Một trong những đặc thù của ngành du lịch là sự gắn liền với yếu tố tài nguyên. Đây là yếu tố cơ bản, đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong việc định hướng phát triển loại hình du lịch của mỗi địa phương. Nhận thức được những thế mạnh về tài nguyên du lịch cũng chính là tiền đề xác lập và phát huy lợi thế cạnh tranh của quốc gia với ngành du lịch.
1.1.1. Vị trí địa lý và địa hình
Nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, được coi là khu vực có xu hướng vận động mang tính chất thời đại của luồng khách du lịch quốc tế, đồng thời lại ở vị trí trung tâm của Đông Nam Á, nơi có luồng khách du lịch quốc tế tăng trung bình hằng năm cao nhất thế giới, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có lợi thế nổi trội về vị trí địa lý. Thêm vào đó, trong ba nước thuộc bán đảo Đông Dương, Việt Nam lại nằm ở thế đón đầu, vừa gắn liền với lục địa, vừa thông rộng với đại dương, có vị trí giao lưu quốc tế thuận lợi cả về đường biển, đường sông, đường sắt, đường bộ và đường hàng không. Đây là điều kiện quan trọng trong việc mở rộng và phát triển du lịch quốc tế.
Bên cạnh đó, sự đa dạng của bề mặt địa hình cũng có ý nghĩa rất lớn đối với sức hút của du lịch Việt Nam. Với ba phần tư lãnh thổ là đồi núi, khắp nơi đều có thể nhìn thấy cảnh núi rừng trùng điệp. Chính sự đa dạng và phong phú về cảnh quan và các hệ sinh thái đã tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển nhiều loại hình du lịch, gắn liền với hệ sinh thái biển-đảo, hệ sinh thái sông, hồ, hệ sinh thái rừng, hang động.
102 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lợi thế cạnh tranh quốc gia của ngành du lịch Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giai đoạn 1 triển khai chương trình kích cầu du lịch nội địa Ấn tượng Việt Nam đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận về mức gia tăng lượng khách du lịch trong nước. Tuy nhiên, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi. Bốn tháng đầu năm 2009 vẫn ghi nhận mức sụt giảm lượng khách du lịch từ các thị trường truyền thống của Việt Nam, trong đó lượng khách Nhật Bản chỉ ở mức 90% so với cùng kỳ năm ngoái. Tỷ lệ sụt giảm đối với lượng khách Đài Loan là 84,3% và Hàn Quốc là 73,9% [25]. Đây có thể nói là thách thức không nhỏ đặt ra với giai đoạn 2 của chiến dịch kích cầu du lịch bởi cùng với Hoa Kỳ, riêng 4 thị trường này đã chiếm tới 40% tổng lượng khách đến Việt Nam. Và rõ ràng, các hoạt động kích cầu chưa phát huy tác dụng với các thị trường này.
Bên cạnh đó, chiến dịch kích cầu du lịch được đầu tư và triển khai rầm rộ nhưng trên thực tế còn nhiều yếu tố thiếu khả thi. Các doanh nghiệp trong ngành chủ trương giảm giá tour để kích cầu nhưng giá các mặt hàng liên quan chi phí đầu vào như điện, xăng, vé tàu tăng đã đẩy các doanh nghiệp lữ hành vào tình thế khó xử. Giảm giá kích cầu du lịch là chủ trương chung của chính phủ nhưng nhưng sự phối hợp giữa các ngành trong chiến dịch vẫn còn lỏng lẻo và thiếu một tiếng nói chung. Đây chính là một trong hạn chế lớn của việc triển khai chiến dịch kích cầu du lịch.
Về mối liên kết giữa du lịch và các ngành hỗ trợ và liên quan
Xuất phát từ chất lượng cơ sở hạ tầng trên cả nước nói chung còn thấp nên việc ứng dụng những tiến bộ từ các ngành hỗ trợ và liên quan trong quá trình phát triển du lịch ở nước ta còn rất hạn chế. Do đó mà hiệu quả phối kết hợp giữa các ngành nghề liên quan tới du lịch chưa cao. Không chỉ hạ tầng giao thông có chất lượng thấp, quy mô các công trình công cộng như hệ thống y tế, hệ thống các cơ sở vui chơi giải trí, các địa điểm mua sắm vẫn còn nghèo nàn. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến thực tế là mức tăng trưởng du lịch trong những năm gần đây khá cao nhưng lại đi đôi với mức tăng thu nhập từ chi tiêu khách du lịch không tương xứng. Theo bảng thống kê của Tổ chức Du lịch thế giới (WTO), trung bình mỗi khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chi tiêu dưới mức 700 USD cho khoảng thời gian lưu trú từ 5-10 ngày. Con số này quá thấp so với các nước lân cận khi mà du khách đến Thái Lan chi tiêu trên 1200 USD và đến Singapore chi tiêu trên 1500 USD cho khoảng thời gian lưu trú tương đương [37].
Chất lượng hạ tầng các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan thấp ảnh hưởng khá lớn tới cơ cấu chi tiêu của khách du lịch (Biểu đồ 4).
Biểu đồ 3.2: Cơ cấu chi tiêu bình quân một ngày của
khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam, thống kê chi tiêu du lịch 2005
Theo đó, bình quân mỗi du khách quốc tế tới Việt Nam chi tiêu 74,6 USD một ngày. Chi phí chủ yếu dành cho việc thuê phòng (24,9%), đi lại (18,6%) và ăn uống (18,2%). Chi tiêu vào việc mua sắm hàng hóa chỉ chiếm 16,5%. Đáng chú ý, chi tiêu dành cho các hoạt động vui chơi giải trí chỉ chiếm khiêm tốn 1,4% khoản chi của khách. Đối với khách du lịch trong nước, cơ cấu chi tiêu du lịch cũng có điểm tương đồng khi mức chi dành cho vui chơi giải trí thậm chí còn thấp hơn so với các du khách quốc tế, chỉ chiếm 0,9% tổng chi phí. Những số liệu trên đã cho thấy hiện trạng nghèo nàn của các hoạt động du lịch. Không thể phủ nhận những nỗ lực mở rộng thêm nhiều loại hình du lịch mới, nhiều cách thức sáng tạo trong kinh doanh dịch vụ du lịch ở nhiều địa phương nhưng rõ ràng, hệ thống hạ tầng du lịch thiếu đồng bộ chính là một trong những nguyên nhân hạn chế hiệu quả của các hoạt động du lịch.
Về cơ chế quản lý hoạt động du lịch
Sự nở rộ các loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch tại Việt Nam đã góp phần gia tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường du lịch nội địa, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ với công tác quản lý các cấp. Thực tế đã cho thấy, sự xuất hiện những công ty du lịch liên doanh với lợi thế về ngoại ngữ và mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng đã “nuốt” mất lượng khách du lịch vốn được coi là tiềm năng của du lịch Việt Nam là Hàn Quốc và Nhật Bản. Bên cạnh đó, hiện tượng báo động về các cá nhân hay các công ty du lịch nước ngoài hoạt động “chui” cạnh tranh giành nguồn khách quốc tế do lợi thế giá rẻ hoặc chào bán lại cho các công ty khác nhằm kiếm chênh lệch làm xáo trộn thị trường. Công tác quản lý ở nhiều nơi chưa được siết chặt đã tạo cơ hội cho các công ty hoạt động phi pháp này thôn tính một lượng khách du lịch khá lớn từ các thị trường truyền thống.
