Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội

Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước sản xuất các loại Thiết bị điện. Tuy gặp khó khăn trong mấy năm gần đây, nhưng hiện nay, do đổi mới cách quản lý, sản xuất kinh doanh Công ty đã đứng vững trên thị trường và đang trên đà phát triển. Cùng với sự phát triển chung của Công ty, công tác quản lý sản xuất và kinh doanh ngày càng được hoàn thiện hơn phù hợp với yêu cầu quản lý và sản xuất kinh doanh của Công ty trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Qua những kiến thức được học ở trường, kết hợp với kinh nghiệm tiếp thu được trong quá trình thực tập tại Công ty, em nhận thấy việc hoàn thiện công tác quản lý trong sản xuất kinh doanh có thể sẽ là công cụ hữu ích giúp Công ty nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh một cách khoa học và hợp lý hơn, giúp Công ty có thể kiểm soát được chi phí, từ đó có biện pháp nhằm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tạo được nhiều lợi nhuận hơn nữa.

doc35 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 623 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tiền vốn ) và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất để đạt được các mục tiêu kinh doanh. Nếu ký hiệu: H – Hiệu quả kinh doanh K – Kết quả đạt được C – Hao phí nguồn lực gắn với kết quả đó Thì ta có công thức sau để mô tả hiệu quả kinh doanh K H = C Như vậy hiệu quả kinh doanh là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp phải chú trọng và phát huy tối đa năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất, tiết kiệm mọi chi phí. Tuy vậy, để hiểu rõ bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh cần phân biệt hai khái niệm Hiệu quả và Kết quả sản xuất kinh doanh. Kết quả là phạm trù sản xuất phản ánh những cái thu được sau một khoảng thời gian sản xuất kinh doanh được biểu hiện bằng đơn vị hiện vật (tấn, tạ, Kg...) và đơn vị giá trị (đồng, triệu đồng... ). Kết quả còn phản ánh qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất hay phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh. Việc xác định hiệu quả kinh doanh cũng rất phức tạp bởi kết quả kinh doanh và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể nào đó đều rất khó xác định một cách chính xác. Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt Lợi nhuận tối đa với chi phí tối thiểu. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Các nhân tố bên ngoài Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, nó phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực đầu vào để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Các đại lượng kết quả đạt được và chi phí bỏ ra chịu tác động rất nhiều nhân tố khác nhau với các mức độ khác nhau. Do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Các nhân tố bên ngoài bao gồm: Môi trường khu vực và quốc tế: Môi trường kinh tế cũng như chính trị trong khu vực và trên thế giới ổn định là cơ sở, tiền đề thuận lợi giúp các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đạt hiệu quả cao. Môi trường kinh tế quốc dân bao gồm môi trường chính trị, pháp luật và môi trường kinh tế, môi trường văn hoá xã hội, điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng, trình độ Khoa học kĩ thuật công nghệ. Đây là các nhân tố vô cùng quan trọng tác động trực tiếp tới hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Môi trường ngành: Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, trong hầu hết các lĩnh vực kinh doanh, môi trường ngành là nhân tố góp phần ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh, nó bao gồm các doanh nghiệp trong ngành, khả năng gia nhập mới của các doanh nghiệp khác, các sản phẩm thay thế, người cung ứng và khách hàng. Trong đó khách hàng là vấn đề vô cùng quan trọng và được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm chú ý. Các nhân tố bên trong Bao gồm cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị, đặc tính về sản phẩm, công tác tiêu thụ sản phẩm, công tác đảm bảo Nguyên vật liệu, cơ sở vật chất kỹ thuật, tình hình Tài chính, Lao động, Tiền lương và Môi trường làm việc. Đặc tính về Sản phẩm: Ngoài chất lượng của sản phẩm những đặc tính mang hình thức bên ngoài của sản phẩm như mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu... là những yếu tố cạnh tranh không thể thiếu được. Các đặc tính của sản phẩm là nhân tố quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần lớn vào việc tạo uy tín, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nên có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác tổ chức Tiêu thụ sản phẩm: Tiêu thụ là khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó quyết định tới các khâu khác của quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có tiêu thụ được hay không mới là điều quan trọng nhất. Tốc độ tiêu thụ sản phẩm quyết định tốc độ sản xuất và nhịp độ cung ứng Nguyên vật liệu. Công tác đảm bảo Nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố đầu vào không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp sản xuất. Số lượng, chủng loại, cơ cấu, chất lượng, giá cả của Nguyên vật liệu và tính đồng bộ của việc cung ứng Nguyên vật liệu ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ sở vật chất kĩ thuật: Cơ sở vật chất kĩ thuật là yếu tố vật chất hữu hình quan trọng phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ sở vật chất dù chiếm tỷ trọng lớn hay nhỏ trong tổng tài sản của doanh nghiệp thì nó vẫn có vai trò quan trọng thúc đẩy các hoạt động kinh doanh và thể hiện bộ mặt kinh doanh của doanh nghiệp qua hệ thống nhà xưởng, kho tàng, bến bãi... Tình hình Tài chính: Tình hình Tài chính của doanh nghiệp tác động rất mạnh tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng Tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của doanh nghiệp, tới khả năng chủ động sản xuất kinh doanh, tới tốc độ tiêu thụ và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới mục tiêu tối thiểu hoá chi phí bằng cách chủ động khai thác sử dụng tối ưu các nguồn lực đầu vào. Lao động và Tiền lương: lao động là một trong các yếu tố đầu vào quan trọng, nó tham gia vào mọi hoạt động, mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh. Bên canh đó tiền lương và thu nhập của người lao động cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vì tiền lương là một bộ phần cấu thành lên chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời nó còn tác động tới tâm lý của người lao động trong doanh nghiệp. Môi trường làm việc: Bao gồm môi trường văn hoá và môi trường thông tin, hai yếu tố này cũng trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Hệ thống các chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Hiệu quả kinh doanh tổng hợp . Để đánh giá Hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp của toàn doanh nghiệp người ta thường dùng các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu Doanh thu một đồng chi phí trên cho biết với một đồng Chi phí bỏ ra, doanh nghiệp tạo ra được mấy đồng Doanh thu. Doanh thu trên = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ một đồng chi phí Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Chỉ tiêu Doanh thu trên một đồng vốn kinh doanh phản ánh một đồng Vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng Doanh thu. Doanh thu trên một = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ đồng vốn kinh doanh Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ Chỉ tiêu doanh lợi theo chi phí cho biết bỏ ra một đồng Chi phí đem lại bao nhiêu đồng Lợi nhuận. Doanh lợi theo = Lợi nhuận sau thuế trong kỳ chi phí Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Chỉ tiêu Doanh lợi theo vốn kinh doanh cho biết một đồng vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng Lợi nhuận. Doanh lợi theo = Lợi nhuận sau thuế trong kỳ vốn kinh doanh Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ Chỉ tiêu Doanh lợi doanh thu thuần phản ánh một đồng Doanh thu thuần đem lại bao nhiêu đồng Lợi nhuận. Doanh lợi Doanh thu thuần = Lợi nhuận sau thuế trong kỳ Doanh thu tiêu thụ thuần 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động Lao động là yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất, hiệu quả sử dụng lao động góp phần nâng cao hiệu quả chung của toàn doanh nghiệp. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động trong mỗi doanh nghiệp sẽ mang lại hiệu quả cao hay thấp. Hầu hết doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường đều phải sử dụng lao động, nhưng việc sử dụng lao động đó sẽ mang lại hiệu quả ra sao thì ta cần đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu năng suất lao động cho biết bình quân một lao động trong một kỳ kinh doanh sẽ có khả năng đóng góp sức mình vào sản xuất để thu lại được bao nhiêu giá trị sản lượng cho doanh nghiệp. Năng suất lao động = Giá trị sản xuất Tổng số lao động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu sức sản xuất của lao động cho biết bình quân một lao động trong một kỳ kinh doanh làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Sức sản xuất của lao động = Doanh thu tiêu thụ sản xuất trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng Tài sản cố định (TSCĐ) Để đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu như : Sức sản suất của TSCĐ (Hiệu suất sử dụng TSCĐ trong một kỳ), Sức sinh lợi của TSCĐ và Suất hao phí từ TSCĐ. Chỉ tiêu Sức sản xuất của TSCĐ phản ánh một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy đồng Doanh thu thuần. Sức sản xuất của TSCĐ = Tổng số Doanh thu thuần Nguyên giá bình quân TSCĐ Chỉ tiêu sức sinh lợi TSCĐ cho biết một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy đồng lợi nhuận thuần (hay lãi gộp). Sức sinh lợi của TSCĐ = Lợi nhuận trong kỳ Nguyên giá bình quân TSCĐ Chỉ tiêu Suất hao phí từ TSCĐ cho thấy để có một đồng Doanh thu thuần hay Lợi nhuận thuần phải hao phí bao nhiêu đồng Nguyên giá TSCĐ. Suất hao phí từ TSCĐ = Nguyên giá bình quân TSCĐ Doanh thu thuần(hay lợi nhuận thuần) Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng Tài sản lưu động (TSLĐ) Nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ trong doanh nghiệp, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu: Vòng quay TSLĐ trong kỳ, Hiệu quả sử dụng TSLĐ trong kỳ và Mức đảm nhiệm TSLĐ. Vòng quay TSLĐ trong kỳ (hay hiệu suất sử dụng TSLĐ) cho biết mỗi đơn vị TSLĐ sử dụng trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị doanh thu thuần, chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSLĐ cao. Vòng quay TSLĐ = Doanh thu thuần trong kỳ Trong kỳ TSLĐ bình quân trong kỳ Hiệu quả sử dụng TSLĐ phản ánh khả năng sinh lợi của TSLĐ. Nó cho biết mỗi đơn vị TSLĐ có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị Lợi nhuận sau thuế. Hiệu quả sử dụng TSLĐ trong kỳ = Lợi nhuận sau thuế TSLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Mức đảm nhiệm TSLĐ cho biết để đạt dược mỗi đơn vị doanh thu, doanh nghiệp phải sử dụng bao nhiêu phần trăm đơn vị TSLĐ. Chỉ tiêu này càng thấp càng chứng tỏ hiệu quả kinh tế cao. Mức đảm nhiệm TSLĐ = TSLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả Kinh tế - Xã hội. Nộp ngân sách Mọi Doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ nộp ngân sách nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như thuế Doanh thu, thuế đất, thuế lợi tức, thuế xuất khẩu (với các đơn vị xuất nhập khẩu), thuế tiêu thụ đặc biệt ...nhà nước sẽ sử dụng những khoản thu này để đầu tư cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và các lĩnh vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân. Việc làm Nước ta cũng giống như các nước đang phát triển, hầu hết là các nước nghèo, tình trạng yếu kém về kỹ thuật sản xuất và nạn thất nghiệp còn phổ biến. Để tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi đưa ra những biện pháp nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Thu nhập Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sống của người lao động. Xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua các chỉ tiêu như gia tăng thu nhập quốc dân bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội... 6. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta thường so sánh kết quả đầu ra so với chi phí đầu vào trong một quá trình. Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ về chi phí đầu vào của quá trình sản xuất và làm sao phải giảm chi phí đầu vào xuống mức thấp nhất có thể. Có như vậy thì quá trình sản xuất kinh doanh mới đạt hiệu quả cao. Chi phí đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh, thường bao gồm: Chi phí sản suất , chi phí lưu thông sản phẩm và các chi phí Bán hàng ,quản lý doanh nghiệp. Chi phí sản suất là các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để đạt được mục tiêu kinh doanh. Do vậy, có thể nói chi phí sản xuất là các chi phí của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản suất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí ,tính toán được kết quả tiết kiệm chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp. Cần phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Việc phân loại chi phí sản xuất có tác dụng để kiểm tra và phân tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm. Từ đó ta có thể xem xét để giảm chi phí ở từng loại, góp phần hạ giá thành sản phẩm sản xuất ra. Trong quá trình sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm đối với một doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm , doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định, đó là chi phí lưu thông sản phẩm bao gồm chi phí trực tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm (như : chi phí đóng gói, bao bì, vận chuyển,.) và chi phí marketinh (như chi phí điều tra nghiên cứu thị trường, chi phí giới thiệu sản phẩm, chi phí bảo hành,). Ngoài ra chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng là bộ phận cấu thành nên chi phí đầu vào của quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp . Việc phân loại chi phí một cách rõ ràng kết hợp với việc giảm các loại chi phí một cách hợp lý sẽ góp phần hạ giá thành sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Chương II Thực trạng hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh Doanh của Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội Giới thiệu chung về Công ty Thiết bị đo điện Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Công ty Thiết bị đo điện Tên gọi: Công ty Thiết bị đo điện Tên giao dịch quốc tế: EMIC ( Electric Measuring Intrument Company) Địa chỉ: Số 10 Trần Nguyên Hãn, Phường Lý Thái Tổ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội Công ty Thiết bị Đo điện được thành lập ngày 1/4 /1983 theo quyết định số 317 /CK - CB ngày 24/12 /1982 của Bộ cơ khí luyện kim tách ra từ một phân xưởng của nhà máy chế tạo biến thế cũ. Công ty là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng Công ty Thiết bị kỹ thuật điện, Bộ Công nghiệp. Ngày 1/6/1994, Thực hiện quyết định số 173 QĐ / TCBĐT của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng, tên mới của nhà máy là Công ty Thiết bị đo điện, tên giao dịch quốc tế là EMIC. Công ty là một doanh nghiệp nhà nước hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về Tài chính và có tư cách pháp nhân, trực thuộc Tổng Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Bộ Công Nghiệp. Ngành nghề kinh doanh chính của Công ty là sản xuất, bán buôn, bán lẻ các loại Thiết bị đo và đếm điện. Cho tới nay, Công ty đã đạt được nhiều thành công rực rỡ. Không những đứng vững trước khó khăn do cơ chế thị trường, mà còn tận dụng được những lợi thế của nó để phát triển. Công ty đã trở thành một trong số những Công ty dẫn đầu trong ngành chế tạo Thiết bị điện ở Việt Nam và luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao với quy mô năm sau cao hơn năm trước. Chức năng nhiệm vụ của Công ty Qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển, Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội đã luôn phấn đấu, đầu tư mở rộng sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Để có thể đứng vững trong nền kinh tế đang có nhiều biến động và cạnh tranh gay gắt hiện nay, Ban lãnh đạo Công ty đã đề ra những chức năng và nhiệm vụ chính sau: Xây dựng và thực hiện kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Thực hiện chế độ hạch toán độc lập. Chấp hành đúng các chính sách, chế độ của nhà nước Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân viên trẻ có năng lực Nghiên cứu, áp dụng khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới, lập quy hoạch và tiến hành nâng cấp cơ sở hạ tầng. 3. Đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty 3. 1. Đặc điểm tổ chức sản xuất của Công ty Cơ cấu sản phẩm của Công ty Thiết bị đo điện khá đa dạng và phức tạp (Bao gồm công tơ một pha, công tơ ba pha, máy biến dòng hạ thế và đồng hồ vôn. Ampe. . ). Tuy nhiên các sản phẩm này đều có quy trình gia công tương đối giống nhau. Quy trình công nghệ của Công ty có thể khái quát theo sơ đồ sau : Sơ đồ 1: Quy trình công nghệ của Công ty Thiết bị đo điện Vật tư Lắp giáp cụm chi tiết Lắp giáp bộ phận cuối cùng Hiệu chuẩn kỹ thuật Sản xuất chi tiết Bao gói nhập kho Công ty có 6 phân xưởng trong đó có 5 phân xưởng sản xuất, 1 phân xưởng phục vụ. Phân xưởng 1: Là phân xưởng đột dập, chuyên gia công các chi tiết ở dạng vật tư, chức năng chủ yếu là cắt đột hàn uốn. Phân xưởng 2: Là phân xưởng cơ khí chuyên gia công cơ khí, phay, bào, nguội. Phân xưởng 3: Là phân xưởng ép nhựa chuyên sản xuất các chi tiết bằng nhựa, công nghệ sơn mạ, làm sạch. Phân xưởng 4: Là phân xưởng lắp ráp1 chuyên lắp ráp chi tiết, cụm chi tiết, các loại sản phẩm công tơ 1 pha, các loại máy nắn dòng như biến áp trung, hạ thế cầu chì. Phân xưởng 5: Là phân xưởng lắp ráp 2 chuyên lắp ráp các sản phẩm công tơ 3 pha, các loại đồng hồ vôn - ampe. Phân xưởng 6: Là phân xưởng sản xuất phụ chuyên sản xuất các loại dụng cụ phục vụ cho các phân xưởng sản xuất khác, sửa chữa các hệ thống Thiết bị cho toàn Công ty. Về đặc điểm dây chuyền công nghệ: Toàn bộ dây chuyền sản xuất của Công ty được chuyển giao công nghệ bởi landis (thụy sỹ) từ A Tới Z các máy móc Thiết bị sản xuất và các Thiết bị kiểm tra có cấp chính xác cao với hệ thống mới nhất của thụy sỹ, Đức, Nhật. Các Thiết bị cần bổ xung, thay thế, sửa chữa Công ty sẽ có quyền mua và có quyền lựa chọn. Sản lượng của EMIC khi mới được chuyển giao công nghệ với mức sản xuất là 750. 000 sản phẩm năm. Sau khi nghiên cứu tìm tòi, nâng cấp và bổ xung máy móc trang Thiết bị cho đến năm 2001 sản phẩm của Công ty sản xuất ra đạt 1.600.000 sản phẩm năm. 2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Thiết bị đo điện. 3.2.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý Là doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Thiết bị đo điện được tổ chức theo mô hình trực tuyến: mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới quy định theo tuyến (quan hệ dọc) và quán triệt nguyên tắc một thủ trưởng. Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức Bộ máy quản lý của Công ty Thiết bị đo điện Giám đốc Phó Giám đốc Trưởng ban Đảm bảo chất lượng Phòng Tổ chức Phòng kế hoạch Phòng Vật tư P. Quản lý chất lượng Phân xưởng cơ dụng Phân xưởng Đột Phòng Lao Động Phân xưởng ép Phân xưởng Cơ khí Phòng Hành chính P. xưởng Lắp ráp 1 Phòng kỹ thuật Phòng tài vụ P. xưởng Lắp ráp 2 Phòng Bảo vệ P. xưởng Lắp ráp 2 3.2.2 Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban: Giám đốc: là người có quyền hành cao nhất, có trách nhiệm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn Công ty theo điều lệ doanh nghiệp được Hội đồng Tổng Công ty phê duyệt. Trực tiếp ký nhận vốn, tài sản của Tổng Công ty giao cho (kể cả đất đai và các nguồn lực khác) để quản lý, sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh. Duyệt chiến lược phát triển, kế hoạch dài hạn và hàng năm của Công ty, phương án đầu tư, liên doanh, đề án tổ chức quản lý của Công ty trình Tổng Công ty và cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty với Tổng Công ty và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Phó giám đốc: Xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn hạn và điều hành sản xuất để thực hiện kế hoạch đề ra. Soạn thảo và kiểm tra các hợp đồng kinh tế đảm bảo quyền lợi của Công ty và thực hiện đúng tiến độ của các hợp đồng đã ký. Giải quyết mọi công việc khi được giám đốc ủy quyền. Phòng tổ chức :Sắp xếp bố trí lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật trong Công ty, phối hợp với phòng lao động bố trí lực lượng công nhân sản xuất. Phòng kế hoạch: Xây dựng chỉ đạo và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty. Viết báo cáo hoàn thành kế hoạch 6 tháng, cả năm theo yêu cầu của giám đốc đồng thời kiểm tra việc lưu trữ hồ sơ chất lượng, tạo điều kiện để đánh giá nội bộ đơn vị mình. Phòng kỹ thuật: Nghiên cứu thiết kế sản phẩm(sản phẩm mới), cải tiến sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng, xây dựng và thực hiện các bước công nghệ, thiết kế chế tạo và gá lắp, dụng cụ khuôn mẫu. Cấp cho phòng kế hoạch, kế toán thống kê, vật tư những định mức tiêu hao Nguyên vật liệu về tình hình sử dụng Thiết bị máy móc. Phòng quản lý chất lượng sản phẩm: Kiểm tra chất lượng các bán thành phẩm, từ khâu đầu tiên cho tới khâu cuối cùng nhiên Nguyên vật liệu. Quản lý hệ thống mẫu chuẩn, quản lý các dụng cụ đo kiểm, đảm bảo thống nhất các đơn vị đo lường trong toàn Công ty, tìm tòi các phương pháp và phương tiện kiểm tra mới. Tham gia giải quyết những khiếu nại của khách hàng về chất lượng sản phẩm và tổ chức thực hiện kiểm định nhà nước. Phòng vật tư: Triển khai các hợp đồng vật tư lấy về Công ty, đảm bảo số lượng, chất lượng và tiến độ. Phục vụ kịp thời các loại vật tư cho nhu cầu sản xuất của Công ty, không để vật tư ứ đọng. Phòng tài vụ: Xây dựng các kế hoạch Tài chính, giá cả cho các yêu cầu sản xuất, quản lý tài sản cố định và lưu động. Tổ chức và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả. Tổ chức thực hiện và hướng dẫn việc ghi chép ban đầu, mở sổ sách hạch toán kế toán và thống kê tổng hợp. Thanh toán và hạch toán kịp thời, đầy đủ, đúng hạn mỗi khoản thu, chi Tài chính, xuất nhập vật tư, sản phẩm được biểu hiện bằng tiền. Phòng lao động: Xây dựng kế hoạch qũy lương được cấp trên phê duyệt. Xây dựng và hoàn thiện các định mức lao động, đơn giá trả lương, các phương pháp trả lương, quản lý, tổ chức thực hiện và phân tích hiệu quả kinh tế của các định mức đó. Xây dựng kế hoạch lao động hàng năm. Duy trì và kiểm tra việc chấp hành nội quy, quy chế và kỷ luật lao động. Phòng Bảo Vệ: Tổ chức xây dựng và bảo vệ các kế hoạch về bảo vệ trật tự trị an và tài sản xã hội chủ nghĩa, Xây dựng hoàn thiện nội quy và quy chế trong công tác bảo vệ trong Công ty. Phòng hành chính: Tổ chức thực hiện công tác quản trị các công trình công cộng và tài sản ngoài sản xuất như: Nhà cửa, đất đai, môi trường và các phương tiện sản xuất khác, bố trí nhà ở cho cán bộ công nhân viên theo chủ trương của hội đồng phân phối nhà ở Công ty và có biện pháp cao nhất trong việc sử dụng các công trình và tổ chức thực hiện trong Công ty các chính sách của nhà nước. 3. 3. Đặc điểm về Nguyên vật liệu và Sản phẩm của Công ty 3.3.1 Đặc điểm Nguyên vật liệu Chủng loại vật tư của Công ty hiện lên tới 1600 loại khác nhau như: dây điện từ, tôn silic, điốt, điện trở, vòng bi.. . Mà thị trường trong nước thì chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng, bởi vậy Công ty phải nhập khẩu phần lớn Nguyên vật liệu(80%) thông qua các Công ty ủy thác xuất nhập khẩu. Nguyên vật liệu này lại chiếm một tỷ trọng lớn trong kết cấu sản phẩm. Một số loại nguyên vật liêu mà trong nước có thể đáp ứng được như: Kim loại đen (các loại thép silic Nga, Nhật. các loại thép hợp kim) và kim loại màu; Một số loại công cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế; Một số linh kiện như nam châm, chân kính; Dây điện từ các loại nhập từ nhật. 3.3.2 Đặc điểm về sản phẩm Sản phẩm của Công ty Thiết bị đo điện có đặc điểm phức tạp, bao gồm nhiều loại chi tiết( gần 200 loại chi tiết cho các sản phẩm) như: Công tơ điện 1pha, 3 pha cơ hoặc điện tử, biến dòng và biến áp trung thế, biến dòng hạ thế, đồng hồ vôn ampe; Lưới trung thế Tu, Ti các cấp dòng khác nhau, cầu chì tự rơi; Các sản phẩm hạ thế 400kv trở xuống, trung thế từ 60kv trở xuống, Cao thế 110kv-200kv. 3. 4. Đặc điểm lao động trong Công ty. Đứng trước tình hình toàn cầu hóa kinh tế, doanh nghiệp không ngừng tuyển thêm nhiều lao động có trình độ kỹ thuật (một phần để thay thế số cán bộ cũ, công nhân viên đến tuổi về hưu và chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp). Còn đối với đội ngũ công nhân trẻ nòng cốt của Công ty được Công ty tạo điều kiện cho họ được đào tạo trong và ngoài nước. Số còn lại được đào tạo ở trong nước để thích ứng xu hướng hiện đại hóa hiện nay. Biểu 1 : Cơ cấu Lao động trong Công ty Thiết bị đo điện Đơn vị : người Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 So sánh 2002/2001 So sánh 2003/2002 Số người % Số người % 1.Tổng số LĐ 810 825 850 15 1,85 25 3,03 2.Cơ cấu LĐ +LĐ gián tiếp 120 125 135 5 4,17 10 8,00 +LĐ trực tiếp 690 700 715 10 1,45 15 2,14 3.Trình độ +Đại học 98 100 110 2 2,04 10 10 +Trung học 300 300 15 0 0 15 5,00 +Công nhân 412 425 425 13 3,15 0 0 Là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh , cho nên lao động trực tiếp trong Công ty thường chiếm một tỷ lệ lớn, tới 84,8% trong tổng số lao động. Số lao động trong Công ty có trình độ đại học hầu hết giữ vị trí quan trọng trong Công ty. Tuy số lượng lao động có trình độ đại học không nhiều, nhưng cũng đủ đáp ứng nhu cầu quản lý quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty. Đặc điểm về thị trường Tất cả sản phẩm của EMIC chủ yếu được các ngành điện sử dụng (có 7 ngành điện trong cả nước). Giá của sản phẩm của Công ty rẻ hơn so với sản phẩm cùng loại nhập ngoại, mặt khác chất lượng sản phẩm lại tốt và các dịch vụ sau bán hàng chu đáo, do đó sản phẩm của Công ty đã được chấp nhận. 75% khối lượng sản phẩm của Công ty được bán trực tiếp cho các ngành điện, 20% bán trên thị trường tự do, còn lại 5% dành cho công tác xuất khẩu. Ngoài ra EMIC còn mở rộng thêm một số thị trường mới như: Bangladet, Lào (52. 