Qua hơn 13 năm hoạt động, chất lượng kinh doanh của ngân luôn tăng trưởng ổn định, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, năng lực tài chính của ngân hàngđược tăng cường, mạng lưới hoạt động đưẹơc mở rộng, thương hiệu vpbank ngày càng trở nên quen thuộc và chiếm được lòng tin nơi đông đảo khách hàng, của các nhà đầu tư, các định chế tài chính trong và ngoài nước.
có được những thành quả đáng khích lệ như trên
70 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng các hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VPBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Doanh nghiệp tư nhân
135,97
16.0
254,44
17.1
87,12
(Nguồn báo cáo sao kê tín dụng VPBANK)
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế dân doanh, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác.
Cùng với sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay củaVPBank cũng tăng theo. Trong đó, tăng nhanh nhất là dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước khoảng 87,4%, tiếp đến là doanh nghiệp tư nhân 43,2%, sau đó là doanh nghiệp cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn 47,9%, cuối cùng là doanh nghiệpcó vốn đầu tư nước ngoài 13,4%.
Tuy doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay cao nhưng tỷ trọng lại chiếm rất ít, năm 2004chiếm 16%, năm 2005hiếm có 17,1%. Đối với doanh nghiệp cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm khoảng 35%, doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 15%/.
Qua đây ta thấy, tỷ trọng dư nợ cho vay đối với các loại hình doanh nghiệp có sự thay đổi qua 2 năm. Theo đó, tỷ trọng cho vay doanh nghiệp nhà nước giảm dần, tỷ trọng cho vay các loại hình doanh nghiệp kháctăng dần. Năm 2005, tỷ trọng dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước là 46,7%, năm 2006 là 40,9%. Dư nợ cho vay doanh nghiệp cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn năm 2005 chiếm 32,1%, năm 2006 chiếm 35,6% tổng dư nợ cho vay. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân tỷ trọng dư nợ cho vay trong tổng dư nợ năm 2005 là 16%, năm 2006 tăng lên là 17,1%.
2.2.2.3. Tình hình thu nợ
Doanh số thu nợ.
Bảng 2.10: Doanh số thu nợ DNVVN trong tổng doanh số thu nợ.
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
06/05
(+/- %)
tuyệt đối
(tỷ đồng)
tỷ trọng
(%)
tuyệt đối
(tỷ đồng)
tỷ trọng
(%)
Tổng doanh số thu nợ
1.560.000
1.851.000
18,7
DNVVN
395.000
25,3
525.000
28,4
32,9
Khác
1.165.000
74,7
1.326.000
71,6
13,8
(Nguồn báo cáo sao kê tín dụngcủa VPbank)
Doanh số thu nợ là chỉ tiêu phản ánh khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Nó cũng phản ánh một phần chất lượng tín dụng. Doanh số thu nợ là tổng các khoản thu nợ phát sinh trong kỳ. Tổng doanh số thu nợ và doanh số thu nợ DVVVN đều tăng. Nhưng tốc độ tăng doanh số thu nợ DNVVN ( 32,9%) cao hơn so với tổng doanh số thu nợ ( 18,7%) và doanh số thu nợ khác (13,8%). Và Chi nhánh thu được nhiều nợ từ các DNVVN có xu hướng tăng nhanh hơn so với các đối tượng khách hàng. Có được kết quả này là do VPBank đã tích cực kiểm soát hoạt động cho vay, chấp hành tốt quy định hiện hành và quy trình cho vay. Hơn nữa, cán bộ tín dụng luôn theo dõi thông tin từ khách hàng và kịp thời có những biện pháp xử lý hợp lý.
Nợ quá hạn.
Bên cạnh mở rộng cho vay, VPbank luôn chú trọng tới chất lượng tín dụng. Nâng cao chất lượng tín dụng, đề phòng và hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra là yêu cầu cần thiết đối với mỗi ngân hàng. Nó phản ánh thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn.
Bảng 2.11: Tình hình nợ quá hạn của DNVVN
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
06/05 (+/- %)
tuyệt đối
(tỷ đồng)
tỷ trọng
(%)
tuyệt đối
(tỷ đồng)
tỷ trọng
(%)
Tổng nợ quá hạn
9,328
14,77
5,83
DNVVN
6,728
9,728
Nợ quá hạn DNVVN/Tổng dư nợ cho vay
0,41%
-
0,5%
-
-
Nợ quá hạn DNVVN/Dư nợ cho vay DNVVN
1,22%
1,55%
(Nguồn báo cáo sao kê tín dụngVpbank)
Nợ quá hạn của Vpbank tăng5,83 tỷ đồng tương đương với 48,3%. Trong đó nợ quá hạn đối với DNVVN tăng 3 tỷ đồng tương đương với 66,7%. Vì thế mà tỷ lệ nợ quá hạn có chiều hướng gia tăng nhưng vẫn ở mức thấp (dưới 2%). Tỷ lệ nợ quá hạn DNVVN trên tổng dư nợ cho vay năm 2004là 0,41%, năm 2005là 0,5%. Còn tỷ lệ nợ quá hạn của DNVVN trên dư nợ cho vay DNVVN năm 2005 là 1,2% và năm 2006 là 1,55%.
Năm 2005 và 2006, Vpbank tiến hành áp dụng quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ và trích lập dự phòng. Vì vậy, nhiều khoản nợ nghi ngờ, nợ có vấn đề đều được đưa vào nợ quá hạn. Hơn nữa, các khoản nợ tồn đọng từ năm trước và từ các khách hàng trước đây của hội sở làm cho nợ quá hạn tăng. Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn tăng qua 2 năm nhưng Chi nhánh vẫn duy trì ở mức cho phép của Ngân hàng nhà nước. Đạt được kết quả này là do công tác kiểm soát trước, trong và sau quá trình cho vay. Cán bộ tín dụng liên tục cập nhật thông tin về khách hàng nhằm quản lý khoản vay an toàn và hiệu quả. Đặc biệt, Hội sở luôn tổ chức các đợt thanh tra Chi nhánh, kiểm tra việc cán bộ tín dụng thực hiện quy trình cho vay cũng như là thực hiện chính sách tín dụng của Ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mối quan tâm của Chi nhánh.
2.2.3. Đánh giá hoạt động cho vay đối với DNVVN tại VPbank
2.2.3.1. Những kết quả đạt được.
Dù vừa mới bước qua giai đoạn khó khăn khủng hoảng từ năm 2004 nhưng VPBank đã đạt được kết quả khá tốt trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh tiền tệ. VPBank đã xây dựng được vị thế vững chắc đối với khách hàng, mở ra một thời kỳ phát triển mạnh mẽ về dịch vụ trong những năm tới. Để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng, VPBank cũng đã xác định thay đổi cơ cấu kinh doanh theo hướng tăng tỷ lệ thu từ hoạt động dịch vụ. Nhưng hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại doanh thu nhiều nhất cho ngân hàng. Trong đó hoạt động cho vay ngày càng được mở rộng tới mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề, mọi đối tượng khách hàng với phương châm là an toàn và sinh lợi.
Sự thành công của việc huy động vốn là cơ sở để Vpbank mở rộng cho vay tới mọi đối tượng khách hàng trong đó có DNVVN. Trong 2 năm qua, với 2 chương trình tiết kiệm dự thưởng là “ siêu lãi suất” và “ gửi tiết kiệmtrúng thuởng”, Vpbank đã huy động được một lượng lớn nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế… Năm 2006, lượng vốn huy động tăng lên gần gấp đôi. Nhờ đó, doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng dễ dàng hơn.
