Đề tài Lí luận chung về thanh toán điện tử

TTĐT được đưa vào thực hiện trong ngành ngân hàng mới hơn 6 năm mà NHCT là ngân hàng đầu tiên thực hiện.Do đó nó vẫn là một lĩnh vực còn mới mẻ,rộng lớn và phức tạp.Với trình độ hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi có những khiếm khuyết.Nhưng em hi vọng rằng bài viết của mình đã làm sáng tỏ một số vấn đề về lí luận cũng như thực tiễn về phương thức thanh toán này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa kế toán-kiểm toán,Ban lãnh đạo và các cán bộ NHCT Đống Đa đã tạo điều kiện cho em thực hiện chuyên đề này.

doc62 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lí luận chung về thanh toán điện tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iền của dân cư và tổ chức kinh tế. 3.2 Tình hình sử dụng vốn. Doanh số cho vay năm 2001 đạt 1656 tỉ đồng,doanh số thu nợ đạt 1136 tỉ đồng. Tính đến 31/12/2001 số khách hàng có quan hệ tín dụng là 650 khách hàng trong đó có 110 đơn vị quốc doanh.Dư nợ đến 31/12/2001 đạt:1.521 tỉ đồng,bằng 151,9% so với 31/12/2000,tăng 520 tỉ đồng,vượt 1,4 % so với kế hoạch NHCTVN giao.Trong đó: Dư nợ cho vay ngắn hạn đạt:850 tỉ đồng,bằng 143% so với cuối năm 2000 chiếm tỉ trọng 56% tỏng dư nợ. Dư nợ cho vay trung dài hạn đạt: 671 tỉ đồng bằng 164% so với cuối năm 2000 tăng 263 tỉ đồng,chiếm tỉ trọng 44 % tổng dư nợ. Riêng dư nợ ngoại tệ đạt: 361 tỉ đồng(quy VNĐ),bằng 100,2 % so với cuối năm 2000,chiếm tỉ trọng 24%. Dư nợ kinh tế quốc doanh đạt: 1384 tỉ đồng,bằng 156% so với cuối năm 2000,chiếm tỉ trọng 91% tổng dư nợ. Dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh đạt:137 tỉ đồng,bằng 117% so với cuối năm 2000,chiếm tỉ trọng 9% tổng dư nợ. Nợ quá hạn và nợ liên quan đến vụ án chiếm tỉ trọng 1,67% trên tổng dư nợ,so với cuối năm 2000 giảm:-0,29%. Năm 2001 công tác tín dụng của NHCT Đống Đa diễn ra theo chiều hướng tích cực.Doanh số cho vay tăng và chủ yếu là do cho vay quốc doanh.Việc khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước là do chủ trương đầu tư vốn của ngân hàng là tập trung tài trợ cho các dự án của doanh nghiệp quốc doanh.Ngoài ra do hoạt động của một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có hiệu quả,trình độ quản lí kinh doanh,ý thức tuân thủ pháp luật còn yếu...nên không kích thích ngân hàng xuất vốn đầu tư . Dư nợ quá hạn của ngân hàng tiếp tục giảm là dấu hiệu đáng mừng.Nó phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng như khả năng lành mạnh các khoản tín dụng và hiệu quả của các biện pháp phòng tránh rủi ro trong qua trình kinh doanh. Hoạt động bảo lãnh:Trong năm qua hoạt động bảo lãnh đã phát triển,các doanh nghiệp có nhu cầu như:bảo lãnh thực hiện hợp đồng,bảo lãnh dự thầu,bảo lãnh tiền tạm ứng...phát sinh lớn.Tổng dư bảo lãnh đến 31/12/2001 là 298 tỉ đồng,trong đó bảo lãnh trung dài hạn:267 tỉ đồng.Qua nghiệp vụ bảo lãnh đã đáp ứng được nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp để thực hiện hợp đồng sau khi trúng thầu. 3.3 Tình hình kết quả kinh doanh Tổng thu :130 tỉ đồng,tăng 23,8% (25 tỉ đồng) so với năm 2000.Trong đó : Thu lãi cho vay là 93 tỉ đồng chiếm tỉ lệ 71,5%. Thu lãi tiền gửi là 35 tỉ đồng chiếm tỉ lệ 26,9%. Thu lãi khác là 2 tỉ đồng chiếm tỉ lệ 1,6%. Tổng chi phí :105 tỉ đồng tăng 26,5 % (22 tỉ đồng) so với năm 2000.Trong đó: Chi lãi tiền vay là 78 tỉ đồng chiểm tỉ lệ 74,3%. Chi lãi tiền gửi là 17 tỉ đồng chiếm tỉ lệ 16,2 %. Chi khác là 10 tỉ đồng chiếm tỉ lệ 9,5%. Lãi là 25 tỉ đồng, tăng 13,6% (3 tỉ đồng) so với năm 2000. Qua số liệu trên ta thấy trong năm 2001 NHCT Đống Đa đã cố gắng vươn lên về nhiều mặt và đạt được những kết quả tốt đẹp đáng khích lệ.Kết quả đó đã củng cố vị trí của NHCT Đống Đa,cải thiện được đời sống cán bộ công nhân viên đồng thời góp phần xứng đáng vào sự phát triển của nền kinh tế.Có được kết qủa đó trước hết phải nói đến sự chỉ đạo,giúp đỡ của NHCT Việt Nam,NHNN,các cấp chính quyền... cũng như sự phấn đấu nỗ lực của cán bộ nhân viên NHCT Đống Đa. II. Tình hình công tác thanh toán tại NHCT Đống Đa 1.Tình hình thanh toán chung. Nền kinh tế càng phát triển thì thanh toán qua ngân hàng càng trở nên phổ biến.Ngân hàng từ chỗ lúc đầu làm trung gian nhận tiền mặt của khách hàng rồi chuyển cho người hưởng nay thực sự đã làm trung gian thanh toán với đúng nghĩa của thuật ngữ này.Bằng việc mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng,ngân hàng có thể chủ động tổ chức thanh toán cho khách hàng một cách nhanh chóng khi họ có nhu cầu.Từ khi kĩ thuật thanh toán vốn giữa các ngân hàng ngày càng phát triển,số lượng khách hàng đến mở tài khoản tại ngân hàng tăng một cách rõ rệt.Năm 2001 tăng thêm 695 tài khoản mới về mở tại chi nhánh,nâng tổng số tài khoản lên gần 4000 tài khoản.Trong đó tài khoản doanh nghiệp là 1567 tài khoản,tư nhân cá thể là 2303.Tài khoản cho vay là 1605 tài khoản,trong đó tài khoản cho vay sinh viên là 242 tài khoản. Khi đến giao dịch tại ngân hàng ,khách hàng có thể lựa chọn các hình thức thanh toán phù hợp với yêu cầu của mình.Có thể là hình thức thanh toán bằng tiền mặt với tiền mặt hoặc ngân phiếu thanh toán đang có giá trị lưu hành. Hoặc là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt với séc chuyển khoản, séc bảo chi ,séc chuyển tiền,uỷ nhiệm chi,uỷ nhiệm thu. Công tác kế toán-tài chính đảm bảo giao dịch với khách hàng tận tình chu đáo.Các mặt TTBT,điện tử và chuyển tiền phải trả luôn đảm bảo nhanh gọn,chính xác.Công tác thanh toán tiền gửi dân cư đảm bảo an toàn bí mật . Có số liệu về nghiệp vụ thanh toán tại NHCT Đống Đa trong 3 năm như sau: Bảng 1: (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng A.Thanh toán bằng tiền mặt Tiền mặt Ngân phiếu thanh toán B.Thanh toán không dùng tiền mặt Séc chuyển khoản Séc bảo chi Séc chuyển tiền Uỷ nhiệm thu Uỷ nhiệm chi Loại khác 5.027.468 4.050.152 977.316 12.941.978 285.027 137.040 714 47.745 8.709.641 3.761.811 28 22,5 5,4 72 1,6 0,8 0,004 0,3 48,5 20,9 4.857.175 4.232.354 624.821 14.894.189 317.567 227.103 389 48.742 10.609.389 3.690.999 24,6 21,4 3,2 75,4 1,6 1,1 0,002 0,2 53,7 18,7 6.723.310 6.303.278 420.032 19.061.103 355.461 208.381 245 36.356 13.188.650 5.272.010 26,1 24,5 1,6 73,9 1,4 0,8 0,001 0,14 51,1 20,4 Tổng số thanh toán chung 17.969.466 100 19.751.364 100 25.784.413 100 Qua bảng số liệu trên ta thấy tổng số thanh toán qua ngân hàng (gồm cả thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt) tăng qua các năm. Năm 1999 đạt 17.969.466 triệu đồng.Năm 2000 đạt 19.751.364 triệu đồng tăng 9,9%. Năm 2001 đạt 25.784.413 triệu đồng tăng 30,5%.