000 công tơ/1 năm), Campuchia, Myanma.. . 3. 6. Đặc điểm về Tài chính. Vốn là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh trong bất kỳ doanh nghiệp nào. Nó là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên hình thái cơ sở vật chất của sản phẩm hàng hóa hay là yếu tố tạo nên kết quả của các hàng hóa dịch vụ. Để thấy rõ về tình hình tài chính của công ty, ta xem xét bảng số liệu về cơ cấu Vốn và Nguồn vốn của Công ty Thiết bị đo điện sau: Biểu 2: Cơ cấu vốn và nguồn vốn của công ty Thiết bị đo điện Đơn vị : nghìn đồng Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % I.Cơ cấu vốn 1.Vốn cố định 23.686.065 73 23.988.577 73,3 27.442.111 74 29.412.420 74,34 2.Vốn lưu động 8.732.876 27 8.732.876 26,7 9.632.876 26 10.150.760 25,66 II.Cơ cấu NV 1.Nợ phải trả 16.750.895 51,67 16.430.153 50,21 16.870.984 45,5 17.153.280 43,36 2.NVCSH 15.668.046 48,33 16.291.300 49,79 20.204.003 54,5 22.409.900 56,64 III.Tổng NV 32.418.941 100 32.721.453 100 37.074.987 100 39.563.180 100 Thông qua biểu 2 ta thấy, vốn cố định trong công ty thường chiếm một tỷ lệ rất cao 73%- 74%. Trong khi đó nguồn vốn, là một doanh nghiệp sản xuất, nên phải đầu tư máy móc Thiết bị vào sản xuất, tuy nhiên nguồn Vốn lưu động lại chiếm một tỷ lệ như vậy là chưa hợp. Điều này cho thấy, nó có thể ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. Do đó, công ty cần phải có giải pháp nhằm nâng cao tỷ trọng Vốn lưu động trong tổng nguồn vốn. Thông qua 4 năm từ 2000-2003, nhìn chung Nợ phải trả của công ty vẫn luôn chiếm một tỷ lệ lớn, thường là 45%- 50% trong tổng nguồn vốn. Điều này nó sẽ ảnh hưởng tới chi phí sản xuất của công ty, từ đó làm ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty. Trong 4 năm liên tiếp từ 2000- 2003, thì riêng có năm 2000 nhìn chung tình hình tài chính là tốt hơn cả. Nguồn vốn từ 32,7 tỷ năm 2001 tăng lên tới 37 tỷ trong năm 2002, tăng 13,3% tỷ trọng. Nguồn vốn chủ sở hữu cũng tăng mạnh từ 49,79% năm 2001 lên 54,5% năm 2002. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tỷ trọng nợ phải trả giảm. II. Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là thước đo để đánh giá đúng năng lực trình dộ của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có năng động nhạy bén và hoạt động có hiệu quả hay không được thể hiện qua những chỉ tiêu về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Biểu 3 : Kết quả tiêu thụ sản phẩm của Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội Qua biểu 3 ta thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty được tăng đều qua các năm. Công ty luôn giữ vững khối lượng tiêu thụ sản phẩm cũ và liên tục đưa ra thị trường các loại sản phẩm mới có tính năng phù hợp hơn để chiếm lĩnh thị trường mới. Nhờ vậy mà khối lượng tiêu thụ sản phẩm của Công ty hàng năm vẫn tăng. Mặt hàng tiêu thụ mạnh của Công ty là Công tơ điện một pha và Công tơ điện ba pha. Để hiểu rõ hơn về kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Thiết bị đo điện, ta tiềm hiểu qua biểu sau: Biểu 4: Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Thiết bị đo điện. Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2001 1002 2003 1. KLSX Sản phẩm 1.131.000 1.229.000 1.230.000 1.521.150 2.KL tiêu thụ Sản phẩm 987.000 1.125.000 1.189.000 1.305.180 3.Doanh thu Nghìn đồng 128.122.002 148.081.375 186.626.869 200.159.153 4. Lợi nhuận Nghìn đồng 10.992.189 13.900.351 14.004.214 16.154.275 5.Nộp ngân sách Nghìn đồng 14.019.723 14.019.723 15.892.961 16.150.671 6.TNBQ đầu người Ng.đ/tháng 600 650 750 820 Thông qua biểu 4 ta thấy, các chỉ tiêu Khối lượng sản phẩm sản xuất, khối lượng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận liên tục tăng qua các năm. Đặc biệt, trong năm 2003 các chỉ tiêu là tăng mạnh nhất. Sự tăng lên của các chỉ tiêu này cho thấy kết quả sản xuất kinh doanh của công ty càng ngày càng tốt. Sản phẩm của công ty ngày càng chiếm lĩnh được thị trường và quy mô hoạt động kinh doanh của công ty cũng ngày được mở rộng. Để có được kết quả như vậy là nhờ sự nỗ lực cao của tất cả cán bộ công nhân viên trong Công ty. Sự ốn định của thị trường góp phần làm giảm chi phí do vậy mà lợi nhuận tiêu thụ cũng tăng đáng kể. Phân tích hiệu qủa kinh doanh Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty Thiết bị đo điện ta xem xét hiệu quả trong việc sử dụng lao động trong công ty, sử dụng các nguồn vốn kinh doanh như thế nào và sử dụng một số các chỉ tiêu khác để đánh giá hiệu quả kinh tế tổng hợp. 2.1- Hiệu quả kinh tế tổng hợp. Hiệu quả Kinh tế tổng hợp là một hệ thống chỉ tiêu chung phản ánh về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm “Doanh thu”, “chi phí”,“Lợi nhuận” ,”vốn kinh doanh ”. Biểu 5: Các chỉ tiêu đánh giá Hiệu quả kinh tế tổng hợp . Qua biểu 5, ta thấy: Doanh thu của Công ty năm 2001 cao hơn năm 2000 là 19.959.372 nghìn đồng, tăng 15,6%.Sự tăng Doanh thu này có được là do có sự gia tăng về khối lượng sản phẩm bán ra trên thị trường trong năm 2001. Hơn thế nữa Doanh thu của Công ty trong năm 2002 cũng cao hơn năm 2001 với số tuyệt đối là 38.545.494 nghìn đồng tăng 26%. Đến năm 2003, Doanh thu của Công ty đã lên tới 200.159.153 nghìn đồng, tăng 13.532.284 nghìn đồng so với năm 2002. Sự gia tăng thường xuyên này có được là do Công ty ngày càng mở rộng thị trường, sản thẩm tiêu thụ ngày một nhiều và tạo được chỗ đứng vững chắc trên cả thị trường mới và cũ. Lợi nhuận của Công ty tăng nhanh, năm 2001 tăng 26,5% so với năm 2000. đến năm 2002 thì lợi nhuận tăng rất chậm chỉ tăng hơn 0.7% so với năm 2001 tương đương 103.863 nghìn đồng. Đó là do Doanh thu của Công ty năm 2002 có tăng nhưng tăng chậm hơn mức tăng của chi phí , do đó lợi nhuận của Công ty chỉ tăng nhẹ. Nhưng đến năm 2003, cả Doanh thu và lợi nhuận đều tăng mạnh, lợi nhuận tăng 2.150.061 nghìn đồng so với năm 2002, tương ứng tăng 15,3%. Điều này cho