Những cải thiện về môi trường pháp lý được ghi nhận là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh du lịch nhưng rõ ràng chủ yếu vẫn chỉ mang tính ứng phó, còn chịu nhiều tác động của môi trường bên ngoài mà chưa chủ động nghiên cứu thị trường nội địa, đưa ra những tính toán lâu dài mang tính bền vững cho du lịch Việt Nam. Bằng chứng là sự dễ dàng trong quá trình cấp phép đầu tư các công trình phục vụ hoạt động du lịch khiến cho hạ tầng du lịch ở nhiều nơi vừa thừa, vừa thiếu. Tiêu biểu là việc xây dựng ồ ạt các sân golf nhằm đáp ứng nhu cầu về địa điểm thể thao, giải trí của khách du lịch đã gây tác động tiêu cực tới hệ sinh thái môi trường và xáo trộn hiện trạng kinh tế, xã hội của nhiều địa phương.
Những hạn chế về hoạt động xúc tiến du lịch
Việt Nam có lợi thế về ấn tượng trong lòng du khách quốc tế là một điểm đến an toàn, thần thiện và hấp dẫn về cảnh quan thiên nhiên còn nhiều nét nguyên sơ. Tuy nhiên, việc xúc tiến cung cấp thông tin và quảng bá thương hiệu của ngành du lịch Việt Nam vẫn còn rất hạn chế và thiếu trọng tâm, trọng điểm. Một phần vì Việt Nam vẫn chưa có văn phòng đại diện du lịch tại nước ngoài. Chính vì thế mà các hoạt động quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam ra nước ngoài còn rời rạc, mang tính ngắn hạn và chưa đồng bộ.
Ngoài ra, ngành du lịch Việt Nam cũng chưa tạo được cho mình một thương hiệu thực sự. Khẩu hiệu “Việt nam - Điểm đến của thiên niên kỷ mới” trước đây với biểu tượng “nụ cười Việt Nam” đã được thay thế bằng “Việt Nam - Vẻ đẹp tiềm ẩn” cùng biểu tượng “nụ sen vàng e ấp” đã phần nào cách tân và lồng vào được giá trị truyền thống mang tính gợi mở của du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhìn vào thương hiệu du lịch của các nước trong khu vực như Singapore với hình ảnh một đô thị hiện đại; Malaysia nổi bật với các điểm mua sắm và du lịch biển hay Thái Lan ấn tượng với dịch vụ spa, nghỉ dưỡng , lễ hội mới thấy du lịch Việt Nam thiếu một điểm nhấn. Khẩu hiệu ý nghĩa nhưng những hình ảnh và hoạt động xúc tiến gắn với khẩu hiệu đó chưa thực sự nêu bật được những thế mạnh của du lịch nước nhà. Thêm vào đó, tần suất xuất hiện của khẩu hiệu và biểu tượng du lịch Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng thế giới còn khá thấp mà một phần nguyên nhân nằm ở chi phí quảng bá hình ảnh có hạn.
Tóm lại, những tồn tại của ngành du lịch Việt Nam chủ yếu nằm ở khả năng quản lý du lịch hạn chế. Bản thân nhiều cán bộ quản lý còn yếu về chuyên môn là khá phổ biến, dẫn tới hoạt động du lịch chưa mang tầm chiến lược, việc quảng bá cũng thiếu chuyên nghiệp. Chính vì vậy, tuy được đánh giá là một quốc gia có lợi thế về tài nguyên du lịch, về nguồn nhân lực giá rẻ nhưng du lịch Việt Nam vẫn chưa có được sự khai thác đúng tầm và chưa thể bắt kịp mức độ phát triển du lịch của các nước trong khu vực.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO LỢI THẾ CẠNH TRANH
QUỐC GIA CỦA NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM
Dự báo thị trường du lịch trong những năm tới
Thị trường quốc tế
Vài thập kỷ qua, tình hình thế giới có những biến đổi to lớn và sâu sắc với những thành tựu hết sức to lớn về khoa học và công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để ngành du lịch toàn cầu khởi sắc. Với sự ra đời của thương mại điện tử, những sản phẩm du lịch đã thành một trong những nhóm hàng hóa dịch vụ được giao dịch nhiều nhất trên Internet và lượng khách du lịch quốc tế trên thế giới tới năm 2020 dự đoán sẽ tăng tới 1.047 triệu lượt người, đem lại thu nhập khoảng 900 tỉ USD [39]. Ngành du lịch ước tính sẽ tạo thêm khoảng 150 triệu chỗ làm việc, chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Trong quá trình phát triển, du lịch thế giới đã hình thành các khu vực, các vùng lãnh thổ với thị phần khách du lịch quốc tế khác nhau. Từ cuối thế kỷ 20, hoạt động du lịch đã có xu hướng chuyển dịch sang khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, khu vực chiếm 16-17% vào thời kỳ 1995-2000. Theo dự báo của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), khu vực Đông Á - Thái Bình Dương sẽ đạt khoảng 22% thị phần toàn thế giới vào năm 2010 và khoảng 27% vào năm 2020. Trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, du lịch các nước Đông Nam Á thuộc khối ASEAN có vị trí quan trọng, chiếm khoảng 34% lượng khách và 38% thu nhập du lịch của toàn khu vực. Trong đó, bốn nước có ngành du lịch phát triển nhất có thể kể tới là Malaysia, Thái Lan, Singapore và Indonesia. Những nước này đều đã vượt qua con số đón 5 triệu lượt khách quốc tế/năm. [37]
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu xuất phát từ cơn bão tài chính nước Mỹ và chính thức lan rộng trên phạm vi toàn thế giới từ quý II năm 2008 đã gây ra những ảnh hưởng bất lợi lên mọi ngành kinh tế, và du lịch không phải là ngoại lệ. Suy thoái kinh tế thế giới đã khiến một số lượng lớn các tập đoàn, công ty lớn trên thế giới buộc phải tuyên bố phá sản và đẩy hàng triệu người lao động đến tình trạng thất nghiệp. Việc làm bị cắt giảm, thu nhập bị thắt lại, nhu cầu giải trí cũng như du lịch giảm đi như một hệ quả tất yếu. Trong số những khu vực bị ảnh hưởng nặng nền nhất từ tình hình kinh tế ảm đạm toàn cầu, Đông Á - Thái Bình Dương là khu vực chứng kiến sự suy giảm nhanh chóng nhất. Chỉ tính riêng trong quý III năm 2008, lượng khách tới Trung Quốc đã giảm 9,3%; tới Hông Kông giảm 2,2%; tới Nhật Bản giảm 2%; tới Singapore giảm 5,2% và tới Việt nam giảm 6,9% [25].
Thị trường Việt Nam
Là một quốc gia nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, sự phát triển của du lịch Việt Nam không nằm ngoài xu thế phát triển chung của du lịch khu vực và thế giới. Tuy không thuộc nhóm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề từ khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành du lịch nói riêng đặt trong tình hình khó khăn chung toàn cầu cũng đã bắt đầu có hiện tượng sụt giảm từ tháng 6-2008. Thị trường khách du lịch quốc tế, đặc biệt từ những thị trường truyền thống và trọng điểm tiếp tục giảm, trong đó khách đến từ Nhật Bản giảm 5,9%, từ Pháp Giảm 1.6% và Hàn Quốc giảm 3.5%. Hàng loạt những thị trường không có đường bay thẳng như Canada, Hà Lan, Đan Mạch, Bỉ, Tây Ban Nha, Italia cũng giảm 3,2% [22]. Các doanh nghiệp lữ hành quốc tế lớn cũng đều lâm vào tình trạng khó khăn trong năm 2008. Số lượng khách quốc tế giảm trung bình từ 10-30% đối với các doang nghiệp, nhất là các doanh nghiệp chuyên khai thác thị trường Đông Bắc Á như Nhật Bản, Hàn Quốc.
