Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Châu Âu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên lãi cùng chia, lỗ cùng chịu

doc113 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1042 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Châu Âu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá trị gia tăng ( không phải nhập nguyên liệu và nhập thành phẩm theo kiểu gia công), vừa tạo điều kiện thu hút được các nguồn nhân lực và vật lực của đất nước vào lĩnh vực kinh tế có hiệu quả. 2.2. Giảm thuế để khuyến khích xuất khẩu dịch vụ. Xuất khẩu dịch vụ và xuất khẩu sản phẩm trí tuệ còn là việc mới, nhưng trên thực tế kim ngạch xuất khẩu của loại hình này theo những con số không chính thức ngày càng tăng. Các chuyên gia của bộ thương mại đã tính toán và dự đoán khả năng phát triển loại hình này trong tương lai là hiện thực, dự đoán lượng ngoại tệ thu được từ xuất khẩu dịch vụ và sản phẩm trí tuệ vào năm 2000 có thể lên tới 1,5 tỷ USD nếu như Việt nam có các biện pháp tích cực thúc đẩy hoạt động này ngay từ bây giờ. Do vậy, cần có các văn bản cụ thể được công bố và giao cho các bộ cùng các cơ quan có chức năng thực hiện chính sách phát triển và khuyến khích đúng đắn để khả năng này trở thành hiện thực. Trước mắt cần có sự thay đổi về thuế để khuyến khích phát triển công nghiệp gia công, sản xuất phần mềm tin học. Những bất hợp lý trong lĩnh vực này có thể nhìn thấy rất rõ như: thuế doanh thu phần mềm là 2% ( thuế dịch vụ) trong khi thuế doanh thu buôn bán phần cứng chỉ là 1%, hoặc thuế lợi tức phần mềm lên tới 45%. Đây là những bất hợp lý mà nên được điều chỉnh sớm. Các loại hình dịch vụ và các sản phẩm trí tuệ khác, nếu xuất khẩu thu được ngoại tệ thì cũng nên xem xét cho miễn giảm các loại thuế như đối với hàng hoá thông thường. 2.3. Quỹ bảo hiểm ( hay quỹ phòng ngừa rủi do). Nhà nước khuyến khích các hiệp hội ngày hàng tự nguyện thành lập các quỹ bảo hiểm ( phòng ngừa rủi do) cho ngành mình, nhất là trong những ngành quan trọng có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su. Các quỹ này sẽ không lấy nguồn từ ngân sách Nhà nước để tránh các quy định không thuận lợi của WTO về vấn đề trợ giá. Quỹ bảo hiểm có trách nhiệm giúp đỡ các thành viên của hiệp hội khi giá cả của thị trường biến động thất thường, cơ chế hoạt động sẽ do từng hiệp hội tự xác định, nhưng nhìn chung nên đặt ra một mức giá bảo hiểm cho người sản xuất thu hồi được vốn đầu tư, trang trải được chi phí và có lợi nhuận thoả đáng. Khi thị trường thế giới thuận lợi, có thể xuất khẩu với giá cao hơn mức giá bảo hiểm thì hiệp hội sẽ áp dụng biện pháp thu một phần chênh lệch đưa vào quỹ bảo hiểm ( chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá bảo hiểm). Ngược lại khi thị trường thế giới không thuận lợi, giá xuất khẩu xuống thấp hơn giá bảo hiểm thì quỹ sẽ trích tiền ra hỗ trợ lại cho các thành viên. Về hình thức, có thể các thành viên hiệp hội thống nhất thành lập một pháp nhân được Nhà nước cho hưởng quy chế kinh doanh như các quỹ tín dụng thông thường nhằm mục đích phát triển nguồn vốn. Hoặc đơn thuần chỉ góp tiền về quỹ và giao cho một nhân hàng điều hành và kinh doanh quỹ này theo quy định của hiệp hội. 2.4. Các ưu đãi về tín dụng. Mặc dù Ngân hàng nhà nước Việt nam đã ra thông tư về việc các ngân hàng thương mại quốc doanh có trách nhiệm ưu tiên về mức vốn cho vay đối với các đơn vị sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu. Tuy nhiên thông tư lại không quy định rõ ràng và cụ thể chỉ nói chung chung “ khuyến khích tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn ”. Do vậy, việc cần làm là phải quy định cụ thể một tỷ trọng vốn vay dài hạn và trung hạn trên tổng dư nợ và một khung lãi suất cố định theo từng thời kỳ nhằm làm việc tiếp cận nguồn vốn tí dụng ngân hàng của các cơ sở sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu dễ dàng hơn, tránh gây mập mờ dễ gây tiêu cực. 2.5. Thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Thành lập quỹ này để cấp tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động xuất khẩu. Do nguồn vốn hạn hẹp, để có thể đẩy nhanh tiến độ hình thành quỹ, tránh chồng chéo. Chính phủ nên: - Hình thức hỗ trợ vốn cho các dự án sản xuất, kinh doanh xuất khẩu có thời hạn trả vốn dưới 12 tháng của quỹ hỗ trợ xuất khẩu ( Bộ tài chính ) xin chuyển sang quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu (Ngân hàng nhà nước) thực hiện. - Nguồn vốn 300 tỷ đồng mà Bộ tài chính đề nghị thủ tướng Chính phủ cho trích từ Quỹ dự trữ ngoại tệ để đưa vào quỹ hỗ trợ xuất khẩu xin chuyển sang cho quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu để tăng thêm vốn ban đầu cho Quỹ này, đảm bảo cho Quỹ có thể giải quyết ngay những khó khăn trước mắt về tín dụng ngắn hạn cho hoạt động xuất khẩu. - Sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia để đáp ứng các mục tiêu về hỗ trợ dài hạn, không thành lập riêng Quỹ hỗ trợ xuất khẩu như đề nghị của Bộ tài chính nữa. Đây là việc hết sức quan trọng. Chính phủ cũng đã có chỉ đạo từ đầu năm 1998 nhưng do khó khăn về nguồn vốn nên đến nay vẫn chưa có hình thức hỗ trợ tín dụng nào được hình thành. Để giải quyết khó khăn này, Chính phủ nên tập trung vốn để thực hiện đề án của Ngân hàng Nhà nước ngay trong năm nay. Bộ thương mại phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định đối tượng hỗ trợ và định mức hỗ trợ để Quỹ sớm phát huy đầy đủ tác dụng. 2.6. Nhà nước nên thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu Việt nam. Để đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thì ngoài việc có chiến lược xuất khẩu, có chính sách trợ giá, tạo lợi nhuận khuyến khích các nhà sản xuất có sự “ đầu cơ ”, bảo trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cần phải có một đường lối chính sách đúng đắn về ngân hàng sao cho các Ngân hàng Việt nam phát huy được vai trò “bà đỡ” cho nền kinh tế. Hiện nay chúng ta đã có ngân hàng ngoại thương Việt nam, ngân hàng thương mại, ngân hàng thương mại cổ phần XNK EXIMBANK, song các ngân hàng này còn bị hạn chế về vốn, trình độ công nghệ, nghiệp vụ, chưa phục vụ đắc lực được cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam. Với mục đích hỗ trợ nguồn vốn cho xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng cho các ngân hàng, doanh nghiệp tham gia tài trợ xuất khẩu. Hầu hết các nước trên thế giới đều có cơ quan tài trợ và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu dưới hình thức ngân hàng như: Ngân hàng XNK Trung quốc (CHINA