thấy Công ty đã tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn và đã tiết kiệm được chi phí , làm lợi nhuận tăng lên. Doanh thu trên một đồng chi phí của Công ty tăng lên 2001 nhưng lại giảm đi trong năm 2002. Cụ thể năm 2001 chỉ tăng lên 0,1% so với năm 2000 và năm 2002 giảm đi so với năm 2001 là 1.3%. Có hiện tượng giảm đó là do năm 2002 mức tăng của chi phí lớn hơn mức tăng của Doanh thu. Đến năm 2003, chỉ tiêu này giảm 3,33% so với năm 2002. điều đó cho thấy mức tăng của Doanh thu lớn hơn mức tăng của chi phí ,làm cho chỉ tiêu này giảm,đó là điều tốt. Doanh thu trên một đồng vốn kinh doanh của Công ty tăng đều qua các năm nhưng ở mức thấp. Cụ thể năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là 14,5% tức 1000 đồng vốn kinh doanh bỏ ra thì đem lại được 45.260 đồng Doanh thu (tăng 574 đồng so với năm 2000). Năm 2002 lại tăng 11,2% so với năm 2001 tức là bỏ 1000 đồng vốn kinh doanh thì đem lại 50.340 đồng Doanh thu (tăng 5.080 đồng so với năm 2001). Đến năm 2003 chỉ tăng 0,5% so với năm 2002. Còn tất cả các chỉ tiêu doanh lợi của Công ty đều tăng lên năm 2001 nhưng lại giảm đi 2002 cụ thể như sau: +Doanh lợi theo vốn kinh doanh năm 2001 tăng 25,3% so với năm 2000 tức là Công ty bỏ ra 1.000 đồng vốn đem lại lợi nhuận là 4.250 đồng(tăng 860 đồng so với năm 2000). Năm 2002 doanh lợi theo vốn kinh doanh lại giảm 11,1% tức là Công ty bỏ ra 1.000 đồng vốn đem lại lợi nhuận là 3.780 đồng(giảm 470 đồng so với năm 2001). + Doanh lợi theo Doanh thu của Công ty năm 2001 tăng 9,4% so với năm 2000. Cụ thể là cứ 1.000 đồng Doanh thu thì lợi nhuận thu được là 940 đồng(tăng 80 đồng so với năm 2000). Doanh lợi theo Doanh thu của Công ty năm 2002 giảm so với năm 2001 là 20,1%. Tức là cứ 1.000 đồng Doanh thu thì lợi nhuận thu được là 750đồng (giảm 190 đồng so với năm 2001). Nhưng đến năm 2003 các chỉ tiêu về doanh lợi, như Lợi nhuận /vốn kinh doanh và lợi nhuận /Doanh thu đều tăng so với năm 2002. điều đó chứng tỏ năm 2003 tình hình kinh doanh đã tốt lên rất nhiều so với những năm trước. Nhận xét: Các chỉ tiêu doanh lợi và Doanh thu của vốn đều thể hiện sức sinh lợi của vốn bỏ ra. Do đó, qua số liệu phân tích ở trên ta thấy hiệu quả về sử dụng vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty tăng lên nhưng ở mức thấp. Các chỉ tiêu về vốn của Công ty tăng đều mặc dù chỉ tiêu về Doanh thu có giảm nhưng nó vẫn thể hiện được khả năng phát triển vốn của Công ty. 2.2- Hiệu quả sử dụng lao động Để tiến hành nghiên cứu phân tích hiệu quả sử dụng lao động của Công ty, chúng ta cấn xem xét trên ba yếu tố đó là “năng suất lao động ”, “sức sản xuất của lao động ”, “sức sinh lợi của lao động ”. Các chỉ tiêu này cho phép chúng ta biết được khả năng sản xuất và khả năng sinh lợi của lực lượng lao động sống của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thông qua mối liên hệ giá trị thu được trên từng lao động. Biểu 6: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động Qua biểu phân tích tình hình lao động ta thấy: Số lượng lao động của Công ty tăng dần qua 3 năm: năm 2001 số lượng lao động giữ nguyên là 810 người, sang năm 2002 số lượng lao động tăng lên 1,9%(từ 810 người lên 825 người). Và đến năm 2003 đã tăng lên đến 850 người. Vì vậy năng suất lao động của Công ty lại tăng lên năm 2001 hơn năm 2000 là 14,8% và năm 2002 năng suất lao động của Công ty tăng gần gấp đôi (24,4%) so với năm 2001. Đến năm 2003 chỉ tiêu này chỉ tăng nhẹ, tăng 4,91% so với năm 2002. Và sức sản xuất của lao động cũng tăng lên. Năm 2001 sức sản xuất lao động của Công ty tăng 15,6%, năm 2002 sức sản xuất lao động của Công ty tăng cao hơn mức tăng của năm 2001 và tăng thêm 23,7% so với năm 2001. Đến năm 2003 sức sản xuất của lao động tăng chậm hơn , chỉ tăng có 4,1% so với năm 2002. Do sự tăng thêm về nguồn nhân lực của Công ty năm 2001 và năm 2002 cùng với một số tác động tích cực khác tới hoạt động kinh tế của doanh nghiệp nên hiệu quả sử dụng lao động tương ứng tăng theo, sức sản xuất năm 2002 tăng so với năm 2001 là 23,7%. Và năm 2003, chỉ tiêu này tăng 4,1% so với năm 2002. Chỉ tiêu này liên tục tăng qua các năm là điều tốt. điều đó chứng tỏ hiệu quả trong việc sử dụng lao động. 2.3 Hiệu quả sử dụng Vốn lưu động Để đánh giá hiệu quả sử dụng Vốn lưu động, ta xet các chỉ tiêu sau: Sức sản xuất của Vốn lưu động, Tỉ suất Lợi nhuận Vốn lưu động, Hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động. Biểu7: Các chỉ tiêu đánh giá Hiệu quả sử dụng Vốn lưu động(VLĐ) 2.3.1 Sức sản suất của Vốn lưu động Qua biểu 7 ta thấy: Lượng Vốn lưu động (Tài sản lưu động) của Công ty Thiết bị đo điện + Năm 2001 so với năm 2000 là không tăng, đều đạt 8.732.876.049 đồng + Năm 2002 tăng so với năm 2001 là 900.000 nghìn đồng (vượt 10,3%). + Năm 2003 tăng so với năm 2002 là 517.884 nghìn đồng, tương ứng tăng 5,4%. Sức sản xuất của Vốn lưu động của Công ty cụ thể là: + Năm 2001 so với năm 2000 tăng khoảng 55,6%, hay cứ 1000 đồng Vốn lưu động tạo ra 17.000 đồng Doanh thu thuần trong năm 2001 vượt so với năm 2000 là 2.300 đồng. + Năm 2002 so với năm 2001 tăng 13,5%, hay cứ 1000 đồng Vốn lưu động tạo ra 19.300 đồng Doanh thu thuần trong năm 2002vượt so với năm 2001 là 2.300 đồng. + Năm 2003 so với năm 2002 tăng 2,07%, hay cứ 1000 nghìn đồng vốn lưu động tạo ra 19.700 đồng Doanh thu thuần trong năm 2003 tăng so với năm 2002 là 400 đồng. Nhận xét: Sức sản xuất của Vốn lưu động của Công ty Thiết bị đo điện tăng lên trong 2 năm 2001, năm 2002 và năm 2003 cả về mặt giá trị lẫn tốc độ do mức tăng chỉ tiêu Doanh thu thuần của Công ty lại lớn hơn mức tăng của Vốn lưu động. Sức sản xuất của Vốn lưu động của Công ty trong các năm qua là ổn định và bước đầu có hiệu quả. 2.3.2 Tỷ suất lợi nhuận Vốn lưu động (Sức sinh lợi của Vốn lưu động). Sức sinh lợi của Công ty tăng trong năm 2001 và giảm trong năm 2002: + Năm 2001 đạt 1,59 tăng so với năm 2000 là 0,33(Tương đương với mức tăng 26,2%). + Năm 2002 đạt 1,45% giảm so với năm 2001 là 0,14 (tương đương với mức giảm8,8%). + Năm 2003 đạt 1,59% tăng 9,65% so với năm 2002 (tương ứng với mức tăng 9,65%). + ở năm 2001 cứ 1000 đồng Vốn lưu động đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lợi được 1.590 đồng lợi nhuận( tăng so với năm 2000 là 330 đồng). + ở năm 2002 cứ 1000 đồng Vốn lưu động đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lợi được 1.450 đồng lợi nhuận (giảm so với năm 2001 là 140 đồng). + ở năm 2003 cứ 1000 đồng