Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I

Trước hết về cơ cấu tổ chức Công ty chưa có sự phân công chuyên môn hoá sâu sắc, nhất là đối với các phòng nghiệp vụ 1, 5, 6, 7 đều là các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp. Điều đó dẫn tới cùng một mặt hàng, một thị trường mà các phòng cùng tham gia thực hiện, không có sự chỉ đạo thống nhất, do đó hiệu quả chưa cao. Và cũng chính vì vậy, mà đôi khi hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất phi vụ, dẫn tới nguồn lực tài chính bị phân tán nhỏ, mà kinh doanh quy mô lớn, có hiệu quả không thể dựa trên triết lý kinh doanh theo kiểu “thương vụ” đơn thuần. Thêm vào đó hoạt động Marketing của Công ty còn yếu do chưa có bộ phận chuyên sâu về vấn đề này. Công ty thường chỉ chú trọng tới khâu bán chứ chưa có sự phối hợp động bộ giữa Marketing mua và Marketing bán. Chưa có sự đầu tư đúng mức cho nghiên cứu thị trường, thu nhập thông tin dẫn tới tính rủi ro trong các hoạt động kinh doanh xuất khẩu khá cao. Do đó Công ty chưa có sự mạnh dạn trong việc thâm nhập các thị trường mới, còn rụt rè khi ký kết hợp đồng có gía trị lớn. Một vấn đề nữa có liên quan chặt chẽ tới các nhược điểm nêu trên là việc tổ chức thực hiện xuất khẩu còn có sự lãng phí, chưa khai thác tối đa các nguồn hàng xuất khẩu trong nước. Tổ chức thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất khẩu là một quá trình quan trọng quyết định lợi nhuận của hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu nó không được thực hiện tốt sẽ kéo dài thời gian thực hiện giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng như không giữ được chữ tín với khách hàng nước ngoài.

doc82 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Công ty Mỗi Công ty xuất nhập khẩu đều nhất thiết phải tìm ra được những cơ hội thị trường mới. Với Công ty XNK Tổng hợp I cũng vậy, Công ty không thể trông dựa vào sản phẩm và thị trường hiện có của mình mãi được. Việc tìm ra các cơ may mới có thể được tiến hành một cách có hệ thống, Công ty có thể tìm kiếm những ý kiến mới chỉ đơn giản bằng việc giữ cho đôi tai và đôi mắt của mình mở rộng ra trước sự đổi thay nơi thương trường. Các nhà điều hành Công ty đọc nhật báo, theo dõi các chương trình thương mại, khảo sát các mặt hàng xuất khẩu cũng như nhà cạnh tranh và thu thập thông tin thị trường ở những ngành kinh doanh khác. Ngoài ra Công ty còn có thể sử dụng các phương pháp khác có tính chất đúng theo quy phạm để phát hiện ra những cơ may thị trường. Đối với Công tư XNK Tổng hợp I, một trong những phương pháp có tính chất thực dụng và phù hợp nhất là mạng mở rộng thị trường (a product/ market expansion grid). Phương pháp này được minh hoạ như sau: Sơ đồ số 8: Định dạng cơ hội thị trường thông qua mạng mở rộng sản phẩm thị trường Sản phẩm hiện có Sản phẩm mới TT hiện có 1. Thâm nhập thị trường 3. Phát triển sản phẩm TT mới 2. Mở rộng thị trường 4. Sự đa dạng hoá Để có thể áp dụng phương pháp trên một cách có hiệu quả, bên cạnh việc tìm kiếm phát hiện cơ hội của Công ty còn phải xem những cơ hội đó có thích hợp với Công ty hay không. Năm 1986 đến năm 2001 là những năm mà Việt Nam đạt được những thắng lợi lớn trong quan hệ ngoại giao với Mỹ, ASEAN, EU và APEC tạo ra những tiềm năng mới trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước. Đây là cơ hội mới song cũng chính là những thách thức mới đối với doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và của Công Ty XNK Tổng hợp I nói riêng, do phải theo kịp những cải cách về chính sách quản lý kinh tế trong điều kiện mới, phải tự vươn lên về kỹ thuật nghiệp vụ cho phù hợp với những đối tác thực sự “có nghề”, có vốn và có cả những Công ty “lừa đảo” lợi dụng sự non kém thiếu thông tin của ta. 2.2 . Những thách thức của Công ty Hiện nay ở nước ta có rất nhiều các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp, đó là chưa kể tới sự lớn mạnh của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu chuyên doanh khác, do đó mà cạnh tranh không chỉ diễn ra ở thị trường xuất khẩu mà ở cả thị trường các nhà cung cấp. Cạnh tranh giữa những nhà xuẩt khẩu Việt Nam ngay trên thị trường Việt Nam dẫn đến sự tranh mua, tranh bán và điều này dẫn tới 2 khả năng: + Thứ nhất: Giá xuất khẩu sẽ giảm đi do cạnh tranh, chất lượng hàng hoá cao hơn cũng do cạnh tranh. + Thứ hai: Có những lô hàng kém chất lượng vẫn được xuất ra nước ngoài do nhiều nhà sản xuất chỉ chú trọng tới lơị nhuận, tới số lượng. Điều này không phải là không ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của Công ty bởi vì nó khiến cho khách hàng nghi ngờ vì có quá nhiều loại giá khác nhau đối với cùng một loại hàng và cũng có nhiều loại chất lượng khác nhau. Tình hình kinh doanh trong nước đã vậy, tình hình thị trường thế giới cũng có nhiều biến động đó là những biến động lớn về chính trị, kinh tế ở các nước Liên xô cũ và Đông âu. Đây là những thị trường tiêu thụ tương đối nhiều hàng hoá của Công ty. Điều này dẫn tới Công ty phải đương đầu với hai khó khăn: Một là do các nước nói trên chuyển sang cơ chế thị trường, bắt đầu nhập hàng hóa theo nhu cầu của người tiêu dùng chứ không căn cứ vào kế hoạch của Nhà nước nên Công ty khó có thể đặt ra những hy vọng và nỗ lực lớn vào việc khai thác thị trường này trong ngắn hạn được. Hai là đối với những thị trường các nước TBCN mà lâu nay Công ty hoạt động ít bị cạnh tranh nay trở thành khu vực có sự cạnh tranh gay gắt. Đây thực sự là những khó khăn đối với Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I, chừng nào mà Công ty còn chưa chi phối lớn thị trường cung cấp cũng như các thị trường nhập khẩu trọng điểm mà thực tế năng lực của Công ty còn hạn chế về nhiều mặt chưa cho phép. Sự tinh khôn của người sản xuất trong việc lựa chọn nhà phân phối và sự dụng nhiều kênh phân phối cùng một lúc, trong đó việc trở thanh người quản lý, điều khiển kênh, chi phối cả về giá cả, chất lượng... cũng là những thách thức đối với Công ty. chương iii những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp i i - chiến lược phát triển hàng nông sản trong thời gian tới 1. Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam Về sản xuất hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng khá lớn. Nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, hợp lý, lâu dài sẽ hứa hẹn trở thành một trung tâm sản xuất nông sản lớn, tiềm năng này thể hiện ở. 1.1. Về đất đai Tiềm năng đất nông nghiệp của cả nước là 10 - 11,157 triệu ha, trong đó khoảng gần 8 triệu ha cây trồng hàng năm (riêng trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha) và 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm. Hiện nay Việt Nam mới chỉ sử dụng hết 65% quỹ đất nông nghiệp, trong đó đất trồng cây hàng năm là 5,6 triệu ha, trồng cây lâu năm là 86 vạn ha, ngoài ra 33 vạn ha đồng cỏ tự nhiên và 17 ha mặt nước. Số đất có thể mở rộng thêm phần lớn là đất dốc đã bị xói mòn, thoái hoá. Diện tích này ở vùng miền núi Bắc bộ chiếm khoảng 45% tổng diện tích, ở vùng khu 4 cũ khoảng 35% tổng diện tích, vùng núi khu 5 khoảng 45%, vùng Tây nguyên khoảng 76% và vùng đồng bằng Bắc bộ khoả43ng 34%. Diện tích đất này nếu được đầu tư cải tạo thì rất thuận lợi cho phát triển trồng các cây công nghiệp dài ngày như cao su, cà phê, hạt tiêu... Song nó đòi hỏi cần có một sự đầu tư lớn và phải sau một thời gian tương đối mới có thể sử dụng được. Trong khi đó ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao, lần lượt chiếm 93% và 82% tổng quỹ đất, nhưng tình trạng thâm canh trong nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, hệ thống thuỷ lợi còn yếu kém, hệ số sử dụng đất mới đạt trung bình 1,4 lần/năm. Bởi vậy nếu được đầu tư mạnh, phát triển sản xuất theo chiều sâu nhằm khai thác được lợi thế của các vùng đồng bằng trù phú thì sẽ trở thành những trung tâm sản xuất lúa gạo lớn. Chất lượng đất ở Việt Nam có tầng dày, kết cấu tơi xốp, chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng khá cao nhất là phù xa, đất xám. chủng loại đất cũng rất phong phú với 64 loại thuộc 14 nhóm. Những điều kiện này kế hợp với nguồn nhiệt ẩm dồi dào sẽ là cơ sở tốt để phát triển nhiều loại cây trồng, thâm canh tăng vụ nếu chúng ta biết khai thác khoa học, hợp lý. 1.2. Về khí hậu Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng khá sâu sắc của chế độ gió mùa Châu á . Khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân biệt rõ ràng từ Bắc vào Nam, với một mùa đông lạnh ở miền Bắc, khí hậu kiểu Nam á ở Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây trồng nông sản. Thêm vào đó, tiềm năng nhiệt ẩm và gió khá dồi dào, phân bổ tương đối đồng đều trong nước. Với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, tài nguyên nhiệt nước ta được xếp vào loại giàu. Với độ ẩm tương đối trong năm cao hơn 80%, lượng mưa lớn (trung bình từ 1800 - 2000mm/năm). Kết hợp với nguồn nhiệt giàu có, đây là thuận lợi đối với việc sinh trưởng và phát triển của nhiều loại sinh vật, đặc biệt là đối với một số loại cây trồng như lúa nước, Cà phê, Cao su,Chè.. 1.3. Về nhân lực Với dân số hơn 76 triệu người, cơ cấu dân cư trẻ và có hơn 80% dân số sống bằng sản phẩm nông nghiệp. Có thể nói nguồn cho nông nghiệp là rất dồi dào. Bên cạnh đó, người Việt Nam có đặc điểm là cần cù, thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học công nghệ, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp...Đây là những thuận lợi lớn cho Việt Nam để vươn lên một nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến, tạo nguồn nông sản dồi dào cho tiêu dùng và xuất khẩu. 1.4. Các chính sách của Nhà nước Ngoài những yếu tố thuận lợi trên, với quan điểm của Đảng và Nhà nước, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu chính vậy nên, việc sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản cũng được chú trọng. Quan tâm việc ưu đãi đầu tư trong nước và nước ngoài vào lĩnh vự sản xuất nông sản nhất là đối với cây trồng lâu năm như cà phê, cao su đã tạo được động lực mới cho sự phát triển ngành này. Việc đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp cũng tạo ra bước đột phá. Với tiềm năng to lớn của mình, triển vọng về sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam trong những năm tới là rất sáng sủa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác được tiềm năng đó một cách tốt nhất để giải quyết vững chắc và ổn định lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội. Đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu các loại nông sản và nông sản chế biến tạo thêm tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Để giải quyết vấn đề này, nhiệm vụ đặt ra không phải chỉ do một Bộ, ngành nào mà đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các Bộ, các ngành và các thành phần kinh tế... 2. Hướng chiến lược của Việt Nam nhằm phát triển ngành nông sản Thấy được tầm quan trọng của việc xuất khẩu hàng nông sản nên Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chủ trương, chính sách kinh tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản như. - Nhà nước có chủ trương khuyến khích xuất khẩu hàng có hàm lượng tinh tớn hay nói cách khác xuất khẩu hàng hoá từ nguyên liệu thô sang hàng hoá chế biến có chứa hàm lượng lao động kỹ thuật cao, có giá trị lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy doanh nghiệp làm xuất nhập khẩu cần tranh thủ mọi nguồn vốn, đầu tư xây dựng cơ bản, trang thiết bị máy móc hiện đại, đây truyền công nghệ phù hợp để tạo ra những sản phẩm tốt, có giá trị cao để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Đối với thị trường xuất khẩu ta chủ trương lấy thị trường EU, Braxin, Mexico, Nhật Bản, Singapo, ấn độ, ASEAN, Trung Quốc, Mỹ làm thị trường xuất khẩu chính. Ngoài ra, các công ty cần phải không ngừng mở rộng thị trường, tiến hành hợp tác liên doanh với các công ty nước ngoài về sản xuất, chế biến hàng nông sản, để có hàng chất lượng cao, mẫu mã phong phú. Từ đó, Công ty học hỏi thêm được kinh nghiệm kinh doanh, tiếp thu được những công nghệ tiên tiến. - Nhà nước cùng các doanh nghiệp tham gia vào việc tìm kiếm thị trường nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu, đồng thời Nhà nước cũng khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào lĩnh vực sản xuất, chế biến hàng nông sản. Các doanh nghiệp này phát triển sẽ thu hút được nhiều lao động, giải quyết việ làm đáng kể cho người lao động, góp phần cùng Nhà nước giải quyết nạn thất nghiệp. Từ những định hướng chính trên mục tiêu của Nhà nước ta là tăng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản từ 2,4 tỷ USD/năm hiện nay lên 5 tỷ USD vào năm 2003 và khoảng 15 tỷ vào năm 2010. Như vậy kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng ít nhất không dưới 30%. Chỉ tiêu này đã được nêu ra cụ thể tại Hội nghị triển khai Nghị quyết Trung Ương IV tổ chức tại Hà Nội tháng 3/2001. Vấn đề lúc này là phương thức huy động vốn, trên cơ sở phát huy hết khả năng của tất cả các thành phần kinh tế băng nhiều hình thức, kết hợp với các nhà đầu tư trong và ngoài nước để xây dựng ngành nông nghiệp và chế biến thực phẩm Việt Nam có trình độ công nghiệp hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực, phù hợp với chủ trương kêt