá lương thực thực phẩm không tăng. Nói khác đi, lạm phát nhất định sẽ xảy ra mà không phụ thuộc vào tăng giá lương thực, thực phẩm cũng như tăng giá nguyên liệu trên thị trường thế giới ở mức độ nào.
1.5. Thứ năm là Lạm phát do chính sách tiền tệ:
Lạm phát có được bước nhảy vọt ngoặt mục như thế phần lớn từ chính sách thiếu đồng bộ giữa ngân hàng và bộ tài chính.
Vấn đề nhảy vọt có nguyên nhân khá rõ ràng. Ngân hàng (NH) phải mua vào số lượng lớn ngoại tệ (đầu tư trực tiếp và đặc biệt là đầu tư vào TTCK.Thời báo Kinh tế Sàigòn (số 10/2008) đã đưa thông tin rất quan trọng cho biết, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nửa đầu năm 2007 đã tung ra 105 ngàn tỉ đồng để mua vào 6,5 tỉ USD làm dự trữ ngoại tệ, sau đó lại tung thêm 40 ngàn tỉ đồng để mua thêm 2,5 tỉ USD . Như vậy tổng số tiền tung ra mua 9 tỉ USD ngoại tệ là 145 ngàn tỉ đồng.
Muốn tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi phải thúc đẩy đầu tư mạnh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều, như vậy lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát tiền tệ cũng sẽ nảy sinh.
Như đã được đề cập, cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến (gồm cả đầu tư và kiều hối), từ đó buộc Ngân hàng nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng. Việc mua đó đồng nghĩa với tung thêm tiền đồng Viêt Nam vào lưu thông, nhưng không thể không mua được vì một mặt để tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho nhập khẩu, mặt khác là để thu hút luồng vốn từ bên ngoài vào phát triển kinh tế. Nhưng theo các nhà kinh tế, không mua USD vào còn tồi tệ hơn, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư trong nước. Bởi vậy, hoạt động nghiệp vụ tiền tệ thu gom hơn 90 000 tỉ đồng trong năm 2007 là giải pháp đúng của Ngân hàng nhà nước.
Nhưng lạm phát bùng lên trong năm 2007 và hai tháng đầu năm 2008 là do nhiều nguyên nhân, thậm chí có cả nguyên nhân tích tụ từ lâu do đầu tư kém hiệu quả (hệ số ICOR tăng), cuối cùng thể hiện ở chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam đã ngày một dãn rộng trong vòng 3 năm qua. Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6-2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan là hầu như không đáng kể.
1.6. Thứ sáu là Lạm phát do tỉ giá hối đoái VND:
Neo tỷ giá cứng nhắc với USD dẫn đến cung tiền tăng mạnh
Kinh tế Việt Nam trẻ, được đánh giá có nhiều tiềm năng và triển vọng về cơ hội đầu tư do vậy sau khi gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng đột biến (chỉ tính riêng năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). Về nguyên tắc khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng, Việt Nam Đồng (VNĐ) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng.
Tuy nhiên, với chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu, NHNN Việt Nam phát hành VNĐ mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VNĐ với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VNĐ yếu có thể coi là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu và phát huy ở trong những điều kiện kinh tế thế giới nhất định. Tuy nhiên, mặt trái thứ nhất của chính sách này là do phải tung VNĐ ra mua lại lượng ngoại tệ chảy vào, lượng cung tiền của Việt Nam từ năm 2005 đến nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn mặc dù NHNN đã có nỗ lực hút lại một phần cung tiền.
Neo tỷ giá với USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu khiến chi phí cho sản xuất trong nước tăng
Tuy nhiên tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (tính đến cuối tháng 2/2008 chỉ tăng 0.24% so với 2006). Do đó qua việc neo tỉ giá, VNĐ cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VNĐ yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng đồng thời lại góp phần “nhập khẩu lạm phát “vào Viet Nam. Lí do là sản xuất tại Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy mócSự mất giá của USD hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VNĐ dưới chế độ tỷ giá neo là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Chi phí cho sản xuất tăng cao, lượng cung tiền lớn do vậy lạm phát phi mã là không tránh khỏi.
1.7. Thứ bảy Lạm phát do bội chi ngân sách:
Theo đánh giá của IMF thì bội chi ngân sách của Việt Nam là 6,6%GDP lớn hơn mức độ bội chi tối đa cho phép là 5%. Chính phủ có thể hồi phục sự ổn định tương đối nhanh chóng bằng kiểm soát chi tiêu công và tiền vay của doanh nghiệp nhà nước. Vào đầu những năm 90, lo lắng vì hoạt động kém hiệu quả của các công ty nhà nước khiến chính phủ quyết định thành lập các tổng công ty và tập đoàn kinh tế, theo hình mẫu keiretsu của Nhật và chaebol của Hàn Quốc. Ý định ban đầu là quy mô lớn sẽ giúp các công ty cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Các NHTM đang phải huy động vốn trong dân với lãi suất từ 10-11%/năm. Trong khi bị bắt buộc mua tín phiếu của NHNN với lãi suất 7,8%. Điều này đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất sẽ tăng cao, có nghĩa là giá thành sản phẩm sẽ không thể nào giảm được. Giá cả vì thế lại tiếp tục leo thang. Như vậy, nếu tình trạng này kéo dài, cuộc chiến chống lạm phát do NHNN khởi xướng với những công cụ tưởng như rất kịp thời và đúng tiêu chuẩn quốc tế nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô, giảm thiểu gánh nặng lạm phát cho doanh nghiệp và nâng cao đời sống người dân về bản chất đang trở thành cuộc đùn đẩy trách nhiệm và chi phí chống lạm phát sang cho chính họ (doanh nghiệp và người dân). Chống lạm phát như thế có thể được ngay hiệu quả trước mắt nhưng về lâu dài sẽ để lại hậu quả thật khó lường. Sản xuất đóng băng, tăng trưởng suy giảm, nền kinh tế rất dễ sa vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng và đời sống người dân ngày càng chật vật.