EXIMBANK), Ngân hàng XNK Nhật bản, Ngân hàng XNK Triều tiên.. Các tổ chức này đều có chung mục đích là thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá cho quốc gia dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh và thâm nhập thêm thị trường mới. Không nằm ngoài mục đích trên, trong tương lai gần, Việt nam chúng ta cũng nên thành lập một ngân hàng chuyên doanh mang tên là ngân hàng XNK Việt nam. Có như vậy chúng ta mới đi được trên đôi chân của mình, thực hiện được sự bảo hộ cho các ngân hàng nội địa, phục vụ sự nghiệp CNH hướng về xuất khẩu phát huy được lợi thế so sánh, đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.7 Về hỗ trợ tài chính. Để giảm nhẹ gánh nặng hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước thông qua trợ cấp, trợ giá Chính phủ nên tăng cường sử dụng các biện pháp hỗ trợ tài chính gián tiếp. cụ thể là: 2.7.1 Gắn chỉ tiêu nhập khẩu một số mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận cao ( như CKD xe máy, kính xây dựng, đường...) với khả năng xuất khẩu. Chủ trương cho phép đổi hàng với Lào đã phát huy tác dụng tích cực trong những tháng cuối năm 1998. Trên cơ sở những kinh nghiệm thu được qua việc đổi hàng với Lào, xin đề suất: + Trong năm 1999, Chính phủ cho phép Bộ Thương mại được sử dụng chỉ tiêu nhập khẩu linh kiện CKD xe máy, kính xây dựng, đường tinh, quạt điện dân dụng, gạch ốp lát, hàng tiêu dùng bằng sành sứ thuỷ tinh, dầu thực vật tinh chế, ô tô khách, ô tô tải dưới 5 tấn vào mục đích thưởng xuất khẩu. + Chỉ các doanh nghiệp xuất khẩu được hàng hoá thuộc danh mục khuyến khích (chính phủ đã xác định danh mục này khi phê duyệt chủ trương đổi hàng với Lào trong năm 1999) và các doanh nghiệp nâng cao được hàm lượng chế biến, hàm lượng nội địa của sản phẩm mới được hưởng cơ chế thưởng bằng chỉ tiêu nhập khẩu trên. + Chế độ thưởng sẽ được áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu đi mọi thị trường, không chỉ riêng thị trường Lào. 2.7.2. Cải tiến chế độ thu và hoàn lại thuế giá trị gia tăng. Thuế giá trị gia tăng ( GTGT ) hiện nay được thu cả vào những mặt hàng nhập khẩu từ trước tới nay vẫn có thuế suất thuế nhập khẩu bằng 0%. Với mức thu tối thiểu là 5%, cơ chế hoàn lại chưa thông thoáng, các doanh nghiệp sẽ không giám mạnh dạn bỏ vốn đầu tư để mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ. Vì lý do đó, Chính phủ nên: + Các loại máy móc, thiết bị, phụ tùng nhập khẩu sẽ nộp thuế GTGT tại cửa khẩu theo phương thức ghi thu ( doanh nghiệp không phải vay ngân hàng để nộp thuế). + Nếu sau 3 tháng số thuế GTGT phải nộp của doanh nghiệp vẫn là số âm thì Bộ Tài chính sẽ làm thủ tục hoàn thuế cho doanh nghiệp theo phương thức ghi chi để doanh nghiệp quyết toán với hải quan. Nếu làm được theo cách này thì sẽ giảm được gánh nặng lãi suất cho các doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho họ đẩy mạnh đầu tư, giảm giá thành sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá. 2.8. Chính sách tỷ giá hối đoái. Một nước có nhiều bạn hàng buôn bán cho nên đưa chỉ số giá cả nước ngoài vào tính toán tỷ giá hối đoái cần phải cân nhắc kỹ, đặc biệt đối với những bạn hàng thương mại quan trọng. Cách định giá tỷ giá hối đoái rất quan trọng đối với nền kinh tế. Vừa qua, cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ Đông nam á xảy ra cũng một phần do Chính phủ các nước này áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định. Khi tỷ giá hối đoái trên thị trường thay đổi trong khi tỷ giá hối đoái do nước đó định ra vẫn giữ mức cố định thì sẽ gây ra một số ảnh hưởng sau. Hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với sản phẩm nội địa mà chúng phải chịu chi phí tăng do lạm phát. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế bán ra theo mức giá cả quốc tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Hàng xuất khẩu của họ trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán lại với tỷ giá hối đoái cố định, không được tăng nên để đền bù lại chi phí sản xuất cao hơn. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm chế tạo có thể tăng giá cả chế tạo có thể tăng giá cả xuất khẩu của họ để bù lại chi phí sản xuất nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ cũng có thể giữ nguyên mức giá nhưng lợi nhuận sẽ thấp đi. Kết quả chung là nhập khẩu tăng lên và xuất khẩu giảm đi. Như vậy, nên duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái như thế nào để vừa hạn chế nhập khẩu vừa thúc đẩy xuất khẩu. Rất khó để đưa ra một câu trả lời chính xác nhưng chắc chắn chúng ta nên áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong nước và trên thế giới. 2.9. Chính sách đa lãi suất. Để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng chưa thiết yếu, có thể áp dụng lãi suất đối với vốn vay cho xuất khẩu bắng 50% mức lãi suất vốn vay để nhập khẩu ( việc này cả Hàn Quốc và Đài Loan đều đã làm trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế ). 2.10. Chính sách bán ngoại tệ. Mọi ngoại tệ thu được tử xuất khẩu đếu phải bán cho ngân hàng. Sau khi bán, doanh nghiệp sẽ được cấp một hoá đơn đặc biệt xác nhận lượng ngoại tệ đã bán. Nếu doanh nghiệp cần mua ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá thì có thể xuất trình hoá đơn này để mua lượng ngoại tệ tương ứng với tỷ giá ưu đãi. Tất cả các doanh nghiệp không có hoá đơn này đều phải mua với tỷ giá cao hơn. Nếu doanh nghiệp có hoá đơn không có nhu cầu nhập khẩu thì có thể chuyển nhượng tự do hoá đơn này cho người khác. Biện pháp này không những khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế những khoản nhập khẩu bằng tiền không rõ nguồn gốc xuất khẩu, giúp giảm dần nhập siêu. Như vậy, sẽ có ba mức tỷ giá: tỷ giá mua vào, tỷ giá bán ra cho các đối tượng có hoá đơn và tỷ giá bán ra cao hơn cho các đối tượng không có hoá đơn. 3. Đa dạng hoá chủ thể kinh doanh. Tính năng động và tính hiệu quả của nền kinh tế là yếu tố hết sức quan trọng gần như mang tính quyết định tới sự thành công của quá trình hội nhập trong xu thế tự do hoá thương mại. Hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu ta khai thác được hết sức mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế nhà nước sẽ tập trung vào một số lĩnh vực then chốt như năng lượng khai khoáng, viễn thông, lương thực.. còn các thành phần kinh tế khác sẽ khuyến khích các lĩnh vực khác nhau. Việc đa dạng hoá chủ thể tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu hoàn toàn không trái với chủ trương của Đảng. Chủ trương đa dạng hoá chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có