Theo dự báo của nhiều nhà kinh tế thế giới thì hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu hiện nay sẽ còn kéo dài sang quý I và II năm 2009 và khả năng hồi phục có thể được chỉ từ 6 tháng cuối năm, vì vậy lưu lượng khách đi du lịch thế giới nói chung và đến Việt Nam nói riêng cũng sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng và theo xu hướng giảm xuống cho đến khi nền kinh tế thế giới phục hồi trở lại. Đặc biệt, đối với dòng khách đến từ các nền kinh tế lớn nằm trong tâm xoáy của cơn bão tài chính như Mỹ, các thị trường châu Âu, Đông Bắc Á và châu Đại Dương sẽ tiếp tục giảm mạnh trong các tháng đầu năm 2009. Tuy nhiên, du khách đến từ các thị trường láng giềng gần như Trung Quốc, các nước ASEAN như Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Lào, Campuchia Một mặt do vị trí địa lý gần và mặt khác, do không nằm vào vùng tâm xoáy của bão tài chính nên du khách đến Việt Nam từ những nước này sẽ tăng nhưng tốc độ tăng sẽ không còn cao như các năm trước đây. Từ đó, có thể dự báo tổng số khách quốc tế đến Việt Nam năm 2009 sẽ tiếp tục theo xu hướng giảm so với cùng kỳ 2008, nhưng mức độ giảm có thể ít hơn các tháng cuối năm 2008. Từ quý III/2009 trở đi, lưu lượng khách đi du lịch thế giới và đến Việt Nam có khả năng sẽ được hồi phục và tăng trở lại.
Định hướng và mục tiêu phát triển ngành du lịch đến năm 2010, tầm nhìn 2020
Định hướng tổng quát
Nhận thức vị trí, vai trò của ngành du lịch trong quá trình hội nhập quốc tế, nội dung Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: “phát triển nhanh du lịch, đưa du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng đất nước ta trở thành một trung tâm thương mại du lịch có tầm cỡ trong khu vực”. Đảng ta cũng chỉ rõ: “tập trung phát triển du lịch văn hóa, lịch sử, cảnh quan môi trường, tạo sức hấp dẫn đặc thù; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm du lịch, thu hút nhiều khách quốc tế, đáp ứng nhu cầu tham quan du lịch ngày càng tăng, tạo công ăn việc làm cho xã hội, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”.
Định hướng chiến lược trên đây là cơ sở cho việc xác định những mục tiêu phát triển du lịch Việt Nam trong mỗi giai đoạn, đồng thời là căn cứ để hệ thống các nhóm giải pháp nhằm đạt được mục tiêu đề ra của ngành.
Mục tiêu phát triển du lịch Việt nam
Mục tiêu chiến lược
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đặt ra mục tiêu của Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam từ 2001-2010 là “nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch; liên kết chặt chẽ các ngành liên quan đến hoạt động du lịch để đầu tư phát triển một số khu du lịch tổng hợp và trọng điểm; đưa ngành du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn; phát triển và đa dạng hóa các loại hình và các điểm du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, lịch sử, thể thao hấp dẫn du khách trong và ngoài nước; xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất và đẩy mạnh liên kết với các nước trong hoạt động du lịch”.
Mục tiêu cụ thể
Những mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 97/2002/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2002 gồm các nội dung cơ bản sau:
Về số lượng khách du lịch
Tăng cường các biện pháp thu hút khách du lịch, phấn đấu tới năm 2010 đón 5,5-6 triệu lượt khách quốc tế (tăng 3 lần so với năm 2000), nhịp độ tăng trưởng bình quân 11,4%/năm và 25 triệu lượt khách nội địa (tăng hơn 2 lần so với năm 2000).
Phấn đấu đạt 10-11 triệu lượt khách quốc tế và 35 triệu lượt khách nội địa vào năm 2020.
Về thu nhập từ hoạt động du lịch
Phấn đấu thu nhập du lịch năm 2010 đạt 4-4,5 tỷ USD, tổng sản phẩm du lịch năm 2010 chiếm 5,3% tổng GDP của cả nước.
Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành du lịch.
Phấn đấu đến năm 2010 có 130.000 phòng khách sạn do đó cần xây mới trong thời kỳ 2006-2010 thêm 50.000 phòng. Xây dựng 4 khu du lịch tổng hợp quốc gia gắn với 3 địa bàn kinh tế trọng điểm và 17 khu du lịch chuyên đề. Đẩy mạnh phát triển du lịch; tập trung đầu tư xây dựng có chọn lọc một số khu, tuyến, điểm du lịch trọng điểm có vị trí quan trọng của quốc gia, nâng cấp các tuyến, điểm du lịch ở các địa phương trong cả nước. Đầu tư cho nghiên cứu để tạo ra sản phẩm du lịch mang tính đa dạng, độc đáo và giàu bản sắc văn hóa dân tộc
Để đạt được các mục tiêu trên, ngành du lịch cần huy động số vốn đầu tư trong giai đoạn 2001-2010 trên 4 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng các khu du lịch lên tới 2,55 tỷ USD.
Tăng cường hợp tác quốc tế về du lịch
Mở rộng ký hợp tác du lịch song phương và tham gia có hiệu quả vào cá tổ chức du lịch quốc tế. Đẩy mạnh công tác xúc tiến, tuyên truyền quảng bá du lịch ra thị trường quốc tế. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học phát triển du lịch. Tăng cường đầu tư vào công tác đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển du lịch.
Phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn là hướng tích cực để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO LỢI THẾ CẠNH TRANH QUỐC GIA CỦA NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM
Trên thực tế, việc áp dụng mô hình kim cương vào phân tích các nhân tố tác động tới lợi thế cạnh tranh không trực tiếp đưa ra những giải pháp nâng cao lợi thế cạnh quốc gia của ngành. Các giải pháp được đưa ra gắn với các cấp quản lý dựa trên việc phân tích bốn nhóm nhân tố chính, nghiên cứu sự tác động qua lại giữa các nhóm nhân tố này dưới ảnh hưởng của yếu tố cơ hội. Từ đó, Chính phủ có cái nhìn toàn diện về những lợi thế và bất lợi thế của ngành và cân nhắc đưa ra những chính sách cạnh tranh phù hợp nhằm phát huy hiệu quả của mỗi nhóm nhân tố và gắn kết các nhóm nhân tố chặt chẽ với nhau. Các chính sách này thông qua sự tác động trực tiếp lên các nhóm nhân tố sẽ tác động gián tiếp vào việc tăng hay giảm lợi thế cạnh tranh quốc gia của ngành. Cần lưu ý, tác động này có thể mang tính tiêu cực hoặc tích cực, phụ thuộc vào nhận thức và phương pháp ra quyết định của Chính phủ. Vì vậy, việc đề xuất các giải pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh quốc gia của ngành du lịch Việt Nam chính là đề xuất các giải pháp tác động hợp lý vào các nhóm nhân tố trong mô hình kim cương.
Nhóm giải pháp đối với các điều kiện yếu tố sản xuất
Khai thác hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên du lịch
Du lịch là một ngành gắn liền với những giá trị của các yếu tố sản xuất hay yếu tố đầu vào, tiêu biểu là nguồn tài nguyên du lịch. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, đại bộ phận các cấp quản lý và bản thân các cá nhân vẫn có tư tưởng khai thác tài nguyên du lịch theo hướng “rừng vàng, biển bạc”, không chú trọng tới công tác đầu tư tôn tạo, duy trì và nâng cao những lợi thế này thành lợi thế cạnh tranh quốc gia mang tính dài hạn của ngành du lịch nước nhà. Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia, không riêng gì Việt Nam đều sở hữu những nguồn tài nguyên nhất định. Nhưng không phải quốc gia nào cũng có thể khai thác nguồn tài nguyên du lịch của đất nước mình một cách hiệu quả và cải biến chúng thành những nguồn lợi mang tính kinh tế, xã hội cao và lâu dài. Vấn đề đặt ra với các quốc gia là phải tìm cách chuyển những lợi thế về đầu vào thành lợi thế về năng suất sản phẩm thông qua cải tiến chất lượng những yếu tố đầu vào theo hướng phát triển bền vửng, khai thác đi đôi với bảo tồn nguồn tài nguyên và qua đó nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.
