Trong quá trình chuyển từ cơ chế quản lý theo kế hoạch, được bao cấp theo phạm vi toàn ngành, sang cơ chế hạch toán, tự trang trải, công ty In hàng không đã gặp không ít khó khăn và thách thức. Sự chuyển đổi chậm chạp của quan niệmm, thói quen quản lý theo cơ chế cũ, sự thiếu linh hoạt của bộ máy quản lý, sự hụt hẫng về trình độ của công nhân khi tiếp cận những thiết bị, kỹ thuật hiện đại. là những cản trở lớn đối với việc ổn định sản xuất để đứng vững và tăng cường sức cạnh tranh của công ty In hàng không. Vượt qua những cản trở này, để đạt được thành tích như mấy năm gần đây là sự vật lộn, trăn trở của tập thể cán bộ quản lý, lãnh đạo và CBCNV toàn công ty.Trong những thách thức mà công ty In vượt qua đó là việc bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm để củng cố uy tín, phát triển sản xuất, mở rộng thị trường. Vấn đề chất lượng sản phẩm đã nhanh chóng được lãnh đạo công ty cũng như tập thể CBCNVC nhận thức xem như mục tiêu quan trọng nhất phải đặt ở từng ca sản xuất, đối với mọi hàng hoá, dịch vụ mà công ty cung ứng. Những thành công mà công ty đạt được mấy năm gần đây là không thể phủ nhận. Nhưng để tiếp tục phát triển sức cạnh tranh, đặc biệt khi thị trường In ấn đã có những tiến bộ rất lớn về kỹ thuật, công nghệ và đặt ra những đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng dịch vụ, công ty còn phải nỗ lực nhiều hơn. Với những kinh nghiệm đã tích luỹ được ở nhiều năm qua, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý có trình độ và đội ngũ CNSX có tay nghề cao, chắc chắn những kế hoạch mà công ty vạch ra cho những năm tới, sẽ được thực hiện thành công.
42 trang |
Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 668 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm tại công ty in hàng không, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rang bị 5 máy in màu nhiều trang, tờ rời, một bộ hoàn chỉnh phục vụ chế bản in của Công hoà liên bang Đức. Để tăng công suất làm việc của công đoạn tạo màu, công ty trang bị một dàn máy vi tính hiện đại, phục vụ cho cả hai dây chuyền. Năm nay công ty đang xúc tiến việc mua một máy in 7 màu của Mỹ, để nhằm thực hiện tăng thêm 20% khối lượng in ấn hàng năm.
Tổng số cán bộ nhân viên toàn công ty, đến năm 1999 là 134. Số CNV trực tiếp sản xuất là 115, chiếm 81,5%. Đến nay hầu như 100% công nhân được đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành in, 57,4% công nhân sản xuất có tuổi đời dưới 35; 36,8% công nhân ở độ tuổi từ 35 - 45; 5,6% có tuổi từ 45 - 50. So với nhiều đơn vị khác của ngành in, công nhân của công ty in hàng không khá trẻ, một bộ phận lớn vừa tuyển vào trong mấy năm gần đây và được đào tạo cơ bản, có ý thức nghề nghiệp và thích ứng với yêu cầu của công nghiệp hiện đại. Toàn công ty có 13 cán bộ có trình độ từ đại học trở lên (1 Thạc sĩ kinh tế); 18 người có trình độ trung cấp, chiếm 12,7% và 68 người là công nhân kỹ thuật chiếm 48,2%. Bên cạnh những thuận lợi về tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý đã nêu ra ở trên, hiện tại công ty cũng có những khó khăn, thách thức khá lớn. Đó là:
- Thứ nhất, sự cạnh tranh của thị trường in mỗi ngày một quyết liệt. Hàng năm công ty chỉ nhận được đơn đặt hàng của Tổng công ty hàng không dân dụng từ 45 - 50% khối lượng trang in, một nửa công suất thiết bị và nhân lực của công ty tuỳ thuộc vào khả năng khai thác từ thị trường ngoài ngành. Ngoài một số bạn hàng khá ổn định như Viện Thú ý trung ương, công ty bóng đèn phích nước Rạng đông, hãng hàng không quốc gia Lào... Công ty phải cạnh tranh để mở rộng đối tượng phục vụ, nhận in gia công trên bao bì, cung ứng giấy vệ sinh, giấy ăn thơm... cho một số đơn vị khác. Hình thức tổ chức in của tư nhân với thiết bị hiện đại dịch vụ linh hoạt, bộ máy gọn nhẹ, có thể trốn thuế đang là đối thủ cạnh tranh rất mạnh với công ty in hàng không nói riêng và các cơ sở in quốc doanh nói chung.
- Thứ hai, sự cạnh tranh đầu tư đổi mới kỹ thuật hiện đại của ngành in. Chất lượng sản phẩm in phụ thuộc rất căn bản vào chất lượng hoạt động của máy móc thiết bị. Gần 1/2 thế kỷ qua kỹ thuật và công nghệ in đã phát triển rất nhanh, tạo sức cạnh tranh cho nhiều cơ sở có vốn lớn. Tuy vậy, giá thành máy in hiện đại vẫn rất cao, vượt quá khả năng của những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu công ty vay vốn để đổi mới thiết bị, thường phải trả lãi rất lớn đội giá thành khó giữ được thị phần, kể cả những đơn đặt hàng của ngành hàng không dân dụng Việt Nam. Nếu chờ tích luỹ từ nội bộ, thường khó thực hiện, hoặc không thể mua sắm được những thiết bị hiện đại. Bài toán về tạo nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động, đang là một thách thức đối với những người quản lý công ty.
- Thứ ba, trình độ đội ngũ cán bộ CNV của công ty mặc dù đã có sự tăng trưởng khá nhanh về lượng và chất, nhưng về cơ bản vẫn cần có sự đầu tư lớn hơn và qui hoạch phát triển cao hơn. Thiết bị kỹ thuật hiện đại chỉ là một điều kiện cần, nhưng nhân tố có tính quyết định để sử dụng thiết bị, kỹ thuật đó là con người. Đội ngũ lao động lành nghề, trình độ quản lý cao, ý thức trách nhiệm của công nhân, lao động về chất lượng sản phẩm được tạo ra, là lợi thế mạnh mẽ của cạnh tranh. Những yêu câu như vậy đối với công ty in hiện nay là một thách thức lớn.
2. Chất lượng sản phẩm in và những nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty In hàng không những năm gần đây.
Như phần lý thuyết đã nêu, in là một hoạt động sản xuất, dịch vụ chuyên ngành. Sản phẩm của công ty in vừa có tính sản xuất vật chất, vừa là một dịch vụ văn hoá. Do đó yêu cầu đối với một sản phẩm in rất đa dạng và khắt khe. Có những sản phẩm in thoả mãn những yêu cầu của nhóm người này nhưng lại không phù hợp với yêu cầu của nhóm người khác. Có những người tiêu dùng ưa thích hình dáng bên ngoài phải nổi, phải hoa mỹ. Có những người tiêu dùng lại chuộng phần trình bày và trang trí bên trong, người ưa thích màu này, người lại ưa màu khác... Chất lượng sản phẩm in được người tiêu dùng quan niệm rất khác nhau, với những yêu cầu cao, và đặc biệt chất lượng sản phẩm in phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Để có được một sản phẩm in tới tay người tiêu dùng phải trải qua những giai đoạn, những quá trình. Thực hiện chính xác mỗi khâu, mỗi quá trình trong công đoạn sản xuất là sự đảm bảo cho tính hoàn thiện của sản phẩm in.
Chất lượng sản phẩm in chịu sự tác động của nhiều yếu tố, nhưng trong đề án này với khối lượng dữ liệu về công ty In hàng không hiện có, chúng tôi phân tích những nỗ lực của công ty trên các phương diện sau:
+ Công nghệ kỹ thuật in: biểu hiện qua việc đầu tư vốn sản xuất mua sắm trang bị các thiết bị kỹ thuật công nghệ in hiện đại của khu vực và thế giới của công ty qua một một số năm.
+ Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty thông qua chỉ tiêu về lực lượng lao động ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, tay nghề người lao động không ngừng được nâng cao đáp ứng sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngành công nghiệp in và đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.
+ Các chính sách đối với người lao động của công ty qua các chỉ tiêu: chế độ ưu đãi với cán bộ CNV, các chính sách đòn bẩy kinh tế khuyến khích người lao động (tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp...)
+ Một số dịch vụ triển khai để nâng cao hơn chất lượng sản phẩm in như dịch vụ cung ứng nguồn nguyên liệu đầu vào, dịch vụ cung cấp điện, nước, phù trợ khác cho qúa trình sản xuất...
Đương nhiên, còn rất nhiều yếu tố khác nữa hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới chất lượng sản phẩm, nhưng với giới hạn vạch ra của chuyên đề thực tập ở trên, bài viết chỉ tập trung phân tích 4 yếu tố cơ bản nhất liên quan tới chất lượng sản phẩm, thông qua đó cho phép đánh giá tương đối toàn diện những nỗ lực mà công ty In hàng không đã cố gắng, và đạt được những thành công đáng kể trong mấy năm gần đây.
2.1. Các yếu tố về công nghệ kỹ thuật.
Với ngành công nghệ in nói chung và với công ty In hàng không nói riêng công nghệ in là một yếu tố quan trọng quyết định chất lượng sản phẩm in cũng như quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty trên thị trường. Công nghệ in được chú trọng đầu tư và thường xuyên đổi mới giúp cho chất lượng sản phẩm in ngày càng nâng cao và tăng cường sức cạnh tranh của công ty. Có thể phân tích điều này qua các giai đoạn phát triển của công ty.
Tiền thân của công ty In hàng không là xưởng In hàng không dân dụng, mà trước đó là một cơ sở In Typo của bình đoàn 678 - Bộ quốc phòng. Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của xưởng In hàng không là in ấn các tài liệu, mẫu biểu, chứng từ, vé, một số nhãn mác của ngành. Khi mới thành lập xưởng có 34 CBCNV, với thiết bị chính được trang bị gồm 3 máy In Typo loại 4 trang, 6 trang và 8 trang, của Trung quốc; một số máy chữ, hệ thống tạo màu, chế bản nửa cơ khí. Những thiết bị, máy móc của xưởng đã qua sử dụng nhiều năm, công suất rất thấp. So với công nghệ in của của thế giới thì công nghệ của xưởng in hàng không đã bị bỏ qua gần trăm năm, mà so với các cơ sở in trong nước thì công nghệ đó cũng vào loại cũ kỹ và lạc hậu. Chính vì vậy chất lượng các sản phẩm in của xưởng không cao, không đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi. Mặc dù là một xưởng phục vụ công tác in ấn của ngành, nhưng rất nhiều tài liệu, mẫu biểu, đặc biệt vé máy bay, ngành vẫn phải thuê ngoài. Nhất là giai đoạn từ 85 - 90, cơ chế bao cấp làm cho xưởng không phải tính toán lỗ lãi, hoạt động hoàn toàn theo kế hoạch của tổng cục. Thiết bị không được đầu tư và do đó chất lượng không hề thayđổi. Các sản phẩm in của xưởng không có tính cạnh tranh, không có một đơn đặt hàng nào ngoài ngành. Kết quả là trong giai đoạn đó không tạo ra một sự thay đổi lớn về sản xuất kinh doanh, không thúc đẩy sản xuất kinh doanh của xưởng.
Đến năm 1990, tổ chức lại hoạt động của ngành hàng không dân dụng theo hướng hiện đại hoá, xưởng in hàng không được chuyển thành xí nghiệp in hàng không. Cùng với sự thay đổi đó, tổng cục hàng không đã thấy được tầm quan trọng của công nghệ kỹ thuật đối với việc in ấn phục vụ ngành. Ngành hàng không đã trang bị một máy ofset, in màu nhiều trong cho xí nghiệp In hàng không, số vốn là 300 triệu. Sự đầu tư trang bị này đã làm thay đổi cơ bản chất lượng sản phẩm in và do đó làm thay đổi hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Xí nghiệp đã đảm nhận phần lớn công việc in ấn phục vụ sản xuất kinh doanh của ngành hàng không dân dụng, kể cả một số dịch vụ trước đây phải thuê ngoài. Chất lượng sản phẩm in đã được nâng cao, đã bắt đầu có tính cạnh tranh với các sản phẩm in cùng loại trên thị trường nội địa. Tuy nhiên,do công nghệ được đầu tư chỉ ở mức trung bình so với công nghiệp in trong nước, vẫn kém xa và thuộc loại lạc hậu so với sự phát triển của thế giới và khu vực, lại chịu sự ảnh hưởng của cơ chế bao cấp cũ, nên một số sản phẩm in của ngành đòi hỏi yêu cầu chất lượng cao vẫn phải thuê ngoài, xí nghiệp in chưa vượt ra được thị trường, chưa đứng vững bằng sức mạnh của mình.
Khi toàn bộ ngành hàng không dân dụng đã chuyển hẳn sang mô hình tổ chức tổng công ty và thực hiện hạch toán, tự trang trải và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh doanh của mình, xí nghiệp in hàng không cũng phải tổ chức lại dưới hình thức công ty in hàng không. Cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới tìm cách thích nghi với sự cạnh tranh gay gắt. Là một tế bào của nền kinh tế, công ty in hàng không cũng không thoát khỏi sự kiểm nghiệm nghiệt ngã của cơ chế cạnh tranh. Điều đó đòi hỏi công ty in hàng không không phải có những đột phá mới, phát triển mở rộng thị trường, thôn tính các doanh nghiệp in khác cùng sản xuất sản phẩm. Trước hết công ty in hàng không phải chiếm lĩnh phần lớn các nhu cầu về sản phẩm in của ngành và mở rộng sản xuất kinh doanh ra thị trường bên ngoài ngành. Để thực hiện mục tiêu đó, đầu tư khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại là một giải pháp hữu hiệu và tất yếu. Tuy nhiên, các thiết bị công nghệ hiện đại lại cần một lượng vốn đầu tư rất lớn, đây chính là bài toán nan giải đối với công ty in hàng không nói riêng và các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế nói chung.
Khi thành lập công ty, tổng số vốn được giao là 2,3 tỉ, đến năm 1999 công ty vay bổ sung là 15 tỉ và vốn tự có là 3 tỉ. Với số vốn đó công ty đã mạnh dạn đầu tư lắp đặt hai dây chuyền công nghệ sản xuất: công nghệ in máy ofset (in tờ rời) và công nghệ in Flexo (in cuốn trên mọi chất liệu). Dây chuyền Flexo được trang bị hai máy in cuốn 4 màu của Đài Bắc và Hàn Quốc, một bộ dây chuyền chế bản in hiện đại cũng của Đài Bắc. Dây chuyền ofset được trang bị 5 máy in màu nhiều trang, tờ rời, một bộ hoàn chỉnh phục vụ chế bản in của CHLB Đức. Công ty lại đầu tư lắp đặt một dàn máy vi tính hiện đại, phục vụ cho cả dây chuyền trong công đoạn tạo màu và thiết kế. Đây là hai dây chuyền hiện đại nhất so với công nghiệp in ấn của nước ta. Vơí sự đầu tư này sản phẩm in của công ty ngày một đa dạng phong phú, với nhiều màu sắc khác nhau đáp ứng được nhu cầu về in ngày càng cao của người tiêu dùng. Công ty không chỉ sản xuất giấy ăn thơm, giấy vệ sinh, tạp chí hàng không mà còn in các nhãn mác gia công trên bao bì, sản xuất túi nôn hàng không và đặc biệt là sản xuất vé máy bay các loại - một sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao và chất lượng tốt. Tất cả các sản phẩm của công ty đã cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại của các cơ sở in khác. Như chúng ta đã biết khách hàng của hãng hàng không là rất lớn gồm rất nhiều nước trên thế giới, nhiều loại người khác nhau ở nhiều độ tuổi khác nhau, sở thích khác nhau, nhu cầu rất lớn và đa dạng. Sản phẩm của công ty in hàng không với chất lượng ngày càng cao, mẫu mã phong phú đã thoả mãn được nhu cầu về sản phẩm vật chất (sản xuất giấy ăn, giấy thơm, giấy vệ sinh...) và nhu cầu về sản phẩm văn hoá (sản phẩm in bao bì, nhãn mác, tạp chí hàng không...). Nhu cầu của hãng hàng không hàng năm chiếm 1/2 công suất của công ty, tức là từ 45 - 50% khối lượng trang in. Ngoài ra công ty nhận được đơn đặt hàng khá ổn định của Viện thú ý TW, công ty bóng đèn phích nước Rạng đông, hãng hàng không Lào...