thể được thực hiện bước đầu tiên thông qua biện pháp bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiện nay, các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh XNK đã được xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu cả những mặt hàng nằm ngoài ngành hàng đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh, trừ những mặt hàng quản lý theo cơ chế riêng. Đề nghị Chính phủ bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất khẩu đối với những mặt hàng mà nhà nước không cần phải quản lý. Khi đó tất cả các doanh nghiệp được thành lập hợp pháp, thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng này bất kể là hàng do doanh nghiệp sản xuất hay mua trên thị trường miễn là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Về lâu dài, khi hoạt động của các Tổng công ty lớn đã thực sự ổn định có thể điều tiết được thị trường thì nên nghiên cứu cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu đáp ứng được điều kiện do Nhà nước quản lý hay độc quyền kinh doanh. Việc cho phép như vậy cũng sẽ tạo ra động lực phát triển xuất khẩu do việc giảm chi phí. Bên cạnh đó, cũng đề nghị Chính phủ cho phép Bộ Thương mại được mở rộng thêm phạm vi được phép kinh doanh xuất khẩu cho khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được quyền mua để xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác tất cả các mặt hàng trừ gạo, hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có quota, cà phê nhân và khoáng sản ( những mặt hàng này vẫn chỉ được phép xuất khẩu theo giấy phép đầu tư ). 4. Các vấn đề chất lượng, thị trường và xúc tiến thương mại. 4.1. Nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Một yếu tố quyết định tới việc liệu hàng hoá Việt nam có thâm nhập được vào thị trường nước ngoài hay không đó là yếu tố chất lượng. Chất lượng hàng xuất khẩu có thể được nâng cao, tạo uy tín và sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt nam bằng cách kiểm tra bắt buộc về chất lượng của một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như hàng dệt - may, đồ điện tử, đồ điện, thực phẩm chế biến, tạp hoá tiêu dùng. Các nhà máy không đạt tiêu chuẩn sẽ không được phép xuất khẩu. Các nhà máy đạt tiêu chuẩn có thể chia làm 3 loại : Hạng nhất được phép xuất khẩu mà không bị kiểm tra hàng hoá, chỉ bị thanh tra hệ thống chất lượng 1 năm 1 lần. Hạng hai bị thanh tra 1 năm 2 lần và có thể bị kiểm tra đột xuất 1 lần trong 30 chuyến hàng. Hạng ba bị thanh tra 4-5 lần một năm và cứ 15 chuyến hàng bị kiểm tra 1 lần. Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng như trong công cuộc xây dựng nền công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta, việc áp dụng thực hiện và được chứng nhận đạt hoặc phù hợp quản lý chất lượng ISO 9000 ( ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn của tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế bao gồm các tiêu chuẩn quy định các chuẩn mực để đánh giá một hệ thống đảm bảo chất lượng của một tổ chức kể cả sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các cơ quan đơn vị, trường, viện.. ISO 9000 đã được chấp nhận ở trên 100 nước trong đó có Việt nam ). ISO 9000 được coi như một điều kiện cơ bản và là giấy thông hành cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thâm nhập vào thị trường quốc tế. Thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 là rũ bỏ được những lề lối cũ như trì trệ chậm phát triển, phong cách làm việc theo kiểu đơn giản hoá tất cả “ thành hay bại ” đều đổ vào đàu ban lãnh đạo. áp dụng ISO 9000 không những nâng cao vai trò quản lý chất lượng từ A đến Z, tức là tất cả mọi người từ ban giám đốc đến người sản xuất, người tiêu thụ sản phẩm đều hết mực quan tâm tới vấn đề chất lượng và cùng chịu trách nhiệm chính về mình, mà nó còn giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí bảo trì, tài chế, tăng lợi nhuận và các phương pháp thực hiện các quá trình chủ yếu thúc đẩy các hệ thống làm việc tốt hơn. ISO 9000 là một trong những công cụ quản lý chất lượng tốt nhất, nó có tác dụng thiết thực đến quyền lợi của con người, đồng thời giải đáp những hoài nghi, vướng mắc mà từ trước tới nay chúng ta hay vấp phải. ISO 9000 sẽ có tác dụng tạo đà cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đối với những sản phẩm hàng hoá ở thị trường nhất định việc chứng nhận ISO 9000 là không phải là muốn hay không mà nó còn được coi là yêu cầu bắt buộc để làm công tác xuất nhập khẩu, mở rộng hợp tác liên doanh trên thương trường quốc tế. Thấy rõ lợi ích và tác dụng của việc thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000. Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký áp dụng ISO 9000 là việc làm hết sức chính đáng, mang lại hiệu quả cao. Song trong thời gian qua, ở nước ta mới có 16 doanh nghiệp đạt được chứng chỉ này, nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh.Trong khi đó trên thế giới hiện nay có khoảng 20000 công ty, doanh nghiệp, nhà máy.. áp dụng thành công bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Từ nay đến năm 2003, nước ta phấn đáu có hàng trăm doanh nghiệp sẽ thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000, vì cho rằng chỉ có những doanh nghiệp có vốn lớn, công nghệ hiện đại mới phải quan tâm. Có một nguyên nhân làm cho một số đơn vị, doanh nghiệp chưa dám thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 vì còn gặp quá nhiều khó khăn thực tại đó là: năng lực, trình độ kỹ thuật kém, quy trình công nghệ còn lạc hậu, chưa đồng bộ, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao... cùng với dự thiếu vắng của các tổ chức chứng nhận ISO 9000 trong nước mà phải thuê các tổ chức có tên tuổi ở nước ngoài. Các khâu tư vấn, các bước thực hiện cải tiến hệ thống quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm lại quá cao nên hầu như cac doanh nghiệp phải đắn đo cân nhắc. Năm 2003 đang đến gần, một thị trường chung khu vực ASEAN sẽ mở ra, sự cạnh trranh lúc đó sẽ phát triển và khắc nghiệt hơn nhiều. Các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu ở nước ta chưa có dấu chứng nhận ISO 9000 chắc chắn sẽ chịu thua thiệt và không thể hội nhập được với thương trường và khu vực quốc tế. 4.2. Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại Việt nam. Một kinh nghiệm quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu là thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại. Đây là tổ chức phi lợi nhuận có chức năng cung cấp thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại, tiến hành nghiên cứu thị trường và tổ chức đưa hàng hoá Việt nam ra thị trường thế giới trong đó quan trọng nhất là giúp các doanh nghiệp Việt nam tham gia vào hệ thống phân phối hàng hoá ở các nước. Trung tâm này sẽ có một ngân hàng dữ liệu về các thị trường nước ngoài, về những nhà cung ứng và người mua hàng trong và ngoài nước. Việc thành lập tổ chức này cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa các bộ, ngành, giữa các cơ quan cũng như khả năng được cung cấp thông tin và khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt nam. Kinh nghiệm thành lập và vận hành tổ chức này chúng ta có thể học tập kinh nghiện từ Nhật bản với JETRO, Hàn Quốc với KOTRA và Đài Loan với CETRA. Hiện nay, đã có một số trung tâm xúc tiến thương mại của các nước có mặt tại Việt nam nhưng cộng tác phối hợp với các tổ chức này còn yếu. 4.3. Quỹ khen thưởng xuất khẩu. Quỹ khen thưởng xuất khẩu được thành lập nhằm kịp thời động viên khuyến khích các doanh nghiệp và người sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện nay, một số nước khác trong khu vực cũng có những biện pháp thưởng xuất khẩu. Ví dụ ở Đài Loan hàng năm có giải thưởng cho 10 mặt hàng có chất lượng cao nhất sản xuất tại Đài loan, ngoài khoản vật chất nhất định, các sản phẩm này được phép sử dụng biểu tượng khi quảng cáo, các nhà sản xuất được gắn biểu tượng này khi bán hàng. ở thái lan việc lựa chọn công bố những “ top ten” cho một số mặt hàng xuất khẩu cũng được làm hàng năm, chế độ thưởng hạn ngạch đối với những mặt hàng này cũng đã được thực hiện từ nhiều năm nay. Hình thức thưởng được thực hiện theo hao cách: Thưởng tiền kèm theo bằng khen và huy chương. Thưởng bằng hạn ngạch. Các nguồn để lập quỹ khen thưởng : Một phần lệ phí của việc bán và đấu thầu hạn ngạch . Một phần thu từ lệ phí cấp các loại giấy phép . Các nguồn tài trợ khác được chính phủ cho phép Các đối tượng được xét thưởng là các doanh nghiệp có một trong các tiêu chuẩn sau: Những sản phẩm, nhóm hàng mới lần đầu tiên xâm nhập được thị trường nước ngoài Nhưng sản phẩm hàng hoá được thị trường nước ngoài ưa chuộng, tín nhiệm và công nhận về mặt chất lượng. Những loại mặt hàng cho xuất khẩu và nững mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn ( quy định cho từng loại mặt hàng ). Những loại mặt hàng có tính chất đặc biệt: sử dụng nhiều lao động ở trong nước, tỷ lệ nguyên liệu trong nước cao.. 4.4. Thương mại cân bằng qua thương lượng. Chính phủ phải có các phương án đàm phán với một số nước hiện đang xuất siêu vào Việt nam để đòi mở cửa thị trường cho hàng xuất khẩu Việt nam tương ứng với việc Việt nam nhập hàng của họ. 5. Cải cách thủ tục hành chính. 5.1 Khuyến khích đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp, bằng thủ tục và dịch vụ một cửa. Các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung với lợi thế về công nghiệp và tài nguyên sẽ có điều kiện để phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy, việc đơn giản hoá thủ tục hành chính sẽ giúp cho khu vực này có sức hấp dẫn hơn không chỉ nvowis đầu tư nước ngoài mà cả đối với đầu tư trong nước. Đề nghị Chính phủ cho phép áp dụng thí điểm cơ chế “ thủ tục và dịch vụ một cửa” cho một khu chế xuất hay một khu công nghiệp tập trung. Nếu thành công sẽ áp dụng cho các KCX, KCN khác. 5.2. Đơn giản hoá thủ tục gia công. Để khuyến khích việc gia công hàng xuất khẩu nên bãi bỏ việc hạn chế chủng loại, số lượng, mặt hàng gia công, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng gia công hàng dệt, may mặc, giầy dép, đồ chơi trẻ em.. xoá bỏ việc xét duyệt hợp đồng gia công và đơn giản hoá hơn nữa. Những trường hợp gia công theo phương thức mua đứt bán đoạn thì được coi như đầu tư chế biến sẽ được hưởng các chính sách đối với đầu tư chế biến. 5.3. Công khai hoá các văn bản pháp luật. Hiện nay, các doanh nghiệp rất thiếu thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan đến công việc kinh doanh của họ. Có nhiều trường hợp cả luật sư cũng không có được văn bản mới của nhà nước. Ngay cả các chuyên viên của Bộ Thương mại, nếu không chịu khó sưu tầm thì cũng khó có thể có được các quy định của các ngành khác về quản lý XNK. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định về việc đăng công báo mọi văn bản có liên quan đến quản lý của các cơ quan nhà nước ( trong vòng 15 ngày kể từ ngày ban hành). Đề nghị Chính phủ có chỉ thị nhắc nhở việc này và chỉ đạo các cơ quan hữu quan giúp văn phòng Chính phủ ra công báo nhanh hơn, cập nhật hơn. Cụ thể đề nghị Chính phủ nên quy định rõ: mọi văn bản về quản lý nhà nước chỉ có hiệu lực thi hành sau khi đã được đăng trên công báo. Riêng Bộ thương mại, ngoài việc công khai hoá quy trình cấp giấy phép kinh doanh, giấy phép hàng hoá, còn có trách nhiệm công khai hoá toàn bộ các doanh nghiệp được phân bổ quota hoặc chỉ tiêu nhập khẩu ( trừ những trường hợp không thể công khai hoá vì lý do an ninh, quốc phòng hay các lý do chính đáng khác được Chính phủ cho phép ). 5.4. Rà soát các thủ tục hành chính. Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính có liên quan đến việc thực hiện cấp giấy phép đầu tư, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, thủ tục hưởng các chính sách ưu đãi.. mà luật đã quy định, thủ tục khai báo và kiểm hàng hoá xuất khẩu tại các cửa khẩu để bảo đảm thông thoáng, kịp thời, nhanh chóng... Xử lý nghiêm những trường hợp gây khó khăn phiền hà, chậm trễ đối với hoạt động kinh doanh, nghiên cứu áp dụng cơ chế bồi thường, bù đắp thiệt hại cho các doanh nghiệp nếu các cơ quan quản lý, kiểm tra, kiểm soát thi hành sai luật gây ra. 5.5. Quyền khiếu kiện. Đề nghị Chính phủ cho ban hành nghị định cho phép mọi công dân và tổ chức có quyền khiếu kiện các quyết định của tất cả các cơ quan tham gia quản lý xuất nhập khẩu trước toà hành chính ( hiện nay họ chỉ mới được quyền khiếu kiện các quyết định về thuế của Hải quan). Họ cũng được quyền khiếu kiện trong trường hợp bị gây phiền hà, chậm trễ, được quyền đòi bồi thường, bù đắp thiệt hại nếu chứng minh thiệt hại đó là do các cơ quan quản lý kiểm tra, kiểm soát sai luật gây ra. 5.6. Mã hàng hoá thuộc diện quản lý Hiện nay có sự bất đồng giữa cơ quan Hải quan và các doanh nghiệp về biểu thuế xuất nhập khẩu vì việc quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu không thống nhất theo tên gọi và mã số của chúng tại danh mục hàng hoá XNK Việt nam hoặc tên gọi và mã số trong biểu thuế xuất nập khẩu. Việc không đồng nhất về mã số này đã được các cơ quan biết đến. Tuy nhiên, các