Để không tồn đọng vốn, VPBank phải mở rộng thâm nhập thị trường tiềm năng và cũng là thị trường mục tiêu chủ yếu, đó là thị trường các DNVVN. Với những hoạt động tích cực VPBank đã phần nào đáp ứng được nhu cầu vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN. Doanh số cho vay và doanh số thu nợ đối với DNVVN đều tăng cả về số lượng cũng như tỷ trọng trong tổng doanh số cho vay và tổng doanh số thu nợ qua 2 năm. Dư nợ tín dụng liên tục tăng và có sự thay đổi trong cơ cấu tài trợ phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Cơ cấu cho vay theo thời hạn thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn nhưng vẫn đảm bảo tốc độ tăng trưởng nhanh của cả cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Đối với dư nợ cho vay phân theo loại hình doanh nghiệp, tỷ trọng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước giảm, tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân tăng. Còn nếu phân theo lĩnh vực hoạt động thì bao giờ Chi nhánh cũng tài trợ nhiều cho lĩnh vực thương mại dịch vụ vì đây là thế mạnh của các ngân hàng thương mại cổ phần. Song song với việc mở rộng cho vay là việc nâng cao chất lượng tín dụng. Thực hiện nghiêm túc các quy định về bảo đảm tiền vay cũng như quyết định 493 về phân loại nợ và trích lập dự phòng, Chi nhánh cũng hạn chế được rủi ro. Vì thế, tỷ lệ nợ quá hạn trong dư nợ cho vay đối với các DNVVN ở mức thấp, dưới 2%.
Những thay đổi trong chính sách tín dụng cũng như quy trình nghiệp vụ tạo điều kiện thuận lợi mở rộng cho vay DNVVN. Thời hạn giải quyết hồ sơ vay vốn của DNVVN được rút ngắn, hồ sơ vay ngắn hạn được giải quyết trong 5 ngày, còn hồ sơ vay dài hạn thì trong 15 ngàỳ. Trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ tín dụng cũng được cải thiện do sự quan tâm đào tạo nguồn nhân lực của Chi nhánh. Cơ chế cho vay thông thoáng hơn, đặc biệt là áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quyết định cho vay.
2.2.3.2. Một số hạn chế và nguyên nhân.
Một số hạn chế.
Để thực hiện theo đúng phương châm hoạt động củaVPBank “ uy tín,tận tình”, VPBank cần phải khắc phục một số hạn chế sau:
Mặc dù VPBAnk cũng đã mở rộng cho vay đối với DNVVN nhưng dư nợ cho vay, doanh số cho vay vẫn còn chua thật cao, chưa phát huy được hết thế mạnh của ngân hàng. Trong khi các ngân hàng liên tục phát triển mạnh về mọi mặt trong những năm gần đây với tốc độ nhanh, các DNVVN được hỗ trợ phát triển nên cũng tăng cả về số lượng và chất lượng. Với một thị trường tiềm năng như vậy, Chi nhánh mới chỉ tài trợ khoảng 45 đến 47% ( trung bình ngành là khoảng 40-45%) trong tổng dư nợ,tuy có vượt mức trung bình ngành một chút nhưng vẫn chua phát huy được hết khă năng cũng như thế mạnh của ngan hàng . Mặt khác, năm 2005, Chi nhánh huy động được một lượng lớn nguồn vốn nhưng mới chỉ cho vay khoảng 1/3. Như vậy, Chi nhánh sử dụng vốn không thực sự hiệu quả và chưa thực sự chú trọng vào đối tượng DNVVN đang khát vốn.
Về việc cho vay các thành phần kinh tế, Chi nhánh vẫn duy trì tỷ trọng cho vay doanh nghiệp nhà nước cao (87%). Trong khi đó, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang rất phát triển thì lại được tài trợ ít hơn. Nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dư nợ cho vay quá ít chỉ chiếm 25,69%. Thị trường Việt Nam đã mở cửa, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia thị trường ngày một nhiều và đang mở rộng thị phần kinh doanh. Vậy mà số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quan hệ tín dụng với Chi nhánh còn rất khiêm tốn, dưới 5 doanh nghiệp.
Về cho vay phân theo lĩnh vực hoạt động, các DNVVN trong lĩnh vực thương mại – dịch vụ trở thành thị trường chính của Chi nhánh. Còn lĩnh vực công nghiệp vẫn bị bỏ ngỏ, chưa được quan tâm đúng mức.
Doanh số thu nợ còn thấp, tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên theo thời gian phản ánh chất lượng tín dụng của Chi nhánh chưa được đảm bảo.
Nguyên nhân.
Từ phía VPbank
Là một ngân hàng cổ phần, năng lực hoạt động và năng lực cạnh tranh chưa phải là mạnh nhất, hơn nữa không có nhiều sự hỗ trợ của Ngân hàng nhà nước nên VPbank luôn đặt mục tiêu an toàn lên trên hết. Do vậy, tài sản bảo đảm khi vay vốn luôn là đòi hỏi ưu tiên trong quá trình duyệt vay, nhất là với các doanh nghiệp vay vốn lần đầu. Thực trạng cho vay tại Vpbank hầu hết tất cả các khoản cho vay đều cần có tài sản bảo đảm. Hơn nữa, yêu cầu tài sản bảo đảm phải là những tài sản có giá trị, có tính thị trường, không bị hao mòn nhanh, có tính pháp lý…Nhưng giá trị tài sản bảo đảm chỉ đủ để vay 60-80% nhu cầu nên hạn chế khả năng vay vốn của DNVVN rất nhiều. Không chỉ có vậy, ngân hàng gặp nhiều khó khăn trogn quá trình làm hợp đồng cầm cố, thế chấp với khách hàng, đặc biệt là khâu định giá tài sản bảo đảm và đăng ký giao dịch đảm bảo nhất là bất động sản.
Công tác thẩm định là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc hạn chế vay vốn của VPbank. Đó là khó khăn mà VPBank đang phải đối mặt. Số lượng cán bộ tín dụng còn hạn chế, chất lượng chưa cao. Tuy đội ngũ cán bộ tín dụng trẻ, năng động và nhiệt tình, có kiến thức nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tế. Sự bất cập trong phân bổ nguồn lực là nguyên nhân chính dẫn đến hiệu quả thẩm định kém. Một cán bộ tín dụng phải đảm nhất khối lượng công việc quá lớn, từ khâu tiếp nhận hồ sơ đến khâu tất toán hợp đồng. Mà thời gian giải quyết hồ sơ đòi hỏi nhanh, 5 ngày đối với món vay ngắn hạn, 15 ngày đối với món vay trung và dài hạn. Vậy với khối lượng công việc lớn như vậy thì cán bộ tín dụng khó có thể tập trung thẩm định món vay một cách cẩn thận, kỹ lưỡng được. Chính điều này một mặt bỏ lỡ cơ hội vay vốn của nhiều DNVVN, một mặt không đảm bảo chất lượng tín dụng.
. Trong quá trình làm việc, thông tin thu thập được chủ yếu là thông tin một chiều từ khách hàng. Thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng chưa cao, nguồn thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC) không đảm bảo tính kịp thời, chính xác và hiệu quả. Hơn nữa, khi sử dụng thông tin từ CIC, Chi nhánh phải trả phí nên nhiều cán bộ tín dụng vẫn e ngại khi sử dụng nguồn thông tin này.