2.THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Vấn đề lạm phát của nền kinh tế nước ta đã được đưa ra nhiều từ giữa năm 2007. Có thể thấy, liên tục từ 1998 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau đều cao hơn năm trước và năm 2007 đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm. Tuy nhiên, cũng đã có sự cảnh báo về sự tăng trưởng nóng, về sự bền vững của tăng trưởng.
Trước tình hình và diễn biến của nền kinh tế - xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên số hàng đầu.
Giá cả leo thang làm cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp điêu đứng. Không chỉ giá lương thực thực phẩm leo lên vùn vụt, mà giá than, giá vật liệu xây dựng và giá một số dịch vụ cũng tăng lên. Hiện tượng mức giá chung tăng đều đặn được gọi là lạm phát. Người ta dùng nhiều chỉ số để đo lạm phát và chỉ số quen thuộc nhất là chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
Chỉ số này được tính trên cơ sở theo dõi biến động giá theo thời gian của các mặt hàng nhất định (từ 2005 rổ hàng hoá này gồm gần 500 hàng hoá và dịch vụ). Chỉ số CPI đã liên tục tăng suốt 4 năm qua: Bắt đầu là 9,5% năm 2004; 8,4 % năm 2005; 6,6% năm 2006; 12,6% năm 2007 và trong 4 tháng đầu năm 2008 đã tăng 11%.
Chỉ số CPI từ 2000 đến quí 1/2008 ( Nguồn: Tổng cục thống kê)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Quý1/2008
CPI
-0.6
8
4
3
9.5
8.4
6.6
12.6
11
Thông qua bảng dữ liệu trên có thể rút ra nhận xét :
Thứ nhất, sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn quá yếu. Bằng chứng, cùng chịu chung áp lực biến động giá trên thị trường thế giới, nhưng 2 tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng ở các nước trong khu vực tăng không đáng kể: Thái Lan – 1,7%, Malaysia – 2,2%, Indonesia – 1,8%, Trung Quốc – 2,9%, trong khi con số này ở ta là – 6,19%.1 Dễ nhận thấy nhất là ở hiệu quả sản xuất. Trong khi những yếu tố lợi thế như lao động rẻ hay giá năng lượng thấp vẫn chưa được khai thác triệt để thì các chi phí khác lại quá cao. Nhiều chi phí cao đến mức phi lý như: chi phí thuê đất, chi phí vận tải, đặc biệt là các chi phí “bôi trơn”; công nghệ sản xuất thì lạc hậu (đi sau so các nước trong khu vực khoảng chừng 20-30 năm); cơ sở hạ tầng còn yếu, nền công nghiệp lệ thuộc gần như hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu... cộng thêm với năng lực quản lý còn yếu, quan liêu, tham nhũng (đặc biệt ở các DNNN). Tất cả đã đẩy giá thành các sản phẩm trong nước lên tới mức trần, có nghĩa là không còn khoảng trống an toàn để dự phòng về giá. Chính vì vậy, khi một yếu tố sản xuất nào đó thay đổi, ngay lập tức tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm.
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam kém năng động bởi vì khi nhìn vào phản ứng của các chủ thể kinh tế cơ bản sẽ thấy Ngân hàng Nhà nước, cơ quan chịu trách nhiệm chính trong kiểm soát lạm phát, trước lượng tiền đầu tư nước ngoài tăng hơn dự kiến (7 tỷ USD trong 6 tháng) đã tỏ ra bối rối. Khi một quốc gia được các nhà đầu tư “ưu ái” bơm tiền - đó là cơ hội lớn. Nhiệm vụ của chúng ta là làm thế nào để hấp thụ lượng tiền này, biến nó thành sản phẩm, thành giá trị gia tăng thúc đẩy kinh tế phát triển. Các doanh nghiệp cũng vậy, trước áp lực lạm phát, vẫn giữ một chiêu duy nhất – tăng giá bán, khá hơn một chút là thực hành tiết kiệm
Tình hình kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2008 đã và đang có những diễn biến bất lợi. Tăng trưởng kinh tế vẫn cao, nhưng không đạt mục tiêu đề ra, tăng trưởng của công nghiệp - xây dựng thấp. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có biểu hiện xấu.Giá tiêu dùng liên tiếp tăng và tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đã là 9,19%, nêu tính cả tháng 4 đã là trên 11%, ảnh hưởng rất bất lợi đến sản xuất kinh doanh, đến đầu tư phát triển và tác động xấu đến đời sống nhân dân. Thị trường tài chính, thị trường chứng khoán có nhiều biến động bất thường, nhập siêu tăng cao, cán cân thương mại và cán cân thanh toán thiếu vững chắc,mới đây nhất là việc giá dầu tăng cao kỉ lục 128 USD/thùng .Nhóm hàng lương thực đã tăng 15,02%,nhóm hàng thực phẩm tăng 10,06% ,nhà ở và xây dựng tăng 11,01%... và chỉ có riêng nhóm hàng bưu chính viễn thông giảm được 2,91%.
