Thực tế phát triển kinh tế thế giới đã khẳng định, DNV&N vẫn giữ một vị trí và vai trò hết sức quan trọng nhằm thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, đảm bảo ổn định kinh tế, phòng chống nguy cơ khủng hoảng. Thật vậy, khu vực DNV&N là xương sống trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các DNV&N nhằm huy động tối đa các nguồn lực và hỗ trợ cho công nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Về mặt lý luận và thực tế số liệu thống kê cho thấy DNV&N có vị trí khá lớn ở nhiều nước trên thế giới trong đó bao gồm cả các nước công nghiệp phát triển.
Dù là nền kinh tế nào, các DNV&N đều khẳng định được vai trò không thể thiếu của mình. Nhất là đối với Việt Nam, khi số lượng các doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ ngày càng đông đảo thì vai trò đối với nền kinh tế cũng càng được thể hiện rõ nét, trên các khía cạnh sau:
69 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1049 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
05 đạt 110.000 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 11,83% tổng dư nợ tín dụng, năm 2006 đạt 100.000 triệu đồng, chiếm 9,09% tổng dư nợ, năm 2007 đạt 95.000 triệu đồng, chiếm 8,88% tổng dư nợ. Như vậy, năm 2005 là năm tỷ trọng dư nợ DNV&N cao nhất và tỷ trọng này giảm trong năm 2006 và 2007.
* Tỷ trọng dư nợ cho vay đối với các DNV&N xét theo thời hạn.
Bảng 9: Dư nợ đối với DNV&N theo thời hạn
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Ngắn hạn
80.000
72,7
62.000
62
80.000
84,2
Trung và dài hạn
30.000
27,3
38.000
38
15.000
15,8
Dư nợ cho vay DNV&N
110.000
100
100.000
100
95.000
100
Nguồn: Báo cáo phòng tổng hợp.
Biểu đồ 7: Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn, trung dài hạn trong tổng dư nợ DNV&N tại NHCT Hoàn Kiếm
NHCT Hoàn Kiếm chủ yếu là đầu tư ngắn hạn cho DNV&N, chiếm trên 80% tổng dư nợ. Cụ thể là năm 2005 dư nợ cho vay ngắn hạn là 80.000 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 72,7% tổng dư nợ, năm 2006 là 62.000 triệu đồng, chiếm tỷ trọng là 62% so với tổng dư nợ giảm so với năm 2005 là 22.000 triệu đồng và đến năm 2007 cho vay thời hạn này là 80.000 triệu đồng bằng năm 2005 nhưng do tổng dư nợ năm này giảm xuống nên tỷ trọng của dư nợ cho vay năm 2006 chiếm 84,2% tổng dư nợ. Cho vay ngắn hạn phản ánh đặc điểm chung của sản xuất nhỏ là chu chuyển vốn ngắn hạn, vòng quay nhanh nên các doanh nghiệp cần vay vốn nhằm bổ sung vốn lưu động còn thiếu hụt trong quá trình sản xuất, đảm bảo sự luân chuyển vốn cho hoạt động kinh doanh thông suốt, ổn định.
Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ cho vay đối với DNV&N của NHCT Hoàn Kiếm còn thấp. Trong năm 2005, cho vay trung và dài hạn là 30.000 triệu đồng, chiếm 27,3% tổng dư nợ, dến năm 2006, cho vay trung và dài hạn là 38.000 triệu đồng, tỷ trọng tăng lên 38% tổng dư nợ. Đến năm 2007, cho vay trung và dài hạn là 15.000 triệu đồng giảm nhanh so với hai năm trước, tỷ trọng chỉ còn 15,8% tổng dư nợ. Vì vậy, qua tỷ lệ trên thì NHCT Hoàn Kiếm cần mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay trung và dài hạn. Chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư cho DNV&N, tạo điều kiện cho DNV&N có thể hướng phát triển theo chiều sâu, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.
b. Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNV&N.
Dưới đây là số liệu cho biết tốc độ tăng dư nợ tín dụng đối với DNV&N tại NHCT Hoàn Kiếm.
Bảng 10: Tình hình tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNV&N
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Dư nợ cho vay DNV&N
110.000
100.000
95.000
Mức tăng dư nợ
-10.000
-5.000
Tốc độ tăng trưởng (%)
-9,1
-5
Nguồn: Báo cáo phòng tổng hợp.
Qua bảng số liệu trên cho thấy, mức tăng dư nợ giảm dần. Năm 2006 mức tăng dư nợ giảm 10.000 triệu, tốc độ tăng trưởng giảm 9,1% so với năm 2005, đến năm 2007 thì giảm 5% so với năm 2006. Qua đó cho thấy, quy mô tín dụng mà ngân hàng cung cấp cho các DNV&N giảm xuống. Do các doanh nghiệp không đáp ứng được các yêu cầu về điều kiện vay vốn, tài sản thế chấp mà ngân hàng đề ra. Đó cũng là tình hình chung của các NHTM trong thời gian này.
* Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNV&N theo thời hạn.
Thông qua tốc độ tăng trưởng cho vay đối với các DNV&N cho biết sự tăng trưởng về quy mô cho vay đối với các DNV&N của NHCT Hoàn Kiếm.
Bảng 11: Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với các DNV&N xét theo thời hạn vay.
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Số tiền
Tốc độ tăng so với 2005 (%)
Số tiền
Tốc độ tăng so với 2006(%)
Ngắn hạn
80.000
62.000
-22,5
80.000
29
Trung và dài hạn
30.000
38.000
26.7
15.000
-60.5
Tổng dư nợ
110.000
100.000
-9.1
95.000
-5
Mức tăng dư nợ
-10.000
-5.000
Nguồn: Báo cáo của phòng tổng hợp.
Qua bảng số liệu trên cho thấy, năm 2006 chủ yếu là dư nợ cho vay trung dài hạn với tốc độ tăng trưởng dư nợ là 26,7% so với năm 2005 nhưng đến năm 2007 tốc độ tăng trưởng giảm rõ rệt, giảm đến 60,5% so với năm 2006. Năm 2007 chủ yếu là cho vay ngắn hạn, dư nợ cho vay ở thời hạn này tăng 29% so với 2006. Nhìn chung thì cho vay DNV&N ở Chi nhánh thời gian này thấp, cho thấy Chi nhánh đã sử dụng chính sách thắt chặt hoạt động cho vay đối với các DNV&N nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro.
2.2.2.4. Tình hình thu nợ và nợ quá hạn của các DNV&N tại NHCT Hoàn Kiếm.
a. Tình hình thu nợ cho vay các DNV&N.
Thực hiện đúng đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển DNV&N, và chủ trương một chính sách tín dụng hiệu quả của NHNN, NHCT Hoàn Kiếm không chỉ quan tâm đến việc mở rộng doanh số cho vay đối với DNV&N mà còn chủ động trong việc thu nợ.
Bảng 12: Tình hình thu nợ DNV&N
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Doanh số cho vay
190.000
100
200.000
100
180.000
100
Doanh số thu nợ
80.000
42,1
100.000
50
85.000
47,2
Nguồn: Báo cáo phòng tổng hợp.
Biểu đồ 8: Tỷ trọng doanh số thu nợ và doanh số cho vay DNV&N tại NHCT Hoàn Kiếm
Qua số liệu và biểu đồ ta thấy doanh số thu nợ DNV&N của Chi nhánh cũng có sự tăng trưởng. Cùng với việc mở rộng cho vay thì công tác thu nợ cũng rất được quan tâm. Năm 2005, doanh số thu nợ là 80.000 triệu đồng với tỷ trọng thu nợ là 42,1%, năm 2006 tỷ trọng thu nợ là 50% tăng 25% so với năm 2005. Đến năm 2007 tỷ lệ này là 47,2%. Điều đó cho thấy công tác thu hồi nợ của Ngân hàng tương đối tốt. Các khoản nợ đến hạn trả được thu hồi và Ngân hàng tăng cường cho vay các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng - chi trả thường xuyên và có tình hình tài chính lành mạnh.
b. Tình hình nợ quá hạn của các DNV&N.
