Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gạch ốp lát Hà Nội

Thành phẩm tồn kho chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số hàng tồn kho tăng. Đầu năm thành phẩm tồn kho là 6.043.740(nđ) chiếm 72,81% tổng hàng tồn kho. Cuối năm, thành phẩm tồn kho đã tăng lên tới 7.500.673(nđ), chiếm 75,21% tổng hàng tồn kho. Là một doanh nghiệp sản xuất, lượng thành phảm tồn kho quá lớn như trên là một biểu hiện không tốt. Điều đó chứng tỏ sản phẩm sản xuất ra chưa tiêu thụ được, điều này lại kéo theo việc những chi phí bỏ ra để sản xuất thành phẩm này chưa thu hồi được. Ngoài ra còn do một số nguyên nhân khác làm tăng lượng hàng tồn kho là: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng 39.624(nđ) với tỷ lệ tăng 10%. Công cụ dụng cụ trong kho cũng tăng so với cuối năm là 16.485(nđ) với tỷ lệ tăng 6%. Tóm lại, tình hình kết cấu hàng tồn kho của công ty là chưa tốt. Lượng thành phẩm tồn kho còn chiếm rất lớn trong tổng hàng tồn kho sẽ dẫn đến tình trạng hàng hoá bị ứ đọng gây nên việc sử dụng vốn kém hiệu quả làm giảm lợi nhuận của công ty.Vì vậy, khi quyết định dự trữ hàng hoá thì công ty nên có biện pháp tiêu thụ để đạt được mức dự trữ hàng hoá tối ưu, giúp công ty không bị ứ đọng vốn, tối thiểu hoá chi phí ,đảm bảo thực hiện các hợp đồng đã ký kết, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.

doc70 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gạch ốp lát Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng về vốn lưu động.Từ đó có thể gây ra khó khăn cho công ty khi thực hiện chiến lược kinh doanh nhất là chiến lược kinh doanh lâu dài Song xét trên tình hình thực tế của công ty Gạch ốp lát Hà Nội thì tình hình vốn lưu động tạm thời như trên là hợp lý vì công ty đã biết khai thác và sử dụng tốt nguồn vốn tạm thời nhằm đảm bảo nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chứng tỏ công ty đã rất năng động trong việc tổ chức nguồn vốn lưu động đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. 2. Tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty Chủ doanh nghiệp khi đã có vốn trong tay cần phải biết sử dụng chúng vào mục đích gì cho phù hợp lại có tính chất quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nhiều giám đốc cho rằng, hiện nay, việc huy động vốn không khó bằng quản lý và sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả, làm thế nào để tạo ra lợi nhuận. Để biết được công ty Gạch ốp lát Hà Nội phân bổ vốn lưu động thế nào, có hợp lý hay không ta đi xem xét bảng 4: Tình hình phân bổ và cơ cấu VLĐ của công ty năm 2001 (trang bên): Bảng 4: Tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty năm 2001 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh CN/ĐN Số tiền (1.000đ) % Số tiền (1.000đ) % ± Số tiền (1.000đ) ± % I.Tiền 1.509.585 2,26 694.751 0,98 -814.833 -53,98 1.Tiền mặt tại quỹ 1.098.792 72,79 193.872 27,91 -904.920 -82,36 2.Tiền gửi ngân hàng 410.792 27,21 500.879 72,09 90.086 21,93 II.Các khoản phải thu 56.319.226 84,30 59.065.813 83,45 2.746.586 4,88 1.Phải thu của KH 53.113.198 94,31 55.784.379 94,44 2.671.180 5,03 2.Thuế GTGT được khấu trừ 3.206.028 5,69 3.281.434 5,56 75.406.006 2,35 III.Hàng tồn kho 8.300.819 12,42 9.972.469 14,09 1.671.650 20,14 1.NVL tồn kho 1.586.069 19,11 1.744.676 17,49 158.606 10,00 2.Công cụ dụng cụ 274.764 3,31 291.250 2,92 16.485.894 6,00 3.Chi phí SXKD dở dang 396.244 4,77 435.868 4,37 39.624 10,00 4.Thành phẩm 6.043.740 72,81 7.500.673 75,21 1.456.932 24,11 IV. TSLĐ khác 679.162 1,02 1.049.991 1,48 370.829 54,60 1.Tạm ứng 469.546 69,14 628.336 59,84 158.790 33,82 2.Chi phí chờ kết chuyển 209.615 30,86 421.654 40,16 212.039 201,56 Cộng 66.808.793 100 70.783.026 100 3.974.233 5,95 Nhìn vào bảng trên ta thấy: Vốn lưu động của công ty tính đến thời