Đây là một con số đáng mừng chứng tỏ NHCT Đống Đa đã làm tốt chức năng trung gian thanh toán.Việc thu hút được khách hàng thanh toán qua ngân hàng không những tạo thêm thu nhập cho ngân hàng mà còn tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt các chức năng thủ quỹ cho xã hội và chức năng trung gian tín dụng của mình. Nhìn vào số liệu chi tiết của các hình thức thanh toán thì nhìn chung doanh số thanh toán không dùng tiền mặt tại NHCT Đống Đa vẫn chiếm tỉ trọng trên 70% doanh số thanh toán chung đảm bảo công tác tăng cườngmở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tuy nhiên trong năm 2001 có xu hướng giảm sút về tỉ trọng tuy số tiền vẫn tăng .Năm 2001,doanh số thanh toán không dùng tiền mặt là 19.061.103 triệu đồng tăng 28% (4.166.914 triệu đồng) so với năm 2000.Tỉ trọng thanh toán không dùng tiền mặt là 73,9%,còn năm 2000 tỉ trọng này là 75,4%. Hình thức thanh toán bằng séc chuyển tiền ngày càng giảm,ít được khách hàng sử dụng.Điều này là tất yếu vì khi kĩ thuật thanh toán vốn giữa các ngân hàng ngày càng hiện đại,các ngân hàng nối mạng với nhau thì việc chuyển tiền giữa các ngân hàng là rất nhanh chóng ,đảm bảo an toàn chính xác.Thanh toán bằng hình thức ủy nhiệm chi vẫn chiếm đa số trong tất cả các hình thức.Một trong những nguyên nhân cơ bản để khách hàng lựa chọn hình thức này đó là việc các ngân hàng đã hiện đại hóa TTĐT trong công tác TTLH.TTĐT giúp cho việc thanh toán được nhanh chóng,kịp thời,an toàn,thủ tục đơn giản tiện lợi hơn. 2. Tình hình thanh toán vốn giữa các ngân hàng Các phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng được áp dụng tại NHCT Đống Đa là: - Phương thức thanh toán bù trừ: Dưới sự chủ trì của chi nhánh NHNN Hà Nội,chi nhánh NHCT Đống Đa là một thành viên tham gia TTBT trên địa bàn.TTBT chủ yếu dùng để thanh toán các khoản chuyển tiền với các ngân hàng khác hệ thống,Kho bạc Nhà nước trên địa bàn. Phương thức uỷ nhiệm thu hộ,chi hộ: NHCT Đống Đa hiện đang áp dụng phương thức thu hộ với ngân hàng Đầu tư và Phát triển,Citi bank,Kho bạc Nhà nước .Điều này là do NHCT Việt Nam đã nối mạng với các ngân hàng này.Tuy nhiên việc thu hộ giữa các ngân hàng được giới hạn trong phạm vi các khoản thanh toán bằng uỷ nhiệm chi.Mỗi khi phát sinh những khoản thu hộ NHCT Đống Đa sẽ gửi chứng từ thanh toán qua mạng cho ngân hàng có quan hệ để hạch toán sổ sách. Phương thức thanh toán điện tử: TTĐT được dùng để thanh toán vốn giữa các ngân hàng trong các trường hợp chuyển tiền trong cùng hệ thống hoặc để điều chuyển vốn điều hoà với NHCT Việt Nam. Bảng 2:Số liệu về nghiệp vụ thanh toán vốn giữa các ngân hàng trong 3 năm (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu thanh toán vốn qua các phương thức Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Số món Số tiền Số món Số tiền Số món Số tiền 1.TTBT 35.352 3.181.882 46.090 4.291.763 117.604 6.194.454 2.Uỷ nhiệm thu hộ,chi hộ 866 930.898 847 763.524 752 447.632 3.TTĐT 35.761 3.928.022 38.784 5.374.831 47.166 6.208.644 Nhìn vào biểu ta thấy số món cũng như doanh số thanh toán của các phương thức đều tăng dần qua các năm. III.Công tác TTĐT tại NHCT Đống Đa. 1.TTLH tại NHCT Đống Đa trước khi thực hiện TTĐT. Thời kì NHCT Đống Đa đang còn là chi nhánh NHNN thì hệ thống thanh toán vốn giữa các chi nhánh ngân hàng chỉ có 1 hệ thống .Phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng duy nhất được áp dụng là TTLH truyền thống,theo phương thức kiểm soát tập trung,đối chiếu phân tán.Trong phương thức này thì ngoài hai chi nhánh tham gia thanh toán còn có TTTT làm nhiệm vụ kiểm soát đối chiếu tất cả các khoản chuyển tiền thanh toán trong hệ thống và theo dõi nguồn vốn của các chi nhánh để thực hiện thanh toán vốn giưã các chi nhánh khi có 1 khoản chuyển tiền thanh toán xảy ra.Sau đó TTTT lập sổ đối chiếu gửi các chi nhánh nhận chuyển tiền để ngân hàng này đối chiếu.Nhược điểm của TTLH truyền thống là thường chậm trễ,hiệu quả thấp,chứng từ luân chuyển chậm,gây lãng phí vốn. Khi chuyển đổi hệ thống ngân hàng 1 cấp thành ngân hàng 2 cấp(năm 1988 ),để cho phù hợp với cơ cấu tổ chức,quản lí mới NHNN đã sửa đổi và ban hành nhiều thể lệ văn bản trong đó có thể thức thanh toán mới theo quyết định số 101/NH-QĐ ngày 30/7/1991 của Thống đốc NHNN.Sau khi có quyết định này, ngày 1/10/1991 Tổng giám đốc NHCT đã ban hành quyết định số 248/NHCT-QĐ : “NHCT Việt Nam tổ chức TTLH nội bộ theo nội dung chỉ thị số 98/NH-CT ngày 7/10/1976 của Thống đốc NHNN và công văn hướng dẫn số 20/NH-CT ngày 25/12/1991v/v ,thực hiện thanh toán qua NHCT Việt Nam”.Đó là bước ngoặt đầu tiên cho sự phát triển một hệ thống thanh toán độc lập tự chủ của NHCT Việt Nam.Tuy nhiên giai đoạn này NHCT Việt Nam vẫn thực hiện theo phương thức liên hàng truyền thống(thủ công),phương thức chuyển tiền đươc áp dụng theo kiểu gửi giấy báo liên hàng theo đường bưu điện. Song do chủ động trong thanh toán tốc độ thanh toán qua NHCT được thực hiện nhanh hơn,kịp thời hơn và ít sai sót hơn. Ngay từ những năm 1990 sau khi áp dụng công nghệ tin học vào công tác kế toán ngân hàng ,NHCT Việt Nam đã nhận thấy được sự cần thiết và cấp bách của việc ứng dụng công nghệ tin học vào các hoạt động kinh doanh ngân hàng nhất là khâu thanh toán.Tháng 2 năm 1993,toàn bộ công tác thanh toán nội bộ từ cơ sở quận,huyện đến các chi nhánh tỉnh,thành phố trong hệ thống NHCT Việt Nam tiến hành triển khai TTLH qua mạng lưới thông tin máy tính(trong đó có NHCT Đống Đa).TTLH qua mạng đã có nhiều ưu điểm đáng kể,nó rút ngắn được thời gian thanh toán,hạn chế được nhiều sai sót,chứng từ in ra rõ ràng,nâng cao trình độ thanh toán viên và đặc biệt là vị thế của ngân hàng trong kinh doanh, kiểm soát và đối chiếu nhanh,đơn giản hơn.Tuy nhiên phương thức thanh toán này vẫn còn nhiều hạn chế nhất định đó là quá trình thực hiện vẫn còn nhiều khâu làm thủ công nên dễ bị nhầm lẫn bỏ sót,phần mềm được viết bằng ngôn ngữ Foxpro do đó các xử lí giao diện,tiện ích chưa nhanh và đặc biệt vẫn đề bảo mật chưa cao.Truyền dữ liệu chủ yếu dùng phần mềm SCOM 3 phải qua 1 số khâu trung gian nên dễ bị thất lạc dữ liệu. Nhận thấy TTLH qua máy vi tính có nhiều nhược điểm,ngay từ năm 1994 NHCT Việt Nam đã nghiên cứu đề án thanh toán mới hiện đại phù hợp với sự phát triển và thông lệ quốc tế.