Một vấn đề nữa trong khâu thẩm định đó là thẩm định phương án, dự án vay vốn. Phương pháp được sử dụng còn đơn giản, chủ yếu là tính toán, phân tích một số chỉ tiêu đơn giản và tiêu biểu, chưa có sự so sánh với chỉ tiêu ngành và lĩnh vực. Sự áp dụng một cách máy móc các chỉ tiêu phân tích cho một số ngành đặc thù khiến cho kết quả thẩm định bị sai lệch. Với thẩm định dự án thì càng khó khăn. Vì chỉ có 2 hoăc 3 cán bộ tín dụng đảm nhận thẩm định dự án, còn đâu hầu hết các cán bộ tín dụng là thẩm định phương án vay vốn ngắn hạn.
Chiến lược Marketing cũng là điểm yếu của Chi nhánh. Công tác marketing cũng như đội ngũ marketing còn mỏng. Marketing tập trung vào hoạt động thẻ chứ chưa có chiến lược cụ thể, chuyên nghiệp quảng bá hình ảnh Chi nhánh. Hình thức tiếp thị khách hàng chủ yếu là trực tiếp tìm đến các doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm, dịch vụ. Việc này vừa tốn kém chi phí lại mất nhiều thời gian mà không hiệu quả.
Từ phía DNVVN.
Trước hết là xuất phát từ chính bản thân DNVVN. Từ những đặc điểm về vốn, năng lực hoạt động, về lao động… mà tác động tới khả năng vay vốn.Với nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ, sự mất cân đối trong cơ cấu vốn cũng như năng lực tài chính hạn chế thì khó có cơ sở đảm bảo vay được vốn của ngân hàng. Cơ chế hạch toán, kế toán, kiểm toán, lập báo cáo tài chính chưa đúng chuẩn mực chế độ kế toán, còn thiếu minh bạch. Nhiều báo cáo tài chính được lập thiếu chính xác, thậm chí còn sai lệch gây khó khăn cho cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định. Đây chính là vấn đề đạo đức của doanh nghiệp. Sự thiếu hợp tác với ngân hàng là rào cản cho việc mở rộng vay vốn đối với các doanh nghiệp này.
Quá trình lập phương án vay vốn còn sơ sài, thiếu căn cứ, tính khả thi và hiệu quả thấp nên không thuyết phục được ngân hàng cho vay vốn. Cán bộ tín dụng đôi khi mất thời gian và công sức để tư vấn cho doanh nghiệp làm lại phương án vay vốn cũng như hướng dẫn doanh nghiệp tiến hành thực hiện các yêu cầu của ngân hàng.
Một vấn đề gây khó khăn không chỉ ngân hàng mà còn cả DNVVN, đó là tài sản bảo đảm cùng với thủ tục cầm cố, thế chấp tài sản bảo đảm. Giá trị tài sản bảo đảm thấp, tính thanh khoản không cao, không đảm bảo điều kiện pháp lý. Khi làm thủ tục về đăng ký quyền sở hữu hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu, DNVVN thường gặp khó khăn ở khâu thủ tục rườm rà, nhất là đối với bất động sản.
Uy tín còn hạn chế, chưa có vị thế trên thị trường, làm ăn nhỏ lẻ, manh mún, nhiều doanh nghiệp ma là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quyết định tài trợ của ngân hàng. Đội ngũ nhà quản lý thiếu chuyên môn cũng như kinh nghiệm quản lý, thiếu kiến thức và khả năng nhạy bén với thị trường luôn là yếu điểm mà DNVVN cần khắc phục.
Một số nguyên nhân khách quan.
Chủ trương khuyến khích các DNVVN phát triển là đúng đắn và hợp lý nhưng Nhà nước phải thi hành nó một cách hiệu quả thì mới tạo ra bước nhảy vọt. Hiện tại, các DNVVN phát triển tràn lan, số lượng đăng ký thành lập nhiều nhưng đi vào hoạt động thực tế thì không nhiều. Mà sự giám sát, quản lý của các cơ quan chức năng đôi khi quá tải nên không thể kiểm soát được hết hoạt động của tất cả các DNVVN. Điều này tạo ra khe hở cho các DNVVN làm ăn phi pháp, lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng.
Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như hoạt động của DNVVN thiếu sự đồng bộ và hướng dẫn cụ thể chi tiết. Đối với DNVVN mới chỉ có Nghị định 90/2001/NĐ-CP về khuyến khích hỗ trợ phát triển DNVVN và chỉ thị 40/2005/ CT-TTg về công tác trợ giúp phát triển DNVVN mà chưa có những hướng dẫn, biện pháp cụ thể áp dụng cho từng loại hình DNVVN. Về phía ngân hàng, mặc dù có nhiều quy định nới lỏng một số điều kiện trong quá trình cho vay tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng cấp tín dụng. Tuy nhiên vẫn có sự thiếu nhất quán với các văn bản pháp luật khác của các bộ ngành khác gây khó khăn cho ngân hàng.
Sự triển khai chậm trễ Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN là một trong những nguyên nhân hạn chế nguồn vốn tài trợ cho DNVVN. Tuy Nhà nước đã có quyết định thành lập Quỹ từ năm 2001 và sửa đổi, bổ sung vào năm 2004 nhưng tính đến thời điểm hiện tại, Quỹ vẫn chưa chính thức đi vào hoạt động, thực hiện đúng chức năng của mình.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN TẠI VPBANK
3.1. Định hướng phát triển DNVVN trong thời gian tới.
Thứ nhất, Đảng tại đại hội VI đã quán triệt quan điểm về phát triển kinh tế. Đó là: “ thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.”
Thứ hai, Nhà nước tạo môi trường về pháp luật và các cơ chế, chính sách thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh nhằm huy động mọi nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển. Bằng cách tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý, cải cách thủ tục hành chính và chính sách tài chính theo hướng tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoán cho DNVVN và dịch vụ phát triển kinh doanh.
Thứ ba, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo phương châm tích cực, vững chắc, nâng cao chất lượng, phát triển về số lượng, đạt hiệu quả kinh tế, góp phần tạo nhiều việc làm, xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa gắn với các mục tiêu quốc gia, các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng địa phương, khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống; chú trọng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; ưu tiên phát triển và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa do đồng bào dân tộc, phụ nữ, người tàn tật … làm chủ doanh nghiệp; ưu tiên phát triển một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao.
Thứ tư, hoạt động trợ giúp của Nhà nước chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp để nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khuyến khích các DNVVN tham gia vào các liên kết ngành ở mọi cấp và hỗ trợ phát triển các hiệp hội doanh nghiệp.
Thứ năm, nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích phát triển các quỹ dành cho DNVVN, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng cho các DNVVN. Như quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, quỹ đầu tư mạo hiểm, phát triển lĩnh vực cho thuê và cho vay không cần thế chấp, phát triển mô hình tài chính vi mô bền vững về mặt tài chính và được quản lý một cách chuyên nghiệp theo hướng thị trường.
Thứ sáu, tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển kinh tế - xã hội.