điểm cuối năm 2001 là 70.783.026(nđ) tăng so với đầu năm là 3.974.233(nđ) với tỷ lệ tăng tương ứng là 5,95%. Sự tăng lên của vốn lưu động chủ yếu là do các khoản phải thu và hàng tồn kho là hai khoản mục chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn lưu động đều tăng. Cụ thể: - Các khoản phải thu đến cuối năm 2001 là 56.319.226(nđ) tăng so với đầu năm 2001 là 2.746.586(nd) với tỷ lệ tăng tương ứng 4,88%. Đây là khoản vốn lớn nhất chiếm đến 83,45% vốn lưu động của công ty. - Hàng tồn kho cuối năm 2001 là 9.972.469(nđ) chiếm tỷ trọng 14,09% trong tổng vốn lưu động đã tăng so với đầu năm là 1.671.650(nđ) với tỷ lệ tăng 20,14%. -Tài sản lưu động khác là 1.049.991(nđ) chiếm 1,48% tổng vốn lưu động, tăng so với đầu năm là 370.829 (nđ) với tỷ lệ tăng 54,60%. Tài sản lưu động khác bao gồm các khoản tạm ứng: 628.336(nđ) tăng so với đầu năm là 158.790(nđ) với tỷ lệ tăng 33,82%; chi phí chờ kết chuyển là 421.654(nđ), tăng so với đầu năm là 212.039(nđ) với tỷ lệ tăng 1,16%. Qua xem xét khái quát tình hình vốn lưu động của công ty ta thấy cơ cấu vốn lưu động còn nhiều điều chưa hợp lý. Sự bố trí vốn trong các khoản phải thu và hàng tồn kho còn lớn gây nên hiện tượng ứ đọng vốn cả trong thanh toán và khâu dự trữ. Đặc biệt là với các khoản phải thu, công ty cần phải cố gắng trong công tác tổ chức thu hồi nợ và có biện pháp điều chỉnh hợp lý. Bởi vì, khoản phải thu chiếm một tỷ trọng lớn 83,45% trong tổng số vốn lưu động sẽ gây nên tình trạng bị chiếm dụng vốn trong khâu thanh toán, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn của công ty. 3. Vốn bằng tiền và khả năng thanh toán của công ty Gạch ốp lát Hà Nội Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự trữ một lượng tiền nhất định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cần thiết. Vốn bằng tiền là yếu tố trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của doanh nghiệp.Tương ứng với một quy mô kinh doanh nhất định, đòi hỏi phải có một lượng vốn bằng tiền để đảm bảo cho tình hình tài chính ở trạng thái bình thường. Để thấy rõ hơn về tình hình vốn bằng tiền của Công ty ta xem xét bảng số liệu sau: Bảng 5: Tình hình tăng giảm vốn bằng tiền năm 2001 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh CN/ĐN Số tiền (1.000đ) % Số tiền (1.000đ) % ± Số tiền (1.000đ) ± % I. Tiền 1.509.585 100 694.751 100 -814.833 -53,98 1.TM tại quỹ 1.098.792 72,79 193.872 27,91 -904.920 -82,36 2.Tiền gửỉ NH 410.792 27,21 500.879 72,09 90.086 21,93 Từ bảng 4:Tình hình phân bổ và cơ cấu vốn lưu động của công ty ta nhận thấy: Vốn bằng tiền tại thời điểm cuối năm 2001 là 694.751(nđ) giảm so với đầu năm là 814.833(nđ) với tỷ lệ giảm là 53,98% làm cho tỷ trọng các loại vốn này trong tổng vốn lưu động cuối năm 2001 là 0,98%. Vốn bằng tiền giảm là do các nguyên nhân sau: - Tiền mặt tại quỹ giảm 904.920(nđ) với tốc độ giảm là 83,36%. Cụ thể: Đầu năm, tiền mặt tại quỹ là 1.098.792(nđ) chiếm 72,79% tổng số vốn bằng tiền. Đến cuối năm, tiền mặt tại quỹ còn 193.872(nđ) chiếm 27,91% vốn bằng tiền. Việc dự trữ một lượng tiền mặt thấp sẽ giúp cho công ty tăng cường được các tài sản lưu động sinh lãi, giảm chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Nhưng bên cạnh đó nó cũng còn có hạn chế là công ty phải đi vay ngắn hạn ngân hàng để trang trải các khoản chi phí phát sinh - Tiền gửi ngân hàng của công ty đến thời điểm cuối năm 2001 là 500.879(nđ) tăng so với đầu năm là 90.086 (nđ) với tỷ lệ tăng 21,93%. Vốn tiền gửi ngân hàng tăng là do trong quá trình sản xuất kinh doanh, việc thanh toán hàng được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu là qua ngân hàng.Thanh toán bằng tiền mặt cho mua hàng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Chính vì vậy số tiền gửi ngân hàng có xu hướng tăng lên và tiền