Nhận thức về vấn đề nâng cao năng suất các yếu tố đầu vào của ngành du lịch của Nhà nước về phát triển du lịch trong những năm gần đây đã có nhiều thay đổi. Trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh: “Thực hiện xã hội hóa trong việc đầu tư, bảo vệ, tôn tạo các di tích, cảnh quan môi trường, các lễ hội, hoạt động văn hóa dân gian, các làng nghề phục vụ phát triển du lịch”. Đây là tín hiệu đáng mừng cho du lịch Việt Nam khi hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới. Một trong những vấn đề mấu chốt đặt ra đối với mục tiêu bảo vệ môi trường tại các khu, điểm du lịch là tránh hiện tượng quá tải mà biện pháp hữu hiệu là quản lý mật độ và công suất phục vụ của các nhà trọ tại các khu, điểm du lịch bởi vì đây chính là những điểm thường xảy ra tình trạng quá tải đặc biệt vào những mùa đông khách và dẫn đến những tác động tiêu cực. Việc giữ gìn vệ sinh môi trường và cảnh quan cũng cần được quan tâm. Tại rất nhiều điểm du lịch hiện nay, do sự quản lý lỏng lẻo và thiếu thông tin, nhận thức chưa cao của du khách cũng như của các cộng đồng địa phương dẫn đến việc môi trường ngày càng bị xuống cấp bởi các nguồn ô nhiễm gây ra Nguồn tài nguyên là có hạn và khai thác song song với công tác duy tu, cải tạo môi trường du lịch chính là cách thiết thực nhất để giữ được giá trị của những nguồn tài nguyên đó.
Bên cạnh đó, cần có cái nhìn “động” hơn về lợi thế từ tiềm năng tài nguyên du lịch. Nhà nước trước tiên cần nhận thức rằng, lợi thế này không đơn thuần là tiềm năng du lịch có sẵn và nổi trội so các quốc gia khác, nhưng nhất thiết phải được khai thác hiệu quả nhất, hợp lý nhất để trở thành thế mạnh nổi bật của du lịch Việt Nam với bạn bè quốc tế. Vì vậy, với một số loại hình du lịch mới nổi lên phù hợp với tiềm năng phát triển của Việt Nam như du lịch chữa bệnh, du lịch MICE cần phải được các cấp quản lý du lịch nghiên cứu, đề xuất chiến lược đầu tư bài bản, lâu dài nhằm xác lập lợi thế cạnh tranh quốc gia trong những ngành du lịch này, tránh để lãng phí tiềm năng.
Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nhằm nâng cao chất lượng toàn diện của hạ tầng du lịch
Trong Chiến lược phát triển du lịch tới năm 2010, Nhà nước cũng đã nhận thức được vai trò của công tác đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng tại các địa bàn trọng điểm du lịch, các khu du lịch quốc gia, các điểm du lịch có tiềm năng phát triển du lịch ở miền núi, vùng sâu, vùng xa và có những chủ trương rõ ràng. Việc phát triển các vùng, các địa bàn trọng điểm cần được triển khai trên cơ sở khai thác các tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, từng lĩnh vực, từng địa phương; kết hợp có hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và các nguồn lực từ các thành phần kinh tế vào đầu tư phát triển du lịch theo chủ trương xã hội hóa phát triển du lịch.
Ngành du lịch trong những năm gần đây được đánh giá là một trong những ngành kinh tế thu hút nguồn vốn FDI nhiều nhất. Năm 2008 cũng đánh dấu một năm “bội thu” của ngành khi 3 trong tổng số 10 dự án hút lượng vốn FDI lớn nhất đều thuộc lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thu hút ồ ạt nguồn vốn đầu tư cũng như những quyết định dễ dãi của quản lý các cấp trong việc cấp đất, xây dựng dồn dập các dự án liên quan tới lĩnh vực du lịch đã tạo ra nhiều trường hợp chồng chéo và dư thừa đáng lo ngại về quá nhiều công trình đầu tư vào sân golf, bất động sản, nhà máy thép, nhà máy lọc dầu lớn nhỏ. Hệ quả là bên cạnh sự năng động và tăng nhanh về số lượng, các quyết định hàng tỉ USD ở các địa phương, tập đoàn kinh tế, liên quan đến năng lượng, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực ở tầm kinh tế quốc dân, rất hệ trọng cho quốc kế dân sinh đã được quyết định một cách nhanh chóng, thiếu sự thẩm định cần thiết của các chuyên gia, hội đồng thẩm định có chuyên môn ở các bộ, ngành và thiếu sự tham gia của các tổ chức quần chúng. Do đó, những con số về lượng vốn đầu tư từ trong và ngoại nước đổ vào du lịch không nói lên tất cả. Điểm mấu chốt mà Chính phủ cần quan tâm là hiệu quả của những dự án đầu tư được phê duyệt. Bên cạnh đó, việc quy hoạch phát triển du lịch cần được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và dân cư ở thời điểm hiện tại nhưng không được làm ảnh hưởng tới lợi ích của thế hệ mai sau. Đây là vấn đề cần được bàn thảo nhiều hơn trong các cuộc họp Quốc hội, đẩy mạnh tính dân chủ trong việc ra quyết định để những nguồn vốn thu hút được đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đẩy mạnh tốc độ phát triển của hạ tầng du lịch bắt kịp với các nước có ngành du lịch phát triển hơn trong khu vực.
Chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao
Về phía nhà nước
Những năm gần đây, nhà nước đã góp phần giải quyết phần nào sự thiếu hụt về lao động du lịch bằng việc cho phép thành lập thêm nhiều cơ sở đào tạo nhân lực du lịch thuộc các cấp. Tuy nhiên, điều này chỉ giải quyết được vấn đề số lượng chứ chưa phải là điệu kiện đủ cho vấn đề chất lượng nguồn nhân lực du lịch. Trong các bài giảng và diễn thuyết của Giáo sư M. Porter về Việt Nam, ông luôn nhấn mạnh việc Việt Nam không nên phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nhân công giá rẻ. Đây có thể là lợi thế trước mắt tạo thuận lợi cho Việt Nam trong các chiến lược cạnh tranh về giá và điểm hút các nhà đầu tư nhằm nâng cao lợi nhuận nhưng lại chỉ thuộc nhóm lợi thế cạnh tranh quốc gia ở cấp thấp. Trong dài hạn, nguồn nhân công giá rẻ chất lượng thấp chính là bất lợi đối với mục tiêu đẩy mạnh năng suất, hiệu quả của nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói chung để có thể bắt kịp tốc độ phát triển của các nền kinh tế trong khu vực. Do đó, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hóa cao là vấn đề có ý nghĩa quyết định chiến lược phát triển của ngành du lịch là nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, góp phần nhanh chóng đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Vấn đề nhân lực du lịch cần được phát triển một cách hệ thống cả về số lượng và chất lượng
Giải pháp hữu hiệu nhất để giải quyết vấn đề đào tạo nhân lực du lịch chính là sự liên kết giữa các đơn vị, các ngành liên quan tới lĩnh vực đào tạo nhân lực du lịch. Cụ thể là Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội cần phối hợp thành lập đơn vị có chức năng dự báo nhu cầu lao động của ngành du lịch và thực hiện một số giải pháp phối hợp với Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch để có hướng ra cho bài toán nhân lực ngành du lịch. Tuy nhiên, việc điều tra, nắm vững thực trạng và dự báo nhu cầu phát triển nguồn nhân lực là việc làm mang tính vĩ mô, đồng bộ, bao gồm tất cả các ngành, các lĩnh vực, mà du lịch chỉ là một trong số đó. Muốn phát triển nguồn nhân lực du lịch, về quản lý nhà nước, không chỉ cần sự tham gia của một số bộ, ngành liên quan trực tiếp mà cần có sự quan tâm, phối hợp hành động của rất nhiều bộ, ngành, địa phương, cơ sở. Bên cạnh đó, nhà nước cần chỉ đạo các cơ quan bộ, ngành liên quan xây dựng các hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng hành nghề, hệ thống cấp và thừa nhận chứng chỉ dạt tiêu chuẩn kỹ năng hành nghề trong các hoạt động cung ứng dịch vụ của ngành du lịch.