Đến năm 1995,NHCT trình Thống đốc NHNN cho phép thực hiện thí điểm dự án “TTĐT trong hệ thống NHCT Việt Nam” theo mô hình thanh toán và kiểm soát tập trung.Sau một thời gian nỗ lực và chuẩn bị NHCT Việt Nam đã được Thống đốc NHNN Việt Nam cho phép thực hiện thí điểm dự án TTĐT.Cụ thể là:Ngày 16/01/1995 Thống đốc NHNN VN đã ra quyết định số 20/QĐ-NH cho phép NHCTVN triển khai thí điểm dự án TTĐT trong hệ thống NHCTVN.Ngày 15/06/1995 Tổng giám đốc NHCTVN ra quyết định số 966/NHCTVN ban hành quy chế TTĐT trong hệ thống NHCTVN.Sau một năm triển khai thực hiện thí điểm ở 1 số địa phương đồng thời hoàn tất chương trình,chuẩn bị cơ sở vật chất,đào tạo cán bộ,ngày 01/07/1996 chương trình TTĐT đã được áp dụng trong toàn hệ thống NHCTVN.Giờ đây NHCT Đống Đa có thể thưc hiện tất cả các giao dịch thanh toán thu hộ ,chi hộ với các chi nhánh Công Thương khác và điều chuyển vốn với NHCTVN bằng phương thức TTLH điện tử.Công tác thanh toán vốn này tuân theo nguyên tắc “kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung”.Các chi nhánh ngân hàng chuyển tiền cho nhau thông qua TTTT (truyền qua mạng truyền tin nội bộ của ngân hàng ),TTTT làm nhiệm vụ kiểm soát và đối chiếu tất cả các chuyển tiền cho toàn hệ thống. Trước mắt TTĐT tại NHCT Đống Đa mới chỉ được dùng cho các khoản thanh toán bằng VNĐ.Còn các khoản thanh toán bằng ngoại tệ được thực hiện bằng chương trình hệ thống thanh toán quốc tế hiện hành. 2.Quy trình TTLH tại NHCT Đống Đa khi áp dụng TTĐT. Công tác TTLH từ khi áp dụng TTĐT đã thay đổi.Việc thực hiện quy trình từ thủ công ,bán thủ công chuyển sang thực hiện bằng điện tử. TTLH nhanh chóng thuận tiện,độ chính xác cao,thủ tục đơn giản,tài khoản sử dụng không phức tạp là những ưu việt của TTĐT so với các phương thức TTLH trước đó. Về cơ bản quy trình TTĐT tại NHCT Đống Đa giống với quy trình chung về TTĐT do NHCTVN quy định.Nhưng để nắm bắt được đầy đủ tình hình TTĐT tại NH,chúng ta sẽ đi chi tiết vào quy trình TTĐT tại NHCT Đống Đa. + Đối với các khoản thanh toán cho khách hàng: Khi khách hàng có nhu cầu thanh toán thì tiến hành lập và nộp vào NHCT Đống Đa các chứng từ hợp lệ,hợp pháp theo quy định của thể thức thanh toán không dùng tiền mặt.Quy đinh đối với việc lập và nộp các chứng từ như sau:UNC doanh nghiệp nộp 3 liên,UNT doanh nghiệp nộp 4 liên,séc bảo chi khách hàng nộp vào tờ séc cùng với 2 liên bảng kê nộp séc,giấy nộp tiền,NPTT nộp 3 liên....Thanh toán viên giữ TK của khách hàng nào sẽ tiếp nhận giao dịch với khách hàng đó.Sau khi kiểm soát tính hợp pháp ,hợp lệ của các chứng từ khách hàng nộp vào thanh toán viên kí vào các liên chứng từ,giữ lại 1 liên chứng từ để làm giấy báo nợ,báo có cho khách hàng,còn lại chuyển cho kiểm soát viên.Kiểm soát viên kiểm tra lại tính hợp lệ ,hợp pháp của chứng từ rồi chuyển sang bộ phận TTĐT nếu chứng từ đó phải thực hiện theo phương thức TTĐT .Thanh toán viên điện tử sau khi tiếp nhận các chứng từ chuyển tiền thì tiến hành lập chứng từ điện tử trên máy bằng cách chuyển hoá chứng từ gốc theo các mẫu chứng từ tương ứng đã được cài đặt sẵn.Các chứng từ điện tử được sắp xếp theo chứng từ vế nợ đi riêng và vế có đi riêng. + Chứng từ vế nợ gồm có séc bảo chi,séc chuyển tiền. + Chứng từ vế có gồm có uỷ nhiệm chi,uỷ nhiệm thu,séc chuyển khoản... Cán bộ TTĐT sau khi hoàn thành việc lập các chứng từ trên máy thì in ra rồi chuyển cho kế toán trưởng(hoặc người được uỷ quyền) kèm theo chứng từ gốc. Kế toán trưởng(hoặc người được uỷ quyền) kiểm soát lại sự chính xác của chứng từ trên máy với chứng từ gốc và chứng từ in ra,tính kí hiệu mật,ghi kí hiệu mật vaò chứng từ in ra,kí tên rồi giao các chứng từ cho bộ phận TTĐT. Cuối ngày sau khi nhận được kết quả đối chiếu từ TTTT,thanh toán viên tiến hành hạch toán và làm thủ tục lưu trữ chứng từ.Nội dung hạch toán: -Đối với chuyển tiền ghi có bằng uỷ nhiệm thu,uỷ nhiệm chi,séc chuyển khoản trên cùng địa bàn tỉnh thành phố. -Đối với chuyển tiền ghi có bằng giấy nộp tiền,nộp Ngân phiếu thanh toán. Hạch toán lần lượt như sau: Nợ: TK tiền gửi hoặc tiền vay của khách hàng Nợ: TK tiền mặt tại quỹ Có: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. -Đối với chuyển tiền ghi nợ thanh toán bằng séc bảo chi,séc định mức,séc chuyển tiền. -Đối với chuyển tiền thanh toán thư tín dụng. Hạch toán lần lượt như sau: Nợ: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. Có: TK tiền gửi hoặc tiền vay của khách hàng Có: TK tiền gửi hoặc tiền vay của khách hàng hoặc TK thích hợp Việc truyền các chuyển tiền đi tại NHCT Đống Đa được thực hiện từ sáng đến 15h30 theo quy định của NHCTVN.Việc chuyển các chứng từ điện tử được thực hiện theo từng món cho từng ngân hàng tương ứng với từng thể loại chứng từ do khách hàng nộp vào. Hoặc khi nhận được tập tin giấy báo liên hàng do bộ phận truyền nhận tin chuyển đến,kế toán trưởng(hoặc người được uỷ quyền) tiến hành giải mã,kiểm tra kí hiệu mật.Nếu đúng của ngân hàng mình thì chuyển tiếp cho bộ phận TTĐT.Khi có chứng từ đến hiển thị trên máy cán bộ TTĐT phục hồi chứng từ điện tử theo từng nghiệp vụ và in ra làm 2 liên kí tên rồi chuyển cho kế toán trưởng(hoặc người được uỷ quyền) kí.Sau đó thanh toán viên điện tử giữ lại 1 liên để lưu còn 1 liên giao cho thanh toán viên để làm báo có cho khách hàng và làm căn cứ hạch toán : -Nếu là chứng từ nợ hạch toán: Nợ: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. Có: TK tiền gửi hoặc tiền vay của khách hàng -Nếu là chứng từ có hạch toán: Nợ: TK thích hợp Có: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. Thời gian kết thúc nhận chuyển tiền đến là 15h30. + Đối với các khoản điều chuyển vốn NHCTVN đã nối mạng trực tiếp với NHNN nên giúp cho việc điều chuyển vốn nhanh chóng,đáp ứng yêu cầu điều hoà vốn nhanh nhậy kịp thời giữa các chi nhánh trong hệ thống. Hàng ngày chi nhánh tiến hành cân đối vốn kinh doanh.Trường hợp quỹ đảm bảo thanh toán tại chi nhánh vượt tỉ lệ quy định,chi nhánh sẽ tự động chuyển vốn về NHCTVN.Thanh toán viên lập chứng từ trích từ TK tiền gửi của chi nhánh tại NHNN trên địa bàn .Việc kiểm soát chứng từ ,lập chứng từ điện tử rồi chuyển đi được thực hiện như đối với chuyển tiền cho khách hàng .