mặt tại quỹ có xu hướng giảm đi. Đây cũng là một tất yếu trong nền kinh tế hiện nay. Qua việc phân tích tình hình vốn bằng tiền của công ty ta thấy tỷ trọng vốn bằng tiền trong tổng vốn lưu động là nhỏ.Trong thời gian tới công ty cần phải xem xét lại để nâng cao lượng vốn này để đảm bảo có một khối lượng tiền đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và các khoản chi tiêu hàng ngày của công ty. Khả năng thanh toán của công ty Việc dự trữ một lượng vốn bằng tiền nói riêng và tình hình vốn lưu động nói chung có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.Trong nền kinh tế thị trường, các đối tác kinh doanh, nhất là các bạn hàng thường xuyên quan tâm đến khả năng thanh toán để xem xét đưa ra các quyết định tài chính khi quan hệ với doanh nghiệp. Với công ty Gạch ốp lát Hà Nội thì việc xem xét khả năng thanh toán còn có ý nghĩa điều chỉnh lại tình hình tài chính của mình đảm bảo cho khả năng thanh toán được tốt hơn. Sau đây ta đi xem xét đánh giá khả năng thanh toán của công ty: Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng tài sản Tổng số nợ Hệ số khả năng thanh toán tổng quát đầu năm = 172.770.118 = 1,08 159.483.128 Hệ số khả năng thanh toán tổng quát cuối năm = 157.427.252 = 1,11 141.851.803 Hệ số khả năng thanh toán tổng quát đầu năm và cuối năm đều lớn hơn 1 chứng tỏ các khoản huy động bên ngoài đều được đảm bảo. Công ty có khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn bằng tài sản của mình. Hệ số khả năng thanh toán tạm thời= TSLĐ và đầu tư ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán tạm thời đầu năm = 66.808.793 = 1,33 50.379.375 Hệ số khả năng thanh toán tạm thời cuối năm = 70.783.026 = 1,29 55.064.309 Hệ số khả năng thanh toán tạm thời của công ty lớn hơn 1. Khả năng thanh toán tạm thời cuối năm so với đầu năm có thấp hơn, cụ thể là giảm 0,04 lần nhưng vẫn là mức an toàn và cho thấy công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong vòng 1 năm hoặc 1 kỳ kinh doanh. Để đánh giá khả năng đảm bảo thanh toán đúng hạn khi xảy ra biến động lớn trong nền kinh tế hoặc trong lĩnh vực hoạt động, khả năng đối phó với sự thu hồi nợ đột ngột hay đồng loạt của các chủ nợ thì người ta sử dụng chỉ tiêu thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời. Hệ số khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ - Vốn vật tư hàng hoá Tổng nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán nhanh đầu năm = 66.808.793 - 8.300.819 50.379.375 = 1,16 Hệ số khả năng thanh toán nhanh cuối năm = 70.783.026 - 9.972.469 55.064.309 = 1,10 Hệ số thanh toán nhanh đầu năm và cuối năm đều lớn hơn 1, chứng tỏ công ty có khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn mà không cần phải dựa vào việc bán các vật tư hàng hoá. Hệ số này cuối năm nhỏ hơn đầu năm là do vốn vật tư hàng hoá đã tăng lên. Hệ số khả năng thanh toán tức thời = Tiền + tương đương tiền Nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán tức thời đầu năm = 1.509.585 = 0,029 50.379.375 Hệ số khả năng thanh toán tức thời cuối năm = 694.751 = 0,013 55.064.309 Hệ số khả năng thanh toán tức thời của công ty giảm từ 0,029 xuống còn 0,013. Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp mà không cần dùng các khoản phải thu bán hàng tồn kho. Nếu hệ số này > 0,5 thì tình hình thanh toán của công ty tương đối khả quan. Nhưng ở công ty gạch ốp lát Hà Nội, hệ số này lại < 0,5 chứng tỏ công ty đang gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ, lượng tiền mặt tồn quỹ và tiền gửi ngân hàng của công ty đóng vai trò mờ nhạt trong thanh toán. Để xem xét một cách toàn diện chúng ta có bảng sau: Bảng 6: Chỉ số phản ánh khả năng thanh toán của công ty năm 2001 STT Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Chênh lệch 1 Hệ số thanh toán