Một số chỉ tiêu chủ yếu 10 tháng năm 2008 (tăng/giảm) so với cùng kỳ năm trước (%)
Giá trị sản xuất công nghiệp
+15,8
Tổng kim ngạch xuất khẩu
+36,7
Tổng kim ngạch nhập khẩu
+42,6
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
+30,7
Khách quốc tế đến Việt Nam
+3,5
Vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước thực hiện (so với kế hoạch 2008)
77,1
Chỉ số giá tiêu dùng 10 tháng năm 2008 so với 10 tháng năm 2007
+23,15
( Nguồn: Tổng cục thống kê)
Lạm phát tháng 10 giảm còn 26,7%.Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam tăng 26,7% trong tháng 10/2008 so với cùng kỳ năm ngoái,chỉ số này thấp hơn 0,2% theo chỉ số so sánh lạm phát từng tháng và cũng thấp hơn tỉ lệ lạm phát so sánh theo năm, ở mức 27,9% được công bố hồi tháng 9/2008. Tổng cục Thống kê cũng cho biết chỉ số tính theo tháng giảm phản ánh giá năng lượng và nguyên vật liệu đầu vào trên thế giới thấp hơn. Điều này cũng được giải thích như là hệ quả của việc cắt giảm giá năng lượng, nhiên liệu trong nước và là hệ quả của các biện pháp thắt chặt tín dụng của hệ thống ngân hàng quốc nội. Điều tiết tín dụng, ngân hàng là một trong loạt giải pháp đồng bộ đã được Chính phủ thực thi nhiều tháng qua nhằm kiềm chế lạm phát. Đầu năm nay, vẫn theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu thụ của Việt Nam đã tăng 21,6% và tuần trước, Thủ tướng Chính Nguyễn Tuấn Dũng, dự báo lạm phát cả năm 2008 ở mức 24%.
Tăng giảm các chỉ số
Nhóm chỉ số giá thực phẩm đã tăng lên 40,6% vào tháng Mười nhưng đã hạ 0,4% so với tháng Chín vừa qua, vẫn theo Tổng cục Thống kê. Nhóm chỉ số giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 22,8% theo so sánh cùng kỳ theo năm và giảm 1,1% theo tháng. Trong khi đó, giá thức uống và thuốc lá tăng 13,3% so với tháng 10/2007, nhưng giảm 0,7% so với tháng trước. Tình trạng lạm phát với hai chữ số diễn ra trong thời gian dài đã tấn công trực tiếp vào khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 10 năm 2008 %
CÁC CHỈ SỐ GIÁ
Tháng 10 năm 2008 so với
Chỉ số giá 10 tháng 2008 so với cùng kỳ năm 2007
Kỳ gốc 2005
Tháng 10 năm 2007
Tháng 12 năm 2007
Tháng 9 năm 2008
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
148,20
126,72
121,64
99,81
123,15
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
172,14
140,56
132,12
99,58
136.95
Trong đó:
Lương thực
201,99
160,06
151,41
98.09
149.58
Thực phẩm
161,16
132,82
124,44
100.01
133.05
Đồ uống và thuốc lá
128,32
113,27
111,34
100,67
110.21
May mặc, giày dép và mũ nón
126,05
112,55
110,82
100,70
109.81
Nhà ở và vật liệu xây dựng
148,40
122,84
116,76
98,92
122.39
Thiết bị và đồ dùng gia đình
125,94
111,99
111,26
100,73
108.36
Dược phẩm, y tế
123,00
109,76
108,75
100,58
108.72
Phương tiện đi lại, bưu điện
138,44
124,82
119,56
99,06
116.66
Trong đó:
Bưu chính, viễn thông
83,46
89,21
90,39
99.82
88.44
Giáo dục
115,02
106,71
106,56
100.69
103.63
Văn hoá, thể thao, giải trí
115,74
109,50
109,30
100,38
105.03
Đồ dùng và dịch vụ khác
132,35
114,65
111,69
100,85
113.11
CHỈ SỐ GIÁ VÀNG
206,76
125,15
112,53
103,21
137,43
CHỈ SỐ GIÁ ĐÔLA MỸ
104,45
102,46
102,95
99,95
101,71
Giá tiêu dùng
Giá tiêu dùng tháng 10/2008 giảm 0,19% so với tháng trước, là lần giảm đầu tiên kể từ đầu năm trở lại đây. Nguyên nhân chủ yếu một mặt do 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ tiếp tục phát huy tác dụng; mặt khác do giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới giảm đã tác động đến giá tiêu dùng trong nước.
Các nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm là: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,42% (lương thực giảm 1,91%); nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 1,08%; phương tiện đi lại, bưu điện giảm 0,94%. Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng nhẹ ở mức dưới 1%: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,67%; may măc, giày dép và mũ nón tăng 0,7%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,73%; dược phẩm, y tế tăng 0,58%; giáo dục tăng 0,69%; văn hoá, thể thao, giải trí tăng 0,38%. So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 10/2008 tăng 26,72%; so với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 10/2008 tăng 21,64%. Giá tiêu dùng bình quân 10 tháng năm 2008 so với 10 tháng năm 2007 tăng 23,15%.
3. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát là bài toán luôn thường trực trên bàn nghị sự của các Chính phủ nhưng cũng là bài toán khó giải nhất đối với tất cả các nền kinh tế, kể cả nền kinh tế thị trường phát triển. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Nền kinh tế nước ta mới chuyển từ cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy thời gian chưa nhiều, đủ để phát hiện và khảo sát tính chu kỳ của nền kinh tế, song những biểu hiện của nó đã xuất hiện tương đối rõ. Kể từ năm 1986 đến nay, tăng trưởng kinh tế đã trải qua 4 giai đoạn thăng trầm: năm 1986 – 1991 chỉ tăng trưởng 4,7%/năm; năm 1992 – 1997 tăng trưởng tới 8,7%/năm mà đỉnh cao là năm 1995 với GDP tăng 9,5%; năm 1998 – 2001 lại hạ xuống còn khoảng 6%/năm và năm 2002 – 2005 phục hồi với trên 7,6%/năm.