Đồng thời căn cứ vào chứng từ điện tử chuyển về NHCTVN thanh toán viên hạch toán: Nợ: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. Có: TK tiền gửi tại NHNN Ngoài việc nộp vốn thường xuyên các CNNHCT được giao chỉ tiêu phát hành kì phiéu để bổ sung vốn cho toàn hệ thống,thì số vốn nộp về NHCTVN phải được lập chứng từ để chuyển riêng.Khi lập chứng từ điện tử,chi nhánh phải ghi rõ nội dung loại vốn nộp về NHCTVN,lãi suất của loại vốn huy động để chương trình máy tính có thể tự động phân loại vốn,hạch toán vào tài khoản thích hợp và tính lãi cho các chi nhánh một cách chính xác. Trường hợp quỹ đảm bảo thanh toán bị thiếu hụt,chi nhánh sẽ được tiếp nhận vốn điều hoà của NHCTVN.Chi nhánh nhận chuyển tiền qua hệ thống TTĐT.Quy trình như đối với nhận chuyển tiền đến thanh toán cho khách hàng, chỉ khác đơn vị chuyển tiền là NHCTVN.Khi nhận chuyển tiền từ TTTT chuyển về chi nhánh hạch toán : Nợ: TK điều chuyển vốn thanh toán khác hệ thống NHCTVN 5191.09XXX Có: TK điều chuyển vốn trong kế hoạch. Khi nhận giấy báo có từ NHNN hạch toán: Nợ: TK tiền gửi tại NHNN Có: TK điều chuyển vốn thanh toán khác hệ thống NHCTVN. Khi tổ chức quá trình điều hoà vốn, để khuyến khích các chi nhánh gửi vốn cũng như hạn chế các chi nhánh mượn vốn NHCTVN quy định một mức lãi cho các chi nhánh.Việc tính lãi nhận và gửi vốn điều hoà do NHCTVN tính và hạch toán chuyển về chi nhánh.Tại NHCT Đống Đa khi nhận được chuyển tiền thu lãi vốn điều hoà của NHCTVN thông báo thì hạch toán: Nợ: TK chi lãi điều chuyển vốn Có: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. Khi nhận chuyển tiền trả lãi gửi vốn điều hoà chi nhánh hạch toán: Nợ: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. Có: TK thu lãi điều chuyển vốn. Riêng đối với những khoản vốn nhận điều hoà của NHCTVN có kì hạn,chi nhánh có trách nhiệm theo dõi kì hạn trả vốn đúng thời gian quy định.Đến hạn,chi nhánh chủ động lập phiếu hạch toán: Nợ: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. Có: TK tiền gửi tại NHNN. Ngoài các khoản vốn điều hoà trong nội bộ chi nhánh còn thực hiện qua hệ thống TTĐT đối với các khoản điều chuyển vốn như điều chuyển vốn trong ( ngoài) kế hoạch,điều chuyển vốn tài trợ uỷ thác đầu tư,điều chuyển vốn khoanh nợ,điều chuyển vốn kí quỹ,điều chuyển vốn quá hạn.Việc hạch toán đối với các khoản điều chuyển vốn này lần lượt như sau: -điều chuyển vốn tài trợ uỷ thác đầu tư: Khi chi nhánh nhận chuyển tiếp vốn tài trợ uỷ thác đầu tư của NHCTVN,nếu nhận được chuyển tiền từ TTTT thì hạch toán: Nợ: TK điều chuyển vốn thanh toán khác hệ thống NHCTVN Có: TK -Điều chuyển vốn tài trợ uỷ thác đầu tư bằng VNĐ. Khi nhận giấy báo có của NHNN hạch toán như sau: Nợ: TK tiền gửi tại NHNN Có: TK điều chuyển vốn thanh toán khác hệ thống NHCTVN Khi trả lại vốn tài trợ uỷ thác đầu tư,chi nhánh lập phiếu hạch toán: Nợ: TK Điều chuyển vốn tài trợ uỷ thác đầu tư bằng VNĐ Có: TK tiền gửi tại NHNN. -điều chuyển vốn trong và ngoài kế hoạch: Khi nhận chuyển tiền từ TTTT chuyển về,chi nhánh hạch toán: Nợ: TK điều chuyển vốn thanh toán khác hệ thống NHCTVN Có: TK điều chuyển vốn trong kế hoạch hoặc ngoài kế hoạch. Khi nhận giấy báo có từ NHNN hạch toán: Nợ: TK tiền gửi tại NHNN Có: TK điều chuyển vốn thanh toán khác hệ thống NHCTVN. -điều chuyển vốn khoanh nợ: Chi nhánh nhận vốn khoanh nợ của NHCTVN. Khi TTTT chuyển về hạch toán như sau: Nợ: TK điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ Có: TK điều chuyển vốn khoanh nợ tại CNNHCT -điều chuyển vốn quá hạn: các trường hợp điều chuyển vốn quá hạn như sau Các khoản điều chuyển vốn có kì hạn khi đến hạn CNNHCT không hoàn toàn trả vốn đúng hạn,NHCTVN đã chuyển sang tài khoản điều chuyển vốn quá hạn và chuyển về CNNHCT.CNNHCT nhận được phải hạch toán: Nợ: TK điều chuyển vốn trong kế hoach hoặc ngoài kế hoạch Có: TK Điều chuyển vốn quá hạn bằng VNĐ. Hoặc hàng ngày do chi nhánh sử dụng vốn vượt hạn mức vốn trong kế hoạch NHCTVN đã chuyển sang tài khoản điều chuyển vốn quá hạn.Khi chi nhánh nhận được chứng từ điện tử hạch toán như sau: Nợ: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. Có: TK Điều chuyển vốn quá hạn bằng VNĐ. Khi TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch của chi nhánh giảm thấp so với hạn mức,NHCTVN hạch toán giảm số dư TK Điều chuyển vốn quá hạn cho chi nhánh.Chi nhánh nhận được chứng từ điện tử hạch toán: Nợ: TK Điều chuyển vốn quá hạn bằng VNĐ. Có: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. -điều chuyển vốn kí quỹ: khi nhận chuyển tiền kí quỹ do TTTT chuyển về ngân hàng nhận hạch toán Nợ: TK Điều chuyển vốn kí quỹ bằng VNĐ. Có: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. Khi nhận chuyển tiền điều chuyển vốn giảm kí quỹ NHCTVN chuyển về,ngân hàng nhận sẽ hạch toán ngược lại. -Đối với chuyển vốn cố định,chuyển chênh lệch thu lớn hơn chi .. về NHCTVN theo quy chế hiện hành,chi nhánh hạch toán: Nợ: TK thích hợp Có: TK Điều chuyển vốn trong kế hoạch bằng VNĐ. Ngược lại với chuyển chênh lệch chi lớn hơn thu,thanh lí tài sản cố định. Quy trình TTĐT trong hệ thống NHCT Việt Nam NHCT Việt Nam TTTT (SH: 999) (đối chiếu) (đối chiếu) đi đến đến đi Chi nhánh Chi nhánh + Đối với trường hợp thanh toán ra ngoài hệ thống NHCT trên địa bàn:Nếu ngân hàng nhận không tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn,NHCT Đống Đa có thể thực hiện thanh toán cho khách hàng theo phương thức TTĐT thông qua TK tiền gưỉ của NHCTVN tại NHNN.Cụ thể là NHCT Đống Đa thực hiện chuyển tiền điện tử cho NHCTVN .NHCTVN sẽ căn cứ vào địa chỉ và tên khách hàng lập chứng từ thanh toán để thông qua TK tiền gửi của NHCT tại NHNN TW thanh toán cho đơn vị được hưởng. Trường hợp này không có lệnh chuyển tiền ghi nợ mà chỉ có lệnh chuyển tiền ghi có bằng uỷ nhiệm chi hoặc uỷ nhiệm thu: Nợ: TK tiền gửi hoặc tiền vay của khách hàng Có: TK điều chuyển vốn trong kế hoạch 5191.01999 (số hiệu TTTT NHCTVN) + Đối với trường hợp thanh toán ra ngoài hệ thống khác địa bàn:Trường hợp này chỉ áp dụng TTĐT nếu tại địa bàn của ngân hàng nhận có chi nhánh NHCT hoạt động.NHCT Đống Đa chuyển tiền điện tử đến chi nhánh và chi nhánh này sẽ chuyển tiếp cho ngân hàng nhận theo các phương thức thanh toán vốn đối với ngân hàng khác hệ thống mà chi nhánh đang áp dụng.Riêng đối với NH Đầu Tư và Phát Triển ,Citi Bank thì có thể áp dụng TTĐT như đối với những chi nhánh NHCT khác do NHCTVN đã nối mạng trực tiếp với những ngân hàng này để thanh toán trực tiếp rút ngắn thời gian thanh toán không phải qua khâu trung gian nhưng chỉ dùng cho uỷ nhiệm chi hoặc uỷ nhiệm thu. Quy trình TTĐT ngoài hệ thống NHCT Việt Nam. Ngân Hàng Nhà Nước NHCT Việt Nam TTTT (SH: 999) Chi nhánh CITI BANK Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Thực chất quy trình nghiêp vụ TTĐT trong hệ thống NHCTVN là quy trình thanh toán và quản lí vốn trong hệ thống NHCT.Thanh toán ra ngoài hệ thống cũng được tập trung hết về trụ sở chính NHCTVN.Khi phát sinh nghiệp vụ chi nhánh bắt buộc phải qua TK tiền gửi NHCT mở tại NHNN.Quy trình thanh toán này cho đến nay vẫn rất phù hợp,không những giúp thực hiện tốt mục tiêu quản lí vốn tập trung mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn hệ thống. +Đối với sai sót ,nhầm lẫn trong TTĐT : Từ ngày thực hiện quy trình lập giấy báo liên hàng hoàn toàn trên máy đến nay các trường hợp sai sót nhầm lẫn đã giảm đáng kể.Các trường hợp sai sót bây giờ chủ yếu là do nguyên nhân từ phía khách hàng như viết sai tên hoặc TK giao dịch của đơn vị thụ hưởng.