tổng quát 1,08 1,11 0,03 2 Hệ số thanh toán tạm thời 1,33 1,29 - 0,04 3 Hệ số thanh toán nhanh 1,16 1,10 -0,06 4 Hệ số thanh toán tức thời 0,029 0,013 -0,016 Từ những phân tích trên ta thấy: Khả năng thanh toán của công ty là tương đối tốt, công ty có thể trang trải cho phần lớn nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, khả năng thanh toán tức thời của công ty không đảm bảo an toàn và có xu hướng giảm dần ở cuối năm 2001 vì lượng tiền dự trữ tại thời điểm cuối năm quá ít. Điều này sẽ khiến doanh nghiệp vấp phải những khó khăn trong thanh toán công nợ, vì vào những lúc cần thanh toán các khoản nợ ngắn hạn có thể buộc phải sử dụng các biện pháp bất lợi như bán các tài sản với giá thấp để trả nợ. Công ty cần phải xác định lại dự trữ tiền mặt sao cho phù hợp. Mặt khác, ta cũng nhận thấy rằng khả năng thanh toán nhanh của công ty phần lớn được đảm bảo bởi các khoản phải thu. Do đó, nếu các khoản phải thu gặp rủi ro (trở thành nợ khó đòi) thì công ty sẽ mất khả năng thanh toán. Thực tế này đã đặt công ty trước một vấn đề hết sức khó khăn là phải có biện pháp quản lý các khoản phải thu sao cho có thể nhanh chóng thu hồi nợ khi nhu cầu thanh toán phát sinh. 4. Tình hình quản lý các khoản phải thu Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp thường chiếm dụng vốn lẫn nhau nhằm tăng thêm vốn kinh doanh hay nói cách khác, các khoản phải thu, phải trả thường xuyên phát sinh. Tuy nhiên, nếu các khoản công nợ này chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng gia tăng sẽ gây khó khăn cho tình hình tài chính của doanh nghiệp. Chính vì vậy, giảm công nợ phải thu, nhanh chóng thu hồi tiền hàng, chiếm dụng vốn hợp lý...là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý vốn lưu động tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội. Để xem xét tình hình quản lý các khoản phải thu của công ty ta có bảng 7 (trang bên): Qua bảng 7 ta thấy, tổng các khoản phải thu đến cuối năm 2001 là 59.065.813(nđ) tăng so với đầu năm là 2.746.586(nđ) với tỷ lệ tăng là 4,88%. Khoản mục quan trọng nhất chiếm tỷ trọng khá cao là khoản phải thu của khách hàng chiếm đến 94,44% tổng các khoản phải thu. Khoản phải thu khách hàng đến cuối năm 2001 là 55.784.379(nđ) tăng so với đầu năm là 2.671.180(nđ) với tỷ lệ tăng 5,03%. Khoản mục này tăng chủ yếu là do chính sách bán hàng trong năm 2001 cho phép khách hàng thanh toán chậm trong một khoảng thời gian nhất định. Chính sách bán chịu này đã làm cho công ty bị khách hàng chiếm dụng vốn rất nhiều, trong khi đó, công ty phải đi vay vì các khoản vốn đó. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động công ty cần có những phương sách phù hợp để vừa thúc đẩy lượng hàng tiêu thụ đồng thời duy trì các khoản phải thu ở mức phù hợp. Khoản thuế GTGT được khấu trừ cuối năm 2001 đã tăng so với đầu năm là 75.406(nđ) với tỷ lệ tăng là 2,35%. Bảng 7: Tình hình quản lý các khoản phải thu của công ty năm 2001 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh CN/ĐN Số tiền (1.000đ) % Số tiền (1.000đ) % ± Số tiền (1.000đ) ± % Các khoản phải thu 56.319.226 100 59.065.813 100 2.746.586 4,88 1.Phải thu của khách hàng 53.113.198 94,31 55.784.379 94,44 2.671.180 5,03 2.Thuế GTGT được khấu trừ 3.206.028 5,69 3.218.434 5,56 75.406 2,35 Để hiểu rõ hơn về công tác quản lý các khoản phải thu, chúng ta đi xem xét tốc độ thu hồi nợ của doanh nghiệp qua một số các chỉ tiêu sau: Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần Số dư bình quân các khoản phải thu Vòng quay các khoản phải thu = 218.762.273 = 3,79 (vòng) 57.692.519 Kỳ thu tiền trung bình = Số dư bình quân các khoản phải thu x 360 Doanh thu thuần Kỳ thu tiền bình quân = 360 = 95 (ngày) 3.79 Từ các chỉ tiêu trên ta có thể rút ra một số nhận xét: - Vòng quay các khoản phải