Khi đánh giá chất lượng tín dụng DNV&N thì không thể thiếu chỉ tiêu nợ quá hạn DNV&N/ tổng dư nợ DNV&N, là chỉ tiêu quan trọng nhất, nó phản ánh trực tiếp chất lượng tín dụng của khoản cho vay. Dưới đây là số liệu nợ quá hạn trong 3 năm gần đây.
Bảng 13: Tình hình nợ quá hạn của DNV&N
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Dư nợ DNV&N
110.000
100.000
95.000
Nợ quá hạn DNV&N
100
60
30
Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
0,09
0,06
0,032
Nguồn: Báo cáo phòng tổng hợp.
Biểu đồ 9: Tình hình tăng giảm nợ quá hạn của DNV&N
Nhìn bảng và biểu đồ về tình hình nợ quá hạn của DNV&N ta thấy nợ quá hạn loại hình cho vay này giảm rõ rệt, năm 2005 là 100 triệu đồng và con số này giảm nhanh trong năm 2006 và 2007 chỉ con 60 triệu đồng và 30 triệu đồng. Điều đó dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn DNV&N/ tổng dư nợ DNV&N của NHCT Hoàn Kiếm cũng giảm. Năm 2005 tỷ lệ này là 0.09%, năm 2006 là 0.05% và giảm xuống còn 0.032% vào năm 2007. Qua đó ta thấy nợ quá hạn của loại hình cho vay này chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng dư nợ cho vay DNV&N. Chi nhánh luôn theo dõi giám sát chặt chẽ việc sử dụng tiền vay của từng doanh nghiệp và có biện pháp thu hồi nợ đúng hạn. Điều này chứng tỏ Chi nhánh đã rất quan tâm đến việc hạn chế nợ quá hạn nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
2.3. Đánh giá chung về tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
2.3.1. Những kết quả đạt được.
Trong xu hướng vận động phát triển của nền kinh tế, nhận thức được vai trò quan trọng của các DNV&N, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích phát triển DNV&N. Bên cạnh đó cũng không thể bỏ qua tính cấp thiết của tín dụng ngân hàng. Trong những năm qua đã mở rộng vốn tín dụng đối với các DNV&N một cách hợp lý góp phần hỗ trợ nhu cầu vốn cho các DNV&N trong sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Vốn tín dụng của NHCT Hoàn Kiếm đã đem lại những hiệu quả đầu tư quan trọng cho DNV&N, cung cấp vốn kịp thời cho hoạt động kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư thiết bị máy móc, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ tác nghiệp và quản lý cho đội ngũ lao động nhờ vào nguồn vốn từ NHCT Hoàn Kiếm
Trong thời gian qua, ngân hàng đã thực hiện tốt chủ trương bám sát các doanh nghiệp có điều kiện ổn định sản xuất kinh doanh, song vẫn đảm bảo được tính an toàn của vốn đầu tư. Hoạt động tín dụng của NHCT Hoàn Kiếm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong 3 năm qua đã đạt được những kết quả đáng kể:
- Vốn tín dụng của Chi nhánh đã tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có thu nhập. Góp phần giải quyết việc làm cho một khối lượng lớn lực lượng lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, hạn chế những tiêu cực xã hội.
- Nguồn vốn tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh đã kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn lưu động cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó Chi nhánh cũng cố gắng đáp ứng một cách tốt nhất nguồn vốn trung và dài hạn giúp các doanh nghiệp ổn định và phát triển, tìm được chỗ đứng trên thị trường.
- Các khoản cho vay đều được thẩm định, kiểm tra chặt chẽ trước, trong sau khi cho vay để đảm bảo việc sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, an toàn cho ngân hàng.
Trong những năm qua, tín dụng ngân hàng đã thực sự trở thành đòn bẩy quan trọng tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.
- Chất lượng tín dụng tương đối tốt với nợ quá hạn của DN&VN không cao, vòng quay vốn nhanh đảm bảo việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp.
- Khách hàng quan hệ tín dụng với chi nhánh ngày càng đa dạng và phong phú. Chi nhánh đã quan tâm, chú ý nhiều hơn việc đầu tư vốn tín dụng trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt là sự phát triển của các ngành nghề mũi nhọn của Hà Nội như du lịch, thương mại
- Mối quan hệ với khách hàng truyền thống, đã vay vốn nhiều năm ở ngân hàng tiếp tục được củng cố và phát triển, những khách hàng này sẽ là cơ sở để NHCT Hoàn Kiếm mở rộng quan hệ tín dụng với các DNV&N trong và ngoài địa bàn.
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại.
Bên cạnh những thành quả mà NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được thì hoạt động tín dụng đối với DNV&N vẫn còn gặp phải những khó khăn và hạn chế.
Ä Hạn chế:
Hoạt động cho vay đối với DNV&N chưa cao còn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng doanh số cho vay của ngân hàng, chỉ chiếm 18% đến 20% doanh số cho vay. Đây là con số không phải lớn khi mà số lượng DNV&N có nhu cầu vay vốn rất lớn. Do đó ngân hàng cần có biện pháp để duy trì và tăng trưởng được tỷ trọng này.
Hiện nay các DNV&N đang có nhu cầu rất lớn về nguồn vốn trung dài hạn để đầu tư máy móc, trang thiết bị và cơ sở hạ tầng. Nhưng nguồn vốn mà NHCT Hoàn kiến đáp ứng cho các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi muốn đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất.
Ä Khó khăn:
Những khó khăn từ phía khách hàng:
Các DNV&N trên địa bàn thành phố trong những năm qua đã tăng mạnh về số lượng nhưng quy mô hoạt động còn nhỏ bé, vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, chủ yếu là các hộ kinh doanh cá thể làm ăn riêng lẻ và tự phát, do vậy, nhiều doanh nghiệp, nhất là các DNV&N ngoài quốc doanh hoạt động kém hiệu quả dẫn đến tình trạng làm ăn thua lỗ, không trụ vững trong môi trường sản xuất kinh doanh phức tạp, nhiều biến động. Ngoài ra trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp còn hạn chế, khi quy mô nhỏ thì làm ăn kinh doanh rất hiệu quả, nhưng đến khi có điều kiện mở rộng làm ăn với quy mô lớn hơn thì không đủ khả năng quản lý dẫn đến kết quả kinh doanh không cao, ảnh hưởng đến năng lực trả nợ cho ngân hàng.
Công tác quản lý nhà nước về đăng ký kinh doanh, việc chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhiều bất cập cho nên có nhiều doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh chưa đáp ứng được yêu cầu về hạch toán chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của các cá nhân dưới hình thức sổ nợ, các doanh nghiệp tư nhân thì hạch toán chưa đúng chế độ quản lý tài chính và chưa đầy đủ, do vậy độ chính xác của số liệu không cao, hầu hết các báo cáo tài chính đều không qua kiểm toán hoặc chỉ qua kiểm toán nội bộ nên ngân hàng rất khó nắm bắt được tình hình thực tế, dẫn đến các món vay sẽ bị từ chối do không đáp ứng được đủ hồ sơ tín dụng.