cơ quan này thi hành việc giải quyết sự không đồng nhất này rất chậm trễ và sự phối hợp giữa các cơ quan không đồng bộ dẫn tới việc chưa giải quyết được vấn đề trên. Việc này đã dẫn tới các tác hại sau: + Đây là kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng trốn thuế và là kẽ hở nảy sinh các tiêu cực như hối lộ tham nhũng. Điều này dẫn tới thất thu của Ngân sách Nhà nước về thuế nhập khẩu. + Việc không đồng nhất về mã số thuế gây khó khăn cho chúng ta trong quá trình hội nhập vói các nước trong khu vực (khi thực sự hội nhập về thuế quan đòi hỏi nước ta phải có một biểu thuế với mã số thuế thống nhất). + Làm cho công cụ thuế nhập khẩu không bảo hộ được sản xuất trong nước, khiến cho hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước không thể cạnh trạnh được với hàng hoá ngoại nhập. Để giải quyết sự không đồng nhất trên, cần có sự nhất trí của các cơ quan liên quan về mã số của đối tượng nộp thuế, coi đây là một khâu quan trọng trong quá trình cải cách quản lý nhà nước theo hướng chính quy, tạo điều kiện cho việc áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế và công tác quản lý nhà nước nói chung. Việc cần làm là: + Trước mắt tổng cục Hải quan là người đứng ra quy định mã số thuế cho các doanh nghiệp và các doanh nghiệp phải ghi mã số thuế trên tất cả các hoá đơn, chứng từ của mình. Mã số thuế này được căn cứ theo danh mục hàng hoá XNK Việt nam do tổng cục thống kê ban hành. + Tương lai các Bộ sẽ phối hợp để áp dụng mã số HS cho tất cả các loại hàng hoá xuất nhập khẩu và giải thích cho các doanh nghiệp về công ước “ HS ” Công ước “ HS ” là công ước quan trọng nhất của Hải quan thế giới vì nó là một công ước về “một ngôn ngữ chung toàn cầu về hàng hoá ” liên quan đến nhiều lĩnh vực như tài chính, thương mại, thống kê.. Nhà nước ta phải cố gắng tham gia công ước “ HS ”. Khi đã trở thành thành viên tham gia công ước thì việc chấp hành các quy định của công ước trở thành nghĩa vụ của mỗi nước thành viên. 5.7. Tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp. Tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu theo hướng thành lập các tổng công ty và các tập đoàn mạnh, từng bước tạo tên tuổi trên thị trường thế giới, tiến tới có những nhãn mác hàng hoá của Việt nam được thế giới biết đến và thừa nhận. Các công ty mạnh phải mở được chi nhánh ở nước ngoài để phục vụ công tác Marketing. Tóm lại với mục đích tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam, các chính sách và biện pháp được kiến nghị trên sẽ giúp hàng hoá Việt nam chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. II. Kiến nghị với doanh nghiệp. 1. Củng cố và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp. Tiềm năng của doanh nghiệp có thế bao gồm vốn kỹ thuật, công nghệ tổ chức quản lý kinh doanh Muốn kinh doanh thành công nói chung và xuất khẩu thành công nói riêng, các doanh nghiệp phải không ngừng củng cố và phát huy tiềm năng của mình. 1.1. Về vốn: Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất – kinh doanh. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trự tiếp nước ngoài có thể mạnh hơn các doanh nghiệp Việt Nam ở chỗ họ có nhiều vốn hơn. Nhưng chỉ nhiều hơn thì chưa đủ mà phải biết sử dụng nguồn vốn đó như thế nào, phải huy động thêm vốn như thế nào dể không ngừng mở rộng và phát triển sản xuất – kinh doanh. Các doanh nghiệp có thể bổ sung vốn lưu động và cố định vốn của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty vì nguồn vốn bên trong bao giờ cũng là vốn quyết định năng lực thực sự. Sẽ tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nếu kinh doanh tốt thì nguồn vốn này được bổ sung thêm và ngược lại. Khi nguồn vốn được bổ sung và sử dụng có hiệu quả thì có cơ hội để kinh doanh tốt. Nhưng một doanh nghiệp biết cách kinh doanh là một doanh nghiệp phải biết tận dụng không chỉ nguồn vốn tự có của mình. Viêc huy động và sử dụng vốn bên ngoài cũng là một cách kinh doanh khác, vừa là để bổ sung cho tổng vốn, vừa để tận dụng hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội. Như ta thấy hiện nay, các doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang yêu cầu có cơ chế cho vay đơn giản từ phía Ngân hàng, các tổ chức tín dụngSự lớn mạnh và phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính, tín dụng phải phát triển một cách tương ứng. Ngược lại, những doanh nghiệp nào biết sử dụng có hiệu các nguồn vốn ngoài nguồn sẵn cóthì doanh nghiệp đó sẽ thành công. Một nguồn vốn phụ khác có thể huy động được là từ đối tác kinh doanh. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp có thể yêu cầu hỗ trợ tín dụng từ phía đối tác. Cụ thể là đối với một số hợp đồng xuất khẩu (quá lớn hoặc quá rủi ro) doanh nghiệp nên yêu cầu người mua (nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ hợp đồng, doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như vốn của mình. 1.2.Về kỹ thuật công nghệ Ngày nay, khi khoa học công nghệ đã trở thành tư liệu sản xuất thì việc tăng cường đầu tư cho mặt này trong mỗi doanh nghiệp cũng là điều dễ hiểu. Khoa học kỹ thuật tiên tiến và phù hợp là tiền đề cho việc đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh khi xuất khẩu.Không chỉ dừng ở việc chế tạo, lắp ráp, sơ chế mà phải đàn theo hướng tinh chế nhằm tạo ra những mặt hàng mới, giá trị và chất lượng cao trong xuất khẩu. Việt Nam có lợi thế quan trọng về lao động và tài nguyên, vì vậy trước mắt, chưa thể chuyển hẳn sang những ngành công nghệ cao, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn cần hướng vào những ngành sử dụng nhiều lao động như nông, lâm thuỷ sản phục vụ xuất khẩu. Không ngừng đầu tư vào công nghệ mới, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Trong nhiều trường hợp, tận dụng những công nghệ sẵn có chưa đủ để giành được thắng lợi. Vì vậy khi cần thiết các doanh nghiệp vẫn cần mạnh dạn đầu tư vào những công nghệ tiên tiến nhất, vượt trội nhất để đạt dược mục tiêu của mình. Công nghệ mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có lợi thế trên thương trường khi tung ra một sản phẩm mới, đáp ứng được thị trường quốc tế luôn cạnh tranh gay gắt. Công nghệ kỹ thuật mới cũng giúp cho doanh nghiệp có được vị thế tốt. 1.3.Về vấn đề tổ chức hoạt động xuất khẩu. Tổ chức hoạt động xuất khẩu không chỉ tập trung ở những khâu công việc cụ thể mà trước hết còn ở việc tổ chức hệ thống quản trị. Để đói phó với một thị trường cạnh tranh gay gắt, việc nâng cao chất lượng công tác quản trị mang tính tất yếu. Nâng cao chất lượng công tác