thu trong năm là 3,79 vòng chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là không tốt vì công ty phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu (phải cấp tín dụng nhiều cho khách).Tình trạng này rất dễ xảy ra sự thiếu hụt về vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. - Kỳ thu tiền trung bình là 95 ngày, đây là biểu hiện không tốt. Công ty để khách hàng chiếm dụng vốn khá lớn và để thu hồi được một khoản phải thu, công ty phải mất đến hơn hai tháng. Như vậy sẽ làm tốc độ luân chuyển vốn lưu động chậm lại, đồng thời làm phát sinh khoản nợ vay ngân hàng từ phần vốn cấp tín dụng cho khách hàng. Để đánh giá kỹ hơn về tình hình công nợ của công ty, ta đi sâu xem xét và so sánh giữa khoản mà công ty phải thu với các khoản mà công ty phải trả. Ta chỉ so sánh các khoản phải thu với các khoản phải trả mang tính chất chu kỳ, đó là những khoản không phải trả lãi. Bảng 8: Tình hình công nợ của công ty năm 2001 Khoản phải thu Đầu năm Cuối năm Khoản phải trả Đầu năm Cuối năm 1.Phải thu của khách hàng 53.113.198 55.784.379 1.Phải trả người bán 3.947.954 5.236.489 2.Thuế GTGT được khấu trừ 3.206.028 3.281.434 2.Thuế và các khoản phải nộp nhà nước 7.598.657 8.651.358 3.Phải trả CNV 1.258.756 1.657.481 4.Phải trả phải nộp khác 1.645.981 1.856.854 Cộng 56.319.226 59.065.813 Cộng 14.451.348 17.402.182 Qua bảng trên ta thấy rằng: Cuối năm 2001, số tiền phải thu lớn hơn số tiền phải trả, chứng tỏ công ty bị chiếm dụng vốn nhiều hơn là đi chiếm dụng. Công ty bị chiếm dụng một khoản là 59.065.813(nđ), trong khi đó số tiền chiếm dụng được chỉ là 17.402.182(nđ).Từ đó cho thấy tình hình tài chính của công ty sẽ gặp nhiều khó khăn bởi chưa xét đến những cơ hội kinh doanh khác nếu được sử dụng khoản vốn bị chiếm dụng này, mà chỉ tính riêng đến khoản chi phí bỏ ra phục vụ cho quá trình theo dõi và thu hồi công nợ thì công ty sẽ phải mất đi một khoản tiền đáng kể. Tính tỷ trọng tổng số tiền phải thu so với số tiền phải trả có tính chất chu kỳ ở đầu năm so với cuối năm cho thấy: Tỷ trọng giữa các Tổng số tiền phải thu khoản phải thu so với = ___________________ các khoản phải trả Tổng số tiền phải trả Tỷ trọng đầu năm 2001 = 56.319.226 x 100% = 389,72% 14.451.348 Tỷ trọng cuối năm 2001 = 59.065.813 x 100% = 339,42% 17.402.182 Kết quả trên cho thấy, mặc dù bị chiếm dụng vốn lớn nhưng đến cuối năm 2001, tỷ trọng các khoản phải thu trên các khoản phải trả đã giảm đi 50,3% ( 339,72% - 339,42%), điều đó cũng đã góp phần làm giảm bớt căng thẳng về vốn cho công ty. Tóm lại, qua những phân tích trên cho thấy rằng trong thời gian tới công ty cần phải có nhiều biện pháp hữu hiệu hơn trong việc thu hồi nợ sao cho tăng được vòng quay các khoản phải thu và giảm được kỳ thu tiền bình quân. Có như thế mới đảm bảo được tình hình công nợ lành mạnh, hiệu quả quản lý các khoản phải thu cao hơn. 5.Tình hình tổ chức tiêu thụ sản phẩm và quản lý hàng tồn kho. Việc dự trữ hàng tồn kho là nhu cầu thông thường đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải xem xét để cân đối mức dự trữ. Nếu dự trữ quá lớn sẽ làm cho hàng hoá dư thừa gây ứ đọng làm giảm hiệu quả kinh doanh. Nếu dự trữ quá thấp có thể gây thiếu hụt, làm giảm sự nhịp nhàng...gây khó khăn cho việc đảm bảo nhu cầu hàng hoá của thị trường, làm gián đoạn quá trình kinh doanh và gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị. Bảng 9: Kết cấu hàng tồn kho của công tynăm 2001 Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm So sánh CN/ĐN Số tiền (1.000đ) % Số tiền (1.000đ) % ± Số tiền (1.000đ) ± % NVL tồn kho 1.586.069 19,11 1.744.676 17,49 158.606 10,00 CCDC trong kho 274.764 3,31 291.250 2,92 16.485 6,00 CKSX kd dở dang 396.244 4,77 435.868 4,37 39.624 10,00 TP tồn kho 6.043.740 72,81 7.500.673 75,21 1.456.932 24,11 