3.2. Quan điểm và định hướng mở rộng cho vay đối với DNVVN của ngân hàng VPBANK
3.2.1. Quan điểm chung
Mục tiêu của VPBank là trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam trong mảng thị trường đã lựa chọn, hoạt động đa năng, hiện đại, an toàn và hiệu quả. hàng đa dạng bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
DNVVN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là thành phần kinh tế đang được Nhà nước khuyến khích phát triển. Nhận thức được xu thế phát triển của các DNVVN, VPBank đã chủ động tăng cường cho vay các DNVVN thuộc mọi thành phần kinh tế. Mở rộng cho vay các DNVVN là một trong những chủ trương của ngân hàng nhằm đóng góp vào việc hỗ trợ cho các DNVVN phát triển hơn nữa. Chính vì vậy, Ngân hàng luôn tích cực đẩy mạnh công tác huy động vốn cũng như công tác cho vay, công tác marketing…, mở rộng đối tượng khách hàng, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ cần thực hiện trong từng giai đoạn cụ thể.
Trong kế hoạch phát triển của Ngân hàng giai đoạn 2004-2008, Ngân hàng đã hoạch định rõ chiến lược cụ thể. Nhằm phát huy thế mạnh cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh, Ngân hàng đã xác định thị trường mục tiêu:
Các doanh nghiệp có nghề truyền thống, có khả năng cạnh tranh với thương hiệu đã được khẳng định.
Các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, khả năng cạnh tranh cao và sử dụng nhiều dịch vụ ngân hàng.
Các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho các ngành nghề như điện lực, than, viễn thông, hàng không.
Các doanh nghiệp dịch vụ, du lịch.
Các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, đặc biệt là hướng tới xuất khẩu.
Các doanh nghiệp tại khu công nghiệp, khu chế xuất.
Các doanh nghiệp cung cấp các thiết bị trong lĩnh vực y tế, giáo dục.
Các doanh nghiệp độc quyền cung cấp, đại lý.
Các doanh nghiệp mà cố đông sáng lập là các doanh nghiệp nhà nước có tiềm lực.
Qua việc xác định thị trường mục tiêu, ta thấy hầu hết các DNVVN. Vì đây là những ngành nghề phù hợp và trở thành thế mạnh của DNVVN. Ngân hàng đã định hướng tập trung vào nhóm khách hàng này và mở rộng cho vay đối tượng này. Cho vay với số lượng doanh nghiệp đông đảo, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn nhưng vẫn phải kiểm soát khoản vay chặt chẽ sẽ đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng.
Điều quan trọng của vấn đề mở rộng cho vay DNVVN là bản thân Ngân hàng chủ động tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này vay vốn. Ngân hàng đã có những cải cách trong thủ tục cho vay sao cho đơn giản, nhanh chóng mà hiệu quả. Thực hiện chính sách tín dụng: hạn mức, lãi suất, quy mô và thời hạn tín dụng… linh hoạt và phù hợp với nhu cầu vay vốn của khách hàng. Ngân hàng còn đi sâu vào tìm hiểu DNVVN nhằm tìm ra biện pháp giúp đỡ các DNVVN tiếp cận vốn ngân hàng.
Cách thức tiếp cận DNVVN:
Là khách hàng truyền thống, uy tín của VPBank làm trọng tâm mở rộng đối tượng cho vay bằng cách rà soát lại những doanh nghiệp thường xuyên giao dịch với Ngân hàng, uy tín của doanh nghiệp và thông qua hệ thống tài khoản.
Tiếp cận các nhà cung cấp nhóm khách hàng này.
Tiếp cận các nhà tiêu thụ của khách hàng này.
Với việc tiếp cận các DNVVN từ nhiều khía cạnh khác nhau, Ngân hàng có cái nhìn tổng thể hơn về các doanh nghiệp này. Từ đó, mối quan hệ giữa ngân hàng và DNVVN tốt đẹp hơn tạo điều kiện cho cả hai bên cùng hợp tác và phát triển.
3.2.2. Kế hoạch năm 2007.
Theo tiến trình hội nhập WTO, VPBank đã chuẩn bị chiến lược phát triển trong thời gian tới, tập trung vào thị trường bán lẻ cùng với phục vụ tốt mạng thị trường truyền thống. Sự chuyển dịch mô hình quản lý mới theo hướng tách hoạt động quản lý và hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ, hướng tới khách hàng, từng bước hoàn thiện quy trình, quy chế sẽ mang lại hiệu quả ngày càng cao cho ngân hàng. Năm 2007 sẽ là năm để VPBank tăng trưởng nhanh và góp phần khẳng định vị thế của VPBank trên thị trường tài chính - tiền tệ.
Năm 2007, nhu cầu vốn trong nền kinh tế rất nhiều, đối với các DNVVN thì nhu cầu vốn lại càng cao và luôn ở tình trạng thiếu vốn sản xuất hoạt động kinh doanh. Do vậy, VPBank tích cực mở rộng cho vay, tăng doanh số cho vay lên khoảng 50% so với năm 2006. Đồng thời, Chi nhánh cũng phấn đấu nâng cao chất lượng tín dụng bằng việc yêu cầu khách hàng trả nợ đúng hạn. Doanh số thu nợ chung tăng khoảng 20%, còn doanh số thu nợ DNVVN tăng khoảng 33% so với năm 2006. Từ đó làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn còn dưới 1%, nâng cao chất lượng tín dụng.
Về cơ cấu tài trợ cũng có sự thay đổi phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và thế mạnh của Chi nhánh. Chi nhánh tiếp tục tăng tỷ trọng tài trợ trung và dài hạn cho các DNVVN giúp đầu tư đổi mới trang thiết bị, thực hiện các dự án dài hạn. Chi nhánh cũng mở rộng thị trường các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân thay vì chỉ chú trọng tới các doanh nghiệp nhà nước.
Tiếp tục đầu tư vào nguồn nhân lực cũng như đổi mới công nghệ ngân hàng là mục tiêu cấp bách trước mắt góp phần tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác, nhất là các ngân hàng nước ngoài.
3.3. Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBANK)
Qua các năm tăng trưởng đáng khích lệ VPBank đã nâng cao năng lực hoạt động và năng lực cạnh tranh cho ngân hàng. Tuy nhiên, công tác cho vay đối với DNVVN của Chi nhánh còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Từ thực trạng cho vay DNVVN cũng như quan điểm mở rộng cho vay của Chi nhánh, em xin đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế và khó khăn.
3.3.1. Hoàn thiện chính sách tín dụng đối với DNVVN phù hợp với thực tế.
Dư nợ cho vay DNVVN tại VPBank tăng qua hai năm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số dư nợ cho vay của Chi nhánh. DNVVN có những đặc điểm riêng, khác với các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa, DNVVN trong nền kinh tế ngày một tăng, nhu cầu tín dụng ngày một nhiều, lại được sự hỗ trợ khuyến khích phát triển của Nhà nước. Vì vậy, Chi nhánh cần phải xây dựng chính sách tín dụng sao cho phù hợp và cụ thể đối với từng loại hình doanh nghiệp này.
3.3.1.1. Chính sách khách hàng.
Thực hiện chính sách khách hàng đặc biệt đối với DNVVN là một trong những giải pháp nhằm mở rộng hơn nữa công tác cho vay đối tượng này. Từng bước đổi mới chính sách khách hàng bằng cách tạo điều kiện thuận lợi để phục vụ khách hàng nhanh hơn, chất lượng hơn, giúp khách hàng cạnh tranh lành mạnh. Qua đó, thu hút nhiều khách hàng có uy tín đến giao dịch và mở rộng thị phần cho vay của Chi nhánh.