Các doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp. Đây là khó khăn chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Hầu hết các doanh nghiệp có cơ sở hạ tầng kinh doanh thấp kém, máy móc thiết bị thì lạc hậu. Trong khi đó các ngân hàng yêu cầu rất cao về tài sản thế chấp để vay vốn, mâu thuẫn này có thể giải quyết khi nào các DNV&N và các Ngân hàng có nhiều cuộc tiếp xúc, bàn bạc hơn.
Trình độ quản lý doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, số cán bộ lãnh đạo có khả năng thuyết trình báo cáo dự án khả thi là rất ít, do đó sức thuyết phục với ngân hàng cho vay là kém. Nhiều khách hàng không muốn vay vốn của ngân hàng vì như vậy sẽ khó trốn nghĩa vụ nộp thuế, nên thường xuyên vay của tư nhân.
Những khó khăn từ phía ngân hàng:
Để cho vay các DNV&N ngoài quốc doanh cán bộ tín dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc nhất là những quy định thủ tục cho vay còn quá cứng nhắc, nhất là các thủ tục về cầm cố thế chấp tài sản đảm bảo, có quá nhiều giấy tờ cần thiết cho một bộ hồ sơ vay vốn. Thời gian xét duyệt quyết định cho vay còn khéo dài làm lỡ kế hoạch, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Trên thực tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNV&N là muôn màu muôn vẻ nên nhiều khi mẫu giấy tờ in sẵn không phù hợp với điều kiện hoạt động của khách hàng.
NHCT Hoàn Kiếm đã thực sự quan tâm đến việc phát triển tín dụng của Ngân hàng. Tuy nhiên về các hình thức tín dụng của ngân hàng chưa đa dạng đã làm giảm số lượng khách hàng là các DNV&N. Ngược lại, chính bản thân các doanh nghiệp lại tạo ra những khó khăn cho ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng. Các doanh nghiệp này có cơ cấu vốn không hợp lý, tỷ lệ vốn vay khá lớn, hiệu quả kinh doanh thấp. Trong khi đó việc lập báo cáo tài chính thì lại không trung thực gây khó khăn cho quá trình thẩm định xét duyệt cho vay Những điều này đặt ra rất nhiều khó khăn cho Chi nhánh trong việc tìm kiếm các dự án, phương pháp kinh doanh khả thi, có hiệu quả, khách hàng tin cậy để đầu tư vốn, mở rộng khách hàng cũng như mở rộng tín dụng.
Các kênh trợ giúp ngân hàng trong việc thẩm định cũng như theo dõi việc sử dụng vốn của doanh nghiệp sau khi vay hầu như không có, mỗi cán bộ tín dụng phải tự chịu trách nhiệm với món vay mà mình theo dõi, cán bộ tín dụng thường mất thời gian xuống tận cơ sở để giám sát, với cách làm đó thì hiệu quả sẽ không cao, và thông tin thu thập được sẽ không chính xác.
2.3.3. Nguyên nhân.
Sở dĩ hoạt động tín dụng của NHCT Hoàn Kiếm đối với các DNV&N còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc như trên là một số nguyên nhân sau:
- Chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh đổi mới và hoàn thiện. Các DNV&N phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của cơ chế chính sách nên kinh doanh thua lỗ hoặc không đủ điều kiện tiếp tục vay vốn của ngân hàng.
- Hành lang pháp lý chưa đầy đủ và không thuận lợi, việc ban hành các văn bản tín dụng về cấp độ chưa phù hợp dẫn đến sự chồng chéo trùng lặp. Nên việc hướng dẫn và tổ chức còn gặp nhiều khó khăn. Các cơ quan chịu trách nhiệm cấp chứng từ sở hữu tài sản và quản lý Nhà nước đối với thị trường bất động sản chưa thực hiện kịp thời. Do vậy, việc thế chấp tài sản và việc xử lý tài sản thế chấp còn gặp nhiều khó khăn đối với cả người vay và người cho vay.
- Các DNV&N không đủ khả năng đáp ứng đòi hỏi của ngân hàng về thủ tục lập dự án vay vốn hay việc hoàn thành hồ sơ vay một cách hợp pháp.
- Các DNV&N hoạt động với nhiều hình thức phong phú và đa dạng, nên nhiều khi khách hàng khi đến vay thì cán bộ tín dụng gặp nhiều khó khăn khi tư vấn cho khách hàng cũng như yêu cầu thủ tục hồ sơ vay vốn
- Ngân hàng chưa có những biện pháp hỗ trợ cán bộ tín dụng trong quản lý hồ sơ vay cũng như việc theo dõi khách hàng vay, nên dễ dẫn đến không nắm bắt hết tình hình cụ thể của các món vay, trở thành nguy cơ của các khoản nợ có vấn đề và dẫn tới quá hạn gây tổn thất cho ngân hàng.
Trên đây, chúng ta đã xem xét, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh của các DNV&N trong thời gian qua, cũng như thấy được khó khăn về vốn mà các doanh nghiệp này đang gặp phải. Và qua phân tích thực trạng cho vay đối với DNV&N tại NHCT Hoàn Kiếm, cho ta thấy được những gì đã đạt được, những gì còn tồn tại, đồng thời tìm ra nguyên nhân làm ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng nhằm phát triển DNV&N của NHCT Hoàn Kiếm. Do vậy để tháo gỡ những rào cản này, phần nào thắt chặt mối quan hệ tín dụng cũng như để phục vụ khách hàng là DNV&N được hiệu quả hơn, em xin đưa ra một số kiến nghị và các biện pháp nhằm mở rộng cho vay của NHCT Hoàn Kiếm đối với các DNV&N một cách nhanh hơn, hiệu quả hơn góp phần đẩy mạnh phát triển DNV&N theo đúng đường lối của Đảng và Nhà nước đã vạch ra.
Chương 3
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh nhct hoàn kiếm
3.1. định hướng hoạt động của nhct hoàn kiếm trong thời gian tới.
Cùng với nền kinh tế chuyển sang giai đoạn phát triển mới, giai đoạn hội nhập toàn diện nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức WTO đồng nghĩa với mở của thị trưòng tài chính ngân hàng. Nền kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng sẽ có rất nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức, đó là cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế sẽ trở nên gay gắt hơnQuán triệt chỉ đạo của Ban lãnh đạo NHCT Việt Nam, NHCT Hoàn Kiếm đã triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2008, theo định hướng tăng trưởng mạnh về nguồn vốn, đầu tư cho vay trên nguyên tắc an toàn, hiệu quả, bền vững. Hoàn thiện và phát triển bộ máy, mạng lưới kinh doanh, phát triển thị trường và phát triển khách hàng. Đảm bảo an ninh tài chính, an toàn tuyệt đối trong hoạt động của NHCT. Thực hiện cải cách hành chính, phong cách giao dịch, xây dựng văn hóa doanh nghiệp, thương hiệu của NHCT, tạo ra một môi trường kinh doanh tốt, đem đến lợi ích chung cho toàn hệ thống cũng nhu lợi ích cho khách hàng cua NHCT. Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm dự kiến chỉ tiêu phấn đấu năm 2008 như sau:
Mục tiêu
- Nguồn vốn huy động : tăng 39% so với 2007
- Dư nợ cho vay : 1250 tỷ đồng
- Tỷ lệ nợ quá hạn : 0%
- Cho vay có đảm bảo : 65%
- Thu dịch vụ : 3.500 triệu đồng
- Lợi nhuận : 65 tỷ đồng
Để đạt được những chỉ tiêu kế hoạch trên, NHCT Hoàn Kiếm đã đề ra những phương hướng hoạt động và một số biện pháp cụ thể sau:
Chú trọng công tác tiếp thị nhằm mở rộng và đa dạng hóa mạng lưới khách hàng trên cơ sở nghiên cứu và phát triển đồng bộ các chính sách khách hàng của Chi nhánh.