Bài toán khó giải nhất hiện nay là kiềm chế tăng giá trong khi vẫn phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở mức cao. Theo quy luật kinh tế chung, tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát tăng thường song hành với nhau. Kinh nghiệm cho thấy lạm phát chỉ cản trở tăng trưởng khi lên đến mức 2 con số, do đó, trong giai đoạn năm 2006 – 2010 nói chung, năm 2008 nói riêng cần cân nhắc phương án đánh đổi giữa mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu lạm phát,
Về bản chất, chính sách tài khoá tác động rất mạnh tới tăng trưởng và lạm phát, đặc biệt là đối với mô hình kinh tế như của Việt Nam hiện nay, từ cả phía thu ngân sách, chi ngân sách cũng như qui mô bội chi ngân sách nhà nước và cách thức bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước luôn được coi là nguyên nhân trực tiếp, cơ bản dẫn đến lạm phát. Bên cạnh đó, nếu chính sách tài khoá là công cụ vĩ mô tương đối cứng nhắc, thiếu độ linh hoạt vì mỗi sự thay đổi dự toán chi ngân sách hay thay đổi thuế suất từng sắc thuế đều phải thực hiện theo những quy trình tương đối phức tạp, thì ngược lại, chính sách tiền tệ lại đặc trưng bởi mức độ linh hoạt rất cao, thậm chí trong trường hợp “cố định” chính sách tài khoá thì chính sách tiền tệ trở thành công cụ duy nhất, hữu hiệu nhất để thúc đẩy tăng trưởng trong khi vẫn kiểm soát được lạm phát.
Một điểm đáng ngạc nhiên từ năm 2004 đến nay là, để kìm hãm tốc độ tăng giá có dấu hiệu vượt khỏi tầm kiểm soát, chúng ta đã chủ trương đặt trọng tâm vào các công cụ tài chính giá cả như cắt giảm thuế nhập khẩu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước, hạn chế điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý giá, hạn chế điều chỉnh tiền lương tối thiểu, cắt giảm chi phí sản xuất,trong khi hầu như “cố định” các công cụ của chính sách tiền tệ, chỉ điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mà không có động thái rõ ràng nào đối với chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái. Hiệu quả của chủ trương này như thế nào còn cần thời gian để kiểm chứng song nó cho thấy dường như chúng ta quen sử dụng các công cụ can thiệp của Nhà nước hơn là các công cụ thị trường linh hoạt. Trong khi đó tất cả các nước có nền kinh tế thị trường đều thừa nhận vai trò quyết định của điều chỉnh lãi suất mỗi khi muốn kiểm soát tốc độ tăng giá và lạm phát, chỉ riêng nước ta dường như lại có cách làm khác.
Trong hoạch định chính sách tài chính tiền tệ cũng cần tính tới “tính lây truyền” của lạm phát trên thế giới khi mức độ mở cửa thị trường tăng và thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế - tài chính quốc tế. Theo một nghiên cứu của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đối với nhóm 23 nền kinh tế thị trường mới nổi trong giai đoạn năm 1970 – 1999, tốc độ lạm phát ở nhóm quốc gia này có mối quan hệ chặt chẽ với lạm phát toàn cầu không kém mối quan hệ với thâm hụt ngân sách. Những biến động giá cả từ đầu năm 2004 tới nay cho thấy phần nào những chính sách điều tiết vĩ mô của chúng ta dường như chưa theo kịp tốc độ hội nhập mở cửa nên không thể giải quyết một cách nhất quán và hiệu quả những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Cũng cùng sức ép từ biến động giá quốc tế, thậm chí cường độ tác động còn mạnh hơn do mức độ mở cửa cao hơn, song hầu hết các nước quanh chúng ta đều kiểm soát tốt giá cả và lạm phát trong khi duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, đặc biệt là Trung Quốc. Rõ ràng, chúng ta cần rút ra những bài học kinh nghiệm về kiềm chế lạm phát từ thực tế này. Nên tập trung trí tuệ và sức lực vào việc tìm ra giải pháp kiềm chế tốc độ tăng giá hiện nay nhằm ổn định kinh tế vĩ mô của chúng ta trong “hệ quy chiếu” thị trường, hội nhập và mở cửa kinh tế.
Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm 8 – 8,5% trong khi kiềm chế tốc độ lạm phát dưới 2 con số hiện tại là không thể. Thực tế diễn biến thị trường quốc tế năm 2004 – 2007 không thuận lợi cho mục tiêu tăng trưởng cao của chúng ta nên việc theo dõi thị trường và kịp thời điều chỉnh chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng hay thắt chặt trong từng giai đoạn phát triển là chìa khoá đối phó hữu hiệu với những cú sốc trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập của Việt Nam.
4. Giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua
Chính phủ thống nhất xác định nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu từ nay tới hết năm 2008 là kiềm chế lạm phát. Chính phủ đề nghị Quốc hội điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng cả năm 2008 ở mức khoảng 7% và xem xét các giải pháp tổng hợp để đưa tốc độ tăng giá tiêu dùng theo hướng giảm dần.
Chính phủ đã xác định 8 nhóm giải pháp chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt trong thời gian tới. Thủ tướng nhấn mạnh 4 nội dung: Thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ, hiệu quả; Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy mạnh phát triển sản xuất, dịch vụ và thu hút đầu tư; Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu; bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa; tăng cường quản lý thị trường, giá cả; chống đầu cơ, buôn lậu; Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế.
Thứ hai, tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ thống chính trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết; thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng, dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng.
Thứ ba, yêu cầu các bộ, ngành dứt khoát phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi măng, sắt, thép, phân bón... gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả: không tăng giá bán than cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu. Nhà nước tiếp tục bù lỗ cho các mặt hàng này nhằm ổn định giá. Đồng thời, yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại trong nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước không đầu cơ trục lợi và tăng giá các mặt hàng.
Thứ tư, tìm mọi cách đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu, không có xuất khẩu thì không có tăng trưởng nên tập trung đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh như thuỷ sản, dệt may và da giầy... Chính phủ sẽ kiểm soát quyết liệt nhập siêu bằng cả biện pháp thị trường và hành chính vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Bộ Công thương nghiên cứu hạn chế nhập siêu các mặt hàng không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, phụ tùng xe máy... phấn đấu kiểm soát nhập siêu trong năm 2008 tương đương năm ngoái, tiến tới cân bằng cán cân thương mại.