Đối với những trường hợp này,khi nhận được điện tra soát của NHB,thanh toán viên điện tử sẽ kiểm tra lại chứng từ lưu.Nếu đúng không phải do ngân hàng thì ngân hàng thông báo cho khách hàng để xử lí.Sau khi nhận được giấy đề nghị của khách hàng,chi nhánh sẽ chuyển 1 bức điện điều chỉnh cho NHB qua mạng. +Đối với việc quyết toán: Chi nhánh thực hiện quyết toán theo quy định của NHCTVN. Trong ngày cán bộ TTĐT cập nhật các nghiệp vụ TTĐT vào sổ đối chiếu liên hàng.Cuối ngày làm việc,theo giờ quy định của TTTT chi nhánh lập báo cáo chuyển tiền đi và đến trong ngày gửi về TTTT.Sau khi nhận được kết quả đối chiếu từ TTTT,cán bộ TTĐT mới tiến hành lưu trữ chứng từ.Quá trình đối chiếu được thực hiện hết sức nhanh chóng,an toàn và chính xác do được thực hiện hoàn toàn trên máy vi tính và tuân thủ đầy đủ các quyết định về kĩ thuật bảo mật.Thời gian đối chiếu nhiều nhất cũng không quá 1 tiếng.Hơn nữa việc đối chiếu được tiến hành tại TTTT đã giảm bớt công việc cho kế toán viên,việc quyết toán cuối này được thực hiện một cách nhanh chóng. 3.Thực trạng công tác TTĐT tại NHCT Đống Đa hiện nay áp dụng TTĐT trong công tác thanh toán vốn giữa các ngân hàng là một bước cải tiến mới trong công tác ứng dụng công nghệ thông tin tin học vào lĩnh vực ngân hàng.Kể từ khi thực hiện phương thức này đến nay,NHCTVN nói chung và NHCT Đống Đa nói riêng đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi. Về số lượng:Bình quân 1 ngày ngân hàng tiếp nhận ,xử lí và thực hiện chuyển tiền đi và đến cho khách hàng khoảng 129 món với tổng số tiền trên 17 tỉ đồng. Bảng 3: Kết quả công tác TTLH điện tử trong 3 năm (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Số món Số tiền Số món Số tiền Số món Số tiền 1.Séc chuyển khoản 2.Séc bảo chi 3.Séc chyển tiền 4.Uỷ nhiệm thu 5.Uỷ nhiệm chi 6.Loại khác 5.078 259 6 3.359 21.181 5.878 127.023 31.571 716 35.652 3.519.196 213.866 4.555 135 6 3.136 24.897 6.055 134.373 30.776 389 31.223 4.918.125 259.945 4.286 124 4 3.218 32.685 6.849 154.281 23.502 245 14.539 5.687.821 328.256 Tổng 35.761 3.928.022 38.784 5.374.831 47.166 6.208.644 Qua bảng số liệu ta thấy doanh số liên hàng đều tăng dần cả về số món và số tiền Nếu như năm 2000 tăng so với năm 1999 là 3023 món thì 8382 món tăng thêm của năm 2001 so với năm 2000 là một con số rất đáng mừng.Việc tăng trội về doanh số thanh toán góp phần làm tăng thêm lợi nhuận của ngân hàng đồng thời phản ánh sự thành công của ngân hàng trong công tác thu hút khách hàng đến tham gia vào hình thức chuyển tiền này.Có được thành tích này là do ngân hàng đã đa dạng hóa về hình thức thanh toán,thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng tận tình chu đáo...và quan trọng nhất là ngân hàng đã đưa TTĐT vào công tác thanh toán. Về chất lượng: Công tác TTĐT tại NHCT Đống Đa đã đi vào nề nếp khoa học.Các món thanh toán luôn đảm bảo tính kịp thời,chính xác,an toàn tài sản cho ngân hàng và khách hàng. -Về tính nhanh chóng: Trước đây khi nhận được chứng từ do bộ phận kế toán giao dịch chuyển tới,sau khi kiểm soát,thanh toán viên liên hàng đi tiến hành lập giấy báo liên hàng bằng tay rồi gửi cho NHB theo đường bưu điện.Việc lập giấy báo liên hàng tốn nhiều thời gian bởi ngoài số seri,giấy báo là in sẵn còn các yếu tố trên giấy báo thanh toán thanh toán viên phải viết đầy đủ chẳng hạn như tên,số hiệu NHA,NHB,ngày lập giấy báo.Việc luân chuyển chứng từ thì lâu do chủ yếu gửi bằng thư.Khi nhận được giấy báo liên hàng của NHA chuyển tới,thanh toán viên liên hàng đến phải kiểm tra đối chiếu mẫu dấu chữ kí,kí hiệu mật,cộng so sánh số tiên trên giấy báo với số tiền trên chứng từ gốc.Đối với việc lập và gửi giấy báo liên hàng đi trung tâm kiểm soát thường chậm,cách 1 ngày mới gửi đi. Đến khi nhận được sổ đối chiếu từ trung tâm kiểm soát thì đã khá muộn so với thời điểm chuyển tiền,nhanh chóng cũng phải mất từ 3 đến 4 ngày có khi hơn.Khi đối chiếu thì lại thường xuyên có những món chưa nhận được hoặc sai số tiền cần phải chờ để xử lí.Dẫn đến TTLH kéo dài tới gần 1 tuần thậm chí hàng tuần. Hiện nay việc tổ chức thanh toán cũng như luân chuyển thông tin đã hoàn toàn dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin(bằng máy tính và các phương tiện thông tin) và do 1 bộ phận cán bộ của NHCT đảm nhiệm(gồm bộ phận kế toán thanh toán và điện toán viên). Giấy báo liên hàng không phải lập bằng tay nữa mà giờ đây đã có sẵn các mẫu chứng từ được cài đặt trong máy,thanh toán viên liên hàng chỉ cần điền đầy đủ các yếu tố cần thiết vào.Không phải đối chiếu mẫu dấu,chữ kí...Đây là 1 bước tiến đáng kể,có tác dụng to lớn góp phần làm cho thời gian tổ chức thanh toán cũng như luân chuyển thông tin thanh toán rút gọn đáng kể.Thời gian TTLH chỉ còn mất có nửa ngày thậm chí đối với những món chuyển tiền nhanh chỉ mất chưa đầy 1 tiếng. -Về tính chính xác: Việc đầu tư vào kĩ thuật và mô phỏng theo quy trình nghiệp vụ,nên việc tổ chức thanh toán vốn không bị xáo trộn,không gây phiền hà hay tâm lí thiếu trách nhiệm của từng cán bộ tham gia thanh toán.Kĩ thuật máy tính đã giám sát,hạn chế rất nhiều sai sót trong quá trình lập và kiểm soát chứng từ: Nếu trước phần lớn các giấy báo liên hàng là bằng thư và trung bình chỉ có khoảng 3 đến 5 giấy baó liên hàng bằng điện nên tỉ lệ giấy báo liên hàng mà ngân hàng nhận được nhầm lẫn sai sót khá nhiều:sai số tiền,nhầm địa chỉ.Chuyển sang chuyển hoàn toàn bằng điện nên sai sót đã giảm nhanh chóng . Nếu có sai sót thì cũng nhanh chóng được đièu chỉnh kịp thời ngay trong ngày. -Về tính an toàn: Hệ thống TTLH đã xây dựng quy trình nghiệp vụ và luân chuyển thanh toán đảm bảo tính thống nhất trong quy trình thực hiện,dựa trên cơ sở 1 hệ thống mật mã độc lập,tương đối hoàn chỉnh.Do vậy không thể thất thoát 1 món thanh toán nào của khách hàng cũng như đảm bảo an toàn về tài sản của ngân hàng . Như vậy qua những kết quả đã đạt được có thể thấy rằng NHCT Đống Đa đã áp dụng thành công phương thức TTĐT.