Tích cực tăng trưởng tín dụng, phát triển dư nợ mới đảm bảo chất lượng an toàn, hiệu quả, bền vững. Nguyên cứu và triển khai thực hiện các giải pháp mạnh để tăng cường tiếp thị, giữ vững khách hàng truyền thống, đồng thời khai thác mở rộng, đa dạng hóa đội ngũ khách hàng hướng tới đối tượng là các DNV&N, tư nhân nhằm chuyển đổi cơ cấu dư nợ giảm tỷ trọng cho vay DNNN, tăng trưởng cho vay có đảm bảo bằng tài sản, nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, ngành hàng, thị trường Tuy nhiên, việc mở rộng tín dụng phải dựa trên cơ sở khả năng quản ký, kiểm soát của cán bộ tín dụng, của các phòng khách hàng, nâng cao hiệu lực quản ký điều hành công tác tín dụng, đảm bảo hoạt động kinh doanh ngân hàng hoạt động bền vững.
Đẩy mạnh khai thác tăng trưởng nguồn vốn (cả nội tệ và ngoại tệ) theo hướng đơn giản hóa thủ tục, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn có cơ cấu kỳ hạn và lãi suất hợp lý nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và dân cư. Quan tâm khai thác các nguồn vốn có chi phí đầu vào thấp từ các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Chi nhánh.
Gắn kết công tác phát triển dịch vụ ngân hàng các loại với hoạt động tín dụng là nhiệm vụ trọng tâm của Chi nhánh, tất cả các phòng ban phải ra sức phấn đấu để đạt được kết quả cao nhất. Trong năm 2008 chú trọng:
- Tiếp tục khảo sát, tìm kiếm vị trí thuận lợi để mở thêm điểm kinh doanh nhằm phục vụ và khai thác các nhu cầu khách hàng có hiệu quả hơn.
- Nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ hiện phí như dịch vụ thanh toán, tài trợ thương mại, kinh doanh ngoại hối, dịch vụ thẻ, phát triển sản phẩm trọn gói, sản phẩm mới đa dạng.
- Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện phát triển dịch vụ nhằm triển khai đồng bộ, các chương trình, chiến dịch phát triển sản phẩm.
- Thành lập các nhóm nghiên cứu áp dụng đối với từng loại sản phẩm dịch vụ mới, chuẩn bị chu đáo, cẩn trọng về con người, cơ chế, công nghệ nhằm đạt được hiệu quả cao.
Phát động phong trào học tập nâng cao trình độ đối với CBCNV, có chính sách khuyến học thỏa đáng, công bằng và có hiệu quả cao. Chú trọng hơn nữa công tác cán bộ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, ý thức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao, có đủ bản lĩnh và năng lực chuyên môn để hoàn thành tốt công việc đảm nhiện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh doanh và hội nhập quốc tế.
Phát huy sức mạnh tập thể, nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, thực hiện chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Phát huy dân chủ toàn diệm rộng rãi và thiết thực kể cả trong tác nghiệp và trong quản lý điều hành, nhằm khai thác, phát huy tính chủ động, sáng tạo cho mọi người, mọi phòng ban. Tăng cường đấu tranh phê bình và tự phê bình để tạo được sự thống nhất trong nhận thức và hành động.
3.2. Một số giả pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHCT Hoàn kiếm.
Nền kinh tế đất nước đang ngày càng phát triển, việc gia nhập tổ chức thương mại WTO tạo điều kiện cho các ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam hoạt động, điều này làm cho thị trường tài chính ở Việt Nam sôi động hơn. Các NHTM phải hoạt động trong một môi trường có tính cạnh tranh cao về mọi mặt: công nghệ ngân hàng, nguồn nhân lực, các sản phẩm dịch vụ.
Các DNV&N ngày càng tăng nhanh, chiếm trên 95% tổng số doanh nghiệp trong cả nước như hiện nay thì vai trò của các DNV&N càng trở nên quan trọng. Theo định hướng của Chính phủ, đến năm 2010, cả nước sẽ có 500.000 DNV&N. Đi cùng con số này là một lượng vốn cần đáp ứng. Theo ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho các DNV&N là từ kênh ngân hàng. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với các ngân hàng trước hết là phải khắc phục giải tỏa tâm lý e dè, ngần ngại, nâng cao tinh thần dám nghĩ, dám làm, phấn đấu không ngừng gia tăng dư nợ cho vay ngắn hạn và trung dài hạn đối với khách hàng là các DNV&N nhằm thúc đẩy cho các doanh nghiệp này phát triển.
Song hoạt động cho vay đối với DNV&N ở chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm trong thời gian qua chưa đáp ứng nhu cầu lớn của khách hàng. Sau đây là một số giải pháp nhằm thúc đẩy mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNV&N.
3.2.1 Xây dựng chiến lược hoạt động đối với DNV&N.
Ngân hàng đã xác định DNV&N hiện nay là đối tượng khách hàng cần được đặc biệt quan tâm chú trọng và thu hút họ hơn nữa. Trước mắt, ngân hàng cần xây dựng chiến lược khách hàng lâu dài đặc biệt là đối với DNV&N. Chiến lược ấy gắn liền với lợi ích của khách hàng, phải tạo được uy tín đối với khách hàng. Tiếp theo, cần áp dụng chính sách không phân biệt giữa doanh nghiệp lớn với DNV&N. Để thu hút hơn nữa khách hàng là DNV&N, ngân hàng nên hỗ trợ, tư vấn cho họ về thủ tục xin vay vốn, các giấy tờ cần thiết, liên quan. Ngân hàng có thể tổ chức các buổi hội thảo gặp gỡ các DNV&N để bàn về các vấn đề còn vướng mắc trong cho vay, những khó khăn của doanh nghiệp để cùng ngân hàng tìm ra những giải pháp thích hợp. Bên cạnh đó ngân hàng có thể giới thiệu những sản phẩm mới phù hợp với đối tượng này nhằm thu hút ngày càng nhiều DNV&N đến với ngân hàng.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần xây dựng chiến lược cạnh tranh trong hoạt động tín dụng đối với DNV&N. Hà Nội là trung tâm của quốc gia cho nên tập trung rất nhiều ngân hàng lớn, cũng như các DNV&N, cho nên một chiến lược cạnh tranh là rất cần thiết để ngân hàng tiếp cận được nhiều hơn với các DNV&N. Để tăng khả năng cạnh tranh của mình ngân hàng cần thay đổi cách tiếp cận với khách hàng. Thực tế hiện nay, các DNV&N vẫn còn dè dặt trong hoạt động tín dụng với ngân hàng, họ thích vay vốn ở bên ngoài hơn vì ít bị ràng buộc về giấy tờ pháp lý. Trong cơ chế mới thì ngân hàng cần phải tự tìm kiếm lấy khách hàng của mình, chủ động hơn trong việc quảng bá về mình đối với bộ phận khách hàng này hơn nữa.
3.2.2. Đẩy mạnh huy động vốn để có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Tìm thêm nguồn vốn mới để hỗ trợ.
Huy động vốn là nghiệp vụ tiên quyết, tạo điều kiện cho hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng phải dồi dào thì mới đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng. Vì vậy tổ chức công tác huy động vốn tốt cũng góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ tín dụng cho DNV&N.
Ngoài nguồn vốn huy động được nhân hàng phải tăng cường tìm thêm nguồn vốn mới từ các tổ chức nước ngoài.