Thứ năm, tập trung ưu tiên tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất công-nông nghiệp và dịch vụ. Nhanh chóng khắc phục khó khăn do hạn hán, rét đậm vừa qua gây ra để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, tăng cường các biện pháp phòng chống, kiểm soát và khống chế dịch bệnh bùng phát và lan rộng. Sớm hoàn thành và đưa vào sử dụng các dự án công trình mang lại sản phẩm lớn cho xã hội như điện, xi măng, thép...
Thứ sáu, đề nghị các bộ, ngành rà soát các chương trình, chính sách hỗ trợ người có thu nhập thấp, người nghèo để tiếp tục hỗ trợ tích cực các đối tượng này nhằm đảm bảo an sinh xã hội trong tình hình giá cả tăng cao.
Thứ bảy, cung cấp thông tin, tuyên truyền phải tạo sự nhất trí, đồng thuận, cùng nhau chung sức hợp tác chặt chẽ vượt qua khó khăn, thực hiện đồng bộ và quyết liệt các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh khó khăn toàn cầu.
Thứ tám, phát triển mạnh sản xuất và dịch vụ
Chính phủ sẽ kiểm tra chặt chẽ việc đầu tư không thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư kinh doanh tài chính, chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản.
Phát triển mạnh sản xuất và dịch vụ được xem là giải pháp cơ bản, tạo hiệu quả trực tiếp, nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung các hàng hóa và dịch vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần thiết thực kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu. Tiếp tục thu hút mạnh và giải ngân nhanh các nguồn vốn đầu tư phát triển, nhất là các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao và có giá trị xuất khẩu lớn.
Chính phủ tăng mạnh đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trước mắt tập trung chỉ đạo chăm sóc tốt các vụ lúa chưa thu hoạch, không để xảy ra dịch bệnh trên diện rộng; đảm bảo đủ giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuỷ lợi...
Tiếp tục làm tốt công tác phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng vật nuôi, nhất là dịch cúm gia cầm H5N1 và dịch lợn tai xanh. Huy động đủ nguồn lực, áp dụng đồng bộ các biện pháp để khoanh vùng, dập tắt dịch bệnh không để lây lan. Bổ sung các chính sách hỗ trợ cần thiết và chỉ đạo thực hiện tốt công tác khắc phục hậu quả dịch bệnh, nhanh chóng khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Tăng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu so với năm 2007
Thực hiện các biện pháp mạnh mẽ, thiết thực để đẩy mạnh xuất khẩu là giải pháp cơ bản nhằm hạn chế nhập siêu, thúc đẩy tăng trưởng. Chính phủ đề ra mục tiêu phấn đấu tăng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu so với năm 2007.
Không tăng giá cho đến khi kiềm chế được lạm phát
Chính phủ chủ trương chưa điều chỉnh tăng giá điện, xăng dầu, than, nước sinh hoạt, cước vận chuyển máy bay, tàu hỏa, xe buýt. Khi kiềm chế được lạm phát sẽ áp dụng lộ trình thích hợp thực hiện giá thị trường.
Chính phủ chỉ đạo ổn định giá bán xăng dầu trong nước đến hết tháng 6-2008, dự kiến ngân sách sẽ phải bù lỗ khoảng 12.000 tỷ đồng cả năm, tương đương mức bù lỗ năm 2006. Tuy nhiên, Thủ tướng cũng nói thêm: nếu giá dầu thô thế giới tăng trên mức 110 USD/thùng, ngân sách sẽ phải bù lỗ lớn hơn và rất khó có khả năng cân đối.
Để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng thời bảo đảm lợi ích của người trồng lúa, Chính phủ quy định lượng xuất khẩu gạo cả năm 2008 từ khoảng 3,5 đến 4 triệu tấn với tiến độ giao hàng thích hợp và đang nghiên cứu việc áp dụng thuế xuất khẩu gạo.
Quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch và kế hoạch khai thác, sử dụng và xuất khẩu than; xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu và khai thác than trái phép; thực hiện tiết kiệm trong sử dụng và giảm mạnh xuất khẩu than để bảo đảm an ninh năng lượng trong nước cả trước mắt và lâu dài.
Chú trọng thực hiện các biện pháp đủ mạnh để chống buôn lậu, gian lận thương mại, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, than và một số loại hàng hóa khác.
Chính sách cấp bách đảm bảo an sinh xã hội
- Xuất 80.000 tấn gạo dự trữ quốc gia, cấp không thu tiền cho hộ thiếu đói và bị thiên tai, số lượng cao nhất từ trước đến nay
- Điều chỉnh lộ trình tăng lương theo đề án cho cán bộ, công nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp; cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và người lao động làm việc trong các doanh nghiệp.
- Nghiên cứu điều chỉnh chế độ trợ cấp xã hội vào những năm tới.
- Đẩy mạnh thực hiện hàng loạt Chương trình an sinh xã hội: chương trình phát triển nhà ở xã hội cho các đối tượng có thu nhập thấp tại đô thị; Phát triển nhà ở công vụ cho giáo viên. Chương trình hỗ trợ về nhà ở cho hộ nghèo ở khu vực nông thôn và miền núi; Thực hiện giai đoạn 2 chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long. Xây dựng Chương trình phát triển cơ sở hạ tầng và nhà ở vùng thường bị bão lũ miền Trung. Sửa đổi chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước theo hướng chuyển mạnh sang hỗ trợ các dự án thuộc lĩnh vực xã hội và hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng thụ hưởng chính sách. Bổ sung chính sách trợ giúp thích hợp để giảm nghèo bền vững ở 58 huyện khó khăn nhất của cả nước. Tiếp tục rà soát, cắt giảm các loại phí thu từ nông dân. Nghiên cứu để có quy định phù hợp về chuẩn hộ nghèo.
9 nhóm nhiệm vụ tạo tiền đề phát triển nhanh, bền vững
Thứ nhất: Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật, hình thành nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là thủ tục hành chính, tạo ra chuẩn mực mới cho nền hành chính quốc gia.
Thứ hai: Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch; chuyển mạnh việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo hướng coi trọng hơn nữa các chỉ tiêu chất lượng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững.