Trước hết, Chi nhánh cần phải thường xuyên phân loại khách hàng doanh nghiệp theo từng tiêu chí nhất định và cụ thể để có các chính sách riêng. Ví dụ như phân loại doanh nghiệp thành doanh nghiệp lớn, DNVVN; trong DNVVN phân thành các đối tượng khác nhau nữa để đưa ra chính sách ưu đãi nhất định. Hoặc như những doanh nghiệp có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì phải được hưởng ưu đãi như là giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ… Đối với khách hàng mới vay lần đầu, nếu tình hình tài chính ổn định, món vay lớn mà phương án lại khả thi và hiệu quả thì Chi nhánh có thể đưa ra mức lãi suất hợp lý hoặc là đưa ra các yêu cầu về thủ tục ít hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn. Từ đó khiến khách hàng có ấn tượng tốt về Chi nhánh và tăng khả năng mở rộng cho vay sau này.
3.3.1.2. Chính sách lãi suất
Thông thường, Chi nhánh áp dụng mức lãi suất khá cứng nhắc. Một số đối tượng khách hàng khác nhau, nhu cầu vay khác nhau nhưng vẫn áp dụng chung một mức lãi suất. Các DNVVN hay phải chịu lãi suất và phí suất cao hơn là các doanh nghiệp lớn. Vì vậy, thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt giúp các DNVVN tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Bởi một trong những điều quan tâm của DNVVN khi vay vốn là lãi suất vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho doanh nghiệp. Do vậy, mức lãi suất phải hợp lý, hình thành trên cơ sở thoả thuân với khách hàng, hoà hợp lợi ích hai bên.
3.3.1.3. Chính sách kỳ hạn nợ cho vay và thời gian trả nợ.
Cho vay ngắn hạn bao giờ cũng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số cho vay DNVVN. Cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng ít và có xu hướng giảm trong năm 2006. Như vậy có sự mất cân đối trong xác định kỳ hạn nợ cho vay. Số lượng các DNVVN tăng lên không ngừng. Hơn nữa, nhiều DNVVN mở rộng quy mô hoạt động. Vì vậy, các doanh nghiệp này đều có nhu cầu vốn trung và dài hạn cho việc đầu tư vào tài sản cố định. Nhưng nguồn vốn trung và dài hạn của Chi nhánh lại hạn chế nên ảnh hưởng đến khả năng cho vay trung và dài hạn. Chi nhánh cần phải tăng cường công tác huy động vốn trung và dài hạn từ các tổ chức kinh tế, các cá nhân thông qua các chương trình huy động với lãi suất ưu đãi và lợi ích đi kèm. Công tác marketing trở nên cực kỳ quan trọng trong tình huống này.
Thời hạn trả nợ đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Kỳ hạn trả nợ phải phù hợp với quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp. Nếu kỳ hạn trả nợ nhỏ hơn hoặc lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn thì doanh nghiệp sẽ chưa có nguồn để trả hoặc ứ đọng vốn, có thể dẫn đến sử dụng vốn sai mục đích và có thể gặp rủi ro.
3.3.1.4. Chính sách về quy mô vốn vay và hạn mức tín dụng.
Nhu cầu vốn lưu động của DNVVN rất lớn. Vì nguồn vốn chủ sở hữu thấp, DNVVN chủ yếu huy động từ nguồn tín dụng ngân hàng. Do vậy, Chi nhánh cần quan tâm đến nhu cầu vay vốn của DNVVN cũng như xem xét kỹ khả năng cấp hạn mức. Với các DNVVN thì nhu cầu vốn vay nhiều nhưng số lượng vay lại ít. Chi nhánh nên chia nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức ở một ngưỡng nhất định đối với một khoản vay để đáp ứng được nhiều nhu cầu nhỏ hơn. Chẳng hạn, Chi nhánh có thể từ chối một số khoản vay lớn để chia lượng tín dụng đó cho những khoản vay nhỏ hơn. Biện pháp này phù hợp với các DNVVN, tạo điều kiện mở rộng cho vay được nhiều DNVVN hơn.
3.3.1.5. Chính sách về tài sản bảo đảm.
Đây là vấn đề khó khăn nhất khi DNVVN vay vốn. Tài sản đảm bảo chỉ đáp ứng đủ 30% - 40% nhu cầu xin vay do tài sản không đủ giấy tờ cần thiết hoặc bị đánh giá quá thấp so với thực tế hoặc không đủ tài sản đảm bảo. Để đảm bảo lợi ích cho DNVVN, cán bộ tín dụng nên áp dụng linh hoạt khung giá của Nhà nước, có sự điều chỉnh của giá cả thị trường.
Gần đây, Chính phủ và Ngân hàng nhà nước đã ban hành một loạt quy định cụ thể về bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng như Nghị định 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay. Nhưng mà việc triển khai xuống thực tiễn không đúng như quy định. Chi nhánh còn e ngại khi cho vay không có tài sản bảo đảm đối với những đối tượng đã quy định rõ trong văn bản. Cán bộ tín dụng có tâm lý lo lắng về các khoản nợ quá hạn, nợ xấu nên thường dùng tài sản bảo đảm là khoản thu nợ cuối cùng.
Năng lực của các DNVVN thường lớn hơn so với tài sản thực tế của họ. Do đó muốn mở rộng cho vay thì Chi nhánh cần áp dụng mạnh dạn hình thức bảo đảm khác nhau. Ngoài hình thức bảo đảm bằng bất động sản hay hàng hoá trong kho, Chi nhánh còn có thể áp dụng bảo đảm bằng hợp đồng chi trả của người thứ ba, số dư bù, bảo lãnh, tín chấp… Một số tài sản bảo đảm Chi nhánh nên áp dụng như chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đang ngày càng phổ biến và khá an toàn khi làm tài sản thế chấp. Vì giá trị hợp đồng được xác định rõ, Chi nhánh chỉ cần căn cứ vào giá trị hoàn lại của hợp đồng mà không cần định giá lại khi nhận là tài sản thế chấp. Mặt khác, không như các loại tài sản khác, hợp đồng nhân thọ có giá trị tăng theo thời gian và được đảm bảo chi trả bởi công ty bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy thủ tục thu hồi nợ khi cần thiết trở nên đơn giản, giảm chi phí và thời gian cho ngân hàng. Việc áp dụng hình thức bảo đảm này tạo nhiều thuận lợi cho cả ngân hàng và DNVVN, nhất là các doanh nghiệp nhỏ. Nhưng cũng cần chú ý là để đảm bảo an toàn tuyệt đối, Chi nhánh nên nhận hợp đồng do công ty bảo hiểm có uy tín và phải kiểm tra tính chính xác của hợp đồng.
3.3.2. Đổi mới quy trình cho vay phù hợp với các DN vừa và nhỏ
3.3.2.1. Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ vay vốn một cách đầy đủ và kịp thời.
Tăng cường phổ biến thông tin cho DNVVN. Những quy định về thủ tục vay, điều kiện vay, tiện ích của từng loại vay vốn phải được phổ biến rộng rãi. Cán bộ tín dụng cần phải thông báo cho khách hàng rõ đâu là những thủ tục cần thiết để cấp khoản vốn vay. Như vậy, doanh nghiệp sẽ có thời gian chuẩn bị đáp ứng ngay yêu cầu trước mắt của Ngân hàng, vừa tiết kiệm được thời gian và chi phí cho cả ngân hàng và doanh nghiệp. Đối với các DNVVN thì điều này rất quan trọng. Xuất phát từ khó khăn của DNVVN, trình độ lãnh đạo còn yếu kém, thủ tục rườm rà, phức tạp, khả năng đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng còn hạn chế, việc cán bộ tín dụng hướng dẫn chi tiết hồ sơ vay vốn là rất cần thiết.