quản trị nhằm thích ứng với thay đổicủa môi trường, chủ động và hiệu quả hơn. Việc đổi mới và hoàn chỉnh bộ máy tổ chức doanh nghiệp phải đảm bảo yêu cầu gọn nhẹ, hợp lý. Gọn nhẹ là để tránh vết mòn mà các doanh nghiệp Việt Nam thường đi qua là quá cồng kềnh dẫn tới chồng chéo, phủ định nhau, hơn nữa sẽ không phát huy được tối đa năng lực của môĩ người. Hợp lý vừa để vận dụng được nguồn trí lực hiện có, vừa tạo ra kết quả tốt. Để đạt được điều này, các doanh nghiệp cần thực hiện việc phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các nhà quản trị cấp cao; phân công đúng nhiệm vụ phù hợp với năng lực cho mỗi nhà quản trị; tổ chức sắp xếp lại thành viên trong ban chức năng Sau khi đã có một tổ chức quản lý hợp lý, doanh nghiệp mới có thể tiến hành tổ chức hoạt động xuất khẩu cho có hiệu quả được. Các doanh nghiệp xuất khẩu không chỉ là những đơn vị sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu mà còn thực hiện thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp chỉ đơn thuần sản xuất hàng xuất khẩu thì biện pháp cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu là đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Điều này sẽ được trình bày rõ hơn ở mục sau. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng xuất khẩu thông qua thu mua, tạo nguồn thì biện pháp cần thiết là: - Mở rộng hình thức tạo nguồn: Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Vì vậy, công tác tạo nguồn chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thông thường thì các hoạt động tạo nguồn chủ yếu là do thu mua từ các địa phương rồi đem về phân loại, đóng gói. Với hình thức này , việc tạo nguồn diễn ra đơn giản, nhanh gọn, vốn quay vòng nhanh , không đòi hỏi máy móc thiết bị cồng kềnh, có thể chuyển đổi mặt hàng kinh doanh một cách linh hoạt. Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng duy nhất hình thức này thì hiệu quả đạt được sẽ không cao vì như vậy doanh nghiệp chỉ có mối quan hệ kinh tế hết sức đơn điệu. Hơn thế đối với những nguồn hàng nhỏ lẻ, cá thể thì các doanh nghiệp không thể thu mua trực tiếp được vì sẽ tốn rất nhiều thời gian. Vì thế đa dạng hoá các loại hình tạo nguồn cũng là điều cần làm. Các doanh nghiệp có thể tìm ra các hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu mới thông qua mạng lưới bạn hàng của mình. Các doanh nghiệp cũng có thể nhận xuất khẩu uỷ thác – hình thức này hiện đang rất được ưa chuộng. Các doanh nghiệp có thể lợi dụng mối quan hệ bạn hàng rộng rãi đa phương của mình để có thể thực hiện được nhiều hơn các hợp đồng uỷ thác xuất khẩu. - Tổ chức tốt khâu bảo quản, dự trữ : Một trong những biên pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là củng cố, hoàn thiện khâu dự trữ, bảo quản hang hoá. Điều này ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có phần tốt hơn các doanh nghiệp trong nước, mặc dù vậy vẫn cần chú ý nhiều hơn. Trong tình hình hiện nay, có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoàimuốn đầu tư vào những ngành và lĩnh vực được Nhà nước bảo hộ nhiều hơn là vào kinh doanh xuất khẩu. Có những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực cụ thể và đòi hỏi Nhà nước bảo hộ cho ngành mà mình hoạt động kinh doanh. Điều này thực sự không làm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tính cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trườngcũng như trong hoạt động xuất khẩu. Tóm lại, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phát huy những lợi thế vốn có về vốn, về công nghệ kỹ thuật, về tổ chức sản xuất để đầu tư, sản xuất những sản phẩm mới có chất lượng cao và có sức cạnh tranh lành mạnh trên thương trường quốc tế. 2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào. Trong một doanh nghiệp thường có các loại vốn vay có tác dụng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Giải pháp tháo gỡ về vốn hiện nay là giải pháp trọng tâm mang tích quyết định đối với doanh nghiệp. Trước mắt trong bối cảnh hiện nay nguồn vốn của doanh nghiệp đã rất hạn hẹp, lại còn phải giải quyết vấn đề công nợ và giải toả thuế xuất nhập khẩu từ những năm trước, nên hiện nay khó có thể thực hiện được những hợp đồng xuất nhập khẩu có giá trị lớn. Như vậy, rõ ràng là đã bỏ mất cơ hội làm ăn. Trên thực tế doanh nghiệp vẫn đang thực hiện một số hợp đồng xuất nhập khẩu và tăng cường hơn nữa hoạt động kinh doanh nội điạ để duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp , trong khi hoạt động xuất nhập khẩu mới là hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp . Vốn đang là vấn đề doanh nghiệp thực sự quan tâm để giải quyết những vướng mắc đang còn tồn đọng trong hoạt động xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nguồn sau : - Kêu gọi toàn bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng góp vốn, doanh nghiệp sẽ trả lãi suất, tất cả vì lợi ích chung của doanh nghiệp mà vẫn có lãi. - Vay vốn từ các ngân hàng : Trong quan hệ với các ngân hàng doanh nghiệp cần phải tạo niềm tin và chữ tín với họ thì mới có thể tăng mức tín dụng hàng năm, nhằm đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh. - Tạo những mối quan hệ tốt với các đối tác xuất khẩu để lấy uy tín, từ đó bằng uytín của mình có thể thoả thuận được trong việc thanh toán chậm. Như vậy doanh nghiệp sẽ tận dụng vốn kinh doanh, nếu tiêu thụ sớm đạt kết quả thu hồi sẽ đỡ phải đi vay ngân hàng, giảm bớt chi phí ngân hàng. Hiệu quả sử dụng đồng vốn vay của doanh nghiệp còn quá yếu. Vì thế, các biện pháp kiện toàn công tác tài chính đối với doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Trước hết, doanh nghiệp cần có sự quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn của các đơn vị kinh doanh. Trách nhiệm này thuộc về ban lãnh đạo doanh nghiệp , không nên tuỳ tiện giao vốn cho cán bộ kinh doanh mà không biết họ sử dụng đồng vốn như thế nào, có đảm bảo đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp hay không. Cần ban hành quy định về quản lý tiền vốn, quy chế về hoạt động tài chính và hoạt động kinh doanh, triệt để thực hành tiết kiệm chi dùng, tiết kiệm chi phí. Theo dõi chặt chẽ công nợ của doanh nghiệp - có kế hoạch thu chi tiền mặt và các hình thức thanh toán một cách rõ ràng hợp lý. Kiểm tra hướng dẫn sát sao các đơn vị, các phòng ban trong việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch sử dụng các loại vốn, vốn vay, vốn cố định.. Tổ chắc nghiêm túc việc quyết toán theo quý, sáu tháng, một năm đúng tiến độ, hạch toán lỗ lãi cho từng đơn vị, phòng ban giúp giám đốc nắm chắc nguồn vốn và lời lãi. Trang bị đào tạo thêm cho đội ngũ nhân viên kế toán sử dụng thành thạo máy vi tính, phục vụ tốt nhất cho công tác quản lý tài chính. Là một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp khi có nguồn vốn mạnh thì sẽ đẩy mạnh được hoạt động xuất nhập khẩu, doanh nghiệp cần có chiến lược hoàn thiện hơn nữa công tác tài chính, tranh thủ huy động và có các biện pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nhất đồng vốn vay để đưa doanh nghiệp phát triển hơn nữa chứ không phải chỉ để phục vụ cho việc duy trì hoạt động như tình hình hiện nay của doanh nghiệp . 