Sản phẩm của công ty in hàng không sẽ có chất lượng và sức cạnh tranh cao hơn các cơ sở in quốc doanh và các cơ sở in tư nhân, nếu cuối năm nay công ty hoàn tất việc lắp đặt một máy in 7 màu của Mỹ. Tóm lại, công nghệ và kỹ thuật hiện đại đã góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, là lợi thế quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
2.2. Các yếu tố về con người
Nếu khoa học kỹ thuật công nghệ là điều kiện cần, thì yếu tố người lao động là điều kiện đủ, là yếu tố cơ bản quyết định tới chất lượng sản phẩm cũng như nâng cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường. Bởi vì , dù công nghệ có hiện đại như thế nào chăng nữa nhưng nếu người lao động không có tay nghề cao, không có trình độ tốt về chuyên môn kỹ thuật thì máy móc đó cũng không phát huy được tác dụng, sản phẩm làm ra cũng không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng.
Khi mới thành lập xưởng in hàng không có 34 cán bộ CNV chuyển từ Bộ quốc phòng sang, không có tay nghề kỹ thuật cao về công việc in ấn. Cùng với chế độ bao cấp và máy móc lạc hậu, các sản phẩm làm ra của xưởng in có chất lượng rất thấp, không đáp ứng được nhu cầu của ngành chủ quản. Đến năm 90 khi thành lập xí nghiệp in hàng không, số cán bộ CNV tăng lên là 52 người. Cùng với việc tăng lên về số lượng, xí nghiệp in đã chú trọng chất lượng đội ngũ lao động. Một số cán bộ quản lý được cử đi đào tạo nâng cao, nhiều công nhân đứng máy in Typo trước đây, được chuyển nghề và nâng cao trình độ để phục vụ máy in hiện đại hơn. Sự kết hợp hài hoà giữa số lượng, chất lượng người lao động với công nghệ kỹ thuật, đã làm cho chất lượng sản phẩm in của xí nghiệp nâng cao, đáp ứng một số đòi hỏi của ngành. Một số sản phẩm trước kia ngành phải thuê ngoài nay đã được xí nghiệp in đảm nhận. Tuy nhiên, cho đến 14/9/94 khi xí nghiệp in hàng không chuyển thành công ty in hàng không, đội ngũ cán bộ CNV đã tăng lên rất nhanh cả về số lượng và chất lượng. Cùng với việc trang bị hai dây chuyền công nghệ hiện đại, số lao động của công ty tăng lên, tính đến năm 1999 là 140 người. Công ty đã kết hợp nhiều hình thức đào tạo cho cán bộ CNV: Đào tạo tại chỗ, cử đi đào tạo ngắn hạn và dài hạn... Trong số cán bộ CNV của công ty có 13 cán bộ có trình độ từ đại học trở lên, 18 người có trình độ trung cấp, 68 người là công nhân kỹ thuật. Kết quả đạt được đó kết hợp với dây chuyền công nghệ in hiện đại đã cho ra đời những sản phẩm in có chất lượng khá cao. Các sản phẩm in đã chiếm lĩnh được phần lớn thị trường ngành hàng không dân dụng, đã vươn ra cả thị trường ngoài ngành. Trong cơ chế cạnh tranh gay gắt, các cơ sở in ấn tìm mọi biện pháp (kể cả việc trốn lậu thuế) hạ giá thành sản xuất, đánh bại các đối thủ cạnh tranh, thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty in hàng không là mục tiêu cao nhất phải đạt, giúp cho công ty tồn tại và phát triển. Nâng cao chất lượng sản phẩm có sự kết hợp của nhiều yếu tố nhưng yếu tố con người (hay người lao động) trong công ty là yếu tố quan trọng nhất, cơ bản nhất quyết định. Cùng với sự phát triển của đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty, chất lượng sản phẩm in được cải thiện và ngày càng được nâng cao hơn. Sản phẩm làm ra của công ty không ngừng tăng lên về số lượng, mẫu mã đa dạng, phong phú về kiểu loại. Sản phẩm của công ty đã đáp ứng được những nhu cầu khắt khe của ngành hàng không, phát triển chiếm lĩnh cả thị trường ngoài ngành. Tuy nhiên để mở rộng thị trườn tiêu thụ, để đứng vững trong cạnh tranh đòi hỏi cán bộ công nhân viên của công ty phải nỗ lực hơn nữa trong việc trau dồi kiến thức ngành in, tự học hỏi, tự tích luỹ kinh nghiệm, kết hợp với việc đào tạo của công ty, nâng cao tay nghề đáp ứng yêu cầu thị trường đặt ra.
2.3. Các chính sách, chế độ đối với người lao động của công ty in hàng không.
Lý thuyết kinh tế học chỉ ra rằng nếu một doanh nghiệp, một tổ chức nào đó trong nền kinh tế biết sử dụng người lao động hợp lý, có các chế độ ưu đãi và chính sách đãi ngộ thích hợp cho người lao động, doanh nghiệp đó sẽ thu hút được lực lượng lao động có tay nghề cao, sẽ ngày càng phát triển ổn định và hưng thịnh.
Người lao động- nhân tố cơ bản quyết định chất lượng sản phẩm làm ra - mà các chính sách, chế độ, hay các biện pháp của công ty tác động trực tiếp tới họ. Qua thực tiễn phát triển của công ty ta thấy ngay được sự ảnh hưởng này. Khi còn phụ thuộc tổng cục hàng không dân dụng Việt nam, hoạt động sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu kế hoạch được giao, không tính toán lỗ lãi, do đó cũng không có các chế độ ưu đãi thích hợp với người lao động. Các quĩ khen thưởng, phúc lợi và phát triển sản xuất chia theo bình quân đầu người nên không khuyến khích được ngươì lao động tìm các biện pháp sáng tạo cải tiến kỹ thuật, người lao động không chú trọng tới chất lượng sản phẩm sản xuất. Họ chỉ tiến hành sản xuất và giao nộp theo số lượng ngành giao cho. Kéo theo đó hoạt động sản xuất kinh doanh không được phát triển. Đến khi tự hạch toán kinh doanh, trang trải nợ nần thì công ty chú trọng tới hiệu quả của sản xuất. Các quĩ khen thưởng, phúc lợi và phát triển sản xuất được phân bổ theo kết quả lao động của CBCNV. Tiền lương của người lao động cũng được trả tương xứng với những cống hiến của họ bỏ ra. Nếu năm 1997 thu nhập bình quân/ 1 người lao động là 1.300.000 đồng thì đến năm 1998 là 1.450.000đồng và đến năm 1999 con số đó là 1550.000 đồng. Điều đó đã thúc đẩy người lao động không ngừng nâng cao trình độ tay nghề bậc thợ, thúc đẩy họ tìm các giải pháp cải tiến kỹ thuật công nghệ, tiết kiệm chi phí sản xuất. Song song, chất lượng sản phẩm của công ty in hàng không cũng được hoàn thiện hơn, uy tín của công ty trên thị trường ngành in ngày càng khẳng định. Sự đoàn kết gắn bó trong nội bộ của cán bộ CNV, sự chăm lo tơí đời sống và điều kiện làm việc của lãnh đạo công ty sẽ là điều kiện thuận lợi giúp công ty phát triển trong thời gian tới.