hợp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước của Đảng và Nhà nước. ii- phương hướng hoạt động xuất khẩu nông sản ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp i Kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu đã đạt được trong những năm qua của Công ty XNK Tổng hợp I đã khẳng định được mục tiêu chiến lược của Công ty đã và đang thực hiện là đúng đắn. Ban lãnh đạo Công ty nhận định, phương thức kinh doanh của Công ty là đẩy mạnh xuất nhập khẩu, tập trung vốn để mở mang sản xuất, thu gom hàng hoá phục vụ kinh doanh xuất nhập khẩu hàng năm bằng nhiều cách như tự làm, liên doanh, liên kết. Nếu như những năm qua kết quả kinh doanh xuất khẩu của Công ty đạt được rất khả quan thì đến năm nay Công ty cần vươn lên hơn nữa bằng tất cả các khả năng nội lực của mình, bằng những chuyển động cơ bản về nội dung hoạt động kinh doanh, tổ chức cán bộ, mở rộng thị trường kinh doanh xuất khẩu, huy động vốn nhàn rỗi trong cán bộ, công nhân viên của Công ty. Và một điều đặc biệt quan trọng là Công ty phải tập trung phát triển vào lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản vì nó là mặt hàng xuất khẩu có thể mang lại lợi nhuận không nhỏ cho Công ty. Công ty XNK Tổng hợp I đã đề ra phương hướng hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản như sau: 1. Thị trường Công tác thị trường của Công ty từ trước đến nay vẫn là tìm kiếm và mở rộng thị trường để tăng kim ngạch xuất khẩu, thị trường xuất khẩu hàng nông sản cũng được Công ty rất chú ý. Công ty đã đề ra các mục tiêu để xác định có thị trường nào là thị trường trọng điểm để tập trung khai thác nhằm đưa lại cho Công ty nhiều lợi nhuận. Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I là một Công ty hoạt động hạch toán độc lập bằng nguồn vốn tự có và tự trang trải nên có thể linh hoạt thúc đẩy tỷ lệ xuất khẩu trong cán cân xuất nhập khẩu của mình. Tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chủ quản, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đã có chỉ tiêu xuất khẩu sang nhiều thị trường khác nhau như EU, Mỹ. Hoạt động nghiên cứu thị trường của Công ty đòi hỏi phải nắm bắt được những thông tin thiết yếu như: xu hướng thị trường, nhu cầu và tình hình cung cấp hàng nông sản trên thế giới, khả năng tiêu thụ... Thông qua các chuyến viếng thăm cấp Chính phủ, cấp Bộ, Ngành liên quan qua các trung tâm thông tin, các văn phòng thương mại ở nước ngoài và qua các tài liệu để tìm ra thị trường trọng điểm, tìm ra những mặt hàng đang có nhu cầu cao, tìm hiểu quy định về hạn ngạch, thuế để có những quyết định kịp thời đưa lại lợi nhuận cao nhất cho Công ty. Đối với từng thị trường khác nhau đòi hỏi yêu cầu về sản phẩm là khác nhau. Chẳng hạn đối với thị trường EU, Nhật Bản, Singapore thì chất lượng hàng xuất khẩu phải cao, bao bì đóng gói phải đẹp và thuận tiện cho việc sử dụng. Đối với thị trường Trung Quốc thì vấn đề quan tâm là giá cả. Để hiểu rõ các thị trường Công ty cần thu thập nhiều thông tin, tài liệu từ các thị trường đó, đưa ra hệ thống các chỉ tiêu phù hợp. 2. Hỗ trợ Marketing trong kinh doanh hàng nông sản Các hỗ trợ Marketing ngày càng phát triển và thực hiện hoàn thiện hơn đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay khi mà có rất nhiều các đơn vị cùng tham gia hoạt động xuất khẩu. Chính sách giao tiếp và khuyếch trương là một công cụ quan trọng để Công ty áp dụng và thực hiện chiến lược Marketing của mình nhằm ngăn ngừa rủi ro, tăng hối lượng bán, giảm chi phí kinh doanh. Dự kiến trong thời gian tới, nhằm làm cho mặt hàng nông sản sản Công ty có cơ hội thâm nhập sâu, rộng vào thị trường thế giới, Ban lãnh đạo Công ty đề ra chủ trương tăng cường tham gia giới thiệu sản phẩm tại các cửa hàng, quầy hàng, tham gia các hiệp hội kinh doanh, hội chợ triển lãm. Qua những lần Công ty tham gia vào hội chợ triển lãm quốc tế, Công ty đã đạt được những thành công đáng kể, các mặt hàng của Công ty đã được chú ý không chỉ khách trong nước mà kể cả khách nước ngoài. Điều này đã mở ra cho Công ty một hướng mới để bán hàng của mình dưới hình thức xuất khẩu tại chỗ, thu ngoại tệ tại các trung tâm dịch vụ của Công ty. Hoạt động giao tiếp của Công ty bao gồm mối quan hệ ngang, đó là các đơn vị liên quan đến dịch vụ mua, bán (ngân hàng, vác hàng vận tải, các bạn hàng) và mối quan hệ dọc là với các cơ quan cấp trên, với các đơn vị trực thuộc, các cửa hàng đại lý của Công ty. Công ty đang dự kiến tham gia xuất khẩu dưới dạng liên doanh chế biến nông sản gia công và liên doanh với một số Công ty của Nhật Bản, Đài Loan. Trong đó, phí Công ty góp một phần nguyên liệu, sức lao động còn phía nước ngoài thì cung cấp dây truyền máy móc, dây truyền công nghệ, sản phẩm được xuất sang Nhật Bản, Đài Loan hay Singapore. Đây là hình thức có triển vọng, tạo thuận lợi cho Công ty trong việc tìm kiếm thị trường giảm cạnh tranh với Trung Quốc, các nước ASEAN cũng tham gia kinh doanh mặt hàng này. Để tăng năng lực cạnh tranh hơn nữa, Công ty chủ trương củng cố sản phẩm của mình về chất lượng, nhãn hiệu, bao gói. Trong thời gian trước hàng xuất khẩu của Công ty chủ yếu sang thị trường Liên Xô và Đông Âu nên nhãn hiệu, bao gói chưa được quan tâm đáng kể do hoạt động xuất nhập khẩu dưới hình thức chỉ tiêu, Nhà nước chịu trách nhiệm. Hiện nay, việc kinh doanh hàng nông sản của Công ty được tự do hơn, Công ty cần phải thực sự quan tâm đến mẫu mã. bao bì đóng gói để thu hút được khách hàng khó tính và giàu có ở các nước Châu Âu và Châu á. Bên cạnh những nỗ lực về giao tiếp khuyếch trương, xúc tiến bán hàng, Công ty XNK Tổng hợp I còn phấn đấu hoàn thiện khâu cung ứng, thu mua hợp tác đầu tư tạo vốn và kỹ thuật công nghệ. 3. Hoàn thiện khâu thu mua Chúng ta biết rằng việc nghiên cứu, lựa chọn nguồn hàng tốt góp phần đáp ứng kịp thời và chính xác nhu cầu thị trường, thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng tốt sẽ đem lại cho Công ty nhiều lợi nhuận và giữ uy tín với khách hàng. Kinh doanh hàng nông sản của Công ty XNK Tổng hợp I , đạt được kết quả tốt khả quan khi Công ty có những biện pháp đồng bộ từ cân đối thu, mua, thực hiện hợp đồng, thanh toán đến giao hàng cho khách. Trong đó khâu thu mua là rất quan trọng bởi nó là khâu đầu tiên và cũng là yếu tố quyết định trong hoạt động xuất khẩu. Đồng thời cũng chứng tỏ rằng Công ty có thực hiện tốt ở các khâu sau này hay không. Trong khâu thu mua hàng nông sản xuất khẩu, vấn đề lựa chọn nguồn hàng đối với Công ty là cực kỳ quan trọng. Cần phải lựa chọn nguồn hàng tốt, phù hợp với điều kiện kinh doanh của Công ty và đặc điểm tình hình thị trường trong và ngoài nước. Thời gian