Điều này cũng chứng tỏ rằng việc chọn giải pháp kĩ thuật thanh toán hiện đại của ngành ngân hàng nói chung và của NHCT Đống Đa nói riêng là đúng hướng và phù hợp. Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì vẫn còn tồn tại 1 số hạn chế và cần có những giải pháp khắc phục để đạt được hiệu quả cao hơn. -Việc quy định giờ giấc giao dịch với khách hàng còn chưa thuận tiện cho khách hàng:Theo quy định hiện nay tất cả các chứng từ TTLH phát sinh sau 15h30 hàng ngày đều phải cho vào TK điều chuyển vốn chờ thanh toán để sang ngày hôm sau mới chuyển tiếp đi.Vì thế khách hàng có nhu cầu chuyển tiền nhưng phát sinh sau 15h30 thì không thực hiện được.Đây là một hạn chế lớn cho ngân hàng bởi số lượng khách hàng này là nhiều.ngân hàng hoặc bị tồn đọng chứng từ chuyển sang ngày hôm sau hoặc khách hàng sẽ chuyển sang chuyển tiền qua bưu điện vì thời gian kết thúc nhận chuyển tiền ở các bưu điện có dịch vụ chuyển tiền trên địa bàn lại muộn hơn.Vì vậy đã làm hạn chế nhiều đến khối lượng khách hàng đến thanh toán qua ngân hàng. -Hiện tượng ách tắc đường truyền vẫn còn:Do các ngân hàng không trực tiếp gửi lệnh,truyền số liệu cho nhau mà phải qua TTTT xử lí số liệu bằng đường truyền Modem.Vào giờ cao điểm,do các ngân hàng đều chuyển dữ liệu về TTTT nên rất dễ xảy ra hiện tượng ùn tắc nếu các ngân hàng sử dụng chung một đường truyền.Hệ thống NHCT Việt Nam đã thuê đường truyền thông X25 của Tổng công ty Bưu chính viễn thông làm đường truyền riêng nên các trường hợp ách tắc đường truyền đã giảm hẳn.Nhưng vì dung lượng đường truyền nhỏ,chất lượng đường truyển không ổn định nên vẫn có trường hợp bị ách tắc chứng từ gây chậm trễ cho khách hàng. Đây là một hạn chế mà NHCT Việt Nam cũng cần phải sớm khắc phục. -Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền cho khách hàng cá nhân còn chưa thuận tiện: Theo quy trình này khách hàng phải tự viết giấy nộp tiền,bảng kê các loại tiền nộp.Điều này làm khách hàng cảm thấy bất tiện vì mất nhiều thời gian và có nhiều khách hàng vì ít khi thanh toán qua ngân hàng nên tỏ ra lúng túng khi làm thủ tục thanh toán dễ dẫn đến nhầm lẫn.Trong khi đó ở bưu điện khách hàng chỉ cần nói số tiền,địa chỉ cần chuyển tới và kí vào lệnh chuyển tiền vừa được in từ máy ra theo yêu cầu của khách là xong.Có sự khác biệt này là do chứng từ dùng trong chuyển tiền qua ngân hàng có đặc điểm phải do chính khách hàng lập,nó có giá trị như là một sự uỷ quyền để ngân hàng thanh toán thay mặt khách hàng.ngân hàng chỉ có nhiệm vụ thiết kế và in ấn chứng từ để sử dụng ,và hướng dẫn khách hàng lập cho đúng... -Bộ phận chuyển tiền cá nhân chưa mạnh:Mặc dù mức phí của ngân hàng là thấp hơn nhưng trên thực tế chuyển tiền cho khu vực dân cư vẫn chưa chiếm được ưu thế so với ngành bưu điện... Chương 3 Một số ý kiến đóng góp về quá trình hoàn thiện và nâng cao chất lượng thanh toán điện tử tại ngân hàng công thương đống đa 1.Về đào tạo cán bộ: Đào tạo cán bộ là một giải pháp không thể thiếu cho bất kì một quá trình cải tiến nào dù ở lĩnh vực gì.Bởi công việc nào cũng phải cần tới con người.Con người là yếu tố quyết định.Máy móc phương tiện dù có tối tân hiện đại nếu thiếu những người có trình độ để sử dụng thì không thể nào phát huy được tác dụng.Vì thế đào tạo con người luôn đi trước một bước rồi mới đến đầu tư trang thiết bị. Trong giai đoạn phát triển của ngân hàng hiện nay,người cán bộ thanh toán viên không những chỉ giỏi nghiệp vụ mà còn phải sử dụng thành thạo máy vi tính và phải có khả năng giải quyết những vấn đề nảy sinh ngoài dự kiến.Có đội ngũ cán bộ nhân viên như vậy thì mới tạo cho khách hàng sự tin tưởng khi đặt quan hệ với khách hàng.Đây là vấn đề đã được NHCT Đống Đa chú ý nhưng cần phải được quan tâm hơn nữa khi trong tương lai ngân hàng đang có nhiều dự kiến hiện đại hoá trang thiết bị. -ngân hàng nên thường xuyên cung cấp cho thanh toán viên đầy đủ các quyết định,quy chế,quy định,các văn bản hướng dẫn của Thống đốc NHNN,của Tổng giám đốc NHCT...về hướng dẫn quy trình TTĐT. -ngân hàng cần phải khuyến khích cán bộ tự học để nâng cao trình độ cả về nghiệp vụ và tin học. -ngân hàng cũng cần có chế độ tiền lương,thưởng thích đáng cho cán bộ TTĐT... 2.Về quy chế thanh toán không dùng tiền mặt. Trong nền kinh tế ngày một phát triển,thanh toán không dùng tiền mặt đã trở nên phổ biến.Có nhiều hình thức thanh toán khác nhau để đáp ứng nhu cầu thanh toán đa dạng của nền kinh tế và tiện lợi cho khách hàng.Hiện nay ở Việt Nam đang sử dụng 5 hình thức thanh toán là thanh toán bằng séc(gồm séc bảo chi,séc chuyển khoản);uỷ nhiệm chi-chuyển tiền;uỷ nhiệm thu;thanh toán bằng thư tín dụng;thẻ thanh toán.Tại NHCT Đống Đa cho tới nay cũng đã có thể thực hiện được tất cả các hình thức này song các hình thức hay được sử dụng nhất là uỷ nhiệm chi,séc chuyển khoản,séc bảo chi,uỷ nhiệm thu và séc chuyển tiền. ở đây em muốn đề cập tới khía cạnh quy chế đối với việc sử dụng công cụ thanh toán không dùng tiền mặt cụ thể là công cụ séc chuyển khoản-là công cụ được sử dụng nhiều chỉ sau uỷ nhiệm chi.Nhược điểm của séc chuyển khoản là dễ phát hành quá số dư.Đây là điều cấm trong chế độ thanh toán nhưng nhiều trường hợp người phát hành không cố ý hoặc số tiền để thanh toán chưa về kịp ngay hôm đó hay có khoản chi đột xuất...chỉ 1,2 ngày sau là số tiền của họ về đủ,dẫn tới người bán chậm thu được tiền hàng và người mua lại bị phạt và từ đó làm cho công cụ này ít được sử dụng trong thanh toán.Trong khi đó công cụ thanh toán này hết sức đơn giản và thuận tiện cho khách hàng,đặc biệt là đối với khách hàng là người mua. Do đó NHCT Đống Đa nên chăng sớm đề nghị với NHNN cho phép sử dụng tài khoản thấu chi và thực hiện bảo lãnh dư nợ tài khoản thấu chi bằng tín chấp.Việc ngân hàng cho phép dư nợ tài khoản thấu chi và thực hiện bảo lãnh dư nợ tài khoản thấu chi bằng tín chấp khi phát hành séc quá số dư trong trường hợp khách hàng tạm thời thiếu tiền thì sẽ khắc phục được tình trạng khó khăn trong thanh toán bằng séc chuyển khoảnvà đẩy mạnh tình hình thanh toán này phát triển. Cụ thể: Khách hàng làm đơn gửi đến ngân hàng phục vụ mình trong đó ghi rõ “đề nghị ngân hàng cho phép đơn vị được sử dụng tài khoản thấu chi và thực hiện bảo lãnh dư nợ tài khoản thấu chi bằng