Việc giải quyết những tồn tại này không chỉ đòi hỏi sự liên kết các cơ quan, đơn vị, các nguồn lực trong nước mà còn cần sự hợp tâc với các tổ chức quốc tế và khu vực trong lĩnh vực đào tạ nhân lực du lịch. Các nguồn tài trợ về tài chính và công nghệ cũng như lực lượng các chuyên gia đào tạo chính là cách tốt nhất để Việt Nam cải thiện nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực du lịch theo hướng chuyên nghiệp hóa và nâng cao chất lượng nhân lực trong dài hạn.
Về phía doanh nghiệp
Bên cạnh những chủ trương, chính sách phát triển nguồn nhân lực du lịch của các cấp bộ, ngành liên quan, bản thân các doanh nghiệp kinh doanh du lịch cần chủ động trong việc hoạch định chiến lược đầu tư đầu tư phát triển nguồn nhân lực du lịch của chính mình. Các doanh nghiệp cần tổ chức chương trình định hướng công việc và phát triển nhân viên mới. Do hạn chế về khoảng cách giữa kiến thức chuyên môn trên sách vở với thực tế công việc của những nhân viên mới nên doanh nghiệp cần tạo điều kiện cho họ tìm hiểu về doanh nghiệp, về sản phẩm của doanh nghiệp, ý thức được vị trí, vai trò của mình và bộ phận mình sẽ làm việc.
Doanh nghiệp cũng nên thường xuyên tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phát triển hội ngũ nhân viên hiện tại. Các doanh nghiệp nên theo dõi quá trình phát triển chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng làm việc của nhân viên để từ đó nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo khắc phục phù hợp. Đồng thời, các doanh cũng nên có kế hoạch luân chuyển nhân viên giữa các bộ phận trong mộ thời gian nhất định để nhân viên các bộ phận hiểu biết nhau và hiểu biết nhiều hơn về hệ thống công việc trong công ty.
Nhóm giải pháp đối với điều kiện về cầu
Phát triển thị trường du lịch trong nước
Sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành kinh tế du lịch nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào quy mô và kết cấu cầu nội địa. Một trong những tồn tại của các nền kinh tế đang phát triển là các nước còn phụ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu mà không chú trọng tới thị trường trong nước. Vì vậy, nhà nước cần có cái nhìn đúng đắn về vai trò thị trường nội địa, từ đó đưa ra những chính sách phù hợp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch triển khai các hoạt động kích cầu du lịch nội địa.
Trước tiên, nhà nước cần ban hành thêm nhiều cơ chế chính sách để đảm bảo mức độ rủi ro cho các doanh nghiệp du lịch tham gia vào những chiến dịch khuyến mãi, kích cầu du lịch trên phạm vi cả nước. Mức thuế thu nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp du lịch cũng như thuế giá trị gia tăng đánh vào các sản phẩm, dịch vụ du lịch cần được điều chỉnh thích hợp với cái nhìn đúng đắn về một loại hình sản phẩm có một số lượng lớn mang tính xuất khẩu tại chỗ.
Tuy nhiên, nhà nước chỉ nên đưa ra những hỗ trợ về tài chính và môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp du lịch chứ không nên can thiệp sâu vào cách thức cũng như nội dung của các chiến dịch kích cầu du lịch nội địa. Việc áp đặt mức giảm giá trong Chiến dịch Ấn tượng Việt Nam đầu năm nay khiến không ít các doanh nghiệp du gặp khó khăn do chưa có được cái bắt tay với các nhà cung ứng dịch vụ liên quan nhằm thống nhất mức giá cho sản phẩm khuyến mãi như chỉ tiêu chung đề ra. Do đó, muốn dạt được mục tiêu kích cầu du lịch nội địa hiệu quả, nhà nước cần tạo điều kiện để bản thân các doanh nghiệp du lịch và các cấp bộ, ngành liên quan có sự phối hợp đồng bộ, tính toán khả thi nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng du lịch đề ra.
Đẩy mạnh quảng bá hình ảnh quốc gia
Tạo dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia là một trong những chiến lược quan trọng nhất nhằm xúc tiến du lịch phát triển trên thị trường quốc tế. Ngành du lịch của một quốc gia có phát triển hay không phụ thuộc rất lớn vào việc hình ảnh quốc gia đó có được biết đến và có được yêu thích hay không. Để được biết đến một cách rộng rãi trên trường quốc tế với những hình ảnh tích cực, điều mà các quốc gia đều quan tâm, đó là tạo dựng và quảng bá, xúc tiến, giới thiệu hình ảnh quốc gia ra nước ngoài. Trong thời đại ngày nay, việc tạo dựng hình ảnh quốc gia được các nước đặc biệt chú trọng đầu tư.
Một trong những yếu tố được quan tâm khi tạo dựng hình ảnh quốc gia, đó là sự độc đáo so với các nước khác, khai thác triệt để những ưu thế và lợi thế của đất nước mình. Việt Nam là một đất nước được đánh giá là có lợi thế về vị trí địa lý, nguồn tài nguyên du lịch phong phú và tình hình an ninh chính trị tương đối ổn định. Vì vậy, khi tuyên truyền quảng bá hình ảnh về du lịch Việt Nam, những lợi thế này nhất thiết phải được lồng vào một cách hiệu quả nhất để nêu bật lên một hình ảnh Việt Nam đa dạng về cảnh quan, phong phú về truyền thống văn hóa và nổi lên là một điểm đến an toàn.
Công tác xúc tiến, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam cần được đẩy mạnh hơn nữa với việc tăng cường tham gia các hội nghị khu vực và quốc tế; tham gia các lễ hội, hội chợ, triển lãm du lịch, các đợt phát động thị trường, các Tuần văn hóa Việt Nam ở nước ngoài; tổ chức các chuyến khảo sát cho phóng viên báo chí và truyền hình nước ngoài, cho các hãng điều hành tour vào thăm và tìm hiểu tiềm năng du lịch. Tuy nhiên, quy mô của các hoạt động này còn khá nhỏ lẻ và Việt Nam cần phải có một chiến lược tạo dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia chuyên nghiệp hơn và dài hạn hơn để định hướng các hoạt động. Chiến lược tạo dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia phải phối kết hợp được các bộ, ngành, địa phương trong cả nước, đồng thời, khuyến khích sự tham gia tích cực và sáng tạo của mọi thành phần kinh tế trong công việc này.