3.2.3. Ngân hàng chủ động tìm đến khách hàng.
Muốn nõng cao chất lượng cho vay đối với DNV&N thỡ trước hết ngõn hàng phải tiếp cận với cỏc doanh nghiệp để tỡm hiểu thụng tin khỏch hàng, đồng thời giới thiệu những sản phẩm của ngõn hàng, khuyến khớch khỏch hàng sử dụng cỏc sản phẩm của mỡnh bằng cỏch nờu ra những tiện ớch và lợi ớch khi sử dụng sản phẩm đú nhằm thu hỳt thờm những khỏch hàng hoạt động cú hiệu quả. Trước tiên NHCT Hoàn Kiếm cần phải củng cố quan hệ với những khỏch hàng truyền thống vỡ những khỏch hàng này thường xuyờn cú quan hệ tớn dụng với ngõn hàng, thường xuyờn thanh toỏn đầy đủ cho ngõn hàng.
Để thu hỳt thờm khỏch hàng mới, ngõn hàng cú thể cử cỏn bộ trực tiếp đến cỏc doanh nghiệp để giới thiệu về ngõn hàng, về cỏc sản phẩm, gợi mở những nhu cầu cho khỏch hàng, thuyết phục khỏch mở tài khoản tại ngõn hàng. Đõy là một cỏch marketing rất hiệu quả và tốn ớt chi phớ, khi làm như vậy ngõn hàng đó nõng cao được vai trũ của khỏch hàng, rỳt ngắn thời gian cho khỏch hàng so với việc khỏch hàng tự đi tỡm nguồn vay. Ngõn hàng cũng cần tăng cường cho cỏn bộ tớn dụng gặp gỡ trực tiếp với chủ doanh nghiệp, tham quan nơi sản xuất kinh doanh giỳp cỏn bộ tớn dụng biết được tỡnh hỡnh hoạt động của doanh nghiệp, biết được tớnh cỏch của chủ doanh nghiệp: tớnh trung thực, tinh thần trỏch nhiệm..., từ đú loại ra những khỏch hàng làm ăn khụng cú hiệu quả. Đú là những đặc điểm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ của khỏch hàng. Muốn làm tốt những điều đú, đũi hỏi cỏn bộ tớn dụng phải cú kỹ năng giao tiếp; cú khả năng phõn tớch, đỏnh giỏ tỡnh hỡnh tốt.
Càng tiếp xỳc với nhiều khỏch hàng thỡ ngõn hàng càng tỡm được nhiều đối tỏc làm ăn cú hiệu quả cú nhu cầu vay vốn, loại ra những doanh nghiệp làm ăn khụng cú hiệu quả. Từ đú mở rộng được cho vay, nõng cao được chất lượng cho vay.
3.2.4. Xây dựng một chính sách cho vay linh hoạt cho DNV&N.
Chính sách cho vay phải linh hoạt theo đối tượng vay vốn. Với các khách hàng thường xuyên thì có thể cho vay với lãi suất, điều kiện ưu đãi, sản phẩm phong phú linh hoạt, cung cấp một số dịch vụ miễn phíđối với những doanh nghiệp luôn làm ăn có hiệu quả có thể không cần tài sản đảm bảo. Một trong những điều quan tâm của doanh nghiệp khi đến vay vốn ngân hàng là lãi suất bởi lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho doanh nghiệp. Do vậy, mức lãi suất phải hợp lý, hình thành trên thỏa thuận với khách hàng, hài hòa lợi ích ngân hàng và doanh nghiệp. Đa dạng hóa các loại hình lãi suất để tạo điều kiện phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Với từng loại lãi suất và từng lại kỳ hạn khách hàng có thể lựa chọ khoản vay phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của họ. Đối với DNV&N, nên thực hiện lãi suất dựa vào độ tín nhiệm của doanh nghiệp, xu thế sản xuất kinh doanh trên thị trường. Ngân hàng có thể chia nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức tín dụng ở một ngưỡng nhất định đối với một khoản vay để đáp ứng được nhiều nhu cầu nhỏ hơn. Ví dụ, ngoài các khách hàng truyền thống thì có thể từ chối các khoản vay trên 15 tỷ đồng để chia lượng tín dụng đó cho những khoản vay nhỏ hơn.
3.2.5. Đa dạng hóa hoạt động cho vay đối với DNV&N
Khu vực DNV&N rất đa dạng về quy mô, ngành nghề kinh doanh, rất linh hoạt, vì vậy nhu cầu khối lượng vốn vay, thời hạn vay là không giống nhau. Chính vì vậy mà ngân hàng phải đưa ra những loại hình tín dụng phù hợp với từng yêu cầu của khách hàng, đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu vốn vay của khách hàng nhằm mở rộng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Ngân hàng nên linh hoạt cho vay đối với từng đối tượng khách hàng. phải mạnh dạn đánh giá xem xét mức độ tín nhiệm của DNV&N để có thể cho vay tín chấp. Không phải tất cả các DNV&N có tài sản thế chấp, Ngân hàng nên căn cứ và hiệu quả của phương án vay vốn, nguồn chính để trả nợ khoản vay là lợi nhuận mang lại từ phương án sản xuất. Ngân hàng có thể góp chung vốn để cùng sản xuất. Như vậy sẽ tăng mức độ tín nhiệm giữa ngân hàng với khách hàng, tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Thông thường các ngân hàng thường cho vay trực tiếp giữa ngân hàng với doanh nghiệp, thì NHCT Hoàn Kiếm có thể cấp tín dụng gián tiếp thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ và còn trong thời hạn thanh toán
Cũng không nằm ngoài mục tiêu phục vụ tốt nhất nhu cầu đa dạng của các DNV&N, Chi nhánh nên đa dạng hóa hình thức tín dụng đối với DNV&N. Ngoài các hình thức cho vay truyền thống thông qua việc cầm cố, thế chấp tài sản, Chi nhánh nên phát triển các hình thức cho vay vốn mới. Chi nhánh có thế cho vay bằng cách chiết khấu giấy tờ có giá. Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp sở hữu các giấy tờ có giá như hối phiếu, trái phiếu chưa đến hạn thanh toán nhưng doanh nghiệp lại có nhu cầu đột xuất về chi tiêu, doanh nghiệp có thể đem những chứng từ này đến ngân hàng xin chiết khấu. Đây là một hình thức cấp tín dụng gián tiếp, giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu vốn lưu động không thường xuyên, dễ dàng góp phần đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn. Hoạt động này vừa giúp cho các DNV&N có thể huy động nhanh, dễ dàng một nguồn vốn khi cần thiết, vừa giúp ngân hàng đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, giảm thiểu rủi ro, lại tăng nguồn thu nhập.
Hơn nữa Chi nhánh cần mở rộng hình thức cho vay bảo lãnh. Trong quá trình sản xuất, có các doanh nghiệp thiếu vốn nhưng không đủ điều kiện vay vốn theo quy định của NHCT thì Chi nhánh có thể tư vấn cho khách hàng nhờ một tổ chức nào đó đứng ra bảo lãnh khoản vay. Khi áp dụng hình thức này, Chi nhánh yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải có đầy đủ giấy tờ cần thiết. Việc bảo lãnh phải được ký kết bằng văn bản có xác nhận của cơ quan làm chứng.
Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua chịu, điều này là cho các doanh nghiệp thiếu vốn, do bị chiếm dụng vốn. Ngân hàng có thể giúp các doanh nghiệp thiếu vốn tức thời bằng cách cho vay trên một tỷ lệ nào đó đối với các khoản phải thu, tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản vay đó, và uy tín của doanh nghiệp. Việc cầm cố này có thể thông báo hoặc không thông báo cho khách hàng thiếu nợ của doanh nghiệp tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó Chi nhánh cũng có thể phát triển hình thức hùn vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với khách hàng. Đây là hình thức tín dụng được áp dụng khá phổ biến ở các nước công nghiệp ngân hàng phát triển. Nó giúp ngân hàng không những mở rộng được tín dụng mà còn có điều kiện thâm nhập vào thị trường. Hơn nữa, do có sự cộng tác của các chuyên gia ngân hàng chắc chắn các doanh nghiệp sẽ làm ăn hiệu quả hơn, dần dần đưa khu vực DNV&N phát triển ngày càng mạnh hơn, nhanh hơn.
Không chỉ đa dạng hóa về hình thức cấp tín dụng mà Chi nhánh cũng cần chú ý đến đa dạng hóa phương thức cho vay. Phương thức cho vay phải đảm bảo thực hiện tốt cơ chế tín dụng và đảm bảo cho khách hàng sử dụng vốn nhanh, tiết kiệm, hiệu quả. Ngoài phương thức cho vay từng lần, NHCT Hoàn Kiếm nên mở rộng thêm các phương thức cho vay khác đối với DNV&N để tiện lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng.
3.2.6. Nâng cao chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng.
Nền kinh tế thị trường phát triển, song song với việc hoạt động tín dụng ngày càng đòi hỏi tăng lên cả về chất lượng và quy mô thì khách hàng cũng ngày càng phong phú. Do đó khả năng rủi ro thất thoát vốn cũng cao, đặc biệt là trong bộ phận các DNV&N mà vốn dĩ đã thường phát sinh những rủi ro khi cho vay. Vì vậy, ngân hàng cần phải chọn cho mình những khách hàng tốt trên cơ sở nâng cao chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng.
Chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng thể hiện ở khả năng phân tích, nhận định tình hình khách hàng trước, trong và sau khi cho vay, nó có quan hệ chặt chẽ với quan hệ tín dụng. Đánh giá tình hình khách hàng càng chính xác, chất lượng tín dụng càng cao. Bởi vì, thông qua đánh giá, ngân hàng sẽ phân loại được khách hàng, một mặt thanh lọc được những khách hàng yếu kém. Đồng thời cũng qua đó thu hút và tập trung đầu tư cho những khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh tốt. Có như vậy ngân hàng mới khuyến khích được sự phát triển của các DNV&N. Từ đây, ngân hàng có thể tạo dựng uy tín của mình trên thị trường, thu hút nhiều hơn nữa các khách hàng là DNV&N, tạo sự cân bằng trong hoạt động tín dụng đối với tất cả các thành phần kinh tế.
3.2.7. Thực hiện nghiêm túc quy trình thẩm định.
Hoạt động tín dụng đối với DNV&N thường có những rủi ro phát sinh. Muốn tránh được phần nào rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng, khi nhận được đề nghị vay vốn của khách hàng, ngân hàng cần tổ chức xem xét hồ sơ vay vốn của khách hàng một cách cẩn thận dưới nhiều khía cạnh để quyết định cho vay hay không. Và nếu cho vay thì số lượng bao nhiêu, thời gian bao lâu đó chính là quá trình thẩm định tín dụng.
Thẩm định càng cẩn thận bao nhiêu thì khả năng xảy ra rủi ro ít bấy nhiêu. Khi thẩm định cần dựa trên các yếu tố như:
- Khả năng cho vay của chính ngân hàng.
- Dự án đầu tư, đối tượng cho vay, có thích hợp với hoàn cảnh kinh tế và phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ hay không.
- Khả năng hoàn trả của khách hàng.
Dựa trên các yếu tố này, thẩm định sẽ xem xét các điểm chính:
Thứ nhất, xem xét năng lực pháp lý của khách hàng. Nếu khách hàng là pháp nhân, phải xem xét thành lập đó có hợp pháp không. Nếu khách hàng là thế nhân, phải xem người đó có đủ năng lực pháp lý để giao dịch với ngân hàng không. Đây là khâu đặc biệt quan trọng khi đối tượng khách hàng là chủ thể DNV&N. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần phân tích những thông tin cần thiết về khách hàng như tài sản công nợ, tình hình kinh doanh thông qua các báo cáo tài chính của khách hàng. Tuy nhiên, ngân hàng không chỉ dựa trên thông tin từ các báo cáo tài chính mà phải trực tiếp thu nhập từ các nguồn khác nữa, như trực tiếp tìm hiểu cơ sở hoạt động của doanh nghiệp. Làm được như vậy thì những kết luận mà ngân hàng đưa ra mới phần nào có tính chính xác.
Thứ hai, xem xét mục đích vay vốn của khách hàng. Đây chính là xem xét thẩm định tính khả thi của dự án đầu tư của khách hàng. Ngân hàng phải nghiên cứu về thị trường sản phẩm hàng hoá dịch vụ đầu ra của khách hàng, nghiên cứu thị trường nguyên vật liệu, dịch vụ đầu vào tương ứng, tình hình cạnh tranh trong và ngoài nước. Đồng thời, ngân hàng phải dự đoán được sự biến chuyển của tình hình kinh tế trong và ngoài nước. Kết thúc quá trình này, đòi hỏi phải có được những kết luận về:
- Tổng số vốn đầu tư cần thiết cho dự án.
- Vòng quay vốn lưu động cần thiết của dự án.
Công việc này đòi hỏi phải có lượng thông tin đầy đủ về thị trường, khả năng phân tích thị trường và hiểu biết về sản phẩm, dịch vụ là đối tượng của dự án của cán bộ thẩm định. Qua đó, ngân hàng sẽ tính toán được vốn tín dụng cần thiết phải đầu tư, kỳ hạn tín dụng và phương thức thu nợ hiệu quả.
Thứ ba, xem xét tài sản bảo đảm tiền vay. Tín dụng thường gặp rủi ro, nhất là tín dụng cho DNV&N. Vì vậy yếu tố bảo đảm tiền vay cần được phải được chú ý.
Thứ tư, xem xét khả năng cho vay của ngân hàng. Sau khi xem xét các vấn đề trên và quyết định cho vay. Nếu lượng tín dụng vượt mức phán quyết của Chi nhánh thì có thể làm đầu mối cho một dự án đồng tài trợ.
Như vậy, làm tốt quá trình thẩm định không những giảm thiểu rủi ro tín dụng đối với DNV&N mà còn tạo cơ hội cho ngân hàng tăng cường hơn nữa hoạt động tín dụng một cách an toàn và hiệu quả.
3.2.8. Tăng cường giám sát, quản lý món vay của các DNV&N.
Khi cho khách hàng là các DNV&N vay, thì điều đó đồng nghĩa với việc
ngân hàng có thể phải chịu những rủi ro. Muốn hạn chế tối đa những rủi ro đó phát sinh thì ngân hàng cần thiết phải:
- Giám sát, cập nhật thông tin về khách hàng: NHCT Hoàn Kiếm cần chú trọng tới khâu thẩm định trước khi cho vay. Song công tác giám sát sau cho vay cũng quan trọng không kém. Thực tế, giám sát sau cho vay vẫn chưa thực sự được ngân hàng xem trọng, dẫn đến những trường hợp xấu phát sinh, thu hồi chậm hoặc không thu hồi được, gây thiệt hại về vốn và tài sản cho ngân hàng.
Để tăng cường hơn nữa hoạt động tín dụng cho các DNV&N, NHCT Hoàn Kiếm cũng nên tăng cường giám sát món vay, đề ra biện pháp xử lý kịp thời những món vay có vấn đề. Cán bộ tín dụng phải thường xuyên cập nhật để có những kết luận chính xác về các vấn đề:
+ Tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với nợ vay ngân hàng qua việc họ lảng tránh gặp gỡ, có nhiệt tình trao đổi với cán bộ tín dụng những vấn đề liên quan đến món vay, có sao nhãng việc trả nợ hay không.