tới, Công ty vẫn chủ trương khai thác từ 3 nguồn hàng: - Nguồn hàng chế biến ở các doanh nghiệp chế biến. - Nguồn hàng liên doanh liên kết. - Nguồn hàng từ các địa phương sản xuất. Nguồn hàng do các Nhà máy, xí nghiệp do Bộ quản lý hoặc địa phương phụ trách về cơ bản có độ tin cậy cao, do ý thức tổ chức quản lý nhưng giá cả cần phải cân nhắc từng thời kỳ. Đồng thời Công ty cũng cần phải có cam kết rõ ràng về chất lượng, mẫu mã kết hợp với các dịch vụ có liên quan tới việc cung ứng mặt hàng này. Đối với các nguồn hàng mua ở các doanh nghiệp tư nhân, công ty cần cân nhắc số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện thanh toán và thời gian giao hàng. Đồng thời Công ty cũng cần phải nghiên cứu kỹ sự uy tín, mức độ ổn định, khả năng tài chínhh của Công ty để có phương thức mua hợp lý. Điều cần chú ý nhất thu mua từ nguồn hàng này là chất lượng hàng. Nguồn hàng liên doanh liên kết, có thể Công ty liên kết với các doanh nghiệp địa phương, các công ty tư nhân, các liên doanh và công ty quốc doanh cùng tham gia từ khâu sản xuất nên độ tin cậy từ nguồn hàng này được bảo đảm hơn cả. Công ty tập trung vào nghiên cứu chủng loại, mẫu mã để đưa vào liên doanh có hiệu quả, tránh những chi phí bất hợp lý, hạ giá thành sản phẩm. Đây là hình thác hiện nay được Công ty chú ý và đang phát triển. Đối với các đơn vị có hàng muốn cho Công ty nhận uỷ thác xuất khẩu cho họ, công ty sẽ tạo mọi điều kiện và thuận tiện để các đơn vị nhờ uỷ thác xuất khẩu. Sau khi ký hợp đồng xuất khẩu, Công ty tiếp nhận hàng ở các cơ sở, Công ty chế biến. Để làm tốt, Công ty cần bố trí kho bãi, phương tiện vận chuyển, bốc dỡ hợp lý cũng như thực hiện kiểm tra kỹ lưỡng các tiêu chuẩn kỹ thuật và các điều kiện thoả thuận giữa các bên. Về bảo quản hàng trong khi chờ đợi người nhập khẩu mở L/C, Công ty cần sử dụng những biện pháp kỹ thuật mới, tiến tiến, bảo đảm cho hàng nông sản không giảm chất lượng. 4. Thực hiện quá trình hạch toán nghiệp vụ Đối với hàng nông sản, Công ty lập sổ sách theo dõi cụ thể vì đây là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tương đối lớn, đồng đều giữa các năm, tuy nhiên trong thời gian tới Công ty cần chú ý tới một số điểm sau: - Đối với các cơ sở cung ứng hàng nông sản cho Công ty, thông qua qúa trình hạch toán nghiệp vụ cụ thể để Công ty xem xét là có nên ký tiếp hợp đồng về cung ứng hàng nữa không, hay giảm khối lượng hoặc ngừng hẳn việc thu mua ở nguồn hàng này khi các đơn vị không đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn mà Công ty đặt ra trong thoả thuận gữa hai bên. Chẳng hạn như thực hiện không đúng như kết giao hàng chậm, không đúng chủng loại, tiêu chuẩn, chất lượng, khối lượng để cho người nhập khẩu phải trả lại hàng hay khiếu nại. Thông qua hạch toán nghiệp vụ trong quan hệ của Công ty với bạn hàng nước ngoài để có sự linh hoạt khi xuất khẩu hàng hoá. ở giai đoạn tổng kết quá trình xuất khẩu, Công ty cần thực hiện nghiêm túc hơn nữa việc kiểm điểm thực hiện hợp đồng của bạn hàng nước ngoài. Công ty lâu nay chưa chú ý nhiều đến công tác này, nhưng đây là vấn đề quan trọng bởi khi các đánh giá về bạn hàng, về thị trường mới có thể rút ra nhận định chiến lược có nên tiếp tục để hàng hoá vào đó hay không? Khối lượng, mẫu mã, chất lượng có cần thay đổi như thế nào cho phù hợp với nhu cầu thị trường mới. Thanh lý hợp đồng cần được tiến hành ngày sau khi ký hợp đồng, tránh hiện tượng thất lạc hồ sơ, giấy tờ. Công tác lưu trữ, dự trữ của Công ty cần thực hiện tốt hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động kinh doanh. Đối với một đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu càng lớn thì quá trình hạch toán nghiệp vụ càng phải hoàn thiện và có tính khoa học. Công ty XNK Tổng hợp I là một đơn vị kinh doanh có quy mô tương đối lớn so với các doanh nghiệp trong nước, nhìn chung Công ty làm tốt công tác này, để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao thì cần phải hoàn thiện khâu này hơn nữa, tiến hành hạch toán kinh doanh từng phòng nghiệp vụ thông qua sự kiểm tra giám sát của các phòng quản lý. 5. Hoàn thiện khâu thanh toán. Việc thu tiền càng thuận lợi, càng nhanh càng tốt cho doanh nghiệp, nó giúp cho Công ty tăng nhanh tốc độ quay vòng vốn, tăng lợi nhuận cho Công ty. iii - một số kiến nghị - giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản ở Công ty xnk tổng hợp i Đối với Việt Nam trong những năm tới, xuất khẩu hàng nông sản là hoạt động cực kỳ quan trọng nhằm tạo nguồn vốn cho phát triển nền kinh tế đất nước, nó xứng đáng được đặt lên địa vị được ưu tiên trong chính sách và chiến lược kinh tế của Nhà nước ta. Nhằm đưa quy mô hoạt động xuất khẩu hàng nông sản lên ngang tầm với tiềm năng của đất nước, điều đó cần có sự nỗ lực lớn từ phía Nhà nước và các doanh nghiệp tham gia xuát khẩu hàng nông sản. Do đó, tác giả luận văn mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị - đó cũng là biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở Việt Nam. 1. Kiến nghị với Nhà nước 1.1. Đẩy mạnh sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản Sản xuất chính là khẩu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu, chất lượng hàng xuất khẩu. Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng nông sản thì bên cạnh việc tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, Việt Nam cần phẩi đầu tư mạnh cho phát triển sản xuất hàng nông sản theo chiều sâu, từng bước nâng cao chất lượng hàng nông sản. Các biện pháp tiến hành bao gồm: - Tạo nguồn vốn ban đầu cho nông dân: Đây là việc làm hết sức cần thiết vì để mở rộng được diện tích đất gieo trồng, thay đổi cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học quản lý vào sản xuất... đòi hỏi cần có những chi phí không phải là nhỏ, mà nhiều khi người nông dân không tự trang trải nổi. Thời gian qua, các chương trình trợ giúp vốn cho người dân đã được thực hiện song kết quả thu được còn hạn chế. Nguyên nhân của sự hạn chế này là do việc cho người nông dân vay vốn với lãi suất ưu đãi diễn ra dàn trải, thiếu tập trung. Điều đó dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ có thể vay một vài trăm ngìn đồng, không đủ cho đầu tư sản xuất. Các hội nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã chấp nhận đi vay lớn lãi suất tín dụng thông thường thì lại gặp khó khăn trong vấn đề tải sản thế chấp. Trong khi đó ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng tiền mặt. - Tạo điều kiện về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu: Mặt khác tại các ngân hàng còn diễn ra tình trạng ứ đọng vốn nhưng Công ty XNK nói chung khó đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn... nên rất khó tiếp cận được với nguồn vốn này. Thời gian tới Nhà nước cần phải đưa ra những biện pháp để khuyến khích ngân hàng cho các Công ty vay vốn để thu mua nông sản. Nhà nước nên bỏ quy định hạn chế mức tín dụng đối với ngân hàng thương mại nhằm khuyến khích xuất khẩu. Trong trường hợp giá nông sản trên thị trường thế giới có xu hướng thấp hay giá thu mua nông sản trong nước tăng gây thua lỗ cho các cơ sở chế biến, kinh doanh nông sản xuất khẩu thì Nhà ước nên xem xét bằng qũy bình ổn giá cả để giảm đi một phần lãi suất tín dụng. Về phía ngân hàng, Nhà nước cũng cần xem xét lại các quy định về tài sản thế chấp để nó giữ đúng vai trò là điều kiện đảm bảo an toàn vốn cho vay chứ không phải là vật căn cứ giữa ngân hàng và Công ty. 1.2. Có đường lối, chính sách đúng đắn về hệ thống nghân hàng Việt Nam Để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thì ngoài việc có chiến lược xuất nhập, có chính sách trợ giá....Thì nhà nước cần có một đường lối chính sách đúng đắn về ngân hàng sao cho các ngân hàng Việt Nam phát huy được vai trò " bà đỡ" cho nền kinh tế. Hiện nay đã có ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ngân hàng Thương Mại, ngân hàng Thương Mại cổ phần Xuất nhập khẩu Eximbank, song các ngân hàng này còn bị hạn chế về vốn, công nghệ , nghiệp vụ , chưa phục vụ đắc lực cho các doanh nghiệp xuất khẩu .Với mục đích hỗ trợ nguồn vốn cho xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng cho các ngân hàng, doanh nghiệp tham gia tài trợ cho xuất khẩu, hầu hết các nước trên thế giới đều có cơ quan tài trợ và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu dưới hình thức ngân hàng như ngân hàng xuất nhập khẩu Eximbank, ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc China Eximbank, ngân hàng xuất nhập khẩu của Nhật Bản, ngân hàng xuất nhập khẩu Hungari, ngân hàng xuất nhập khẩu Triều Tiên... hoặc dưới hình tổ chức bảo hiểm như Hermes của Đức, Coface của Pháp...Mặc dù cơ cấu tổ chức có khác nhau song các tổ chức trên đều có một phần vốn quan trọng do chính phủ cấp, phần còn lại do các tổ chức này huy động thêm. Các tổ chức này đều chung mục đích là thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá cho quốc gia trên cơ sở lý thuyết lợi thế so sánh và khai phá thêm thị trường mới. Từ những vấn đề bức xúc nêu trên, thiết nghĩ, nên chăng chúng ta cần có một ngân hàng mạnh về vốn, trình độ cao về công nghệ, giỏi về nghiệp vụ, một ngân hàng chuyên doanh lấy tên là ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam, 100% vốn của nhà nước như là một tổng công ty quốc doanh. Ngân hàng sẽ độc quyền kinh doanh đối với những mặt hàng xuất khẩu chiến lược theo chủ trương của chính phủ trong từng thời kỳ và cạnh tranh trong lĩnh vực khác. Có như vậy, chúng ta mới đi được trên đôi chân của mình, thực hiện được sự bảo hộ cho các ngân hàng nội địa, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. 1.3. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng đơn giảm, thông thoáng và phù hợp với cơ chế thị trường Những quy định về XNK và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu nông sản nói riêng và xuất khẩu hàng hoá dịch vụ nói chung ở nước ta, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu được đổi mới và hoàn thiện, cụ thể là: - Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ: Hệ thống các văn bản pháp lý, quy định phải đảm bảo được tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các Công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kem thổi ngược” khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các Công ty có sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và Công ty kinh doanh XNK. Trong thực tế còn vô số các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm không được hưởng cac ưu đã. Vì thế Nhà nước cần xem xét và có chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp này. - Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế, công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn một số bất cập với diễn biến của hoạt động xuất khẩu, nhiều khi còn không ít thiếu sót và nhược điểm cần khắc phục và giải quyết. Về lâu dài, các quy định về xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung, sửa đổi, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu phát triển thuận lợi. Hiện nay, ở Việt Nam , thủ tục xuất khẩu vẫn còn rườm rà, phức tạp, gây lãng phí thời gian, công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu nhiều khi tỏ ra quan liêu, cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Đối với các mặt hàng có hạn ngạch, Nhà nước nên áp dụng đấu thầu để tránh hiện tượng tiêu cực, đem lại sự công bằng cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Trước mắt, khi chưa đưa được hình thức này vào áp dụng, cơ quan quản lý Nhà nước mà trực tiếp là Bộ thương mại phải lựa chọn ra các Công ty đáng tin cậy để giao hạn ngạch. Các Công ty phải có đủ điều kiện về vốn, mạng lưới thu mua, kho tàng để mua hết hàng hoá đặc biệt là nông sản cho người sản xuất. Mặt khác, Bộ thương mại cũng cần phải giám sát chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây thiệt hại cho Công ty cũng như Nhà nước. - Thiết lập chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho người xuất khẩu:Đây là chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác, tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch qua lớn so với giá thực tế trên thị trường. Mục đích phá giá đồng bản tệ là để tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của đất nước và cải thiện cán cân đối ngoại . Về mặt lý thuyết, việc phá giá tiền tệ làm giảm nhập khẩu và xác lập một tỷ giá thuận lợi hơn cho tăng cường xuất khẩu. khó khăn chủ yếu ở đây là phải xác định một tỷ giá vừa đủ, nhưng cũng vừa ngắn để thu được một hiệu ứng có lợi cho ngoại thương và bảo toàn được đội ngũ bạn hàng. Thành công của biện pháp này đòi hỏi một loạt các chính sách đi kèm nhằm tạo điều kiện dể chuyển những nhân tố tăng trưởng bên trong và bên ngoài và giữ cho nền kinh tế không " suy sụp" trong điều kiện lạm phát. Từ quan điểm này, việc trọn thời điểm để phá giá tiền tệ là hết sức quan trọng. Thực tiễn cho thấy tác động của tỷ giá hối đoái tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước sau 1 tháng kể từ đợt điều chỉnh tỷ giá ngày 7/8/2001, NHNN Quyết định thu hẹp biên độ giao dịch ngoại tệ xuống ± 7%. Đồng thời năng tỷ giá chính thức 11.800VND/USD lên 12.998VND/USD cho thấy xuất khẩu của một số mặt hàng đã tăng so với tháng 7/2000 như: Gạo tăng 75%, Cà phê tăng 49%, Chè tăng 