tín chấp trong trường hợp đột xuất đơn vị phát hành séc chuyển khoản bị quá số dư”.Khi ngân hàng nhận được đơn này thì kế toán viên phụ trách tài khoản của đơn vị đó cùng kết hợp với cán bộ tín dụng phải điều tra làm rõ xem xét đối tượng khách hàng để từ đó đi đến kết luận chính xác và xác định đơn vị nào có thể sử dụng séc chuyển khoản trong trường hợp tờ séc phát hành quá số dư mà vẫn được ngân hàng chấp nhận thanh toán.Chấp nhận thanh toán cho tờ séc phát hành quá số dư có nghĩa là ngân hàng cho đơn vị vay một khoản tiền để thanh toán cho người thụ hưởng,thì giữa khách hàng phát hành séc và ngân hàng sẽ đi đến kí kết một hợp đồng sử dụng tài khoản thấu chi.Sau khi hợp đồng được kí kết ,ngân hàng sẽ mở cho khách hàng một tài khoản thấu chi mà không phải mở tài khoản thông thường.Tài khoản thấu chi có thể dư nợ hoặc dư có.Khi có dư có,khách hàng được hưởng theo lãi suất tiền gửi.Ngược lại khi dư nợ,khách hàng phải trả phí lãi cho ngân hàng theo lãi suất dư nợ thấu chi.Kèm theo việc mở tài khoản thấu chi thì ngân hàng phải ấn định một mức dư nợ cho tài khoản của đơn vị đó và quy định thời hạn nhất định được phép dư nợ đối với từng khoản phát sinh và việc phát hành séc chuyển khoản này chỉ được phép trong phạm vi mức độ dư nợ và thơì hạn đã được kí kết trong hợp đồng thoả thuận giữa hai bên. Việc nới rộng quy chế này sẽ giúp khách hàng thực hiện được việc thanh toán kịp thời,thuận tiện đảm bảo luôn đủ điều kiện chi trả trong trường hợp tạm thiếu vốn vì vậy mà không bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh,hạn chế tối đa khả năng ứ đọng vốn và xây dựng được lòng tin,mối quan hệ bạn hàng giữa các đơn vị(doanh nghiệp )ngày càng phát triển.Mặt khác các khách hàng mua phải chịu một lãi suất tương đối cao nhưng còn dễ chịu hơn nhiều so với mức vi phạm hợp đồng quy định trong cơ chế thanh toán mà ngân hàng áp dụng. 3.Về giờ giấc giao dịch: Việc quy đinh giờ giấc giao dịch đang là vấn đề được nghiên cứu tại NHCT. Việc quy định giờ giấc không chỉ nhằm mục đích thuận tiện cho khách hàng giao dịch mà chủ yếu để đảm bảo cho việc quyết toán TTĐT cuối ngày được kịp thời.Từ 15h30 đến 16h30 tại ngân hàng khởi tạo tiến hành đối chiếu tập tin chuyển đi trong ngày với TTTT.Từ 16h30 đến 17h ngân hàng khởi tạo sẽ hạch toán nội bảng,lập các báo biểu thống kê,báo cáo ngày theo mẫu biểu đã lập sẵn trong chương trình. Tuy nhiên nên chăng ngân hàng cần có giải pháp rút ngắn thời gian thực hiện những phần việc này để kéo dài thời gian phục vụ khách hàng chuyển tiền.Như cải tiến phương thức truyền, nhận,đối chiếu thông tin sao cho nhanh chóng chính xác hơn bằng cách thiết kế đường truyền và đường nhận thông tin riêng rẽ,đối chiếu lập tức.Như thế ngân hàng có thể cùng lúc vừa truyền đi,vừa nhận về các cuộc chuyển tiền từ ngân hàng khác hay từ TTTT đến ngân hàng mình .Việc đối chiếu giữa TTTT,ngân hàng nhận,ngân hàng khởi tạo diễn ra nhanh chóng hơn,tránh tình trạng thời gian kết thúc công việc trong một ngày như hiện nay của thanh toán viên điện tử thường xuyên muộn (19h,có khi kéo dài hơn). 4.Về công nghệ thông tin: Việc thuê đường truyền riêng của Tổng công ty Bưu chính viễn thông vừa đảm bảo tốc độ thanh toán cũng như an toàn,tránh thất lạc file dữ liệu,ách tắc đường truyền.Điều này NHCT Việt Nam đã làm(thuê đường truyền thông X25)và đạt được kết quả tương đối tốt.Nhưng do đường truyền dung lượng nhỏ trong khi nhu cầu chuyển tiền ngày càng tăng nên nhiều khi việc truyền không thực hiện được.NHCT Việt Nam cần sớm yêu cầu Tổng công ty Bưu chính viễn thông thay đổi đường truyền cũ bằng đường truyền mới có dung lượng lớn,chất lượng ổn định hơn để phục vụ cho việc truyền số liệu,nhằm đảm bảo thanh toán không còn ùn tắc để các khoản chuyển tiền đến kịp tay khách hàng trong ngày. Ngoài ra để tiếp tục hoàn thiện hệ thống TTĐT ,ngân hàng cũng cần xúc tiến việc phát triển các phần mềm tin học mới sao cho đảm bảo nhanh hơn,chính xác hơn,an toàn hơn và đảm bảo chống được sự xâm nhập trộm,tin tặc vào hệ thống. Việc đầu tư cho công nghệ ngân hàng là rất tốn kém nhất là đầu tư ban đầu,cần ưu tiên nguồn vốn đầu tư,thu hút kêu gọi vốn đầu tư mới...để sớm có hệ thống thanh toán hiện đại,đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. 5.Về biểu phí Hiện nay tất cả các hệ thống ngân hàng đều đã có thanh toán chuyển tiền điện tử.Do điều kiện của mỗi ngân hàng nên mức thu phí có khác nhau.Trên cơ sở quy định số 326/QĐ-NHCTVN ngày 4/4/2001 của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam về việc thu phí dịch vụ chuyển tiền qua ngân hàng,NHCT Đống Đa đã đề ra mức phí chuyển tiền như sau: Phí chuyển tiền mặt hoặc ngân phiếu của khách hàng cùng hệ thống NHCT + tỉ lệ phí trên tổng số chuyển tiền cho khách hàng nhận là cá nhân là 0,15% hoặc khách hàng nhận có tài khoản tại ngân hàng B là 0,05% + Mức phí tối đa là 1.000.000 đồng + Mức phí tối thiểu là 20.000 đồng. Phí báo cho người nhận chuuyển tiền theo yêu cầu của người nhận:10.000đ/1 món Phí yêu cầu huỷ hoặc sửa đổi lệnh chuyển tiền: 10.000đ/1 món. Mức phí như vậy vừa đảm bảo bù đắp rủi ro,vừa góp phần tăng thu cho ngân hàng .Nhưng NHCT cũng cần nghiên cứu giảm tỉ lệ thu phí phù hợp để thu hút khách hàng.Hoặc có chế độ thu phí ưu tiên với những khách hàng chuyển tiền thường xuyên,khách hàng chuyển tiền có giá trị cao. 6.Về khâu giao dịch với khách hàng. Làm tốt khâu giao dịch với khách hàng là việc nên làm và có thể làm ngay.Cụ thể là: Khi khách hàng đến giao dịch, để tránh mất thời gian cho khách hàng,lãng phí cho ngân hàng thanh toán viên phải hướng dẫn tận tình cho khách hàng.Thái độ lịch sự hoà nhã trong giao dịch sẽ vừa tạo sự tin tưởng, hài lòng cho khách hàng vừa gây ấn tượng tốt cho khách hàng về hình ảnh ngân hàng nhằm lôi kéo khách hàng trong những giao dịch tiếp theo. Khi thanh toán cho khách hàng,thanh toán viên phải làm thủ tục nhanh chóng chính xác,kiểm soát chặt chẽ các yếu tố trên chứng từ đảm bảo cho việc thanh toán đúng địa chỉ,không sai lệch như kiểm tra chứng minh thư nhân dân,số dư trên tài khoản khách hàng...Tránh trường hợp phải làm lại nhiều lần gây ấn tượng xấu cho khách hàng. Đối với công tác báo có,báo nợ:thay vì hiện tại khách hàng thường xuyên phải tới ngân hàng để biết và nhận các giấy tờ báo nợ,báo có chi nhánh nên phoói hợp với bưu điện thực hiện dịch vụ đưa báo có,báo nợ hay các bảng thông báo về số dư tài khoản của khách hàng một cách thường xuyên.Nếu có sai sót Bưu điện hay khách hàng không nhận được các tài liệu cần thiết thì ngân hàng sẵn sàng cung cấp các bản sao cho khách hàng.