Thứ ba: Đẩy nhanh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, nhất là những công trình giao thông quan trọng ở những vùng có dung lượng hàng hoá lớn, có tính kết nối vận tải cao nhằm giải tỏa ách tắc, tăng khả năng lưu thông hàng hóa, tiết kiệm chi phí vận tải, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
Thứ Tư: Chú trọng phát triển nhanh nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng để thu hút mạnh các dự án đầu tư có trình độ công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và cơ cấu hàng xuất khẩu.
Thứ Năm: Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh; quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa; sơ kết hoạt động của các tập đoàn kinh tế và làm rõ hơn vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
Thứ Sáu: Đồng thời với việc chuẩn bị Đề án trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chiến lược phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn, nông dân, cần khẩn trương xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu và nước biển dâng để giảm thiểu tối đa những hiểm họa có thể xảy ra, nhất là đối với sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân.
Thứ Bảy: Tiếp tục hoàn thiện chính sách và mở rộng mạng lưới an sinh xã hội nhằm hỗ trợ thiết thực những đối tượng dễ bị tổn thương trong quá trình phát triển, nhất là những người làm công ăn lương; thực hiện giảm nghèo bền vững, bảo đảm cho người nghèo được thụ hưởng hợp lý thành quả của sự tăng trưởng.
Thứ Tám: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ Chín: Tăng cường công tác đối ngoại và quốc phòng, an ninh; giữ vững chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Từ các nhóm giải pháp trên, có thể thấy chính phủ đã hạ quyết tâm cao trong cuộc chiến chống lạm phát. Trong đó, những công cụ để điều hành kinh tế vĩ mô đã được huy động như chính sách tiền tệ, đầu tư công, thúc đẩy xuất khẩu. Cũng với việc đề ra các nhóm giải pháp, chính phủ cũng đã thực hiện cuộc vận động toàn dân tham gia vào cuộc chiến chống lạm phát. Tuy nhiên, hiệu quả của công cuộc chống lạm phát không thể đạt được nếu chỉ dừng lại ở mức độ đưa ra giải pháp. Ba công đoạn sắp tới là thực thi, kiểm tra và đánh giá hiệu quả đóng vai trò rất quan trọng.
PHẦN III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỀ CÁC GIẢI PHÁP KIỂM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Thực tiễn kết quả thực hiện nhóm 8 giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát của Chính phủ đã cho thấy đó là nhóm những giải pháp khả thi và hiệu quả nhất. Đặc biệt trong bối cảnh chung tình hình kinh tế thế giới đang lâm vào suy thoái, các chuyên gia kinh tế tại các tổ chức kinh tế lớn và các cường quốc phát triển trên thế giới đều đánh giá và cho rằng các bước đi, giải pháp của Chính phủ Việt Nam là tối ưu, phù hợp với tình hình, điều kiện kinh tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho rằng để những nhóm giải pháp trên đạt hiệu quả cao hơn, kịp thời hơn Chính phủ cần phải:
1. Phát huy hơn nữa vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại
Chính phủ cần tận dụng, phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh lớn trong chức năng tham mưu cho Chính phủ thực hiện các giải pháp, biện pháp quản lý, điều tiết kinh tế vĩ mô, cụ thể:
Hiện nay, nước ta có 04 hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất, chiếm lĩnh 80% thị trường tài chính ngân hàng trong cả nước. Trong suốt những năm qua, cả 04 ngân hàng thương mại đã, đang và sẽ là những công cụ của Chính phủ trong việc thực hiện các biện pháp, giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô của đất nước. Trong thời gian thực thi các giải pháp kiềm chế lạm phát vừa qua, vai trò và vị trí quan trọng của các ngân hàng thương mại quốc doanh trong điều tiết nền kinh tế được khẳng định rõ ràng.
Trong giai đoạn lạm phát tương đối cao, các ngân hàng thực hiện thắt chặt tín dụng, nhưng không nên phanh quá gấp gây đảo lộn cho nền kinh tế mà phải phanh từ từ. Chúng ta đang từ mức tăng trưởng tín dụng 54% rút xuống ngay 30% khiến lãi suất vay nóng (qua đêm) của liên ngân hàng lên đến 15-30%/năm, ngoài thị trường tự do dân áp dụng 2%/tháng và 24%/năm và cuộc đua lãi suất bắt đầu bùng nổ. Với mức lãi suất này, không một nhà sản xuất, kinh doanh nào có thể chịu đựng nổi một, hai năm. Chúng ta kịp thời ngăn chặn lại, song hậu quả còn để lại nhiều. Không nên áp dụng mức tăng trưởng tín dụng đồng đều giữa các ngân hàng mà phải chia nhóm. Nhóm ngân hàng thanh khoản tốt, nhóm ngân hàng thanh khoản trung bình, nhóm ngân hàng thanh khoản kém để áp dụng các mức tăng trưởng tín dụng cho phù hợp. Chấn chỉnh việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp.
Vốn cần được tập trung cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, tập trung cho những dự án, công trình cần thiết như giao thông, điện nước đi vào sử dụng.
Để có thể phát huy hơn vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại, cần cải thiện toàn diện chất lượng tài sản, chất lượng nhân lực, chất lượng công nghệ, giảm thiểu hơn nữa tỷ lệ nợ xấu, nâng cao tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng. Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô phải được xác định là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc kềm chế lạm phát cần được thực hiện có lộ trình, minh bạch, để ngân hàng và các tổ chức tín dụng có cơ hội chuẩn bị, tránh gây sốc cho hệ thống tài chính ngân hàng như trong thời gian vừa qua có thể đẩy nguy cơ khủng hoảng toàn hệ thống lên cao
2. Xây dựng tỷ lệ lạm phát kỳ vọng
Sự thay đổi cung tiền chịu ảnh hưởng bởi lãi suất trong mối quan hệ giữa cung tiền và nhu cầu đầu tư. Tuy nhiên, lãi suất danh nghĩa bản thân lại chịu tác động của lạm phát kỳ vọng. Do vậy, Việt Nam cần nghiên cứu và xây dựng tỷ lệ lạm phát kỳ vọng cụ thể trong cả ngắn hạn và dài hạn làm căn cứ trong điều hành và quản lý vĩ mô. Đây là một chỉ tiêu mới và cần được tính toán cụ thể dựa trên tình hình thực tế và mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn.