Cộng 8.300.819 100 9.972.469 100 1.671.650 20,14 Qua bảng trên ta nhận thấy: Hàng tồn kho cuối năm 2001 đã tăng 1.671.650(nđ) so với đầu năm với tỷ lệ tăng 20,14%. Hàng tồn kho tăng lên chủ yếu là do nguyên vật liệu tồn kho và thành phẩm tồn kho tăng. Cụ thể: - Nguyên vật liệu tồn kho chiếm 17,49% trong tổng hàng tồn kho đã tăng lên so với đầu năm là 158.606(nđ) với tỷ lệ tăng 10%. Nguyên vật lệu tăng chủ yếu là do một phần nguyên vật liệu công ty sử dụng là nhập ở nước ngoài, vì vậy mà công ty luôn bị phụ thuộc vào thị trường nguyên vật liệu nước ngoài, chưa tận dụng được hết được nguồn nguyên liệu, vật liệu trong nước. Hơn nữa,do đặc điểm quy trình công nghệ của công ty, nguyên vật liệu phải được dự trữ trong kho với trữ lượng đủ từ hai đến ba tháng sản xuất. - Thành phẩm tồn kho chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số hàng tồn kho tăng. Đầu năm thành phẩm tồn kho là 6.043.740(nđ) chiếm 72,81% tổng hàng tồn kho. Cuối năm, thành phẩm tồn kho đã tăng lên tới 7.500.673(nđ), chiếm 75,21% tổng hàng tồn kho. Là một doanh nghiệp sản xuất, lượng thành phảm tồn kho quá lớn như trên là một biểu hiện không tốt. Điều đó chứng tỏ sản phẩm sản xuất ra chưa tiêu thụ được, điều này lại kéo theo việc những chi phí bỏ ra để sản xuất thành phẩm này chưa thu hồi được. Ngoài ra còn do một số nguyên nhân khác làm tăng lượng hàng tồn kho là: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng 39.624(nđ) với tỷ lệ tăng 10%. Công cụ dụng cụ trong kho cũng tăng so với cuối năm là 16.485(nđ) với tỷ lệ tăng 6%. Tóm lại, tình hình kết cấu hàng tồn kho của công ty là chưa tốt. Lượng thành phẩm tồn kho còn chiếm rất lớn trong tổng hàng tồn kho sẽ dẫn đến tình trạng hàng hoá bị ứ đọng gây nên việc sử dụng vốn kém hiệu quả làm giảm lợi nhuận của công ty.Vì vậy, khi quyết định dự trữ hàng hoá thì công ty nên có biện pháp tiêu thụ để đạt được mức dự trữ hàng hoá tối ưu, giúp công ty không bị ứ đọng vốn, tối thiểu hoá chi phí ,đảm bảo thực hiện các hợp đồng đã ký kết, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. 6.Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty gạch ốp lát Hà Nội. Việc sử dụng thật hợp lý VLĐ được thể hiện ở chỗ tăng tốc độ luân chuyển VLĐ. Tốc độ luân chuyển VLĐ nhanh hay chậm nói lên hiệu quả sử dụng VLĐ cao hay thấp. Hiệu quả sử dụng VLĐ là một trong một trong những chỉ tiêu tổng hợp dùng để đánh giá chất lượng công tác quản lý và sử dụng vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua phân tích chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ có thể thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường công tác quản lý kinh doanh, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả VLĐ. Để thấy được hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty ta xem xét bảng 10 (trang bên): Qua phân tích bảng hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty ta thấy: - Doanh lợi VLĐ năm 2000 là 6,01% nghĩa là 1 đồng VLĐ sử dụng trong kỳ tạo ra 0,0601 đồng lợi nhuận. Năm 2001, chỉ tiêu này là 5,36%, như vậy 1 đồng VLĐ sử dụng trong năm 2001 tạo ra được 0,0536 đồng lợi nhuận trước thuế, giảm 10,82% so với năm 2000. Vậy mức độ sinh lời của đồng VLĐ là chưa cao. Công ty cần phải điều chỉnh lại các khoản chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí hoạt động tài chính sao cho phù hợp, hợp lý hơn để tăng hiệu quả sử dụng VLĐ. Bảng10 : Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty qua hai năm 2000 và 2001 Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2000 Năm 2001 So sánh 2001/2000 ± tuyệt đối ± % 1. Tổng doanh thu 1.000đ 214.092.193 219.151.840 5.059.647 236 2.Doanh thu thuần “ 213.735.206 218.762.273 5.027.067 2,35 3.Lợi nhuận thuần “ 3.847.233 3.686.144 -161.089 4,19 4.Giá vốn hàng bán “ 148.545.968 