Điều này đã tạo cho khách hàng thuận lợi là có thể ngồi ở nhà hoặc tại công sở cũng có thể thực hiện kiểm tra hoạt động trên tài khoản của mình một cách cập nhật mà không phải có một hệ thống vi tính nối mạng tới từng khách hàng tốn kém. Nếu làm tốt được khâu này thì chắc chắn khách hàng sẽ sử dụng các dịch vụ ngân hàng nhiều hơn,TTĐT nhiều hơn. 7.Công tác tiếp thị và khuyếch trương. Đống Đa là một quận tập trung nhiều tổ chức tín dụng (như ngân hàng quốc doanh,ngân hàng cổ phần,ngân hàng người nghèo) và nhiều tổ chức bưu điện,bảo hiểm.Đây là những tổ chức đang canh tranh gay gắt với ngân hàng Công Thương Đống Đa.Để có thể cạnh tranh được,ngoài những yếu tố tiềm lực của ngân hàng thì việc xây dựng 1 chiến lược Marketing là hết sức cần thiết nhất. Trước kia hầu hết các dịch vụ chuyển tiền dân chúng thường gửi qua bưu điện vì chưa nhiều người hiểu được sự thuận lợi khi họ sử dụng dịch vụ qua ngân hàng .Thực tế nhu cầu chuyển tiền của dân cư rất lớn vì vậy để họ lựa chọn mình hay bưu điện,ngân hàng phải đưa ra được sản phẩm dịch vụ của mình.Sản phẩm đó phải đủ tính thuyết phục như về mức độ an toàn,nhanh chóng,thủ tục đơn giản và đặc biệt mức phí phải phù hợp vì đây là điều thu hút khách hàng trước tiên.Mức phí tối thiểu như hiện nay là khá cao nên giảm bớt.Mặt khác ngân hàng phải có những giải pháp thích hợp để khách hàng biết tới ngân hàng cũng như dịch vụ chuyển tiền của ngân hàng . - Giới thiệu bằng cách tuyên truyền,quảng bá tính ưu việt của thanh toán chuyển tiền điện tử trên phương tiện thông tin đại chúng,tổ chức các hội nghị khách hàng,.. - Cải tiến đổi mới phong cách giao dịch làm cho người dân hiểu được và gần gũi với hình thức TTĐT. - Tuyên truyền việc mở tài khoản cá nhân tới các tầng lớp dân cư,cải tiến thủ tục mở tài khoản để phù hợp nhằm kích thích người dân mở tài khoản.Từ đó người dân có thói quan thanh toán qua ngân hàng và phương thức TTĐT sẽ được mở rộng. Ngân hàng cũng cần phải mở rộng mạng lưới dịch vụ thanh toán-chuyển tiền cho dân cư bằng cách thực hiện chuyển tiền không phải chỉ ở tại trụ sở chính mà có thể ngay tại các phòng giao dịch quỹ tiết kiệm.Để làm được điều này phải đảm bảo những điều kiện về vật chất kĩ thuật công nghệ để kết nối mạng truyền dẫn giữa TTTT của chi nhánh vơí các phòng giao dịch.Thành lập một bộ phận chuyên nhận chuyển tiền và bố trí ở nơi thuận tiện dễ dàng cho khách hàng. 8.Về quy trình. Cải tiến quy trình là việc sẽ làm và phải làm.Bởi như chúng ta đã biết quy trình TTĐT mà chúng ta đang áp dụng mới chỉ là bước khởi đầu của công nghệ thông tin bằng điện tử.TTĐT ở Việt Nam vẫn còn phải sử dụng nhiều đến chứng từ bởi chúng ta vẫn chưa có đầy đủ các điều kiện để chuyển sang sử dụng hoàn toàn bằng hệ thống TTĐT.Với hệ thống này mọi công việc thanh toán được thực hiện nhờ hệ thống thanh toán viễn thông điện tử.Nên công việc thanh toán qua ngân hàng đơn giản hơn nữa,không cần phải viết hay soạn thảo bất cứ 1 giấy tờ nào.Đồng thời hệ thống thanh toán này sẽ làm cho công việc thanh toán của các chủ thể kinh tế được nhanh chóng,đạt hiệu quả cao và ít tốn kém. Trước mắt để tiếp cận với hệ thống TTĐT,ngân hàng đã thực hiện nối mạng với khách hàng là những doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán lớn trên 1 phạm vi rộng.Mỗi khi có giao dịch phát sinh,khách hàng chuyển chứng từ qua mạng vi tính tới ngân hàng,ngân hàng kiểm soát và chuyển hoá thành chứng từ điện tử.Tuy nhiên mới chỉ giới hạn ở hoạt động ngân quỹ, chi trả tiền lương theo TK tiền gửi cá nhân và cung cấp các thông tin về TK khách hàng theo phương thức ngân hàng cử 1 bộ phận kế toán-ngân quỹ xuống tại trụ sở khách hàng để giao dịch.Bộ phận kế toán sẽ trực tiếp nhận chứng từ thanh toán tại chỗ,tiến hành chuyển hoá thành chứng từ điện tử và chuyển về ngân hàng để tính kí hiệu mật và chuyển đi theo đúng quy trình điện tử.Hình thức này đang được nghiên cứu tiếp ở mức cao hơn đó là khách hàng sẽ tự lập chứng từ điện tử chuyển về ngân hàng ,ngân hàng tiến hành giải mã tính kí hiệu mật và thực hiện thanh toán chuyển đi theo đúng chế độ TTĐT. Lời kết Hiện đại hoá hệ thống thanh toán là vấn đề cốt yếu nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thanh toán đối với toàn bộ nền kinh tế đồng thời đảm bảo cung cấp đầy đủ phương tiện thanh toán cho hoạt động kinh doanh của toàn xã hội.Mặt khác cũng là để đưa ngành ngân hàng từng bước hoà nhập với các ngân hàng trong khu vực cũng như các nước phát triển trên thế giới.Việc đưa TTĐT vào cuộc sống chính là để phục vụ cho mục tiêu đó. TTĐT có một ý nghĩa rất quan trọng trong công cuộc giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông để tiết kiệm được chi phí lưu thông trong xã hội.TTĐT góp phần làm tăng vòng quay chu chuyển vốn cho khách hàng,tăng nhanh vòng quay của tiền vốn trong nền kinh tế quốc dân.TTĐT tạo tiền đề kinh tế thuận lợi giúp cho NH kiểm soát được hoạt động của nền kinh tế dễ dàng hơn.Và đặc biệt trong tình hình cạnh tranh như hiện nay thì TTĐT chính là công cụ hữu hiệu cho việc thu hút vốn của NH.Bởi lẽ mọi đối tượng có quan tâm đến việc thanh toán đều muốn chọn cho mình một phương thức thanh toán thuận lợi nhất.TTĐT đã đáp ứng được yêu cầu đó.Từ đó đã khuyến khích mọi người mở tài khoản tại ngân hàng để được sử dụng những tính năng ưu việt đó. TTĐT được đưa vào thực hiện trong ngành ngân hàng mới hơn 6 năm mà NHCT là ngân hàng đầu tiên thực hiện.Do đó nó vẫn là một lĩnh vực còn mới mẻ,rộng lớn và phức tạp.Với trình độ hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi có những khiếm khuyết.Nhưng em hi vọng rằng bài viết của mình đã làm sáng tỏ một số vấn đề về lí luận cũng như thực tiễn về phương thức thanh toán này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa kế toán-kiểm toán,Ban lãnh đạo và các cán bộ NHCT Đống Đa đã tạo điều kiện cho em thực hiện chuyên đề này. Hà Nội,ngày 5 tháng 4 năm 2002 Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình kế toán ngân hàng (Tác giả: Thầy Vũ Thiện Thập) Bài giảng của thầy Lê Văn Luyện Quy trình thanh toán điện tử trong hệ thống NHCTVN Báo cáo tổng kết công tác năm 2001 của ngân hàng Công Thương Đống Đa. Giáo trình lí thuyết tiền tệ và ngân hàng (Tác giả:Ngô Hướng và Tô Kim Ngọc) Tạp chí ngân hàng Các tài liệu khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0201.doc
Tài liệu liên quan