- Xác định tỷ lệ lạm phát kỳ vọng ngắn hạn: Căn cứ trên số liệu quá khứ, nếu lấy bình quân giản đơn trong giai đoạn 2003-2007 do chỉ số lạm phát có biến động và xu hướng rõ ràng thì tỷ lệ này đạt khoảng 8%/năm. Bên cạnh đó, xác định được chỉ tiêu ngắn hạn không chỉ là cơ sở trong chính sách điều hành mà còn xây dựng tỷ lệ lạm phát kỳ vọng dài hạn.
- Xác định tỷ lệ lạm phát kỳ vọng dài hạn: Việt Nam trong dài hạn không thể đạt được một tỷ lệ tăng trưởng cao và ổn định ở mức 8-8,5%/năm trong ngắn hạn. Theo số liệu phát triển của một số nước trong khu vực, tăng trưởng bình quân của một quốc gia trong giai đoạn từ mức đang phát triển lên đạt mức thu nhập trung bình như Thái Lan, Malaysia chỉ khoảng 6,0-6,5% và đối với Việt Nam do xuất phát điểm thấp hơn thì khoảng 7% là hợp lý. Do vậy, tỷ lệ lạm phát dài hạn cần tiếp tục hạ hơn nữa xuống còn khoảng 5-6% (bình quân giai đoạn 1996-2007 là 5,2%) nhằm thu hút tiết kiệm và đầu tư từ trong nước và bên ngoài.
3. Thực hiện chính sách tỷ giá thích hợp
Việc duy trì chính sách tỷ giá thả nổi trong biên độ giao dịch nhất định ở Việt Nam là thích hợp. Tuy nhiên, để có thể quản lý việc thực hiện các chính sách ngoại hối thì việc hoàn thiện các quy định, chính sách quản lý ngoại hối đóng vai trò quan trọng. Hiện tại, sự hoạt động của thị trường mua bán ngoại tệ “chợ đen” có tác động lớn tới tỷ giá ngoại tệ, nhất là trong những thời điểm nhạy cảm, khi tâm lý người dân bất ổn với đồng nội tệ.
Giai đoạn đầu năm 2008, lượng ngoại tệ tiếp tục đổ vào Việt Nam từ tất cả các nguồn, các kênh mà năm 2007 đã đạt kỷ lục về đăng ký, cam kết năm 2008 sẽ thực hiện cũng như việc thực hiện lượng vốn đăng ký, cam kết tăng lên trong năm 2008. Khi lượng ngoại tệ vào nước ta tăng, với chủ trương giữ giá tiền đồng để khỏi ảnh hưởng đến xuất khẩu, nhập khẩu, nhập siêu... sẽ lại phải đưa tiền đồng ra mua ngoại tệ vào như thế sẽ tạo sức ép tăng lạm phát. Thời điểm cuối năm, trong điều kiện đồng Đôla Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường xuất khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam và đồng Đôla Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị trường ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi. Chính phủ nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta. Tăng giá USD cũng góp phần kìm giữ giá luơng thực hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị trường thế giới.
Để duy trì tỷ giá thích hợp, Nhà nước cần kiểm soát chặt nhập khẩu. Những mặt hàng trong nước có thể đẩy mạnh sản xuất trước mắt và lâu dài, vừa có nhu cầu lại vừa có nguyên liệu và khả năng phát triển phải ưu tiên vốn và chính sách hỗ trợ phát triển. Chính phủ cần rà soát các thị trường nhập siêu lớn, yêu cầu đối tác mở cửa thị trường cho các mặt hàng ta có lợi thế theo nguyên tắc cân bằng thương mại. Tuyên truyền người Việt Nam dùng hàng Việt Nam, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng chất lượng cao bán cho người Việt Nam để giữ vững thị trường.
Bên cạnh đó, phải đẩy mạnh xuất khẩu, tạo thuận lợi từ tỷ giá giữa Việt Nam đồng và ngoại tệ khác là lĩnh vực WTO không cấm. Trung Quốc là nước xuất siêu lớn, nên Mỹ mới ép Trung Quốc nâng giá đồng nhân dân tệ. Còn Việt Nam chúng ta là nước nhập siêu lớn. Cần hỗ trợ mạnh cho xúc tiến thương mại đầu tư và du lịch. Chúng ta đang dành ngân sách quá ít cho xúc tiến thương mại cụ thể là khoảng hơn 100 tỷ đồng chỉ tương đương với kinh phí quảng cáo và tiếp thị một năm của công ty LG?! Các hãng nước ngoài đến nước ta, họ đã lập các văn phòng xúc tiến như Jetro, Kotra. Taitra, các phòng thương mại như Erocham, Amcham... quảng bá, bán hàng rầm rộ, còn ta chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của xúc tiến thương mại, cho nên nặng ngồi quan sát, không đủ kinh phí hoạt động. Trong khi phải cắt kinh phí hỗ trợ trực tiếp cho xuất khẩu, thì lại không đưa vào hỗ trợ gián tiếp qua xúc tiến thương mại.