20%... Ngoài ra, điều chỉnh tỷ giá còn giảm lỗ cho những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ, và một số mặt hàng đang bị lỗ chuyển thành có lãi. Thực tiễn trên một lần nữa khẳng định cần có một chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý linh hoạt không nên cứng nhắc, luôn phải có sự điều chỉnh để đạt mức tỷ giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong nước. 1.4. Mở rộng các quan hệ thương mại quốc tế - Cùng việc mở rộng các quan hệ song phương, tham gia ký kết các hiệp định thương mại, Nhà nước ta cần phải tham gia vào các mối quan hệ đa chiều của khu vực và trên thế giới theo phương thức đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ thương mại. Trước mắt Việt Nam còn phải tích cực phấn đấu để trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), cố gắng đàm phán thành công hiệp định thương mại với Mỹ.. . Một số kiến nghị khác -Theo dõi sát việc thi hành thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp để kịp thời có các biện pháp xử lý những phát sinh vướng mắc nhằm phát huy đầy đủ tính tích cực của chế độ thuế này đối với doanh nghiệp xuất khẩu - Đẩy nhanh việc hình thành quỹ hỗ trợ xuất khẩu để cấp tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động xuất khẩu - Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường nông sản trên thế giới cho các Công ty hoạt động trên lĩnh vự này. Có thể nói thị trường nông sản thế giới là một thị trường biến động khá phức tạp. Nhưng ở Việt Nam thông tin này còn thiếu và chậm, độ chính xác lại chưa cao. Cho nên thời gian tới Nhà nước cũng như các Bộ có liên quan đắc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường thế giới. Đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để các danh nghiệp có cơ hội thăm dò tìm kiếm thị trường. - Có sự đầu tư thích đáng vào nâng cấp cơ sở hạ tầng nhất là khu vực cơ sở hạ tầng ở khu vực nông thôn và vùng miền núi. 2. Giải pháp đối với Công ty 2.1. Tổ chức nghiên cứu thị trường xác định mạng lưới thông tin Theo KEMCHIONMAE - một chuyên gia kinh tế xuất sắc của Nhật bản thì “ Bí quyết đảm bảo sức mạnh kinh doanh của một Công ty trước hết là thông tin”. Thông tin chính xác, đầy đủ về thị trường, về đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp đó chính là tiền đề cho sự phát triển, cho khả năng chi phối thị trường và thành công. Thật vậy, đối với một Công ty kinh doanh trên thị trường, đặc biệt là thị trường thế giới, nơi có nhiều cơ hội làm ăn và đồng thời có nhiều rủi ro thì thông tin đóng một vai trò quan trọng, là chìa khoá, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chiến thuật kinh doanh, là nguồn gốc của thắng lợi và do đó là quyền lực quyết định sự tồn tại của Công ty trên thương trường. Thông tin cần có về một thị trường hàng hóa trên thế giới rất đa dạng và phức tạp. Muốn có được thông tin, nhà kinh doanh phải coi việc nghiên cứu thị trường là một công việc hàng đầu và tất yếu trong hoạt động kinh doanh của mình. Việc nghiên cứu đó phải được tiến hành nhằm thu thập thông tin về tất cả các khâu trong quá trình tái sản xuất của một ngành hàng hoá (sản xuất - phân phối - tiêu dùng). Tìm thị trường là khó khăn nhưng sẽ trở nên dễ dàng nếu Công ty có được những thông tin chính xác về tình hình thị thường hàng hoá thế giới. Đối với Công ty XNK Tổng hợp I, thời gian qua việc thu lượm và xử lý thông tin còn chậm, chưa đầy đủ, bỏ lỡ nhiều cơ hội làm ăn. Chính vì vậy, Công ty cần phải tăng cường hơn nữa công tác thị trường như: Thu thập thông tin, quảng cáo, tuyên truyền thế mạnh của mình thông qua báo chí, phim ảnh... cải tiến hình thức quảng cáo marketing sản phẩm của mình để phù hợp với người tiêu dùng từng nước. Đồng thời, Công ty cần tham gia các hội thảo, hội chợ triển lãm tổ chức trong và ngoài nước, đây là một cơ hội rất tốt cho Công ty trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu, chào hàng, tìm đối tác kinh doanh, ký kết các hợp đồng kinh tế, mặt khác cũng là một môi trường tốt để Công ty học hỏi và nâng cao nghiệp vụ kinh doanh và nghệ thuật thương mại. Nước ta có một lực lượng Việt Kiều rất lớn. Đây là thị trường tiêu thụ lớn, đồng thời giúp Công ty khuyếch trương sản phẩm của mình. Công ty cần phải tận dụng nguồn lực này. Trong thời gian tới, ngoài việc thực hiện dịch vụ kiều hối nên có những biện pháp hơn nữa đẩy mạnh khai thác nguồn tiềm năng này cùng với Việt Kiều mở các văn phòng đại diện nhằm thu hút, tập hợp thông tin về thị trường trong nước sở tại và giới thiệu hàng nông sản của Công ty. Thời gian gần đây nước ta đón rất nhiều tổ chức kinh tế nước ngoài, các thương nhân đến thăm và tìm kiếm cơ hội làm ăn ở Việt Nam , Công ty cần tranh thủ thu thập thông tin, tiếp xúc với doanh nhân để chọn cho mình hướng kinh doanh thích hợp. Thực tiễn cho thấy các năm qua, qua các cuộc viếng thăm Công ty đã ký kết được hợp đồng mua bán, nghiên cứu nhu cầu khách hàng nước ngoài để có kế hoạch kinh doanh thích hợp. Chính vì vậy công ty nên tổ chức phòng marketing với chức năng: - Điều tra thăm dò nhu cầu của thị trường nước ngoài. - Chỉ ra các nhu cầu trên thị trường, các đoạn thị trường một cách chính xác khả thi. - Hoạch định các biện pháp chính sách như: chính sách sản phẩm, chính sách thị trường, chính sách giá cả...để thâm nhập và khai thác thị trường thành công. - Thu hồi thông tin phản hồi từ các đối tác... Tổ chức phòng marketing của công ty XNK tổng hợp I có thể tổ chức như sau: Sơ đồ số 8: Cơ cấu tổ chức phòng marketing Phòng marketing Bộ phận marketing XK Nguồn thu mua trong nước Thị trường nước ngoài Bộ phận marketingNK Thị trường nước ngoài Nhu cầu trong nước Với cơ cấu tổ chức phòng marketingnhư trên. ở đây xin đưa ra một kế hoạch chiến lược hoạt động của bộ phận marketing xuất khẩu của công ty theo sơ đồ sau: Thị trường XK Lựa chọn kế hoạch xuất khẩu Đánh giá cơ hội thị trường --------------- 1- Đánh giá hị trường tiềm năng 2-Ước tính lượng bán tiềm năng 3-Phân đoạn thị trường Xác định chiến lược XK ----------------- 1- Dụ kiến khối lượng bán ra 2- Nguần lực của công ty 3- Đối thủ cạnh tranh Chiến lược Marketing xuất khẩu Thông tin phản hồi Xây dựng các kế hoạch chiến lược marketing ------------------- 1- Đề mục tiêu XK 2- Kế hoạch hoá Marketing Mix: Sản phẩm, giá cả,phân phối, khuếch trương Ngoài ra Công ty XNK Tổng hợp I cần đặt các đại diện, cử cán bộ có chuyên môn sang các thị trường mới để thu thập thông tin nhằm mở rộng thị trường, tăng kim ngạch xuất khẩu. Tóm lại, công tác tìm kiếm thông tin tiếp cận thị trường là cực kỳ quan trọng và không thể bỏ qua. Nền kinh tế vĩ mô