3.3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định khi cho vay đối với DNVVN.
Tuy mới tách ra hoạt động được hơn 2 năm nhưng Chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Lợi nhuận năm 2006 tăng 13% so với năm 2005. Tuy nhiên, Chi nhánh còn đặt mục tiêu lợi nhuận trong năm 2007 cao hơn. Vậy để đạt được những mục tiêu đó thì Chi nhánh phải tăng cường mở rộng cho vay các đối tượng khách hàng khác nhau trong đó có DNVVN. Song, trên con đường tìm kiếm lợi nhuận tối đa, Chi nhánh luôn gặp phải một rào cản đó là rủi ro. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, Chi nhánh phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp, trong đó biện pháp cơ bản và quan trọng là phân tích tổng thể khách hàng trước khi cho vay. Điều đó có nghĩa là Chi nhánh phải không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng.
Phân tích khách hàng.
Phân tích khách hàng là bước đầu tiên của quá trình thẩm định khách hàng. Phân tích năng lực pháp lý của DNVVN là yếu tố không thể bỏ qua và xem nhẹ. Bởi vì số lượng DNVVN ngày một tăng, tình trạng doanh nghiệp ma khá phổ biến. Những doanh nghiệp này dễ dàng làm giấy tờ giả để lừa đảo vốn của ngân hàng. Vì vậy, khi xem xét năng lực pháp lý, cán bộ tín dụng yêu cầu doanh nghiệp cung cấp đầy đủ giấy tờ như: quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh do cấp có thẩm quyền cấp, giấy bổ nhiệm giám đốc… Và những giấy tờ này phải hợp pháp, phải có dấu chứng thực của cơ quan có thẩm quyền để tránh tình trạng giả mạo giấy tờ. Một yếu tố cũng quan trọng mà cán bộ tín dụng cần phải đánh giá đó là uy tín của DNVVN. Đối với những doanh nghiệp mà có uy tín trên thị trường thì ngân hàng sẽ nới lỏng các điều kiện cho vay, mở rộng hạn mức và có các chính sách ưu đãi hơn.
Một khâu quan trọng không kém trong việc phân tích khách hàng là phân tích tài chính khách hàng. Đây là một căn cứ có tính quyết định tới quyết định cho vay. Thông qua các báo cáo tài chính, Ngân hàng tiến hành tính toán các chỉ tiêu chủ yếu, phân tích các chỉ tiêu đó, so sánh các chỉ tiêu với chỉ tiêu của ngành hay lĩnh vực liên quan. Kết hợp với từng trường hợp cụ thể mà Chi nhánh chú trọng phân tích chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác để có những đánh giá chính xác nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đối với DNVVN năng lực tài chính có hạn nên cán bộ tín dụng cần phải phân tích một cách tỉ mỉ, chính xác, đầy đủ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn. DNVVN hoạt động bao trùm trên mọi lĩnh vực với những đặc trưng riêng, nhu cầu vay vốn khác nhau. Vì vậy, khi phân tích tài chính, cán bộ tín dụng nên chú trọng vào một số chỉ tiêu đặc trưng cho ngành nghề kinh doanh. Trên cơ sở những phân tích cụ thể trên, cán bộ tín dụng cần đưa ra những dự báo và nhận định về rủi ro trong kinh doanh, rủi ro ngành, cấu trúc chi phí lợi nhuận nhằm đưa rra các biện pháp giảm thiểu rủi ro.
Thẩm định dự án đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản liên quan đến dự án đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi, hiệu quả và khả năng hoàn vốn đầu tư của dự án.
Khi tiến hành thẩm định dự án, cán bộ tín dụng buộc phải tuân thủ theo các bước hướng dẫn thẩm định của ngân hàng như: phân tích kinh tế dự án đầu tư, phân tích kỹ thuật, thẩm định về khả năng thực hiện dự án, đánh giá hiệu quả về mặt tài chính và khả năng trả nợ của dự án, phân tích rủi ro và các biện pháp phòng ngừa cũng như giảm thiểu rủi ro. Muốn có cái nhìn chính xác về dự án thì VPBank nên chuyên môn hoá lĩnh vực nhất định, mỗi một lĩnh vực phân công cho một hoặc một số cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Như vậy sẽ tăng tính hiệu quả hơn là việc để cho một cán bộ tín dụng ôm đồm nhiều dự án khác nhau một lúc. Bởi cán bộ tín dụng sẽ phải san sẻ thời gian và kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau, không thể chuyên sâu vào một dự án để tìm hiểu kỹ từng khía cạnh liên quan. Từ đó sẽ kéo dài thời gian thẩm định, làm chậm tiến độ vay vốn và ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án của DNVVN.
Thẩm định dự án đầu tư yêu cầu cán bộ tín dụng dự đoán các rủi ro và đưa ra các biện pháp phòng ngừa dựa trên trạng thái động. Trong môi trường kinh doanh đầy biến động, khi triển khai dự án có thể khác xa so với dự tính ban đầu. Nếu không dự đoán từ trước sẽ gây khó khăn cho cả Ngân hàng và doanh nghiệp, vốn sẽ bị tồn đọng trong khi doanh nghiệp lại đang thiếu vốn thi công.
Thẩm định tài sản bảo đảm.
Tài sản bảo đảm là một khó khăn cản trở DNVVN vay vốn ngân hàng. Bởi nhiều DNVVN không có tài sản bảo đảm hoặc giá trị tài sản bảo đảm so với vốn vay không đáng kể. Đặc biệt, nhằm tránh rủi ro, cán bộ tín dụng thường định giá tài sản bảo đảm thấp hơn giá trị thực của nó. Hoặc cán bộ tín dụng không có đủ chuyên môn cũng như kinh nghiệm thẩm định tài sản bảo đảm, nhất là bất động sản và chứng khoán, nên hạn chế DNVVN tiếp cận tín dụng ngân hàng. Vậy để đảm bảo tính chính xác khi thẩm định tài sản bảo đảm thì cán bộ tín dụng phải xem xét các yếu tố: quyền sở hữu, tình trạng tài sản, mức độ chuyên môn hoá tài sản, số tiền bảo hiểm, gía trị tài sản, vấn đề thuê mua và thế chấp tài sản, tính lỏng, tính thị trường của tài sản…. Điều quan trọng là Chi nhánh cần có những điều chỉnh linh hoạt dựa trên cơ sở khung giá Nhà nước và giá thị trường sao cho phù hợp với giá trị thực tế của tài sản.
Tài sản bảo đảm nếu là động sản thường bị hao mòn nhanh. Cán bộ tín dụng cần thường xuyên kiểm tra hiện trạng tài sản, đánh giá lại giá trị, trường hợp mà giá trị tài sản không đảm bảo yêu cầu thì yêu cầu doanh nghiệp bổ sung thêm tài sản bảo đảm. Đối với tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá, đặc biệt là chứng khoán, phải liên tục cập nhật thông tin về thị giá, tình hình hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành, từ đó điều chỉnh giá trị khoản bảo đảm này.