3. Nâng cao trình độ làm việc đội ngũ cán bộ, đổi mới tổ chức cán bộ. Có thể nói, đây là một công việc hết sức cần thiết và cấp bách trong thời gian tới của doanh nghiệp . Tuy nhiên, nó cũng phải được duy trì thực hiện thường xuyên và liên tục. Bởi vì con người luôn là yếu tố quyết định sự thành bại ở bất kỳ một tổ chức kinh tế xã hội nào. Xuất nhập khẩu là một hoạt động kinh tế hết sức phức tạp. Nó đòi hỏi cán bộ kinh doanh phải có trình độ cao và khả năng thích ứng với sự biến động của thị trường. Nói cách khác, một đội ngũ cán bộ kinh doanh mạnh phải là một đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Đồng thời họ phải nắm bắt được chính xã mọi thông tin về sự thay đổi giá cả của thị trường cũng như nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó. Để có một đội ngũ cán bộ kinh doanh như vậy mỗi cán bộ kinh doanh và nhân viên trước hết phải là những người giói chuyên môn nghiệp vụ ở vị trí hoạt động của mình, đồng thời phải giỏi ngoại ngữ. Luôn rèn luyện thói quen theo dõi ghi nhận, nghiên cứu và phân tích các thông tin có liên quan đến sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường mục tiêu, giá cả trên thị trường thế giới, đồng thời phải nắm được kỹ năng sử dụng một số phương tiện phân tích thông tin và truyền tin hiện đại như máy tính, fax..để nâng cao khả năng phân tích thông tin chính xác kịp thời và nhanh chóng. Thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ nhân viên trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có nhiều người được chuyển từ các bộ phận công tác khác sang. Những người có trình độ ngoại ngữ khá hơn thì thiếu kinh nghiệm thực tế. Do đó, doanh nghiệp cần có những biện pháp nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ này, đặc biệt là đội ngũ chuyên sâu trong công tác nghiên cứu thị trường. Doanh nghiệp nên cho cán bộ kinh doanh tham gia thên các lớp học ngắn hạn để nâng cao thêm về chuyên môn nghiệp vụ, tìm hiểu thêm các vấn đề mới như đầu tư nước ngoài, thị trường chứng khoán.. Trong doanh nghiệp hiện nay còn tồn tại một số phòng, trạm kinh doanh hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy việc tinh giảm bớt các đầu mối kinh doanh cũng như cá nhân kinh doanh kém là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trên cơ sở nhận thức đó, cần bố trí mô hình tổ chức kinh doanh hợp lý là lấy mục tiêu hiệu quả, lợi nhuận doanh nghiệp làm nền tảng. Cần có thái độ đúng trong việc bố trí sắp xếp nhân lực đảm bảo thực hiện đúng chế độ thực hiện của người lao động. Đồng thời lấy hiệu quả công tác làm tiêu chuẩn, tiêu thức. Đòi hỏi đặt ra với doanh nghiệp hiện nay là cần sắp xếp bố trí những cán bộ lãnh đạo dưới quyền giám đốc, bao gồm những người có trình độ quản lý, có năng lực hoạt động kinh doanh, có chuyên môn cao, tạo điều kiện tốt nhất để họ phấn đấu trở thành những người tiêu biểu làm kinh doanh. 4. Thông tin về đối tác thị trường . Thông tin có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Có thể nói nhờ có thông tin mới có thể tiến hành hoạt động kinh doanh được. Do vậy trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thông tin càng vô cùng quan trọng bởi đặc điểm riêng của loại hình này. Hiện tượng các doanh nghiệp Việt Nam đơn phương độc mã tham gia vào thị trường nước ngoài thất bại cũng chủ yếu là do thiếu thông tin hoặc thông tin không kịp thời. Trên thương trường, ai không nhận thức và vận dụng không đúng các quy luật của nó thì thất bại là điều tất yếu. Để tiếp cận và hoà nhập với thị trường quốc tế thì công tác thông tin về thị trường, về đối tác phải thực hiện hoàn chỉnh thì mới đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thuận lợi, tận dụng được cơ hội, tránh rủi ro. Do mỗi nước có đặc điểm riêng nên phải thu thập những thông tin cần thiết về thị trường. Công tác điều tra nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu cần bao gồm những nội dung chủ yếu sau: + Điều tra nghiên cứu hàng hoá xuất nhập khẩu của thị trường đó. Trên cùng một thị trường hàng hoá ở nước ngoài có tiêu thụ hàng hoá cùng loại của các nước. Trong số hàng hoá cùng lợi này, thường là hàng hoá của một số nước chiếm phần nhiều thị trường, một số hàng hoá chiếm phần ít thị trường. Điều này có quan hệ mật thiết đến chất lượng, quy cách, chủng loại của hàng hoá có thích ứng với thị trường hay không. Doanh nghiệp cần làm rõ tình hình tiêu thụ của thị trường các hàng hoá có chủng loại khác nhau này, đặc biệt cần nghiên cứu đặc điểm của các loại hàng bán chạy trên thị trường nhằm chủ động tích cực thích ứng với nhu cầu của thị trường. + Điều tra quan hệ cung cầu của thị trường. Quan hệ cung cầu trên thị trường của hàng hoá quốc tế thường thay đổi. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ này như : Chu kỳ sản xuất, chu kỳ tiêu thụ, tập quán tiêu dùng. Cần phải căn cứ vào quy luật biến động cung cầu của thị trường. Đồng thời, tìm hiểu nhu cầu thực tế xuất nhập khẩu của nước mình để có kế hoạch xuất nhập khẩu hợp lý. + Điều tra nghiên cứu giá cả thị trường hàng hoá quốc tế: Xu hướng biến động giá cả của các loại hàng trên thị trường thế giới rất phức tạp. Có lúc tăng, lúc giảm, cá biệt có trường hợp ổn định nhưng nói chung xu hớng đó có tính chất tạm thời. Để có thể dự đoán được biến động của giá cả theo từng loại hàng hoá trên thị trường thế giới phải dựa vào kết qủa nghiên cứu và dự đoán tình hình thị trường từng loại hàng hoá, đồng thời đánh giá chính xác các nhân tố tác động đến xu hướng biến động giá cả. Nói chung, trong công tác nghiên cứu thị trường doanh nghiệp cần có những cán bộ chuyên sâu, có khả năng phân tích và đưa ra những nhận định chính xác trên cơ sở lập kế hoạch về nhu cầu nhập. Phải dự đoán được xu thế biến động của tỷ giá hối đoá, tỷ lệ lạm phát và tác động của nó đến giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp cần chú ý đến những vấn đề sau đây khi nghiên cứu thị trường. Phân loại thị