với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế không cho phép doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới mà không trang bị đầy đủ thông tin và nghệ thuật, kỹ thuật thương mại, chắc chắn sẽ bị bóp nghẹt và bị rủi ro là điều khó có thể không xảy ra. 2.2 Tổ chức tốt mạng lưới thu mua nông sản Khác với những sản phẩm công nghiệp, Việt Nam sản xuất nông sản diễn ra trên diện tích rộng, công tác thu mua lại diễn ra trong khoảng thời gian ngắn với khối lượng lớn. Vì vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải có mạng lưới thu mua nông sản rộng khắp. Mặc dù hiện nay nguồn cung cấp nông sản là tương đối dồi dào, nhưng để tránh những biến động về nguồn hàng do diện tích gieo trồng bị thu hẹp, có nhiều doanh nghiệp được phép kinh doanh nông sản, hạn ngạch xuất khẩu nông sản gia tăng... Công ty cần kết hợp chặt chẽ với người sản xuất. Trong trường hợp dự báo khả năng xuất khẩu nông sản sẽ có nhiều thuận lợi, giá nông sản trên thị trường quốc tế sẽ tăng thì ngoài việc kết hợp thu mua nông sản trước cho người sản xuất, các doanh nghiệp nên cố gắng cấp vốn cho người lao động mở rộng diện tích gieo trồng, đầu tư sâu để nâng cao sản xuất, chất lượng sản phẩm. Trong khâu thu mua, Công ty cần phải thực hiện giám định chất lượng sản phẩm nghiêm túc. Vì đây là yếu tố quyết định đến chất lượng nông sản xuất khẩu của doanh nghiệp. Kế thúc khâu thu mua, Công ty phải đặc biệt chú trọng đến bảo quản hàng hoá, cấn phải chú ý nông sản là mặt hàng dễ bị mốc, mọt. Nhiều Công ty mặc dù sản phẩm đầu vào sản phẩm cấp tốt nhưng do bảo quản yếu nên chất lượng sản phẩm bị xuống cấp nghiêm trọng, không đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu. Các hoạt động chế biến, đóng gói sản phẩm... cũng phải được tiến hành hẩn trương để chuẩn bị sẵn sàng cho xuất khẩu. 2.3. Huy động các nguồn vốn để phát triển sản xuất kinh doanh hàng nông sản Vốn luôn luôn là vấn đề cực kỳ khó khăn đối với các Công ty chế biến, xuất khẩu nông sản hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, Công ty phải chủ động tạo vốn kinh doanh từ nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Việc huy động nguồn vốn trong nước có thể thực hiện qua một số nguồn thu sau: - Huy động từ các ngân hàng thông qua hình thức vay. Mặc dù có nhiều khó khăn để tiếp cận nguồn vốn này nhưng Công ty vẫn phải coi đây là nguồn vốn quan trọng nhất để khai thác. Hiện nay, ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay nên rất thuận lợi cho các Công ty vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng để thu mua nông sản, chế biến, xuất khẩu. - Huy động vốn từ cán bộ, nhân viên Công ty. Hiện nay lượng vốn nhàn rỗi trong lực lượng lao động này còn khá lớn. Tận dụng nguồn vốn này mặc dù Công ty có thể trả lãi suất cao hơn một chút nhưng lại thu được lợi về nhiều mặt. + Thời hạn thanh toán nợ cho cán bộ nhân viên không bị khắt khe như ở các ngân hàng, Công ty có thể chủ động hơn trong việc sử dụng vốn, không phải chịu sức ép mạnh mẽ từ phía ngân hàng khi đến thời hạn thanh toán. + Khi cán bộ nhân viên bỏ vốn ra cho Công ty vay thì tự họ sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình đối với hoạt động của Công ty. - Công ty phải tự huy động vốn từ chính lợi nhuận tích luỹ được. Đây là nguồn cơ bản lâu dài để mở rộng phạm vi kinh doanh của Công ty. Ngoài việc huy động vốn từ các nguồn hàng trong nước thì vay vốn nước ngoài cuãng là giải pháp quan trọng và có hiệu quả mà Công ty cần lưu ý. Nguồn vốn nước ngoài có ưu điểm là rất lớn nhưng huy động lại khó vì các chủ nợ nước ngoài thường đòi hỏi các Công ty phải có những bảo đảm đáng tin cậy như tài sản thế chấp, tình hình sản xuất, xuất khẩu của Công ty. Việc huy động nguồn vốn nước ngoài thông qua hình thức sau: - Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của Công ty, đặc biệt là khách hàng có khối lượng mua lớn, các bạn hàng quen thuộc có mối quan hệ lâu dài. Tuy nhiên để vay vốn từ các khách hàng này, điều quan trọng là Công ty phải thường xuyên bảo đảm được các hợp đồng đã ký kết về khối lượng và chất lượng hàng hoá theo đúng yêu cầu. - Tận dụng nguồn vốn của bạn hàng thông qua thanh toán trả chậm khi nhập hàng hoặc xin ứng vốn trước khi xuất hàng. Đây là hình thức huy động vốn nước ngoài có tính khả thi cao mà không phải mất khoản tiền lãi vốn vay. Song đòi hỏi Công ty phải có uy tín cao, nguồn hàng ổn định và kém chất lượng cao. Tăng cường công tác đầu tư, liên doanh liên kết với các đối tác. Trong tình trạng vừa thiếu máy móc thiết bị công nghệ thì đây là giải pháp hữu hiệu, giúp Công ty mở rộng chế biến xuất khẩu hàng nông sản. Việc hợp tác kinh doanh không chỉ chú ý đến đối tác trong nước hay nước ngoài, Công ty đều phải tỉnh táo lựa chọn đối tác đáng tin cậy để vừa giải quyết được khó khăn vừa bảo vệ được lợi ích của doanh nghiệp. 2.4. Có chính sách sản phẩm thích hợp Trong nền kinh tế thị trường, công ty chỉ có thể tạo và giữ uy tín của mình bằng chính sản phẩm và dịch vụ bán hàng của mình. Bởi thế có chính sách sản phẩm đúng đắn sẽ giúp được Công ty có thể dạnh tranh trên thị trường thế giới. Thời gian qua, chất lượng nông sản xuất khẩu của Việt Nam còn chưa cao, ngoài nguyên nhân từ phía các nhà sản xuất còn một nguyên nhân nữa là do các nhà chế biến, các nhà xuất khẩu chưa thực sự chế biến và bảo quản tốt. Trong xu hướng tiêu dùng hàng nông sản trên thế giới hiện nay là chuyển từ hàng rẻ, phẩm cấp thấp sang hàng có chất lượng cao thì đây là một hạn chế lớn cần khắc phục. Về phía Công ty cần thực hiện những công việc sau: - Cần phải coi chất lượng sản phẩm là mục tiêu hàng đầu của chiến lược về sản phẩm. Thật vậy, theo GS -TS. Võ Tòng Xuân phát biểu về xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam : “Chất lượng và giá cả đó là hai vấn đề sống còn”. Để có được sản phẩm chất lượng cao đáp ứng xuất khẩu, Công ty không chỉ nâng cao hiệu quả của công tác giám định mà còn phải tiến xa hơn nữa cung cấp những giống cây nông sản cao cấp phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới cho người sản xuất, hỗ trợ cho họ về các dịch vụ kém theo nhằm đảm bảo nguồn hàng thu mua có chất lượng. - Đẩy mạnh đầu tư vào khâu chế biến nông sản, khoảng chênh lệch giữa giá hàng nông sản sơ chế và hàng nông sản đã quá chế biến tinh ngày càng gia tăng. Vì thế sẽ là thiệt thòi cho Công ty nếu cứ xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản sơ chế như hiện nay. 2.5. Nâng cao trình độ chuyên môn cho CBCNV Nâng cao trình độ chuyên môn là một trong những nguồn lực cơ bản của quốc gia. Nhật Bản những năm 50 nghèo nàn về mọi mặt, thiếu vốn, kỹ thuật, công