149.042.736 496.768 0,33 5.Vốn lưu động bình quân “ 63.966.471 68.795.910 4.829.439 7,55 6.Vốn vật tư hàng hoá bình quân “ 6.299.132 9.141.644 2.842.512 45,13 7.Số dư BQ các khoản phải thu “ 54.998.518 57.692.519 2.694.001 4,9 8.Vòng quay VLĐ ( 2 : 5) Vòng 3,34 3,18 -0,16 -4,79 9.Kỳ luân chuyển VLĐ (5:2) Ngày 108 113 5 10.Vòng quay vốn vật tư hàng hoá (4: 6) Vòng 23,58 16,3 -7,28 -30,87 11.Số ngày một vòng quay vốn vật tư hàng hoá Ngày 15 22 7 12.Vòng quay các khoản phải thu Vòng 3,89 3,79 -0,1 13.Kỳ thu tiền trung bình Ngày 93 95 2 14. Doanh lợi VLĐ(3:5) ____ 6,01 5,36 -0,65 15. Mức đảm nhiệm VLĐ ____ 0,3 0,31 0,01 - Về tốc độ luân chuyển VLĐ. Năm 2001, chỉ tiêu này cũng có sự giảm sút, nó được thể hiện thông qua sự giảm sút của số vòng quay VLĐ và sự tăng lên của kỳ luân chuyển VLĐ. Cụ thể: năm 2001, số vòng quay VLĐ là 3,18 vòng đã giảm 0,26 vòng so với năm 2000. Kỳ luân chuyển VLĐ là 113 ngày, đã tăng 5 ngày so với năm 2000. Điều này chứng tỏ tốc độ luân chuyển VLĐ của công ty rất chậm, hiệu quả sử dụng vốn của công ty không cao. Đây là một biểu hiện không tốt trong việc sử dụng vốn. - Số vòng quay của vốn vật tư hàng hoá là 16,3 vòng giảm 7,28 vòng so với năm 2000, cho thấy công tác tổ chức mua sắm, dự trữ vật tư hàng hoá là không tốt. Phải mất 22 ngày vốn vật tư hàng hoá mới quay hết một vòng. - Vòng quay các khoản phải thu năm 2001 là 3,79 vòng đã giảm so với năm 2000 là 0,1 vòng. Điều này chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu thành tiền chậm. Đây là biểu hiện không tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty bị chiếm dụng vốn nên việc chủ động trong việc sử dụng vốn là rất khó khăn. Kỳ thu tiền trung bình là 95 ngày đã tăng so với năm 2000 là 2 vòng lại càng khẳng định việc tổ chức thanh toán với khách hàng là không tốt. Số ngày cần thiết để thu hồi các khoản nợ là hơn hai tháng lại càng hạn chế việc huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Mức độ đảm nhiệm VLĐ năm 2000 là 0,3 có nghĩa là để tạo ra một đồng doanh thu cần 0,3 đồng VLĐ. Năm 2001, để tạo ra một đồng doanh thu thì lại phải dùng đến 0,31 đồng VLĐ. Như vậy, có thể nói, hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty năm 2001 là chưa được tốt. Công ty cần có phải có nhiều biện pháp thích hợp hơn để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong thời gian tới. 7. Những vấn đề đặt ra trong việc tổ chức quản lý, sử dụng VLĐ của công ty Công ty gạch ốp lát Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước với hoạt động chủ yếu là sản xuất và kinh doanh gạch ốp và lát nền. Trong điều kiện kinh tế nước ta có nhiều thay đổi, công ty còn gặp nhiều khó khăn từ khau huy động, tổ chức và sử dụng VLĐ phục vụ cho mục đích kinh doanh cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Vốn ngân sách cấp hạn hẹp, vốn tự bổ sung lại ít nên công ty phải tự tìm nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Hiện nay, ngoài hai nguồn vốn trên công ty còn huy động VLĐ từ các nguồn vốn chiếm dụng của người bán, vốn chiếm dụng của ngân sách Nhà nước, các khoản phải trả công nhân viên. Đặc biệt là nguồn vốn vay, chủ yếu là vay ngắn hạn ngân hàng.Trong khi đó, điều kiện cho vay của ngân hàng: Ngoài thủ tục ra, thì ngân hàng chỉ cho công ty vay số tiền không quá tổng vốn kinh doanh tự có. Trong quá trình sử dụng VLĐ, công ty cũng còn gặp phải nhiều khó khăn. Công ty bị khách hàng chiếm dụng vốn nhiều buộc công ty phải đi chiếm dụng vốn của người khác. Ngoài ra còn một số tác động của nhân tố khách quan làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty như chính sách tiền tệ của nhà nước, thu nhập của người mua hàng.... Khắc phục những khó khăn đó, công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể: Công ty đã rất năng động trong