Trong thời gian tới, Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động văn hóa đối ngoại trên cơ sở phối hợp với Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành, địa phương trong cả nước nhằm tăng cường hơn nữa công tác xúc tiến, quảng bá những giá trị văn hóa, lịch sử, đất nước, con người Việt Nam ra nước ngoài.
3. Nhóm giải pháp đối với các ngành hỗ trợ và liên quan
Nâng cao vai trò của Tổng cục Du lịch trong chủ trương liên kết ngành du lịch với các bộ, ngành liên quan
Bản chất của du lịch là một ngành mang tính liên ngành, liên vùng. Sản phẩm, dịch vụ du lịch không phải là kết quả của một ngành mà là kết quả của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau với mục đích thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Một sản phẩm, dịch vụ du lịch có tính cạnh tranh cao phải đáp ứng được cùng lúc rất nhiều mục đích của du khách như mục đích di chuyển, nghỉ dưỡng, hỗ trợ công việc, mua sắm, giải tríVì vậy, Tổng cục Du lịch cần nhận thức rõ ràng về tính chất tổng hợp của sản phẩm du lịch để có những định hướng đề xuất các phương án liên kết hiệu quả và kinh tế nhất với các ngành hỗ trợ và liên quan. Các doanh nghiệp với tư cách pháp nhân nhỏ lẻ, rời rạc khó có thể bắt tay lâu dài và mang tính quy mô lớn với các đối tác thuộc các ngành khác, và Tổng cục Du lịch cần thực hiện tốt vai trò dẫn dắt, mở đường và tạo môi trường liên kết mang tính dài hơi giữa ngành du lịch với các ngành như ngành giao thông vận tải, ngành thông tin và truyền thông, ngành văn hóa, ngành y tế hay ngành giáo dục. Sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành liên quan và hỗ trợ nhau này sẽ đẩy nhanh tốc độ phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa của du lịch Việt Nam, rút ngắn thời gian để ngành du lịch nước nhà bắt kịp với ngành du lịch phát triển của một số nước trong khu vực.
Phát huy mô hình cụm du lịch (cluster)
Cụm kinh tế được định nghĩa là tập hợp theo khu vực các doanh nghiệp, nhà cung cấp và dịch vụ có mối liên kết với nhau trong các ngành liên quan [28]. Cụm kinh tế có nghĩa rộng hơn so với ngành, bởi các liên kết trong hoạt động kinh tế. Chúng không tập trung vào một ngành mà điều có ý nghĩa nhất đó là mối liên kết trong nền kinh tế khu vực.
Du lịch là một ngành kinh tế mang tính liên ngành, liên vùng. Chính đặc thù này của ngành là cơ sở trong việc phát huy hiệu quả hoạt động du lịch thông qua mô hình cụm du lịch. Mối liên kết chặt chẽ giữa các ngành nghề hỗ trợ và liên quan này là hệ quả tất yếu của việc gia tăng nhu cầu khách du lịch theo chiều hướng ngày một phong phú, đa dạng hơn. Lợi thế có được từ những nhóm ngành hỗ trợ chính là nền tảng xây dựng các cụm du lịch, một xu thế phát triển phổ biến trong khu vực và trên toàn thế giới hiện nay. Những ứng dụng tiến bộ từ các nhóm ngành liên quan và hỗ trợ giúp phát huy hiệu quả hơn những yếu tố sản xuất, góp phần chuyển biến lợi thế về nhân tố đầu vào thành những lợi thế về năng suất mang tính bền vững hơn. Thêm vào đó, phát triển những ngành nghề hỗ trợ đóng vai trò to lớn trong việc hoàn thiện hạ tầng du lịch, thỏa mãn các nhu cầu liên quan của du khách trong suốt chuyến đi và kích thích họ tiêu dùng nhiều hơn.
Tại Việt Nam, mô hình cụm du lịch đã bước đầu phát huy tác dụng tại một số khu vực. Tiêu biểu là việc hình thành và phát triển cụm du lịch Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam trong phát triển kinh tế khu vực miền Trung.
Hình 3: Cấu trúc và liên kết của cụm du lịch
Huế - Đà Nẵng – Quảng Nam
Kinh doanh vận chuyển
Kinh doanh lữ hành
Kinh doanh lưu trú
Ngân hàng
bảo hiểm
Cơ quan Chính phủ
Hiệp hội thương mại
An ninh
quốc phòng
Cộng đồng dân cư
Đào tạo và dạy nghề
Bảo tàng làng nghề
Dịch vụ công cộng
Nguồn: Trương Hồng Trinh, Nguyễn Thị Bích Thủy, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng, 6(92),2008
Theo đó, các giải pháp có tính định hướng nhằm tăng cường liên kết và hoạt động trong mô hình cụm du lịch Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam gồm:
Giải pháp 1: Tạo ra sự ràng buộc và liên kết với các thành phần cốt lõi trong cluster du lịch bao gồm các công ty: kinh doanh vận chuyển, kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành liên kết với nhau để cung cấp những sản phẩm chất lượng cao với chi phí thấp cho du khách.
Giải pháp 2: Các thành phần cốt lõi liên kết với những ngành bổ trợ để nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng giá trị cho khách hàng.
Giải pháp 3: Thiết lập mối liên kết với những nền tảng kinh tế quan trọng như cơ sở hạ tầng, cộng đồng dân cư và tài nguyên môi trường cho sự phát triển bền vững.
Tóm lại, để phát triển cụm du lịch bền vững, điều quan trọng là phải xây dựng được mối liên kết và những ràng buộc giữa các thành viên. Sau đó, tạo ra những mối quan tâm chung giữa các thành viên bằng cách tạo ra sản phẩm chung. Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng nhất trong việc tạo ra chất lượng sản phẩm dịch vụ nên nó phải được quan tâm trong những năm đầu khi thiết lập cụm du lịch. Khi cấu trúc cụm đã định hình, cần tăng cường sự hỗ trợ từ chính phủ và các ngành bổ trợ. Trong khi đó, quan hệ với các cơ sở nền tảng kinh tế cần sự quan tâm sau đó để đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Tính bền vững không chỉ được nhìn từ quan điểm sinh thái mà còn từ quan điểm bảo tồn tính toàn vẹn về kinh tế - xã hội của khu vực. Mô hình cụm du lịch cũng bao hàm sự tác động qua lại giữa các nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia của ngành du lịch trong mô hình kim cương. Đây là mô hình cần triển khai và phát huy rộng rãi cho các cụm du lịch trọng điểm tại Việt Nam.
4. Nhóm giải pháp đối với chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh ngành
Nâng cao vai trò của Tổng cục Du lịch trong liên kết nội bộ ngành
Tổng cục Du lịch với tư cách là cơ quan trực thuộc Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch quản lý nhà nước và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về du lịch. Chính vì vậy, Tổng cục Du lịch đóng vai trò quy hoạch, quản lý và giám sát mọi hoạt động thuộc phạm vi của ngành du lịch. Do đó, Tổng cục Du lịch cần có sự phối kết hợp chặt chẽ với hệ thống các Sở du lịch địa phương và khu vực tư nhân để nâng cao hiệu quả hỗ trợ, giám sát chất lượng cung ứng dịch vụ du lịch của các doanh nghiệp đảm bảo chất lượng và các tiêu chuẩn do Tổng cục đề ra. Kết quả đánh giá chất lượng phục vụ của khách sạn, nhà hàng, các nhà cung cấp dịch vụ vận tải du lịch cần được công bố rộng rãi trên các trang web của tổng cục để hướng dẫn khách du lịch lựa chọn người cung cấp. “Danh sách đen” các doanh nghiệp hoạt động chất lượng thấp, lừa dối khách hàng cần được thông báo kịp thời để cảnh báo khách du lịch.