nghệ..... nhưng đã đi lên bằng chính trí tuệ con người Nhật Bản. Với Việt Nam và cụ thể là đối với Công ty, một trong những nhiệm vụ hàng đầu là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm trong ký kết hợp đồng mua bán. Kinh doanh trong môi trường quốc tế đầy biến động, thông tin thay đổi từng giờ, đòi hỏi cán bộ kinh doanh phải năng động, sáng tạo, thường xuyên được bồi dưỡng về trình độ để có thể dự báo được những biến động của thị trường, nắm bắt nhanh những thông tin về tình hình thế giới và đưa ra những ứng xử linh hoạt trước những biến động đó. Để làm được điều này Công ty cần có những biện pháp sau: - Thường xuyên gửi cán bộ, các nhà doanh nghiệp tre có năng lực đi học tập nghiên cứu ở các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh trong và ngoài nước. - Đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ mới vào nghề, giúp hộ nâng cao được trình độ nghiệp vụ xuất khẩu. Định kỳ gửi cán bộ đi đào tạo lại. - Đào tạo đội ngũ kỹ thuật viên để có đủ năng lực kiểm tra, giám định hàng hoá, đảm bảo chất lượng hàng hoá theo đúng yêu cầu, tiêu chuẩn quốc tế. Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, nhân viên đòi hỏi các doanh nghiệp phải bỏ chi phí song hiệu quả mà nó mang lại là rất lớn, quyết định đến sự thành bại trong kinh doanh của Công ty. kết luận Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Thông qua đó các quốc gia có được nguồn ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế, xã hội đất nước, hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Với tầm quan trọng như vậy, xuất khẩu được đặt vào vị trí trung tâm, làm đòn bẩy chủ lực cho phát triển kinh tế xã hội. Đẩy mạnh xuất khẩu trở thành nhiệm vụ chiến lược quốc gia trong suốt thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi sự cố gắng của Đảng, Nhà nước, tất cả các Bộ, ngành và đặc biệt là sự thực hiện của tất cả các Công ty tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Với yêu cầu đặt ra, Công ty XNK Tổng hợp I đã luôn tìm cho mình hướng đi đúng đắn đẩy mạnh xuất khẩu phục vụ các chương tình kinh tế của Đảng và nhà nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Trên đây, luận văn đã trình bầy vai trò, nội dung và thực tiễn về hoạt động kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu ở Công ty XNK Tổng hợp I. Tác giả luận văn hy vọng sau thời gian thực tập tại Công ty tác giả sẽ tích luỹ được kinh nghiệm, kỹ năng cơ bản tạo điều kiện phát huy được những kiến thức đã tích luỹ ở trường. Phụ lục Phụ lục số 1 Dự báo giá thế giới Nguồn: Commodity Price Outlook tháng 11/2001 Ngân hàng thế giới 1. Gạo Giá có thể tiếp tục thấp (USD/tấn) 2. Cao su Giá tiếp tục thấp (USD/kg) 3. Cà phê Vụ cà phê Braxin bội thu làm giản giá (USD/kg) 4. Ca cao Giá hiện hành USD/kg 5. Chè Giá hiện hành USD/KG Phụ lục số 2 Contract No.01/gene - creo/99/ecc Between: the vietnam national general export - import corporation ( generallexim) Address: 46 Ngo Quyen street, Ha Noi, Viet Nam Telephone: 84 - 48265192 Fax: 84 - 4 - 859894 Represented by: Mrs Nguyen Thi Phuong, Director Hereinafter called the Seller. an: creo trade inc Address: Hikosen Blgd, 19 - 3, Kichijoji - Honcho3 - Chome, Musashino - shi, Toky, 180 Japan Telephone: 0422 - 21 - 4401 Fax: 0422 - 21 - 4424 Represented by: Mr. Yoshihiro Kikui, Director Hereinafter called the buyer, Both the Seler and the buyer agreed to sigh this contract under the following terms and conditions: 1. Commodity: Eri cut cocoon: Uniformed ivory white color Cocoon shall have the lengthin minimum 3cm 2. Price and term of shipment: CIF Bangkok port ( Incoterms 1993). Unit price: USD 8.00/kg Total: 6.240,00USD 3. Shipment 3.1. Shipment port: Hai phong port 3.2. Partial Shipment: Not Allowed 3.3 Transhipment: Allowed 3.4 Total quantity: 780 KGS ( 26 jute bags of a bout 30 kg net) 3.5 Time of Shipment: Before 30.1.2002 4. Payment The Buyer Shall remitte 6.2400,0 USD to the Bank for Foreign trade of Vietnam(Vietcombank). The payment shall be made upon presentation of the followwing dicements: 4.1. 3/3 Set of clean shipped on board bill of loding marked freight prepaid. 4.2. Commercial invoice in 03 originals 4.3. The certificate of origin to be issued by Vietnam Chamber of Commerce and Industry. 4.4 Packing list in 03 originals 4.5 The Seller’s certificate of quality and quantity. 4.6 The Insurance Polycy to cover 110% contrant value with claim payable in Japan Note: The Seller’s Certficate of quality at loading port shall be the fina. 5. arbitration: Contracting parties hereto undertake to fulfill this contract in good faith any dispute or cintrversy atisingshall be amicable negotiations. Should these fail, the parties shall subumit to the Vietnam Arbitration committee in Hano, Vietnam Chamber of Commerse and Industry whose awards shall be final and both parties. 6. Otheer conditions: a. All expence including bank. taxes, custom duties and collections in the territory of the Seller’s country relating to this contract shall be borne by the buyer. b. Any amendments or supplement to this contract shall be valid provide to be in writing and signed by the and authorized persions. c. The Selle shall establish daily operational contract with the reprseentative oflice of CREO TRADE INC. Hanoi,Jan.19,2002 The buyer The seller Tài liệu tham khảo 1/ Báo cáo “Sự phát triển của Công ty XNK tổng hợp I qua 17 năm thành lập” 2/ Báo cáo tổng kết tình hình kinh doanh năm 2001 và phương hướng nhiệm vụ 2002 của Công ty Generalexim 3/ Thương mại Việt Nam - Dự báo phát triển đến năm 2010 (Viện nghiên cứu thương mại 6/1999) 4/ Giáo trình “Kinh tế học quốc tế” - chủ biên PGS - PTS Tô Xuân Dân - Nhà xuất bản Giáo dục - 1998. 5/ Kinh tế 2001 - 2002 Việt Nam và Thế giới 6/ Thời báo kinh tế - Bài: Khuyến khích DN xuất khẩu- TgNguyễn Đức Hoàn- Số 19 - 6/3/2002 - Bài: Thách thức xuất khẩu 2002- Tg Lê Đăng- Số 8-27/1/2002-06-23 -Bài: Cà phê cùng cao su chung sống- Tg Hưng Văn- Số34- 28/4/2002 7/ Việt Nam chính sách Thương Mại và đầu tư (Chủ biên: Viện sĩ Võ Đại Lược - Viện nghiên cứu kinh tế thế giới - 2000). - Bài: Chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam- Tg Đỗ Đức Định- Tr 213 - Bài: C/S Thương Mại của Việt Nam: Sự tiến triển, những vấn đề và triển vọng- Tg Lê Bộ Lĩnh- Tr 21 8/ Tạp chí Tài chính -Bài: Cần “bà đỡ ” cho các DN xuất khẩu- Tg PTS. Hoàng Hồng Hạnh (Tr 34 số 5/2002) -Bài:Chính sách điều chỉnh tỷ giá thúc đẩy xuất khẩu- Tg PTS. Nguyễn Đình Tài ( Tr 37 số 1/2002) 10/ Các tài liệu khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0499.doc
Tài liệu liên quan