+ So sánh mức độ khác biệt giữa phương án xin vay với thực tế chiều hướng tốt hay xấu? Doanh số và quy mô hoạt động, doanh thu, lợi nhuận tăng hay giảm, hàng hoá có tiêu thụ được hay không
+ Đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp như: mức độ luân chuyển tiền mặt có đáp ứng được cho hoạt động sản xuất kinh doanh và trả nợ không.
+ Tình hình biến động tài sản dùng vào sản xuất kinh doanh. Có loại tài sản nào nhàn rỗi , giá trị bị giảm xuống hay không.
+ Đánh giá lại tài sản đảm bảo nợ vay và mức độ sẵn sàng trả nợ thay người bảo lãnh.
- Phân loại các khoản tín dụng để có biện pháp xử lý kịp thời những món vay có vấn đề.
Đánh giá và xếp hạng mức độ rủi ro của món vay, từ đó có những biện pháp xử lý những món vay trong danh sách theo dõi. Việc xử lý này phải dựa trên nguyên tắc cơ bản là: tận dụng hết lượng tiền mặt sẵn có, buộc doanh nghiệp phải bán toàn bộ sản phẩm dịch vụ ở mức giá cả hợp lý để tạo ra nhu cầu có khả năng thanh toán bằng tiền mặt, tận dụng hết tài sản có của doanh nghiệp, tìm cách chuyển hoá nhanh tất cả các loại tài sản đó thành tiền mặt tạo nguồn trả nợ.
3.2.9. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Ngoài công tác giám sát món vay do cán bộ tín dụng tiến hành, ngân hàng cần phải tăng cường tổ chức kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Công tác này phải do các cán bộ có trình độ chuyên môn nhất định, có đủ khả năng đánh giá, phân tích tình hình doanh nghiệp cũng như ngân hàng và phải không liên quan tới hoạt động cho vay, thu nợ. Nhiệm vụ của công tác này là thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chính sách, thủ tục cho vay, quy trình tín dụng , năng lực trình độ cán bộ tín dụng trong việc thực hiện nghiệp vụ cho vay. Làm được như vậy, thì ngân hàng mới đạt hiệu quả cao khi cho các DNV&N vay. Bởi vì, ta đã biết, cho DNV&N vay thường có những rủi ro cao, nên qua việc kiểm tra kiểm soát nội bộ có thể tìm ra sai sót, vướng mắc trong quy trình thủ tục vay để có những biện pháp khắc phục kịp thời trong nhằm đạt hiệu quả tối đa trong hoạt động tín dụng đối với DNV&N.
3.2.10. Chú trọng công tác đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ.
NHCT Hoàn Kiếm đang thực hiện chương trình hiện đại hoá ngân hàng nên cơ cấu tổ chức đã được thay đổi, tuy nhiên trình độ của cán bộ còn chưa tương xứng với tầm cỡ của một ngân hàng hiện đại, chưa đáp ứng được đòi hỏi của công việc ngày càng khó khăn phức tạp. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, ngân hàng đang quan tâm tới một bộ phận khách hàng dễ phát sinh rủi ro là các DNV&N. Cho nên yêu cầu đặt ra đối với cán bộ tín dụng cũng phức tạp hơn, khó khăn hơn.
Nếu xét đầu vào, ngân hàng nên thực hiện công tác tuyển chọn cán bộ thực sự có năng lực phát triển cả chuyên môn nghiệp vụ và trình độ văn hoá, đặc biệt là những cán bộ trẻ có năng lực nhạy bén với yêu cầu của hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Đạt được trình độ nhất định, cán bộ tín dụng sẽ nhạy bén hơn trong việc tiếp cận, giám sát, quản lý món vay của các DNV&N.
Ngoài ra các công tác tư tưởng, khuyến khích về mặt vật chất cho cán bộ để họ yên tâm công tác, xây dựng nền văn hoá riêng cho ngân hàng, tạo nên một tập thể bền vững và đoàn kết. Ngân hàng cũng cần có một tổ chức hỗ trợ các cán bộ trong việc thu thập thông tin khách hàng cũng như giám sát hoạt động của khách hàng giúp cho cán bộ ngân hàng đỡ bớt những gánh nặng và sức ép của công việc.
3.2.11. Tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống thông tin ngân hàng.
Trong cạnh tranh, ai có được thông tin, người đó sẽ nắm chắc phần thắng. Đặc biệt là trong kinh doanh tín dụng ngân hàng mà đối tượng khách hàng là các DNV&N thì thông tin càng có vai trò quan trọng. Thông tin không chỉ là những thông tin về khách hàng mà còn là về thị trường sản phẩm trong và ngoài nước như: thông tin về số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường, kể cả những doanh nghiệp sắp được thành lập; mức cung thực tế của sản phẩm trên thị trường; thông tin về giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế, kim ngạch xuất nhập khẩu.
3.2.12. Củng cố công tác khách hàng
Công tác khách hàng là một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh. Để dành được và duy trì chữ tín, hạn chế rủi ro và đạt được hiệu quả trong hoạt động kinh doanh cho cả ngân hàng và khách hàng, NHCT Hoàn Kiếm cần thường xuyên thực hiện và liên tục đổi mới công tác khách hàng trên cơ sở những định hướng chung của ngân hàng Công thương Việt Nam.
Trên đây là những giải pháp cơ bản nhằm tiến tới đích là tăng cường hoạt động tín dụng đối với DNV&N tại NHCT Hoàn Kiếm. Các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả của nó khi được thực hiện một cách đồng bộ với sự đồng tâm nhất trí của toàn thể cán bộ của NHCT Hoàn Kiếm. Song nỗ lực của riêng NHCT Hoàn Kiếm thì chưa đủ, cần phải có sự trợ giúp, quan tâm chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong một môi trường kinh tế, pháp luật ổn định, hoàn chỉnh, cùng với nỗ lực và sự hơp tác của các phía, các DNV&N thì mục đích ấy mới thực hiện một cách tối ưu, có hiệu quả nhất.
3.3. Một số kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Từ việc phân tích thực trạng, những hạn chế về hoạt động tín dụng của NHCT Hoàn Kiếm đối với DNV&N, em xin đưa ra một số ý kiến đóng góp nhỏ đối với Chính phủ, đối với ngân hàng Nhà nước, ngân hàng Công thương Việt Nam như sau:
3.3.1. Kiến nghị với nhà nước.
Nhà nước tiếp tục hoàn thiện nhanh hệ thống pháp luật cho phù hợp với quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, bao gồm môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (tiếp cận với vốn, đất đai, lao động, công nghệ và thông tin thị trường); minh bạch hóa việc bảo hộ đối với các thành phần kinh tế trong nước. Phát triển thị trường lao động và có chính sách thích hợp đối với thị trường bất động sản. Cần phải mở rộng quyền cho các DNV&N tuyển dụng lao động, nghiên cứu xây dụng chính sách bảo hiểm thất nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cơ cấu lại DNV&N. Hình thành loại hình dịch vụ chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản.