Tổng cục cũng cần nhanh chóng thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận phàn nàn của khách và thông báo rộng rãi số điện thoại của các đường dây nóng này để khách có thể phản hồi thông tin về các doanh nghiệp vi phạm. Vấn đề đặt ra là đường dây này phải được hỗ trợ liên tục, tránh tình trạng lập đường dây chỉ mang tính hình thức mà ít được vận hành. Bên cạnh đó, các đội phản ứng nhanh tại các điểm du lịch trọng điểm để giải quyết các vấn đề về an ninh, an toàn và bảo vệ quyền lợi của du khách cũng cần được nhanh chóng triển khai.
Tổng cục Du lịch cũng nên đứng ra tổ chức những hoạt động phối hợp chung giữa đơn vị các cấp trực thuộc Tổng cục như giáo dục cộng đồng nâng cao nhận thức xã hội về du lịch và bảo tồn di sản văn hóa, tổ chức các hội thảo chuyên đề tìm giải pháp cho vấn đề chất lượng nguồn nhân lực hay các hoạt động xúc tiến du lịch địa phương và quốc gia. Tổng cục Du lịch cũng cần đóng vai trò tích cực và chủ đạo trong việc quy hoạch tổng thể phát triển các khu du lịch và đóng góp ý kiến cho quy hoạch cụ thể của từng khu để hạn chế những quyết định thiếu khả thi trong quy hoạch tổng thể, dẫn đến hao phí nguồn lực và làm hao mòn lợi thế cạnh tranh về tiềm năng du lịch của đất nước. Có thể nói, sự gắn kết chặt chẽ trong nội bộ ngành có ý nghĩa vô cùng to lớn, là nền tảng quan trọng để ngành du lịch Việt Nam cạnh tranh với các đối thủ dựa trên chính nội lực của mình.
Đổi mới cơ chế xúc tiến du lịch
Trước tiên, cán bộ quản lý các cấp thuộc ngành du lịch cần nhận thức rõ, tổ chức bộ máy xúc tiến du lịch quốc gia hiện nay về tổ chức và lực lượng chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Trong sân chơi WTO, nhiều nước có ngành du lịch đã thành lập cho mình cơ quan xúc tiến du lịch quốc gia. Cơ quan xúc tiến phải là đơn vị độc lập, thực hiện dịch vụ công nhằm nghiên cứu, vạch ra những chiến lược và triển khai các chiến dịch đẩy mạnh hoạt động du lịch trong và ngoài nước. Vấn đề đặt ra là Việt Nam cần phải nghiên cứu một mô hình tổ chức cơ quan xúc tiến du lich quốc gia hoạt động theo cơ chế phù hợp với bản chất kinh tế của công tác xúc tiến du lịch
Bên cạnh đó, xúc tiến du lịch về bản chất là hoạt động thị trường, có nghĩa là hoạt động này phải được thực hiện theo cơ chế phù hợp với quy luật thị trường, phải thích ứng với với những biến động thị trường. Tuy nhiên, hoạt động xúc tiến du lịch của nước ta hiện nay đang vận hành theo quy trình và cơ chế hành chính, chi phí từ ngân sách nhà nước với hàng loạt các thủ tục hành chính hiện hành còn rườm rà, chưa phù hợp với hoạt động theo cơ chế thị trường đòi hỏi tính linh hoạt cao. Với công tác kế họach hóa ngân sách theo năm như hiện nay, cơ quan xúc tiến du lịch không thể thực hiện những kế hoạch có tính dài hạn, có đảm bảo kinh phí dài hơn 1 năm. Trong khi công tác xúc tiến quảng bá du lịch đòi hỏi phải có tính dài hạn và trung hạn, phải lập kế hoạch cho các hoạt động trước thời điểm diễn ra sự kiện tối thiểu từ 1 tới 2 năm. Kế hoạch theo năm khiến cho cơ quan xúc tiến du lịch luôn ở vào thế bị động, không thể phản ứng nhanh với thị trường. Cơ chế phối hợp liên ngành trong hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch cũng cần được đẩy mạnh với “cái bắt tay” hợp tác giữa Tổng cục Du lịch với các bộ, ngành liên quan để đẩy nhanh tốc độ phổ biến các sản phẩm du lịch Việt Nam.
KẾT LUẬN
Thực tế đã cho thấy, trong những năm qua, ngành du lịch Việt Nam đã đạt được những tiến bộ to lớn, đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Trải qua gần 49 năm hình thành và phát triển, ngành du lịch đã khởi sắc từ sau thời kỳ Đổi mới và từng bước trưởng thành, không ngừng nỗ lực nhằm đạt tới mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra là phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, những cơ hội hợp tác về mọi mặt đã mở ra và rất nhiều trong số đó tạo điều kiện thuận lợi để ngành du lịch phát huy những tiềm năng vốn có, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức với ngành du lịch được đánh giá là khá non trẻ trong khu vực như Việt Nam. Sức ép cạnh tranh cùng những tiêu chuẩn toàn cầu khắt khe ràng buộc trong những cam kết hội nhập đặt ngành du lịch vào hoàn cảnh buộc phải cải thiện, làm mới mình, huy động mọi nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm nếu không muốn bị mất thị phần bởi chính những nước có ngành du lịch tiến bộ hơn trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia và Indonesia. Tư duy về một ngành kinh tế dịch vụ đơn thuần chỉ dựa vào nguồn tài nguyên và khai thác một chiều những lợi thế cạnh tranh quốc gia mang tính ngắn hạn không còn phù hợp trong thời đại này. Ngành du lịch muốn cạnh tranh được chỉ có cách duy nhất là phải nêu bật được những thế mạnh du lịch của mình dựa trên nền tảng phát huy những lợi thế cạnh tranh quốc gia sẵn có; không ngừng tác động và biến đổi chúng thành những lợi thế cạnh tranh ở cấp độ cao hơn, mang tính bền vững. Chính vì thế, điểm mấu chốt không nằm ở bản thân lợi thế cạnh tranh quốc gia mà nằm ở cách thức phát huy và cải tạo những lợi thế đó để nâng những tiềm năng du lịch Việt Nam trở thành điểm sáng trong khu vực.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
Vũ Thành Tự Anh (2007), Liên kết vùng để cùng phát triển, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Bộ Giao thông vận tải (2008), Chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Số liệu về lượng FDI đầu tư vào lĩnh vực du lịch các năm 2006, 2007, 2008
Bộ Thông tin và Truyền thông (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm triển khai Internet
Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch (2007), Chương trình Hành động của ngành Du lịch sau khi Việt Nam gia nhập WTO giai đoạn 2007-2012
Trần Việt Dũng (2007), Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Ngoại thương Hà Nội
Nguyễn Văn Đính (2004), Giáo trình kinh tế du lịch, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội
Cliff Shutlz (2007), Cạnh tranh và điểm đến du lịch, Chương trình giảng dạy kinh tế Fubright
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9, 10, NXB Chính trị Quốc gia
Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia
Hoàng Văn Hoan (2002), Hoàn thiện quản lý nhà nước về lao động trong ngành du lịch Việt Nam, Luận án tiến sý, Đại học Kinh tế Quốc dân
Nguyễn Hữu Khải (2007), Các ngành dịch vụ Việt Nam – Năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế Quốc tế, NXB Thống kê
Luật du lịch (2005), Tổng cục Du lịch và NXB Chính trị Quôc gia
Phạm Xuân Lương (2001), Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam , NXB Giáo dục
Bùi Xuân Lưu (2006), Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, NXB Lao động - Xã hội
M. Porter (2008), Lợi thế cạnh tranh quốc gia, NXB Trẻ
PATA Việt Nam (2006), Tổng kết chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2000-2005.