2.4. Các dịch vu đi kèm trợ giúp quá trình sản xuất sản phẩm in.
Một yếu tố không kém phần quan trọng giúp nâng cao chất lượng sản phẩm là việc triển khai các dịch vụ để trợ giúp, phù trợ quá trình sản xuất. Đó là dịch vụ bảo dưỡng thiết bị, đảm bảo điện nước cho sản xuất và sửa chữa theo yêu cầu của các phân xưởng chính (dưới hình thức tổ cơ điện); đó là dịch vụ cung ứng vật tư (các nguyên liệu giấy, mực in...); đó là hoạt động của bộ phận marketing của công ty để tìm hiểu thị trường, phát hiện nhu cầu mới của người tiêu dùng giúp công ty hoàn thiện sản phẩm... Các dịch vụ này có ở các khâu của quá trình sản xuất từ đầu vào, trong quá trình trực tiếp sản xuất sản phẩm, đến đầu ra của sản xuất. Sự đảm bảo chính xác kịp thời của các khâu này giúp cho quá trình sản xuất được thuận lợi, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật về chất lượng sản phẩm. Nếu một yếu tố không được thực hiện tốt như cung ứng nguyên liệu không đạt yêu cầu chất lượng, hay tổ chức việc cung cấp điện nước không được đầy đủ, hay việc thu nhận thông tin về sản phẩm từ người tiêu dùng không chính xác sẽ giảm chất lượng in của công ty.
Tóm lại, để ra đời một sản phẩm in phải trải qua nhiều công đoạn, nhiều quá trình, phải phụ thuộc nhiều yếu tố. Làm tốt mỗi khâu, mỗi quá trình sẽ góp phần làm hoàn thiện sản phẩm sản xuất. Qua những phân tích thực tiễn về nỗ lực của toàn công ty, cũng chỉ ra rằng, các phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật, như phong trào thi đua nâng cao tay nghề, bậc thợ, những nỗ lực đầu tư mua sắm trang thiết bị công nghệ... đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là: năng suất, chất lượng, hiệu quả, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh đúng hướng, chất lượng tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm mạnh hơn và thị trường ngày càng mở rộng.
3. Một số kết quả đạt được của công ty về sản xuất kinh doanh (từ 97 - 99)
Với những quyết định đúng đắn của Ban lãnh đạo công ty, phù hợp với xu thế phát triển của ngành công nghiệp in và của thị trường, với những nỗ lực của toàn bộ cán bộ CNV, công ty in hàng không đã vượt qua những khó khăn thử thách, đạt được những kết quả đáng khích lệ và ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường. Thành tựu đạt được của công ty trong những năm qua biểu hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 1: Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm (97-99)
Chỉ tiêu
Đơn vị
97
98
99
1. Số lượng trang in
triệu trang
625
878
1210
2. Doanh thu
1000đ
13.327.275
16.965.490
17.808.296
3. Lợi nhuận
1000đ
820.000
1.012.000
1.300.000
4. Số lao động
người
124
134
140
5. Nộp NSNN
1000đ
420.000
650.000
2.300.000
6. Tiền lương bq/một lao động
1000đ/người
Phân tích bảng số liệu trên ta thấy:
- Trong 3 năm liên tục, khối lượng sản phẩm và dịch vụ mà công ty thực hiện tăng khá nhanh. Nếu xét về sản phẩm chủ yếu (trang in), năm 97 đạt 625 triệu trang thì đến năm 98, đạt 878 triệu, tăng 40,48% (số tăng tuyệt đối là 253 triệu trang). Năm 99 đạt 1210 triệu trang, tăng so với năm 98 là 37,81% (số tăng tuyệt đối là 332 triệu trang). Nếu so năm 99 với năm 97 thì sau 2 năm, khối lượng in ấn tăng gần 2 lần (93,6%). Mức độ tăng lên qua các năm ở trên cũng phù hợp với sự đầu tư đúng hướng về kỹ thuật công nghệ và nhân sự của công ty. Sự tăng lên của số lượng trang in cũng đã phản ánh được chất lượng sản phẩm của công ty In hàng không ngày một nâng cao, công ty In nhận được khối lượng hàng đặt ngày một lớn.
- Về doanh thu của công ty: mức tăng doanh thu khá lớn qua các năm. Nếu năm 97 , doanh thu đạt 13,327 tỷ thì đến năm 98 đạt 16,965 tỷ, tăng 27,29% (tăng tuyệt đối là 3,5 tỷ). Năm 99 đạt 17,808 tỷ, tăng so với năm 98 là 6% (tăng tuyệt đối là 845 tỷ) và tăng so với doanh thu năm 96 là 33,6%. Như vậy mức tăng của doanh thu không cao so với mức tăng của số lượng trang in (sản lượng) một phần vì trong số các sản phẩm sản xuất ra doanh nghiệp giành một tỷ lệ để phục vụ ngành theo kế hoạch bắt buộc hoặc tính hạch toán theo giá kế hoạch nên không phản ánh vào doanh thu. Mặt khác trong 3 năm qua, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực tác động nặng nề đến nền kinh tế quốc dân nói chung và đến các doanh nghiệp nói riêng, thì mức tăng lên của doanh thu công ty In hàng không nói lên những nỗ lực lớn của toàn công ty trong việc duy trì và phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh.
- Để phản ánh sâu sắc hơn những cố gắng của công ty In hàng không chúng ta đi vào phân tích chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng hiệu quả kinh doanh của công ty. Lợi nhuận tăng khá cao qua 3 năm. Nếu năm 97, lợi nhuận đạt 820 triệu, thì tới năm 98 đạt 1012 triệu tăng 23,76% (mức tăng tuyệt đối là 192 triệu) năm 99 đạt 1300 triệu tăng so với 98 là 28,8% (mức tăng tuyệt đối của lợi nhuận là 288 triệu) tăng so với năm 97 là 480 triệu. Nhìn tổng quát , mức tăng lợi nhuận khá vững chắc. So với các doanh nghiệp trong ngành in và nhiều DNNN khác trong 3 năm qua, thì kết quả đạt được của công ty In hàng không rất khả quan. Kết quả đó do những nỗ lực của tất cả CBCNV , đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí....
- Tổng số lao động của toàn công ty cũng không ngừng bổ sung cả về số lượng và chất lượng. Nếu năm 97 số lao động là 124 người thì đến năm 98 con số đó tăng lên là 134 người (tăng 10 ngươì) và đến năm 99 là 140 người (tăng 6 người so với 98). Đó mới chỉ là biểu hiện về mặt số lượng lao động của công ty, những điều quan trọng là công ty đã chú trọng tới chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên. Công ty đã kết hợp nhiều hình thức đào tạo, nâng cao tay nghề cho đội ngũ lao động. Họ có thể vận hành những máy móc thiết bị hiện đại, tạo ra được những sản phẩm có chất lượng tốt phục vụ nhu cầu về các sản phẩm In của ngành Hàng không dân dụng và những nhu cầu ngoài ngành. Công ty cũng chú trọng tới đời sống của người lao động, trả lương tương xứng với năng suất lao động họ bỏ ra. Năm 97 tiền lương bình quân/ 1 người lao động là 1300.000đ thì đến năm 98 là 1450.000đ (tăng 145.000đ với mức tăng tương đối hơn 10%) và năm 99 là 1550.000đ (tăng 100.000đ so với 98). Sự tăng lên của tiền lương phản ánh phần nào sự quan tâm tới người lao động và phản ánh tình hình phát triển sản xuất - kinh doanh.