3.3.3. Thực hiện tốt chính sách Marketing.
Trong những năm gần đây, VPBanki cũng đã khẳng định được tên tuổi của mình trên thị trường tài chính – ngân hàng. Tuy nhiên, trước sự tham gia thị trường của nhiều ngân hàng mới, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài khiến các ngân hàng cạnh tranh khốc liệt hơn. Và các DNVVN đang trở thành khách hàng tiềm năng của các ngân hàng bởi thị trường các DNVVN đang bị bỏ ngỏ và chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, VPBank cũng đang tập trung mở rộng cho vay đối tượng này. Nhưng VPBank cũng phải tuân theo các quy định cụ thể của Chính phủ, Bộ tài chính và của NHNN nên không thể bỏ qua những điều kiện cần thiết khi cho vay DNVVN. Vì vậy, làm tốt công tác marketing, quảng cáo chính sách, chế độ cho vay, điều kiện cho vay đối với khu vực DNVVN sẽ giúp ngân hàng thu hút thêm khách hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Hoạt động Marketing tại VPBank chưa phát huy hiệu quả thực sự. Vai trò của bộ phận này chưa phát huy hết chức năng, mới chỉ tập trung vào nghiệp vụ thẻ và quảng bá hình ảnh bên ngoài của Chi nhánh, chưa đi sâu vào nghiên cứu, hoạch định chính sách marketing cụ thể. Để đẩy mạnh công tác marketing, Chi nhánh nên:
Trước hết, bộ phận marketing cần phân đoạn thị trường tín dụng: doanh nghiệp lớn, DNVVN, cá nhân và hộ gia đình, để xây dựng chính sách đầu từ phù hợp cho từng phân đoạn thị trường. Sau đó cần xác định thị trường mục tiêu để phân bổ vốn và nguồn nhân lực gúp cho việc mở rộng, nâng cao hiệu quả đầu tư cho DNVVN.
Hai là, Triển khai các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại trong giai đoạn mở rộng hiện đại hoá hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng nhằm phát triển các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu DNVVN.
Ba là, đứng trước áp lực cạnh tranh từ các ngân hàng trong nước và ngoài nước, hình ảnh ngân hàng và thái độ phục vụ ngân hàng sẽ là nhân tố nhằm thu hút khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ. Điều đó đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải tận tình, nhiệt tình, thông thạo nghiệp vụ để phục vụ khách hàng chu đáo, tăng thêm uy tín cho Chi nhánh nói riêng và ngân hàng Quân đội nói chung.
3.3.4. Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng.
Ngân hàng là loại hình kinh doanh dịch vụ nên nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất, đảm bảo cho hoạt động ngân hàng diễn ra liên tục. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, trong khi các sản phẩm ngân hàng gần như tương đồng với nhau thì yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa các ngân hàng là trình độ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng. Với trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững, cộng với khả năng am hiểu và nhạy bén với thông tin thị trường, thái độ nhiệt tình phục vụ khách hàng…, cán bộ tín dụng sẽ làm việc nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho ngân hàng gia tăng thêm khả năng mở rộng cho vay đối với tất cả các đối tượng khách hàng khác nhau. Như vậy, đi đôi với việc mở rộng cho vay DNVVN là việc nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng.
Sau đây là một số giải pháp:
- Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, xây dựng tác phong làm việc nghiêm túc, khoa học, giữ vững phẩm chất người cán bộ tín dụng: không vụ lợi, không lợi dụng khách hàng để làm việc bất chính, trung thực, tận tình, có trách nhiệm…
Thường xuyên trau dồi kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ. Hoạt động các DNVVN bao trùm mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội, cán bộ tín dụng phải có am biết về hoạt động của khách hàng, quy định pháp luật liên quan, tình hình kinhh tế- xã hội trong và ngoài nước thì mới tiến hành thẩm định và kiểm soát có hiệu quả. Cụ thể là cán bộ tín dụng tìm hiểu thông tin một cách kỹ lưỡng về doanh nghiệp trước, trong và sau quá trình cho vay; liên tục cập nhật thông tin thị trường, thông tin pháp luật, các quan đỉêm chỉ đạo của Nhà nước về phát triển DNVVN để đưa ra các điều chỉnh kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho DNVVN vay vốn.
Thường xuyên giáo dục đạo đức, phẩm chất chính trị cho cán bộ tín dụng.
Tổ chức các khoá học đào tạo nghiệp vụ bổ ích cho cán bộ tín dụng. Đây là biện pháp hữu hiệu giúp nâng cao kiến thức cho cán bộ tín dụng về đặc điểm, thực tế hoạt động và xu hướng phát triển của DNVVN. Từ đó giúp cán bộ tín dụng có cái nhìn chi tiết hơn bổ trợ cho nghiệp vụ của mình.
Tạo môi trường làm việc năng động, công bằng, chuyên nghiệp, các chính sách đãi ngộ hợp lý, vừa phát huy hết năng lực của nhân viên vừa tạo ra sự gắn bó lâu dài giữa nhân viên và ngân hàng. Trong quá trình làm việc cần gắn trách nhiệm với quyền lợi, có chế độ thưởng phạt công bằng, hợp lý tạo động lực cho nhân viên làm việc có hiệu quả. Trong 2 năm qua, Chi nhánh đã cử nhiều nhân viên tham gia vào các hoạt động văn nghệ, thể thao chung của toàn ngân hàng làm phong phú thêm đời sống tinh thần của cán bộ công nhân viên. Đây là những hoạt động hết sức bổ ích và nên tiếp tục phát huy trong những năm tới.
Bổ sung thêm nguồn nhân lực có trình độ và kỹ năng làm việc. Chi nhánh mới thành lập nên đội ngũ nhân lực còn ít cả về số lượng và chất lượng. Một khi chi nhánh phát triển hơn nữa thì bổ sung nguồn nhân lực trở thành nhiệm vụ cấp bách. Nếu không thì một nhân viên phải đảm nhận nhiều công việc một lúc nên thời gian xử lý hồ sơ khách hàng chậm làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc và hoạt động của cả ngân hàng cũng như khách hàng.
3.3.5. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tần Chi nhánh, công nghệ thông tin.
Môi môi trường làm việc chuyên nghiệp, đầy đủ trang thiết bị thiết yếu là điều quan trọng hàng đầu. Nó tạo ra tâm lý thoải mái cho nhân viên. Đặc biệt Chi nhánh nên cải tiến, nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ cho cán bộ tín dụng một cách hiệu quả hơn, tiện lợi hơn.
3.4. Một số kiến nghị.
3.4.1. Đối với Nhà nước.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý mà cụ thể là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách thương mại.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai. Bởi vấn đề mặt bằng sản xuất kinh doanh là một trong những khó khăn đối với DNVVN. Doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu đất phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh, thủ tục sử dụng đất còn rườm rà, chậm chạp, lẫn lộn giữa quyền sử dụng đất cho mục đích thương mại, công nghiệp nên gặp khó khăn khi thế chấp vay ngân hàng. Do đó, Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ cấp quyền sử dụng đất, quyền thuê đất cho các DNVVN để họ yên tâm đầu tư lâu dài.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế. Nhà nước phải tạo sân chơi bình đảng cho mọi thành phần kinh tế trong đó có chính sách thuế đối với DNVVN. Đơn giản hoá thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng…; tăng mức độ ưu đãi thuế đối với DNVV nhất là các doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp xuất nhập khẩu, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mới. Có như vậy mới khuyến khích các DNVVN phát triển hơn.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách tín dụng. Bằng cách tạo ra một “sân chơi bình đẳng” về tín dụng cho tất cả các chủ thể đi vay, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn; Sửa đổi một số quy đinh về bảo đảm tiền vay sao cho có sự thống nhất với Luật đất đai tạo điều kiện cho DNVVN tiến hành cầm cố và thế chấp dễ dàng. Chính phủ cần cụ thể hoá hình thức tín chấp, bảo lãnh khuyến khích các địa phương, hiệp hội bảo lãnh cho DNVVN vay vốn; đơn giản hoá và chuyên môn hoá các giao dịch đảm bảo, đưa các thông tin giao dịch đảm bảo lên mạng.