Dương Văn Sáu (2009), Du lịch lễ hội và lễ hội du lịch ở Việt Nam, Tạp chí Du lịch Việt Nam, 3 (3.2009), tr. 12, 13.
Nguyễn Văn Sơn (2006), Karl Marx với một số vấn đề lý luận về kinh tế thị trường - Ý nghĩa thực tiễn của lý luận đó đối với nước ta, truy cập ngày 4-5-2009, từ cơ sở dữ liệu /123456789/1428/1/5-98T12.pdf
Ngọc Thu (2008), “Chiến lược là sự độc đáo”, Thời báo kinh tế Sài gòn online, truy cập ngày 4-5-2009, từ trang web
Thủ tướng chính phủ (2006), Quyết định số 126/2006-QĐ/TTg về việc phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2006-2010
Tổng cục Du lịch (2008), Báo cáo tổng kết công tác năm 2008, phương hướng nhiệm vụ năm 2009 của ngành du lịch
Tổng cục Du lịch (2005), Báo cáo tóm tắt thành tích 45 năm xây dựng và trưởng thành của ngành du lịch Việt Nam
Tổng cục Du lịch (2009), Báo cáo những kết quả ban đầu thực hiện chiến dịch Ấn tượng Việt Nam
Tổng cục Du lịch (2009), Số liệu thống kê về khách quốc tế đến Việt Nam từ 1995 tới 4 tháng đầu năm 2009, truy cập ngày 2-5-2009, từ trang web
Tổng cục thống kê (2008), Niên giám thống kê năm 2008, 2007, 2006
Tổng cục thống kê (2005), Kết quả điều tra chi tiêu của khách du lịch năm 2005
Trương Hồng Trinh, Nguyễn Thị Bích Thủy (2008), “Mô hình Cluster du lịch Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam cho phát triển kinh tế”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ đại học Đà Nẵng, 6(92)
Trần Văn Tùng (2004), Cạnh tranh kinh tế: Lợi thế cạnh tranh quốc gia và chiến lược cạnh tranh của công ty, NXB Thế giới
Ủy ban thường vụ Quốc hôi (1999), Pháp lệnh du lịch Việt Nam, truy cập ngày 12-3-200, từ trang web
Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch (2001), Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Viện Nghiên cứu và Phát triển du lịch (2009), Định hướng thị trường du lịch Việt Nam 2009
Chu Văn Yêm (2004), Các giải pháp tài chính nhằm phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010, Luận án Tiến sỹ, Học viện Tài chính
B. Tài liệu tiếng Anh
ITU (2009), ITC Development Index Report
Charles Crompton ( 2005), The origins Competitive advantage: Innovation, Evolution and Environment (Chapter 13), Cal Poly College of Agriculture
M. Porter (2005), National Competitiveness: Issues for Vietnam
M. Porter (2008), Vietnam’s Competitiveness,Presentation Document, Hà Nội
M. Porter (1990), The Competitive Advantage of Nations, The Free Press
Stephane Garelli (2003), Competitiveness of nations: the fundamentals, IMD world competitiveness year book 2003
UNWTO, Tourism Highlight 2007 Edition
WTTC (2008), Progress and priorities, WTTC annual report
Cùng một số thông tin tổng hợp từ các website:
Tổng cục Du lịch
Tạp chí du lịch Việt Nam
Tổng cục Thống kê
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Hội đồng Du lịch và Lữ hành Quốc tế
Tổ chức Du lịch Thế giới
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Thống kê khách quốc tế đến Việt Nam 2001-2008 Tổng hợp số liệu thống kê từ Tổng cục Du lịch, Tổng cục Thống kê
Năm
Tổng lượng
khách quốc tế
Doanh
thu
ngoại
tệ
(triệu USD)
Chia theo mục đích đến
Nghìn
lượt
người
Tăng
(%)
Du lịch
Công việc
Thăm
thân nhân
Mục đích khác
Nghìn
lượt
người
Tỷ
trọng
(%)
Nghìn
lượt
người
Tỷ trọng
(%)
Nghìn
lượt
người
Tỷ trọng
(%)
Nghìn
lượt
người
Tỷ trọng
(%)
2001
2330,8
8,9
1049
1222,1
52,4
401,1
17,2
390,4
16,7
317,2
13,6
2002
2682,2
12,8
1182
1462,0
55,6
445,9
17
425,4
16,2
249,9
11,2
2003
2429,6
-756
1260
1238,5
51,0
468,4
19,3
392,2
16,1
330,6
13,6
2004
2927,9
20,50
1270
1584,0
54,1
521,7
17,8
467,4
16,0
354,8
12,1
2005
3477,5
18,83
2300
2038,5
58,6
495,6
14,3
508,2
14,6
435,2
12,5
2006
3583,5
3,05
2850
2068,9
57,7
575,8
16,1
560,9
15,7
377,9
10,5
2007
4229,3
18,02
3750
2605,7
61,6
673,8
15,9
601,0
14,2
348,8
8,2
2008
4235,7
0,60
4020
2631,9
61,9
844,8
19,9
509,6
12
267,4
6,3
PHỤ LỤC 2: Danh sách các khu du lịch tổng hợp và khu du lịch chuyên đề trọng điểm trong Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001- 2010 Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch, (2001)
Các khu du lịch tổng hợp :
Khu du lịch tổng hợp biển, đảo Hạ Long - Cát Bà (Quảng Ninh - Hải Phòng) gắn với địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Khu du lịch tổng hợp giải trí thể thao biển Cảnh Dương - Hải Vân - Non Nước (Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng) gắn với đại bàn kinh tế động lực miền Trung
Khu du lịch biển tổng hợp Văn Phong - Đại Lãnh (Khánh Hòa),
Khu du lịch tổng hợp sinh thái nghỉ dưỡng núi Dankia - Suối Vàng (Lâm Đồng - Đà Lạt)
Các khu du lịch chuyên đề:
Khu du lịch nghỉ dưỡng núi Sapa (Lào Cai),
Khu du lịch sinh thái hồ Ba Bể (Bắc Kạn),
Khu du lịch văn hóa - lịch sử Cổ Loa (Hà Nội)
Khu du lịch văn hóa, môi trường Hương Sơn (Hà Tây)
Khu du lịch văn hóa - lịch sử - sinh thái Tam Cốc - Bích Động (Ninh Bình)
Khu du lịch văn hóa - lịch sử Kim Liên - Nam Đàn (Nghệ An)
Khu du lịch sinh thái hang động Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình)
Khu du lịch lịch sử Các mạng đường mòn Hồ Chí Minh (Quảng trị)
Khu du lịch văn hóa Hội An gắn với di tích Mỹ Sơn (Quảng Nam)
Khu du lịch biển Phan Thiết - Mũi Né (Bình Thuận)
Khu du lịch sinh thái Hồ Tuyền Lâm (Lâm Đồng)
Khu du lịch sinh thái Rừng Sác Cần Giờ ( Thành phố Hồ Chí Minh)
Khu du lịch biển Long Hải - Phước Hải (Bà Rịa - Vũng Tàu)
Khu du lịch lịch sử - sinh thái Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu)
Khu du lịch biển đảo Phú Quốc (Kiên Giang)
Khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn Đất Mũi (Cà Mau)
Khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng Ba Vì - Suối Hai (Hà Tây)
PHỤ LỤC 3: Bản đồ các vùng du lịch Việt Nam Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch (2001)
PHỤ LỤC 4: Bản đồ các tuyến điểm, khu du lịch quốc gia Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch, (2001)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2509.doc