- Về vấn đề đóng góp với NSNN của công ty In hàng không. 3 năm gần đây , với những cố gắng lớn của mình trong tổ chức, quản lý và phát triển sản xuất - kinh doanh , do lợi nhuận tăng, nên những đóng góp của công ty với NSNN (dưới hình thức thuế) tăng khá cao. Nếu năm 97 là 420 triệu thì năm 98 là 650 triệu, tăng 54,76% (mức tăng tuyệt đối là 230triệu). Đến năm 99, tổng mức nộp NSNN của toàn công ty là 2,3 tỷ tăng với năm 98 là 353,8%, tức mức tăng là hơn 3 lần, tăng tuyệt đối là 1.650 triệu đồng. Như vậy nếu xét về ý nghĩa xã hội thì công ty In hàng không mấy năm qua đạt kết quả khá cao. Sự tăng lên của phần đóng góp của công ty vào NSNN không chỉ phản ánh mức hiệu quả kinh tế cục bộ của bản thân công ty, mà còn phản ánh nghĩa vụ xã hội mà công ty thực hiện rất tích cực.
Có được kết quả trên qua các năm, công ty In hàng không đã phải nỗ lực rất lớn ở nhiều mặt: từ đầu tư khoa học kỹ thuật công nghệ đến việc nâng cao tay nghề, trình độ cho đội ngũ CBCNV, công ty đã mạnh dạn vay vốn phát triển mở rộng sản xuất, nhưng yếu tố cơ bản nhất vẫn là việc chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm được công ty đặt lên hàng đầu, coi đó là yếu tố quan trọng giúp công ty cạnh tranh với các sản phẩm In cùng loại, ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh nhất là trong giai đoạn mà khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển như vũ bão, các doanh nghiệp với mọi biện pháp khác nhau loại bỏ các đối thủ cạnh tranh (kể cả việc trốn lậu thuế). Tất cả các giải pháp như vay vốn đầu tư thiết bị công nghệ, nâng cao tay nghề cho người lao động... đều nhằm đến mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng sản phẩm. Qua các năm với số lượng trang in ngày một nhiều và tăng lớn, chất lượng sản phẩm ngày một nâng cao. Tỷ lệ đảm bảo chất lượng sản phẩm của công ty qua các năm như sau:
Năm 96: đạt 97%
Năm 97 : đạt 96%
Năm 98: đạt 96%,
Sản lượng sản xuất gia tăng qua các năm mà chất lượng sản phẩm của công ty nói chung khá ổn định. Công ty đạt một tỷ lệ khá cao trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm thì đây là một cố gắng lớn của toàn công ty.
Tuy nhiên với sự cạnh tranh rất gay gắt, ngày một nhiều các cơ sở in ra đời với công nghệ hiện đại, thì yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm là yêu cầu quan trọng và luôn đặt lên hàng đầu không chỉ với công ty In hàng không mà còn là đòi hỏi với tất cả các doanh nghiệp in khác. Công ty In hàng không phải nâng cao hơn nữa tay nghề, trình độ cho đội ngũ người lao động trong công ty, đầu tư nâng cấp thiết bị công nghệ, cố gắng trên mọi khâu của quá trình sản xuất.
Phần thứ ba: Những giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty In hàng không.
1. Những nhận xét rút ra từ phân tích hiện trạng chất lượng sản phẩm ở công ty In hàng không.
Cả lý luận và thực tế đều khẳng định rằng, chất lượng sản phẩm đang là yêu cầu có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh trong cơ chế cạnh tranh. Chất lượng sản phẩm càng ngày không chỉ còn là một khẩu hiệu, một lời hô hào chung chung, mà là hành động của một doanh nghiệp, của các quản trị gia, đến từng CNSX. Chất lượng sản phẩm là bộ mặt và uy tín của doanh nghiệp, là lợi thế cạnh tranh và sự hơn thua của doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác, khi thị trường đang dồi dào mức cung. Một dịch vụ thiếu chất lượng, sẽ tự đánh mất giá trị sử dụng, do đó giảm giá trị, thậm chí không còn khả năng tiêu thụ. Các doanh nghiệp đạt yêu cầu về chất lượng sản phẩm dịch vụ lên hàng đầu và quán triệt mọi khâu của quản lý.
Phân tích hiện tượng bảo đảm chất lượng sản phẩm ở công ty In hàng không mấy năm gần đây, đề án rút ra một số nhận xét sau:
- Một là: khi chuyển từ cơ chế quản lý bao cấp sang cơ chế thị trường, chấp nhận cạnh tranh, tự chịu trách nhiệm và tự trang trải, công ty In hàng không đã sớm đạt yêu cầu về chất lượng sản phẩm dịch vụ cao, với việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, trong đó chất lượng vẫn là mục tiêu ưu tiên. Sản phẩm của công ty không chỉ phục vụ trong nội bộ ngành với những nhóm khách hàng có yêu cầu sử dụng cao, mà còn phục vụ nhiều ngành sản xuất - kinh doanh khác. Dịch vụ In và chế tác những sản phẩm như hiện nay công ty đang thực hiện có rất nhiều ngoài thị trường. Các tổ chức sản xuất - kinh doanh cả tư nhân và nhà nước, vẫn không ngừng cạnh tranh với nhau, khi đưa ra nhiều loại sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao và giá hạ. Vì vậy, song song với việc nỗ lực tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản xuất, công ty không thể bỏ qua những yêu cầu về chất lượng , cả chất lượng sản phẩm là mục tiêu cao nhất phải đạt, hòng giữ vững và phát triển thị trường. Những phân tích thực tiễn cùng khẳng định rằng, nỗ lực của CBCNV toàn công ty nhằm giữ cho chất lượng sản phẩm ngày càng cao, thoả mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, là thành công rất to lớn. Về cơ bản, sản phẩm của công ty có chất lượng khá tốt, là niềm tự hào của CNV toàn công ty và được mọi đối tượng mua hàng chấp nhận.
- Hai là: nâng cao chất lượng sản phẩm có liên quan và phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, bao gồm cả những yếu tố hữu hình và những yếu tố trừu tượng, vô hình (tinh thần trách nhiệm của CNSX) , cả những điều kiện từ chức và quản lý, cả những nhân tố về kỹ thuật và công nghệ, cả những nhân tố kinh tế - xã hội. Vì vậy để nâng cao chất lượng sản phẩm, không thể không đưa ra những giải pháp có liên quan đến con người, những giải pháp có liên quan đến kỹ thuật và công nghệ hiện đại, cả những giải pháp khuyến khích vật chất đối với cá nhân và tập thể có thành tích.
- Ba là: trong các điều kiện trực tiếp và thường xuyên tác động đến chất lượng sản phẩm, nhân tố con người có ý nghĩa quyết định. Chất lượng sản phẩm dịch vụ ở công ty In hàng không phụ thuộc chủ yếu vào 3 nhân tố: thiết bị, tay nghề của CNSX và ý thức trách nhiệm của họ đối với sản phẩm dịch vụ do họ sản xuất ra. Sự trưởng thành của đội ngũ CNSX cả về kinh nghiệm sản xuất, sự nhanh nhạy nắm bắt kỹ thuật mới, lẫn ý thức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm trước công ty và công việc của chính mình, là một điều kiện quyết định của thành công.
- Bốn là: chất lượng sản phẩm của công ty là kết quả cố gắng nỗ lực của tập thể CBCNVC , từ CNSX đến cán bộ quản lý. là thành tích của việc tổ chức tốt các phong trào thi đua sản xuất mà trước hết là thi đua nâng cao chất lượng sản phẩm. Những phân tích thực tiễn trên cũng chỉ ra rằng, các phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật, những phong trào thi tay nghề , nâng bậc thợ, những hoạt động của các tổ chức đoàn thể xã hội trong công ty, nếu biết hướng đến mục tiêu cuối cùng là: năng suất, chất lượng, hiệu quả, đều có tác dụng hỗ trợ quản lý có hiệu quả năng cao nhất, bảo đảm cho sản xuất - kinh doanh đúng hướng, chất lượng tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm mạnh hơn và thị trường ngày càng mở rộng.