vốn lưu động đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lợi được 1.590 đồng lợi nhuận, tăng so với năm 2002 là 140 đồng. Nhân xét: Sức sinh lợi của Vốn lưu động (Tài sản lưu động ) của Công ty Thiết bị đo điện trong năm 2001 tăng cao hơn so với năm 2000 cả về giá trị và tốc độ. Nhưng năm 2002 so với năm 2001 thì sức sinh lợi của Vốn lưu động lại giảm xuống là do mức tăng chỉ tiêu lợi nhuận năm 2001 cao hơn mức tăng của Vốn lưu động. Năm 2002 mức tăng chỉ tiêu lợi nhuận lại thấp hơn mức tăng của Vốn lưu động. Nhưng đến năm 2003 thì mức tăng của lợi nhuận đã lớn hơn mức tăng của vốn lưu động. Tóm lại, Sức sinh lợi của Vốn lưu động của Công ty trong các năm qua là không ổn định, kém hiệu quả. 2.3.3 Hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động năm 2001 đạt ở mức 0,06 giảm 0,01 so với năm 2000, Năm 2002 đạt ở mức 0,05 giảm 0,01 so với năm 2001. Và chỉ tiêu này vẫn giữ nguyên là 0,05 ở năm 2003. Hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động của Công ty là chỉ tiêu thể hiện để có 1000 đồng vốn luân chuyển cần có 60 đồng Vốn lưu động trong năm 2001 và cần 50 đồng Vốn lưu động trong năm 2002. Nhận xét: Qua số liệu cụ thể, ta thấy hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động của Công ty trong năm 2002 giảm đi so với năm 2001 mặc dù lượng Vốn lưu động năm 2002 tăng 10,3% so với năm 2001. Điều này cho thấy việc sử dụng Vốn lưu động ở Công ty chưa có hiệu quả, với số vòng quay 19,37 vòng/năm, năm 2002 so với năm 2001 còn thấp. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là tốc độ tiêu thụ sản phẩm hàng hoá còn chậm, gây ứ đọng, hạn chế tình hình lưu chuyển vốn trong hoạt động kinh doanh. * Đánh giá chung về hiệu quả sử dụng Vốn lưu động của Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội. Qua nghiên cứu trên, ta thấy sức sản xuất của Vốn lưu động tăng lên trong cả hai năm 2001 và năm 2002, bên cạnh đó tốc độ quay vòng vốn trong 2 năm của Công ty tăng ổn định. Tuy nhiên thời gian luân chuyển vốn của Công ty luôn giảm xuống trong hai năm. Điều này chứng tỏ năm 2001 hiệu quả sử dụng Vốn lưu động (Tài sản lưu động ) của Công ty thấp hơn năm 2000 và trong năm 2002 hiệu quả sử dụng Vốn lưu động của Công ty lại tiếp tục thấp hơn năm 2001. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh tập trung ở khâu tiêu thụ sản phẩm là lượng vốn khách hàng chiếm dụng lớn, ứ đọng còn nhiều. Chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội I Những thuận lợi và khó khăn của Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội Những thuận lợi. Là một doanh nghiệp nhà nước vì vậy Công ty có thuận lợi hơn trong vấn đề vay vốn để tái mở rộng sản xuất . Là Công ty độc quyền sản xuất một số mặt hàng về điện: các Thiết bị đo và đếm điện trong hơn mười năm qua một phần là do cơ chế, chính sách nhà nước nhưng phần lớn là do sự cố gắng của cán bộ và thành viên trong Công ty đã xây dựng uy tín với khách hàng nội địa. Năm 1995 hợp tác chuyển giao công nghệ sản xuất sản phẩm đầu tiên đã đạt tiêu chuẩn quốc tế. do vậy từ năm 1995 - 2000 sản phẩm của EMIC được ngành điện sử dụng nhiều hơn. Từ năm 1996-1999 Công ty đã áp dụng và xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 các sản phẩm của Công ty đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện cho việc đấu thầu quốc tế. Sau khi hoàn thành thủy điện YALY, ĐANHIM, và đường dây tải điện 500KV hoàn thành thì nhu cầu sử dụng Thiết bị điện sẽ tăng lên rất nhiề. Từ năm 2002 chính phủ có chương trình đưa lưới điện về nông thôn và các đồng bào dân tộc. Bởi vậy nhu cầu về mặt công tơ điện, Thiết bị điện cũng sẽ được sử dụng nhiều. Những khó khăn. Bên cạnh những thuận lợi Công ty cũng gặp phải không ít những khó khăn và thách thức. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, những nếp nghĩ và lề lối, tác phong làm việc trong cơ chế thay đổi và thích ứng ngay được với cơ chế mới. Bản thân người lao động trong Công ty vẫn chưa nhận thức sâu sắc rằng nâng cao hiệu quả kinh doanh là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi người. Các thị trường đầu vào ở nước ta chưa phát triển (như thị trường Tài chính ) hoặc phát triển chậm và kém hiệu quả ( như thị trường lao động, Nguyên vật liệu, thông tin) nên Công ty thiếu lao động giỏi và thiếu vốn. Thêm vào đó cơ chế vay vốn, trả lãi và hoạt động của hệ thống ngân hàng chưa được hoàn chỉnh nên Công ty gặp khó khăn trong vấn đề vay vốn cho đầu tư đổi mới máy móc Thiết bị và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Hành lang pháp lý, hướng dẫn, trợ giúp cho các doanh nghiệp còn nhiều bất cập và hiệu quả mang lại thấp. Đây là tình trạng chung của hệ thống pháp luật nưứoc ta. Khó khăn về Vốn lưu động, quay vòng vốn chậm. Doanh thu tăng nhưng thấp. Mức lương thu nhập của cán bộ công nhân viên thấp, khó thu hút được công nhân có trình độ tay nghề cao. Lợi nhuận có tăng nhưng thấp hơn so với những thuận lợi mà Công ty có được. Các sản phẩm của EMIC đòi hỏi và yêu cầu về vật tư rất khắt khe mà trong nước không sản xuất được và phải nhập khẩu từ nước ngoài như( viên bi, chân kính) và phải thanh toán bằng ngoại tệ. Từ năm 1997 - 2003 tỷ giá biến đổi với xu hướng tăng về giá cả và biến đổi liên tục. Do phải nhập ngoại nhiều cho nên giá thành sản phẩm vẫn còn cao trong khi nguồn Nguyên vật liệu trong nước chưa khai thác được. Vì vậy trong vòng 4 năm đã có hai lô thầu đã bị trượt về giá với lô thầu ở nước ngoài. Khi tham gia đấu thầu đòi hỏi nhà thầu phải có một số vốn nhất định để bảo lãnh dự thầu. Càng trúng nhiều hợp đồng số tiền bảo lãnh dự thầu càng lớn, dẫn đến khó khăn về vốn. ở ngoài nước cũng có một số Công ty canh tranh rất mạnh với chúng ta như: Thái lan có 4 cơ sở sản xuất chất lượng và giá cả thấp hơn EMIC, Malaixia có 1 cơ sở, Trung quốc có rất nhiều nhà sản xuất và giá cả chỉ bằng 1/2 EMIC. Nhà thầu ở Nhật Bản và Châu Âu đòi hỏi rất cao nên sự cạnh tranh rất khốc liệt. Việc bảo hành sản phẩm sau bán phục vụ ở thị trường nước ngoài là rất khó khăn. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội Căn cứ vào kết quả phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh ở trên và những tồn tại của Công ty trong thời gian qua, để đáp ứng yêu cầu đảm bảo và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời gian tới, theo em Công ty nên có một số biện pháp giải quyết như sau: Giảm chi phí Công ty nên tích cực tìm kiếm các nhà cung ứng Nguyên vật liệu trong nước nhằm tạo ra thị trường cung cấp Nguyên vật liệu trong nước ít biến động đồng thời Công ty nên kết hợp với các viện nghiên cứu để tìm kiếm khai thác các vật liệu mới ở trong nước. Đây là một trong các chiến lược dài hạn làm cho giá thành sản phẩm giảm xuống thì Công ty mới có thể cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. 