trường nhằm biết về quy luật hoạt động của thị trường trên các mặt: loại sản phẩm họ có, yêu cầu đặt ra đối với sản phẩm về chất lựơng, bao gói, mẫu mã...dung lượng thị trường, điều kiện chính trị, thương mại, tập quán buôn bán, hệ thống pháp luật..Mục tiêu của việ phân loại là để nắm bắt thị trường và có kế hoạch cụ thể về loại hàng hoá mà doanh nghiệp nhập về. Việc nghiên cứu tình hình thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp lựa chọn được thị trường xuất nhập khẩu, lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, kết quả kinh doanh còn phụ thuộc vào đối tác kinh doanh với mình. Trong cùng điều kiện như nhau việc giao dịch với bạn hàng cụ thể này thì thành công, với đối tác khác thì bất lợi. Vì vậy, doanh nghiệp cần nghiên cứu những vấn đề sau về đối tác : + Tình hình sản xuất kinh doanh của họ để từ đó có thể thấy được khả năng đáp ứng nguồn hàng lâu dài và thường xuyên. + Khả năng về vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật. + Thái độ và quan điểm kinh doanh. + Uy tín của đối tác trong kinh doanh. 5. Lựa chọn thị trường và đối tác. Sau khi nghiên cứu thị trường và thu thập thông tin, doanh nghiệp sẽ tiến hành lựa chọn thị trường và bạn hàng để xuất nhập khẩu. Thông thường doanh nghiệp chọn cho mình thị trường và bạn hàng truyền thống quen thuộc vì có những ưu đãi về giá, phương thức thanh toán, chất lượng hàng hoá bảo đảm, dịch vụ bảo hành đầy đủ, đồng thời cũng nên quan hệ kinh doanh với các thị trường và các hãng khác nhằm tạo ra khả năng lựa chọn dễ dàng khi mối quan hệ với bạn hàng truyền thống bị vướng mắc. 6. Đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Trong điều kiện hiện nay, chế độ chính sách đối với hoạt động xuất nhập khẩu của nhà nước ta có nhiều thay đổi. Chẳng hạn, việc xuất nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng bị hạn chế đi nhiều do sản xuất trong nước ngày càng phát triển và gần như có thể thay thế hàng nhập ngoại. Trong khi đó yêu cầu của công nghiệp hoá, hiền đại hoá đất nước lại đòi hỏi phải xuất nhập khẩu những vật tư máy móc thiết bị cần thiết có chất lượng cao, kỹ thuật tiên tiến mà trong nước cung cấp còn hạn chế. Vì vậy doanh nghiệp cần luon chú trọng vào việc thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu nếu không hàng nhập về sẽ khó tiêu thụ hoặc không tiêu thụ được. Như vậy, doanh nghiệp khó có thể duy trì được sự tồn tại của mình trên thị trường. Xu hướng ở doanh nghiệp hiện nay nên tăng cường nhập các thiết bị máy nông nghiệp là khá phù hợp với tình hình đất nước hiện nay. Tuy nhiên, việc thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu còn phụ thuộc vào phần nào nguồn hàng xuất nhập khẩu từ các thị trường khác nhau. Mặt khác định hướng thay đổi cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào xu hướng biến động của thị trường trong nước. Công việc này đòi hỏi tính thời cơ và sự đồng ý của các cơ quan hữu trách, nhưng cũng cần phải chú trọng đến một số vấn đề sau khi thay đổi cơ cấu hoặc bổ sung mặt hàng mới: + Các đặc tính của chủng loại hàng hoá đó. + Chính sách của nhà nước hiện tại và tương lai đối với mặt hàng đó. + Những doanh nghiệp nào đã và đang kinh doanh mặt hàng này với số lượng bao nhiêu. + Số bạn hàng sẵn sàng mua mặt hàng đó. Có thể nói, việc bổ sung và hoàn thiện cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu cũng là một giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá ở doanh nghiệp. Kết luận Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, xuất khẩu càng đóng góp vai trò quan trọng hơn đối với một nền kinh tế, nhất là đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Việt nam là một nước đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoà nhập vào khu vực và thế giới. Vì vậy xuất khẩu được coi là một trong những công cụ quan trọng nhất để thực hiện thành công các mục tiêu trên. Nhằm phát huy hết các vai trò của xuất khẩu, Chính phủ Việt nam đã có những định hướng chính sách và biện pháp đúng đắn thúc đẩy xuất khẩu như thực hiện tự do hoá thương mại, chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách khuyến khích đầu tư.. Các chính sách này đã có tác động đáng kể tới hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, cơ cấu mặt hàng chuyển biến tích cực, số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng nhiều, ngoại tệ thu được về cho đất nước tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Việt nam vẫn còn gặp nhiều trở ngại do các yếu tố khách quan và chủ quan gây nên. Vì vậy để giúp hoạt động xuất khẩu vượt qua những khó khăn, thách thức đòi hỏi chúng ta thực hiện các chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước phải được đi kèm với các nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Và cần thấy một điều quan trọng là các chính sách và biện pháp thúc đảy xuất khẩu của nhà nước muốn thực sự phát huy tác dụng thì phải được thực hiện nghiêm túc trong thực tế chứ không phải chỉ dừng lại ở giấy tờ. Hy vọng những tiềm lực như nhân lực và vật lực của Việt nam cùng với hệ thống chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đúng dắn của nhà nước ta sẽ là những nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt nam ngày một phát triển, xây dựng nước nhà ngày một phồn vinh. Danh mục tài liệu tham khảo Văn kiện Hội nghị TƯ, khoá VII Báo cáo của Bộ Thương mại ngày 30/12/1994 Niên giám thống kê 2000 Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 11/1996 và 11/1997. Quyết định 28 TTg ngày 13/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 3/1999. Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 11/1998 Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 15/11/1999 Tập tài liệu Vụ đầu tư – Bộ Thương mại Báo cáo tình hình thực hiện năm 2001, Vụ đầu tư – Bộ Thương mại Nghị định số10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích đầu tư Mai ngọc Cường và Vũ văn Huân : “ Công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu ở Việt nam”. NXB Thống kê- Hà nội 1996. Mohamed Ariff và Hal Hill: “ công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu - kinh nghiện của ASEAN”. NXB khoa học xã hội - Viện châu á Thái Binh Dương - 1992. Vũ Ngọc Thanh: “ chính sách thuế trong kế hoạch 5 năm 1996-2000”. Bộ kế hoạch và đầu tư - trung tâm thông tin - Hà nội 5/1996. Võ thanh Thu: “ Kinh tế đối ngoại”. NXB Thống kê 1994. Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, Nghị quyết TƯ 4 - Khoá VIII.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4600.doc
Tài liệu liên quan