- Năm là: mặc dù đã có nhiều thành công trong việc tăng cường chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thoả mãn cao nhất những nhu cầu của thị trường, nhưng nhìn toàn diện, trong xu hướng phát triển, vấn đề chất lượng sản phẩm dịch vụ của công ty vẫn đang đặt ra những yêu cầu và thách thức mới đó là:
+ Tỉ lệ sai hỏng của sản phẩm, dịch vụ chưa được loại bỏ. Hàng năm số lượng sản phẩm phải chế tạo lại hoặc không có giá trị sử dụng vẫn gần bằng 5% tổng khối lưoựng sản xuất - kinh doanh . Đây là một thách thức buộc công ty phải có phương hướng khắc phục, vượt qua.
+ Đội ngũ lao động chưa thực sự mạnh về kỹ năng sản xuất và khả năng sử dụng tối ưu những máy móc thiết bị hiện đại. Một bộ phận lao động trực tiếp sản xuất cần được bổ túc thêm tay nghề.
+ Năng lực thiết bị chưa được phát huy tối đa. Khả năng khai thác các yếu tố sản xuất ở thị trường đầu vào (đặc biệt là nguyên liệu để sản xuất) chưa ổn định cả về chất lượng, nguồn cung ứng cũng như mức giá.
+ Hệ thống kiểm tra, giám sát của quản lý chưa tối ưu. Những công đoạn kiểm tra chất lượng trên dây chuyền, chưa trở thành một bộ phận của kỷ luật công nghệ.
Những thách thức trên đặt ra cho công ty những yêu cầu phải giải quyết. Vì vậy, trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và phân tích thực tiễn về tình hình bảo đảm chất lượng sản phẩm ở công ty In hàng không, đề án xin đề xuất một số ý kiến có tính chất như những giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm , dịch vụ, tăng cường sức cạnh tranh của công ty. Những đề xuất này cũng chỉ giới hạn trong những thách thức mà công ty phải vượt qua, khi chuẩn bị chiến lược phát triển cao hơn trong thời gian tới.
2. Những giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ ở công ty In hàng không.
2.1. Tăng cường kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề và kinh nghiệm sản xuất cho công nhân, lao động là điều kiện quyết định để nâng cao chất lượng sản phẩm , dịch vụ.
Như phần nhận xét đã chỉ ra, nhân tố con người bao gồm trình độ, tay nghề và ý thức trách nhiệm của họ, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ của công ty. Thiết bị , công nghệ hiện đại là cần thiết cho mọi dự định, kế hoạch của các nhà sản xuất. Nhưng để đưa những nguồn vật chất đó và sản xuất và phát huy hiệu quả khi sử dụng, làm ra nhiều sản phẩm dịch vụ tương xứng với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, phải cần đến con người. Thiếu con người, thiết bị, công nghệ sẽ chỉ là vật chất. Kinh nghiệm của nhiều hướng kinh doanh đã chỉ ra rằng, việc gia tăng nguồn vốn và đầu tư mạnh vào công nghệ hiện đại, nếu không gắn liền với việc tăng cường đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, sẽ dễ dàng làm cho chất lượng sản phẩm, dịch vụ và hiệu quả sản xuất - kinh doanh bị giảm sút, thậm chí có thể dẫn đến sự phá vỡ cân đối chung của sản xuất, làm cho các nguồn đầu tư mất tác dụng, quản lý bế tắc, kinh doanh đình trệ. Trong các khâu và công đoạn của công nghệ In, vai trò của CNSX và các nhân viên kỹ thuật, bao trùm lên kết quả cuối cùng của công ty, cả về số lượng và chất lượng. Từ khâu tạo mẫu đến phân tích yêu cầu công việc để chế bản In, đến việc In trên máy, điều khiển các loại thiết bị trong hệ thống thiết bị của dây chuyền đến khâu hoàn thiện sản phẩm, sự thành thực của công nhân và các nhân viên kỹ thuật gần như quyết định cơ bản đến chất lượng thành phẩm . Do vậy, đào tạo, bồi dưỡng kinh nghiệm sản xuất và nâng cao tay nghề cho công nhân viên trong công ty, trước hết là những người điều khiển thiết bị, trực tiếp chế tác sản phẩm, là yêu cầu rất cần thiết Để công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho CNSX các phân xưởng và bộ phận tổ chức, nhân sự phải đưa vào kế hoạch tác nghiệp hàng năm, thậm chí triển khai cho từng quý hoặc 6 tháng. Những nội dung cần phải giải quyết của kế hoạch đào tạo bồi dưỡng công nhân là:
- Đánh giá và phân loại lao động, căn cứ vào trình độ bậc thợ và kỹ năng thực hành của CNSX, phân tích sự phù hợp giữa yêu cầu kỹ thuật của công việc, loại thiết bị mà họ phải điều khiển với trình độ, bậc thợ và hệ thống kiến thức lý thuyết cũng như kinh nghiệm làm việc mà họ được trang bị. Trên cơ sở sự phân tích đó, các phân xưởng đề xuất danh sách những CNSX và nhân viên kỹ thuật cần được đào tạo mới, đào tạo lại hoặc bồi dưỡng nâng cao tay nghề. Nói chung, việc bồi dưỡng kỹ năng và kinh nghiệm sản xuất, phải trở thành yêu cầu thường xuyên của các phân xưởng và toàn công ty.
- Xác định hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng thích hợp. Công ty In là một loại doanh nghiệp nhỏ, lực lượng lao động trực tiếp sản xuất không lớn, kế hoạch sản xuất khống thể trì hoãn, vì vậy phương thức đào tạo bồi dưỡng hợp lý là yêu cầu rất quan trọng của công tác tổ chức nhân sự. Kinh nghiệm của nhiều công ty sản xuất cho thấy, hình thức kèm cặp tại phân xưởng, vừa học lý thuyết, vừa thực hành trên máy là thích hợp hơn cả. áp dụng hình thứcnày sẽ không gây xáo trộn nhân lực, duy trì tính liên tục của sản xuất, đồng thời làm cho người được đào tạo có kỹ năng thực hành nhanh hơn, rút ngắn thời gian đào tạo. Ngoài ra những hoạt động thi thợ giỏi, bồi dưỡng và phổ biến những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến sẽ hỗ trợ thêm cho các hình thức đào tạo và tự đào tạo của công ty.
- Có kế hoạch bố trí thợ giỏi hoặc những nhân viên kỹ thuật bậc cao kèm cặp công nhân bậc thấp, hoặc mới học nghề. Các chính sách , chế độ cho hình thức dạy và học tại phân xưởng, cũng cần được nghiên cứu áp dụng nhằm động viên, khuyến khích công tác đào tạo của công ty tốt hơn.
- Xây dựng quy trình đào tạo hợp lý bao gồm: tài liệu hướng dẫn lý thuyết, thời gian thực hành trên thiết bị, những bài kiểm tra trực tiếp trên dây chuyền công nghệ, những kỹ năng ứng xử của công nhân trước những sự cổ của kỹ thuật. Mặt yêu cầu quan trọng trong kế hoạch đào tạo là, cần làm cho CNSX biết chắc một nghề, đạt trình độ cao và kỹ năng thành thực khi chế tạo sản phẩm, nhưng có thể biết thêm một số nghề khác, có khả năng kiêm nhiệm. Đây cũng chính là phương châm của công tác đào tạo nhân lực trong điều kiện KHKT phát triển.
- Kế hoạch đào tạo bồi dưỡng tay nghề cho CNSX của công ty phải đạt mục tiêu, 100% lao động có tay nghề vững, có chuyên môn sâu có thể sử dụng tốt những thiết bị hiện đại được trang bị. Đồng thời 100% CNSX đủ trình độ phân tích chi tiết những yêu cầu của mỗi mã hàng mới, chủ động, sáng tạo trong việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành. Nếu chiến lược đào tạo được thực hiện thành công sẽ là khả năng thực tế, để công ty loại bỏ tình trạng sản phẩm không dùng quy cách, bảo đảm 100% sản phẩm, dịch vụ làm ra, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng, kể cả những khách hàng khó tính nhất.