Thứ hai, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có trình độ tay nghề, trình độ quản lý cho các DNVVN. Đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá, đây là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Thị trường biến động thường xuyên, các DNVVN nếu không có đội ngũ lãnh đạo có kiến thức và kinh nghiệm thì rất dễ bị tác động theo hướng tiêu cực.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp quản lý của nhà nước theo cả chiều dọc và chiều ngang. Bộ thương mại sẽ thường xuyên phối hợp với Bộ kế hoạch đầu tư và các bộ ngành có liên quan để tổ chức thực hiện tốt nghị định 90/CP; tạo điều kiện cho DNVVN niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm huy động vốn trung và dài hạn.
Thứ tư, đẩy mạnh việc thành lập và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN. Nguyên nhân là do tâm lý e ngại tính hiệu quả của quỹ, khó huy động được nguồn vốn cho quỹ, vướng mắc trong tổ chức và điều hành quỹ. Chính vì vậy, Nhà nước cần phát huy vai trò quản lý của mình, can thiệp hơn nữa và đưa ra các điều kiện đảm bảo để cho Quỹ chính thức đi vào hoạt động.
3.4.2. Đối với Ngân hàng nhà nước.
Trước hết, Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục rà soát lại các cơ chế, quy định hiện hành về hoạt động của Ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Giảm bớt sự bất hợp lý, trùng lắp, không phù hợp với các văn bản pháp luật của Chính phủ và các Bộ ngành khác.
Thứ hai, Ngân hàng nhà nước cần tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại.Ngân hàng nhà nước là cơ quan chủ quản, trực tiếp quản lý, chỉ đạo hoạt động của ngân hàng thương mại. Để thực hiện đúng vai trò và chức năng điều tiết vĩ mô, Ngân hàng nhà nước cần phải thường xuyên giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của Ngân hàng thương mại đề phòng rủi ro xảy ra ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng. Cụ thể là giám sát việc thực hiện quy chế cho vay, quy chế bảo lãnh, quy trình tín dụng, chính sách tín dụng, cũng như hồ sơ tín dụng. Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngân hàng thương mại sao cho vừa đảm bảo lợi nhuận vừa đảm bảo an toàn, ổn định cho ngân hàng.
Thứ ba, nâng cao chất lượng hệ thống thông tin tín dụng. Hệ thống thông tin tín dụng là công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho hoạt động cho vay của ngân hàng. Đây là nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy, chứa đựng đầy đủ thông tin liên quan đến tình hình tài chính- tiền tệ trong nền kinh tế thị trượng. Nó giúp giảm sự không cân xứng về thông tin giữa người vay và người cho vay. từ đó, ngân hàng có cơ sở đánh giá rủi ro chính xác hơn, nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay.
Thứ tư, Ngân hàng nhà nước cần có biện pháp tăng cường hoạt động liên ngân hàng. Sự trao đổi thông tin giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng có ý nghĩa quan trọng tạo ra sự liên kết với nhau cùng phát triển. Hơn nữa, sự phối hợp giữa các ngân hàng sẽ tạo điều kiện mở rộng cho vay DNVVN thông qua hoạt động đồng tài trợ.
3.4.3. Đối với Hội sở chính Ngân hàng VPBANK
Hội sở chính Ngân hàng VPBANK là cơ quan chỉ đạo trực tiếp hoạt động của VPBANK. Nhằm mở rộng cho vay DNVVN tại Chi nhánh, Ngân hàng VPBANK cần phải có một số định hướng và biện pháp sau:
Tiếp tục hoàn thiện chính sách tín dụng làm cương lĩnh hoạt động chung cho toàn bộ hệ thống. Cần cụ thể hoá chính sách riêng đối với DNVVN chỉ đạo cho các Chi nhánh thực hiện. Dựa trên chính sách chung, các Chi nhánh sẽ xây dựng chính sách riêng sao cho phù hợp với khả năng hoạt động của mình, phát huy lợi thế và nâng cao chất lượng hoạt động của Chi nhánh.
Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ thông tin. Hệ thống công nghệ thông tin giúp cho ngân hàng thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng, khai thác và phát triển các sản phẩm mới, đa dạnghoá nghiệp vụ kinh doanh. Nhờ đó, Ngân hàng sẽ trở thành một ngân hàng cổ phần đa năng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Vì vậy, ngân hàng nên đầu tư vào hệ thống công nghệ hiện đại với tính bảo mật cao. Hiện nay, thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích không chỉ cho các ngân hàng mà còn cho cả doanh nghiệp. Giao dịch điện tử vừa tiết kiệm thời gian, lại tiết kiệm chi phí, tạo thuận lợi cho khách hàng khi tiến hành giao dịch với ngân hàng. Hơn nữa, ngân hàng có thể mở rộng phạm vi hoạt động, phạm vi thị trường mà không cần quan tâm đến khoảng cách địa lý. Đây là vấn đề ngân hàng nên quan tâm. Ngoài ra, hệ thống IBANK kết nối thông tin khách hàng của các chi nhánh cần được liên tục nâng cấp.
KẾT LUẬN
Qua hơn 13 năm hoạt động, chất lượng kinh doanh của ngân luôn tăng trưởng ổn định, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, năng lực tài chính của ngân hàngđược tăng cường, mạng lưới hoạt động đưẹơc mở rộng, thương hiệu vpbank ngày càng trở nên quen thuộc và chiếm được lòng tin nơi đông đảo khách hàng, của các nhà đầu tư, các định chế tài chính trong và ngoài nước.
có được những thành quả đáng khích lệ như trên, cần phải kể đến sự động viên cổ vũ hậu thuẫn vững chắc của các cổ đông, sự chỉ đạo kịp thời và hiệu quả của cơ quan quản lý, tinh thần năng động sáng tạo của ban điều hành và sự tận lực của độn ngũ nhân viên các cấp.
Bước sang năm 2007, trong bối cảnh đất nước đang trong giai đoạn phát triển nhanh với nhiều thời cơ và thách thức mới, việt nam trở thành thành viên của WTO, cùng với xu hướng hội nhập, dỡ bỏ bảo hộ, tạo nên một sân chơi bình đẳng, lành mạnh là động lực thúc đẩy nền kinh tế đất nước tiếp tục phát triển khởi sắc, buộc vpbank không thể tự mãn với quá khứ mà cần phải tỉnh táo để xác định lộ trình, xác lập hướng đi và bước đi phù hợp với tình hình mới.
Với mục tiêu trở thành một trong năm ngân hàng thương mại hàng đầu việt nam trong mảng thị trường đã lựa chọn, hoạt động đa năng an toàn và hiệu quả, trong thời gian tới vpbank sẽ tiếp tục triển khai đề án đổi mới, tăng vốn điều lệ và mở rộng mạng lưới hoạt động, đầu tư phát triển nguồn nhân lực đạt trình độ chuyên nghiệp cao, hiện đại hóa công nghệ và phát triển thêm nhiều dịch vụ ngân hàng mới, đáp ứng sự tin tưởng của đông đảo quí vị khách hàng cũng như sự tin cậy của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0174.doc