Một giải pháp mới là phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, không chỉ là trái phiếu ngoại tệ của Chính phủ, mà còn cho phép các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp có uy tín, có nhu cầu ngoại tệ chính đáng được phép phát hành để huy động ngoại tệ trôi nổi trong nền kinh tế và cả lượng ngoại tệ mà các ngân hàng thương mại đang được coi là "thừa". Đây là giải pháp có tác dụng kép: vừa hút được đồng đô la Mỹ (USD) về, vừa tránh đưa tiền đồng ra lưu thông tạo sức ép lạm phát, vừa ổn định được tỷ giá. Trung Quốc cũng đã áp dụng giải pháp này và đã đạt kết quả tích cực: vừa tăng mạnh dự trữ (hiện đã lên đến 1.530 tỉ USD, lớn nhất thế giới, vượt xa nước đứng thứ hai là Nhật Bản), vừa khống chế tốc độ tăng giá. Vấn đề đặt ra là cần có mức lãi suất trái phiếu phải đủ sức hấp dẫn và sử dụng có hiệu quả số USD huy động được từ trái phiếu.
4. Phân tích, dự báo tác động của biến động kinh tế thế giới tới nền kinh tế Việt Nam
Nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát đưa ra thời gian qua là phù hợp, tuy nhiên, có thể nói còn có “độ trễ”. Chính phủ cần đầu tư đội ngũ chuyên gia phân tích những vận động của nền kinh tế, ảnh hưởng của kinh tế thế giới tới nền kinh tế Việt Nam, qua đó có dự bảo những ảnh hưởng tới nền kinh tế để có thể sớm đưa ra giải pháp kiềm chế lạm phát kịp thời.
Hiện tại ở Việt Nam, các chuyên gia phân tích kinh tế có thể nói là tương đối nhiều, đặc biệt là trong các trường đại học khối kinh tế của đất nước như Đại học Kinh tế quốc dân, Học viện tài chính, học viện ngân hàngtuy nhiên, chính phủ chưa có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, đầu tư cho đội ngũ chuyên gia phân tích tài chính. Do vậy, việc dự báo các vấn đề kinh tế còn nhiều hạn chế.
5. Công tác tuyên truyền vận động:
Công tác tuyên truyền, vận động tới người dân đóng vai trò quan trọng vì tâm lý dân chúng là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc duy trì lạm phát. Có thể thấy, khi thị trường bất động sản ở Việt Nam đang rối loạn, giá cả một số mặt hàng đang leo thang hàng ngày, gây tâm lý bất ổn trong dân chúng thì tiếp đó (đầu năm 2004) Bộ Nội vụ công bố dự kiến tăng lương mới (thực tế tăng từ 1/10/2004) đã kích thích tâm lý tăng tiêu dùng của dân chúng, làm cho giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng nhanh từ đầu năm (thông thường là tăng vào cuối năm). Mặt khác khi dân chúng đang lo sợ sự sụt giá của đồng tiền Việt Nam thì NHNN Việt Nam lại phát hành thêm loại tiền mệnh giá 100.000 đồng mới vào lưu thông (gấp đôi mệnh giá lớn nhất trước đó). Vào cuối năm 2003, NHNN Việt Nam lại đưa tiếp loại tiền polyme mới với các mệnh giá 50.000, 500.000, 100.000 vào lưu thông. Đặc biệt là đồng tiền với mệnh giá 500.000 (lớn gấp 10 lần so với đồng tiền có mệnh giá lớn nhất trước đó) đã tiếp tục tác động xấu đến tâm lý của dân chúng. Dân chúng cho rằng NHNN Việt Nam đang đưa thêm vào lưu thông một khối lượng tiền rất lớn và vì vậy giá trị đồng tiền Việt Nam sẽ giảm mạnh. Do đó dân chúng càng có xu hướng chuyển từ tài sản tiền tệ VNĐ sang các tài sản tài chính khác và càng khuyến khích tâm lý tiêu dùng. Kết quả là giá cả các mặt hàng trong nền kinh tế tiếp tục gia tăng.
Vì vậy, Chính phủ cần có các biện pháp tuyên truyền thông tin, ổn định tâm lý người dân, vận động nhân dân thực hiện theo các giải pháp đã đưa ra mới có thể đạt được hiệu quả tốt nhất.
KẾT LUẬN
Chống lạm phát là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi. Để chống lạm phát đạt kết quả, sự trả giá và đánh đổi là thấp nhất, nhất thiết phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan quản lý nhà nước, sự chấp hành và tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm túc của các cấp chính quyền. Hơn nữa, thị trường thế giới đang biến động, phải theo dõi sát tình hình, cập nhật đầy đủ thông tin để có các giải pháp phản ứng kịp thời, chính xác, nhằm một mặt, hạn chế các tác động xấu do những khó khăn khách quan mới nẩy sinh; mặt khác, tận dụng được thời cơ mới xuất hiện để phát huy tiềm năng tăng trưởng của đất nước, thúc đẩy kinh tế phát triển cao hơn khi điều kiện thuận lợi.
Lạm phát là hiện tượng tiền tệ, nhưng nguyên nhân quyết định dẫn đến thì lại khác nhau giữa các quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Đối với Việt Nam thì mở rộng cung tiền quá nhanh nhằm đạt mục tiêu phát triển được xác định là nguyên nhân chủ yếu. Tuy vậy, bản thân cung tiền lại là hệ quả của sự kết hợp giữa chủ động trong điều hành vĩ mô và quy mô quá lớn của các dòng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn từ bên ngoài chảy vào. Để giảm dần lạm phát và hướng tới tăng trưởng bền vững thì Việt Nam cần xác định mục tiêu cụ thể trong mỗi thời kỳ và thực hiện chính sách hiệu quả trong quản lý điều hành.
Do thời gian nghiên cứu và trình độ còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các giảng viên và người đọc.
Nhóm 3 lớp cao học 16D
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế quốc tế - NXB ĐH Kinh tế quốc dân – Năm 2008.
Giáo trình Quan hệ Kinh tế quốc tế - NXB Thống kê – Năm 2005.
Bài giảng và thực hành lý thuyết kinh tế vĩ mô- NXB Lao động- Năm 2008.
Tạp chí Kinh tế Phát triển
Tạp chí Thời báo kinh tế
Tạp chí Ngân hàng
Các trang thông tin kinh tế điện tử
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5984.doc