2.2. Đầu tư đổi mới thiết bị và tăng cường công nghệ hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh về chất lượng sản phẩm của công ty.
Khi chuyển từ quản lý theo cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, công ty In hàng không ngay từ đầu đã phải thực hiện phương thức tự vay vốn mua sắm thiết bị, kinh doanh và tự trang trải, vì vậy những nguồn vốn đầu tư cho kỹ thuật công nghệ buộc phải có hiệu quả để thu hồi và có lãi. Thiết bị công nghệ In có giá thành lắp đặt tương đối lớn, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm, dịch vụ do chi phí khấu hao cũng lớn. Nhưng đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ, là yêu cầu bắt buộc nhằm tăng năng suất và sức cạnh tranh, mà trước hết là chất lượng và sản phẩm, dịch vụ. Những đổi mới về thiết bị kỹ thuật của công ty In hàng không là khá nhanh và mạnh, nhưng so với sự phát triển của công nghệ in trên thế giới và những yêu cầu của thị trường , cần đặt ra những thách thức lớn phải vượt qua. Kế hoạch trong những năm trước mắt, công ty tiếp tục trang bị thêm 01 máy in hiện đại nhiều màu, nhều trang và một số phụ kiện khác. Vấn đề cơ bản là nguồn vốn để mua sắm. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi xin nêu một số ý kiến:
- Thứ nhất, tăng cường tích luỹ để phát triển nguồn vốn tự có, giảm nguồn vay chịu lãi suất cao. Để có tích luỹ, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển thị trường, tăng doanh thu, nâng cao tỉ suất lợi nhuận. Điều này công ty đã và đang thực thi trong nhiều năm qua nhưng trước yêu cầu phát triển nguồn vốn tích luỹ, đòi hỏi phải có sự cố gắng cao hơn. Như vậy vấn đề tích luỹ, mở rộng nguồn vốn phát triển sản xuất và vấn đề đầu tư thiết bị, công nghệ tạm tời có mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn này phải đạt mục tiêu cơ bản, lâu dài lên hàng đầu, được ưu tiên, mọi mục tiêu khác trước hết phải vì chiến lược phát triển công ty, có thể tạm thưòi lùi xuống hàng thứ yếu. Nếu vấn đề đầu tư được quyết tâm giải quyết, sẽ là tiền đề để giải quyết các lợi ích khác của công ty.
- Thứ hai, có thể dựa vào kinh nghiệm vay vốn từ nội bộ (từ người lao động) của một số công ty khác, để bổ sung nguồn vốn của công ty cho việc mua sắm trang thiết bị. Việc vay vốn từ người lao động là khả thi vì:
+ Trong nhiều năm, nhờ phát triển sản xuất - kinh doanh , công ty đã cố gắng bảo đảm cho người lao động nguồn thu nhập khá ổn định và được cải thiện.
+ Lợi ích từ việc đầu tư mua sắm thiết bị kỹ thuật, công nghệ của công ty, cũng đồng thời là lợi ích của tập thể công nhân lao động, vì vậy, chủ trương vay vốn sẽ được sự ủng hộ của CNVC
+ Tạo ra cơ chế mới nhằm gắn bó chặt chẽ hơn quyền lợi và trách nhiệm của công nhân, lao động với sản xuất - kinh doanh của công ty. Hình thức huy động vốn từ CNVC cũng là tiền đề để có thể thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nếu có chủ trương và có điều kiện.
- Thứ Ba, đề nghị TCT Hàng không dân dụng có chính sách và cơ chế tài chính thuận lợi, giúp công ty đổi mới nhanh thiết bị kỹ thuật, cải tiến công nghệ hiện có, đào tạo đội ngũ lao động, tạo tiền đề vật chất ban đầu để công ty thực hiện chiến lược phát triển.
2.3. Đổi mới các hình thức, biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần đối với công nhân, lao động, đề cao ý thức trách nhiệm của họ với chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà công ty sản xuất. Trong mấy năm gần đây, nhờ sản xuất - kinh doanh phát triển, đồng thời hiệu quả kinh doanh luôn đạt ở mức cao, tình hình việc làm, tiền lương thu nhập và sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của CNVC với công ty ngày càng được đề cao. Theo các chuyên gia quản lý, động lực vật chất gắn với động lực tinh thần là công cụ đặc lực nhất, mạnh nhất đề cao tinh thần trách nhiệm của CNVC với kết quả lao động của họ. Nếu những biện pháp khen thưởng, biểu dương về tinh thần, không đồng thời có sự hỗ trợ của lợi ích kinh tế, sẽ trở thành lời nói suông và nhanh chóng mất tác dụng. Nhưng nếu quá đề cao lợi ích kinh tế, sẽ làm mất đi giá trị tinh thần, ý nghĩa tư tưởng và chính trị trong sự gắn bó của CNVC với công ty, có thể làm cho kết cấu tổ chức của công ty hoạt động một cách máy móc, thụ động, làm kiệt quệ sức lao động.
Đổi mới các hình thức, biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần ở công ty In hàng không, thực chất là cải tiến và hoàn thiện khâu tổ chức lao động, kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức công nghệ với tổ chức lao động một cách tối ưu, và hiệu quả nhất, trong đó có các chính sách về tiền lương tiền thưởng, phân phối phúc lợi và đề cao kỷ luật lao động. Để giải pháp này được thực thi, trong quản lý và tổ chức lao động, công ty cần hướng vào những trọng điểm sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu áp dụng rộng rãi các hình thức tiền lương khoán, bao gồm cả việc khoán tiền lương theo số lượng sản phẩm, dịch vụ và chất lượng sản phẩm được hoàn thành, khoán tiền công đoạn hoặc cho cả tổ, nhóm CNSX khi cùng thực hiện nhiều khâu, nhiều công đoạn để tạo sản phẩm cuối cùng. Đặc điểm của công nghệ In và các dịch vụ khác có liên quan là sự nối tiếp, liên hoàn của nhiều khâu công việc, nhiều công đoạn, vừa có tính kỹ thuật vừa có tính tổ chức, trong đó chất lượng của khâu này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của khâu tiếp theo và đến khâu cuối cùng. Vì vậy hình thức tổ chức nhân lực thông qua chế độ tiền lương khoán, sẽ xâu kết các khâu, các công đoạn của sản xuất thành một quy trình chặt chẽ, gắn trách nhiệm của người công nhân đầu dây chuyền với kết quả sản phẩm cuối cùng của công ty, buộc mọi công nhân, lao động phải vì nhiệm vụ sản xuất chung, lợi ích chung, mà đề cao tinh thần tự giác.
- Thứ hai, phân tích đánh giá lại việc bố trí lao động trên dây chuyền, trong từng phân xưởng và các khâu công việc của công ty, trên cơ sở đó xác định chính xác, hợp lý các định mức lao động. Muốn áp dụng hình thức trả lương khoán hoặc tiền lương sản phẩm một cách tố nhất trước hết phải có hệ thống định mức lao động chặt chẽ, phải xây dựng được đơn giá giao khoán tiền dùng từ hệ thống định mức đó. Đơn giá là lợi ích của người lao động, đồng thời cũng thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa công ty - phân xưởng - người lao động. Đơn giá tiền lương, được xây dựng trên cơ sở định mức hao phí lao động cho một đơn vị sản phẩm dịch vụ và tiền lương cấp bạac của công nhân làm công việc đó. Như vậy định mức lao động là yếu tố thứ nhất, không thể thiếu trong việc đổi mới tổ chức lao động và tiền lương ở công ty. Hơn nữa, định mức lao động còn giám sát việc chấp hành kỷ luật công nghệ, đưa ra những yêu cầu về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, bắt buộc CNSX phải thực hiện. Nhiều chuyên gia về quản trị nhân sự đã xem định mức lao động là tổng hợp các quan hệ về lợi ích, giữa doanh nghiệp, người quản lý và người lao động. Để hoàn thiện định mức lao động ở công ty In hàng không, cần rà soát lại hệ thống mức lao động hiện hành, loại bỏ những mức đã lạc hậu, xây dựng bổ sung những mức mới, đặc biệt cho khâu công việc thiếu mức.