2. Tăng Doanh thu Mở rộng sản xuất để đáp ứng các yêu cầu về số lượng và chất lượng. Cụ thể như trong năm 2002 Công ty đã mở rộng thêm cơ sở sản xuất ở Gia Lâm để sản xuất Tu, Ti. Kế hoạch năm 2003 - 2005 Công ty sẽ mở rộng sản xuất công tơ điện tử, Tu,Ti vào khu công nghiệp. Tạo nhiều kênh phân phối cho ngành điện, thông qua một số đại lý sau đó lại phân phối cho các cơ sở nhỏ khác. Bán sản phẩm cho các Công ty xây lắp điện, cung cấp cho một số nhà thầu chính với phương thức chở hàng đến tận nơi hoặc đến tận Công ty của bên nhận hàng. Công ty kết hợp với các trường đại học trong cả nước, viện nghiên cứu và bộ công nghệ để tìm kiếm và khai thác Nguyên vật liệu mới trong nước, có thể khai thác, thay thế. 3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Công ty có thể huy động vốn vay dài hạn hoặc vay vốn ngắn hạn bằng cách vay vốn từ cán bộ công nhân viên. Công ty cần có các biện pháp khuyến khích và khen thưởng đối với những người tích cực cho Công ty vay vốn. Đồng thời phải đảm bảo nguyên tắc lãi suất vay vốn từ người lao động lớn hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng và nhỏ hơn lãi suất tiền vay ngân hàng. Khi đó chi phí vay vốn của Công ty từ người lao động có thể mới nhỏ hơn chi phí vay vốn ngân hàng đồng thời cũng đảm bảo lợi ích cho người lao động. Một hình thức huy động vốn có hiệu quả nữa đó là Công ty nên tiến hành cổ phần hoá và bán cổ phiếu cho người lao động. Bằng cách này Công ty có thể huy động được một khối lượng vốn lớn, không có thời hạn trả, tăng nguồn vốn chủ sở hữuvà kích thích người lao động hoạt động có hiệu quả hơn nhờ gắn quyền lợi và trách nhiệm chặt chẽ hơn. Đối với khoản thu quá hạn khó đòi, Công ty có thể bán nợ cho một số ngân hàng hay một xí nghiệp mua nợ nào đó nhằm tránh tình trạng tồn đọng vốn, làm chậm tốc độ luân chuyển Vốn lưu động, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. 4. Nâng cao năng suất lao động Đối với đội ngũ công nhân đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản trị, cán bộ công tác đấu thầuvà các cán bộ điều hành dự án cần phải trang bị và trang bị lại những kiến thức kinh doanh hiện đại, tạo điều kiện cho họ tham gia vào các khoá đào tạo bồi dưỡng. Việc có được kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến là cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực như vốn, nhân sự, công nghệ ...cũng như làm chủ được các yếu tố bên ngoài như thị trường, hạn chế những lãng phí, tổn thất do không hiểu biết gây ra. 5. Nâng cao chất lượng. Đầu tư vào công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm trong giai đoạn hiện nay thì Công ty cần đầu tư thêm cho máy móc Thiết bị mới, hiện đại của các nước phát triển. III. Một số kiến nghị đối với các bên hữu quan Đối với cấp trên trực tiếp của Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội đó là Bộ Công nghiệp Hà Nội cần phải quan tâm hơn nữa tới sự phát triển của Công ty. Thường xuyên giám sát và có những chính sách chiến lược phát triển ưu đãi hơn nữa tới Công ty. Nhà nước cần có những chính sách cụ thể đối với mặt hàng Thiết bị điện mà Công ty sản xuất ra, như chính sách bảo trợ mặt hàng Thiết bị điện sản xuất trong nước, giảm thuế xuất khẩu ra nước ngoài, chính sách khuyến khích đầu tư cho loại mặt hàng này. Địa phương (cụ thể ở đây là Quận Hoàn kiếm Hà Nội) cần có sự thông cảm giúp đỡ công ty, như khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào Công ty, giữ gìn trật tự an ninh trong địa bàn. Đối với các cơ quan hữu quan như Cơ quan Công an, Thuế, Ngân hàng Cần tạo điều kiện hơn nữa góp phần voà sự lớn mạnh của Công ty. Giúp đỡ chia sẻ những khó khăn với Công ty, đặc biệt là vấn đề Tài chính (nguồn vốn). Tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty được vay vốn để đầu tư máy móc thiết bị phát triển sản xuất, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, đóng góp vào sự phát triển chung của nền Kinh tế nước nhà. kết luận Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước sản xuất các loại Thiết bị điện. Tuy gặp khó khăn trong mấy năm gần đây, nhưng hiện nay, do đổi mới cách quản lý, sản xuất kinh doanh Công ty đã đứng vững trên thị trường và đang trên đà phát triển. Cùng với sự phát triển chung của Công ty, công tác quản lý sản xuất và kinh doanh ngày càng được hoàn thiện hơn phù hợp với yêu cầu quản lý và sản xuất kinh doanh của Công ty trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Qua những kiến thức được học ở trường, kết hợp với kinh nghiệm tiếp thu được trong quá trình thực tập tại Công ty, em nhận thấy việc hoàn thiện công tác quản lý trong sản xuất kinh doanh có thể sẽ là công cụ hữu ích giúp Công ty nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh một cách khoa học và hợp lý hơn, giúp Công ty có thể kiểm soát được chi phí, từ đó có biện pháp nhằm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tạo được nhiều lợi nhuận hơn nữa. Tuy nhiên, do trình độ còn hạn chế, thời gian thực tập không nhiều, cho nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót, chưa thể nêu rõ được những ưu, nhược điểm của Công ty, chưa đi sâu vào công tác quản lý sản xuất kinh doanh và không thể đưa ra được những kiến nghị mang tính toàn diện hơn để góp phần hoàn thiện hơn công tác quản lý sản xuất kinh doanh tại Công ty Thiết bị đo điện Hà Nội. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của Giáo viên hướng dẫn Phó giáo sư_ Tiến sĩ Phạm Quang Huấn và các cán bộ Công ty Thiết bị đo Điện Hà Nội. Hà Nội, tháng 8 năm 2003 Sinh viên Lê Minh Đức Tài liệu tham khảo Giáo trình Quản lý doanh nghiệp Trường đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội Giáo trình Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh Trường đại học Kinh tế quốc dân Giáo trình Chiến lược kinh doanh Trường đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội Báo cáo Tài chính, Báo cáo tổng hợp Công ty EMIC Thiết bị điện Giáo trình Quản lý nhân sự của Trường đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội Một số Tài liệu khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT1193.doc
Tài liệu liên quan