Nhà nước cần phải tăng cường phát triển thị trường tài chính và có chính sách hỗ trợ cho DNV&N, nhất là đối với các doanh nghiệp mới thành lập. Tuy nhiên chính sách hỗ trợ nên tập trung vào những doanh nghiệp được xác định là cần thiết, mang lại hiệu quả thiết thực cho quốc tế dân sinh để tránh sự dàn trải, phân tán.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N thực hiện quyền kinh doanh và khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu. Nên thực hiện phương châm Nhà nước không can thiệp trực tiếp; các cấp, các ngành tạo điều kiện hơn nữa để các doanh nghiệp tự do đăng ký kinh doanh, tự do thay đổi sản phẩm mà pháp lụât không ngăn cấm. Cần làm tốt hơn nữa hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân trực tiếp xuất khẩu, không phân biệt mặt hàng xuất khẩu; mở rộng hơn nữa các nghiệp vụ bảo hiểm xuất khẩu.
Nâng cao hơn nữa vai trò của các Hiệp hội, câu lạc bộ và tổ chức chuyên môn đối với sự phát triển của các DNV&N. Nếu tăng cường vai trò của các tổ chức trong việc hỗ trợ, chắc chắn sẽ tạo động lực rất tích cực giúp DNV&N phát triển nhanh mạnh.
Một vấn đề nữa là cần tăng cường đào tạo về nghiệp vụ kinh doanh quốc tế cho đội ngũ cán bộ quản lý các DNV&N. Trong sự phát triển khá nhanh của mô hình này, đây thực sự là vấn đề bức thiết. Những người quản lý DNV&N cần dược trang bị kiến thức một cách bài bản, chu đáo.
3.3.2. Kiến nghị với NHNN
Ngân hàng Nhà nước với chức năng điều hành toàn bộ hệ thống ngân hàng, là ngân hàng của các ngân hàng, những chính sách đúng đắn và cách thức điều hành hợp lý sẽ là tiền đề quan trọng và có tác động tích cực đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nói chung và của NHCT Hoàn Kiếm nói riêng. Để thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình trong việc hướng dẫn các ngân hàng thương mại tăng cường hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngân hàng Nhà nước cần phải:
Thứ nhất, NHNN phải không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật NHNN, luật các tổ chức tín dụng sẽ tạo thuận lợi cho các NHTM thực hiện cho vay đối với nền kinh tế cũng như đối với các DNV&N.
Thứ hai, thành lập các công ty cho thuê tài chính để phục vụ cho các DNV&N. Đây sẽ là nguồn tài trợ vốn trung dài hạn cho các DNV&N. Hình thức tín dụng nay rất an toàn lại rất phù hợp với khả năng nguồn lực của DNV&N, mô hình này được các nước áp dụng thành công và cũng rất phổ biến.
Thứ ba, đẩy mạnh tái cơ cấu các NHTM quốc doanh theo hướng cổ phần hóa và tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quy trình nghiệp vụ.
Thứ tư, nâng cao hơn nữa hiệu quả của quỹ cho vay hỗ trợ các DNV&N trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng, cũng như thành lập trung tâm bảo lãnh, làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng, vừa tạo điều kiện cho DNV&N vay vốn của ngân hàng để đầu tư, vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ doanh nghiệp với tổ chức trung gian và Nhà nước, nhờ đó giảm thiểu rủi ro khi vay vốn.
NHNN và Chính phủ cần tiếp tục đổi mới nội dung các cơ chế cấp tín dụng để ban hành đồng bộ theo hướng thông thoáng, phù hợp với quan hệ dân sự, tiếp tục các hướng dẫn về đơn giản hóa thủ tục, điều kiện cho vay; ban hành quy chế các giao dịch cho thuê tài chính bằng ngoại tệ, quy chế thương phiếu và giấy tờ có giá; quy chế về các nghiệp vụ phát sinh tài chính, bổ sung một số điểm của cơ chế đảm bảo tiền vay có liên quan trực tiếp đến DNV&N.
3.3.3. Kiến nghị với NHCT Việt Nam
Ngân hàng Công thương Việt Nam cần bổ sung và đổi mới cơ chế tín dụng, có những biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu lực trong việc chấp hành thể lệ, quy trình cho vay, nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ để đạt được mục tiêu cuối cùng là tăng cường hoạt động tín dụng đối với các DNV&N.
Với một số giải pháp và kiến nghị trên, em mong muốn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc tăng cường hoạt động tín dụng đối với DNV&Ntại NHCT Hoàn Kiếm . Để thực hiện tốt việc này cần sự phối hợp chặt chẽ không chỉ của Nhà nước, các cơ quan hữu quan, của ngân hàng mà còn đòi hỏi tinh thần hợp tác, tuân thủ pháp luật của các DNV&N.
Kết luận
Ngay từ những ngày đầu đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng việc phát triển khu vực kinh tế các DNV&N. Và cho đến hôm nay, thực tế đã chứng minh vai trò quan trọng của DNV&N trong nền kinh tế thị trường. Việc phát triển các DNV&N là một chiến lược quan trọng có tác động thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá nên hỗ trợ DNV&N là việc làm hết sức cấp thiết của các ngành đặc biệt là ngành ngân hàng. Với tư cách là tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng đồng thời là một công cụ hữu hiệu của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích phát triển kinh tế xã hội, các ngân hàng thương mại đã từng bước điều chỉnh cơ cấu tín dụng của mình hướng tới việc tăng cường hoạt động tín dụng đốivới các DNV&N. Điều đó không chỉ giúp các ngân hàng mở rộng quy mô kinh doanh mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như DNV&N nói riêng.
Qua thực tế tìm hiểu hoạt động tín dụng đối với các DNV&N tại NHCT Hoàn Kiếm, em thấy việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với các DNV&N là hướng đi phù hợp với đường lối phát triển của kinh tế xã hội đất nước.
Trong khuông khổ của một khóa luận tốt nghiệp, bài viết cũng đã hoàn thành được các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, là những vấn đề lý luận chung về vai trò của DNV&N trong nền kinh tế thị trường, cũng như vai trò của việc mở rộng tín dụng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp này.
Thứ hai, khóa luận đánh giá một cách khái quát nhất thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNV&N trong những năm gần đây.
Thứ ba, khóa luận trình bày và phân tích tình hình hoạt động tín dụng của NHCT Hoàn Kiếm đối với các DNV&N, chỉ ra những kết quả đạt được và cả những tồn tại trong quá trình cấp tín dụng cho DNV&N.
Cuối cùng, khóa luận trên cơ sở nhìn nhận một cách khách quan các nguyên nhân tồn tại, mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng phát triển DNV&N và những kiến nghị với Nhà nước, NHNN, NHCT Việt Nam nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp này dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng Ngân hàng hơn
Tuy nhiên, việc phát triển DNV&N là một vấn đề lớn, cần có giả pháp và điều kiện thực hiện đồng bộ. Do đó, trong giới hạn của chuyên đề em chỉ mong góp một phần trong tổng thể các giải pháp và một số kiến nghị đối với NHCT Hoàn Kiếm. Để tín dụng Ngân hàng phát huy được hiệu quả đầu tư vào DNV&N thì cần có sự nỗ lực từ bản thân các DNV&N , có sự phối hợp, hỗ trợ của Chính phủ, NHNN và các Ngân hàng thương mại cũng như các cấp, các ngành có liên quan
Đây là một đề tài hết sức phức tạp cả về lý luận lẫn thực tiễn, do thời gian nghiên cứu có hạn và những hạn chế về mặt tư liệu cũng như trình độ lý luận, kinh nghiệm thực tế còn nhiều thiếu sót. Em mong rằng sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp, phê bình của các thầy cô giáo cũng như các bạn để luận văn mang tính thực tiễn cao hơn và để cho em có thể rút ra những kinh nghiệm quý báu cho bản thân mình.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Thạc sĩ Võ Minh Thu cùng các cô chú anh chị của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7654.doc