- Thứ ba, đẩy mạnh nhiều biện pháp, hình thức giáo dục chính trị tư tưởng cho CNVC, nhất là việc đề cao ý thức trách nhiệm của công nhân đối với chất lượng sản phẩm, dịch vụ của công ty. Công tác giáo dục tư tưởng cần phải làm cho một công nhân thấu suốt ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng sản phẩm, kỹ luật lao động đối với lợi ích, thu nhập của công ty, trong đó có quyền lợi trực tiếp của họ. Việc làm, tiền lương, thu nhập của CNVC tuỳ thuộc vào khả năng cạnh tranh về giá bán và chất lượng hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất ra. Đồng thời chất lượng sản phẩm không chr là uy tín của công ty, là điều kiện để mở rộng thị trường, phát triển sản xuất mà cao hơn, là danh dự nghề nghiệp của họ. Đề cao tinh thần trách nhiệm đối với sản phẩm dịch vụ là văn hoá lao động, là niềm hạnh phúc của trường công nhân cũng như tập thể CNVC công ty.
- Thứ tư, áp dụng rộng rãi các hình thức tiền thưởng theo chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà công nhân đạt được hàng tháng, đồng thời có biện pháp trách nhiệm vật chất, thậm chí phạt đối với những trường hợp lãng phí vật tư, có tỉ lệ sản phẩm hỏng, bị trả lại ở mức cao. Các chế độ tiền thưởng về chất lượng phải được duy trì thường xuyên như mọi chế độ thưởng khác, và phải xem là biện pháp ưu tiên, hình thành nề nếp quản lý của công ty và từng phân xưởng. Việc khen thưởng và động viên vật chất, tinh thần cũng nên áp dụng cả đối với bộ phận quản lý giám sát của phân xưởng. Như vậy, nếu tỉ lệ sản phẩm sai hỏng của phân xưởng tăng lên, người quản lý cũng phải có chịu trách nhiệm vật chất như CNSX.
- Thứ năm, tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát sản xuất của cán bộ quản lý, đặc biệt là các hoạt động kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm (KCS). Để các hoạt động kiểm tra, giám sát đối với chất lượng sản phẩm, được hiệu quả, có thể và cần thực hiện các biện pháp sau:
+ Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ của nhân viên KCS, đồng thời áp dụng các hình thức tự kiểm tra của tổ, nhân công trên dây chuyền sản xuất.
+ Đề cao ý thức trách nhiệm của bộ phận KCS . Có hình thức tiền lương, tiền thưởng giảm trách nhiệm, quyền lợi của nhân viên KCS với kết quả và chất lượng sản phẩm cuối cùng của công ty. Những trường hợp bị khách hàng phản ứng hoặc trả lại do chất lượng sản phẩm không bảo đảm phải được xem là lãi của nhân viên KCS nhiều hơn và buộc họ phải có trách nhiệm vật chất.
+ Phổ biến rộng rãi trong công ty những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, những kỹ năng bảo đảm chất lượng sản phẩm của những công nhân giỏi. Tổ chức các phong trào thi đua hướng vào việc tiết kiệm chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đẩy mạnh các hình thức bổ túc tay nghề ngay trong tổ sản xuất, những biện pháp phối hợp đồng bộ giữa công nhân công nghệ, công nhân phụ và bộ phận đảm bảo phục vụ của công ty, nhằm tập trung cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động.
Tóm lại, chất lượng sản phẩm là một trong 3 mục tiêu chính mà mọi doanh nghiệp hiện nay phải hướng tới. Để nâng cao chất lượng sản phẩm phải áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp, bao gồm cả những giải pháp về kỹ thuật, công nghệ, những giải pháp về tổ chức, quản lý và cả những giải pháp có liên quan đến ý thức trách nhiệm của người lao động. Các nhà quản lý hiện đại đã tổng kết, điều kiện tối ưu để nâng cao chất lượng sản phẩm , dịch vụ của một doanh nghiệp bằng công thức sau:
Chất lượng sản phẩm = tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt + ý thức trách nhiệm về nghề nghiệp cao + máy móc, thiết bị hiện đại. Trong ba yếu tố trên, vai trò con người có ý thức quyết định. Quản lý chất lượng cũng thực chất là quản lý hành vi và ý thức của con người. Thành công trong cạnh tranh về chất lượng sản phẩm của các công ty, phân lớn nhờ tạo dựng đội ngũ nhân lực tốt. Đây cũng là kinh nghiệm và bài học đối với công ty In hàng không.
Kết luận
Trong quá trình chuyển từ cơ chế quản lý theo kế hoạch, được bao cấp theo phạm vi toàn ngành, sang cơ chế hạch toán, tự trang trải, công ty In hàng không đã gặp không ít khó khăn và thách thức. Sự chuyển đổi chậm chạp của quan niệmm, thói quen quản lý theo cơ chế cũ, sự thiếu linh hoạt của bộ máy quản lý, sự hụt hẫng về trình độ của công nhân khi tiếp cận những thiết bị, kỹ thuật hiện đại... là những cản trở lớn đối với việc ổn định sản xuất để đứng vững và tăng cường sức cạnh tranh của công ty In hàng không. Vượt qua những cản trở này, để đạt được thành tích như mấy năm gần đây là sự vật lộn, trăn trở của tập thể cán bộ quản lý, lãnh đạo và CBCNV toàn công ty.Trong những thách thức mà công ty In vượt qua đó là việc bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm để củng cố uy tín, phát triển sản xuất, mở rộng thị trường. Vấn đề chất lượng sản phẩm đã nhanh chóng được lãnh đạo công ty cũng như tập thể CBCNVC nhận thức xem như mục tiêu quan trọng nhất phải đặt ở từng ca sản xuất, đối với mọi hàng hoá, dịch vụ mà công ty cung ứng. Những thành công mà công ty đạt được mấy năm gần đây là không thể phủ nhận. Nhưng để tiếp tục phát triển sức cạnh tranh, đặc biệt khi thị trường In ấn đã có những tiến bộ rất lớn về kỹ thuật, công nghệ và đặt ra những đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng dịch vụ, công ty còn phải nỗ lực nhiều hơn. Với những kinh nghiệm đã tích luỹ được ở nhiều năm qua, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý có trình độ và đội ngũ CNSX có tay nghề cao, chắc chắn những kế hoạch mà công ty vạch ra cho những năm tới, sẽ được thực hiện thành công.
Danh mục tài liệu tham khảo.
1. Kinh tế vi mô:
Tác giả: RoBest S.Pindycle
Danicl L.RuBinfeld
NXB khoa học và kỹ thuật 1994.
2. Quản trị Marketing dịch vụ:
ĐHKTQD Hà nội - NXB Lao động 1997
3. Marketing căn bản: ĐHKTQD Hà nội
NXB thống kê 1996.
4. Quản trị chất lượng : ĐHKTQD - Hà nội.
NXB thống kê 1998.
5. Chất lượng sản phẩm, dịch vụ - uy tín và danh dự nghề nghiệp của người lao động tạp chí lao động và công đoàn - số tháng 11/98.
6. Một số kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường.
Tác giả: Nguyễn Tri - NXB xây dựng - 1993
7. Quản trị kinh doanh tinh giản
Tác giả: Fliza G.collin S Mary anne devann
NXB khoa học và kỹ thuật - 1994.
8. Kinh tế học
Tác giả: Paul A.Samuel son và W.D.Nord haus.
Viện quan hệ quốc tế - 1996.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT1557.doc