việc sử dụng vốn chiếm dụng được, giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, không bị gián đoạn. Không ngừng tìm kiếm khách hàng mới và thị trường mới để từ đó thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động kinh doanh vẫn có lãi, đời sống cán bộ công nhân viên không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, công ty còn bộc lộ một số tồn tại trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như trong công tác quản lý tài chính. Cụ thể: Công ty còn thiếu sự chủ động về nguồn VLĐ. Vốn lưu động của công ty chủ yếu được tài trợ bằng nguồn VLĐ tạm thời, còn nguồn VLĐ thường xuyên thì ít cho nên công ty đã không chủ động được trong việc lập kế hoạch VLĐ dài hạn. Việc quản lý các khoản phải thu của khách hàng chưa tốt, làm cho công ty phải đi vay vốn ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, từ đó làm giảm lợi nhuận. Kỳ thu tiền bình quân còn lớn, vòng quay các khoản phải thu chậm. Công tác tiêu thụ sản phẩm chưa tốt. Sự gia tăng của hàng tồn kho một mặt gây khó khăn trong việc tìm kiếm lợi nhuận, mặt khác đòi hỏi công ty phải mất thêm một khoản tiền phục vụ cho việc theo dõi, bảo quản, trông coi, bảo dưỡng...gây ảnh hưởng không tốt trong việc sử dụng vốn. Qua tìm hiểu thực tế về tình hình VLĐ của công ty gạch ốp lát Hà Nội ta thấy được những khó khăn phức tạp của việc tổ chức quản lý và sử dụng VLĐ. Công ty cần phải nhìn nhận lại tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và tình hình VLĐ nói riêng từ đó tìm ra biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ, nâng cao hiệu quả kinh doanh. CHương III một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty gạch ốp lát Hà nội 1. Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. Trong những năm qua, công ty gạch ốp lát Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất định, sản xuất kinh doanh liên tục có lãi. Mặc dù, còn gặp phải nhiều khó khăn trong công tác sử dụng vốn lưu động, nhưng để khắc phục những khó khăn đó công ty đã không ngừng vươn lên phát huy nội lực và tận dụng mọi tiềm năng để đạt được kết quả cao hơn trong thời gian tới. Cụ thể trong những năm tới, công ty đề ra phương hướng tăng trưởng hàng năm khoảng từ 15%-20%. Ngoài ra, công ty còn tìm những biện pháp tổ chức quản lý, sản xuất, khai thác nhiều đơn đặt hàng trực tiếp để nâng cao hơn lợi nhuận, tạo điều kiện làm việc tốt hơn cho cán bộ công nhân viên, tăng đóng góp vào ngân sách nhà nước và tăng thu nhập bình quân hàng năm. Trên cơ sở những kết quả đã đạt được trong những năm qua, công ty đã xây dựng kế hoạch dự kiến năm 2002 với tổng doanh thu đạt 242.716.208(nđ) trong đó trả tín dụng Nhà nước 35.996.542(nđ), thu nhập bình quân 1.690.000 đồng/tháng.Trong những năm tới, công ty sẽ tiếp tục nghiên cứu và tìm các phương án phát triển mở rộng thị trường. Mục tiêu chiến lược của công ty là: Nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể mở rộng thị trường của công ty tới thị trường của các nước phát triển như: ý, Đức, Tây Ban Nha, Mỹ... Tăng cường khâu tiếp thị, tích cực trong việc tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu phù hợp, giá rẻ, tăng cường sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước để giảm chi phí, hạ thấp giá thành, tăng lợi nhuận. Doanh thu tăng 15% -20% so với năm 2001, phấn đấu giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh. Phấn đấu giảm khoản phải thu của khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo tăng lượng hàng hoá tiêu thụ. Không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhất là việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. 2. Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty gạch ốp lát Hà Nội. Qua phân tích, nghiên cứu tình hình tổ chức quản lý, sử dụng VLĐ tại công ty gạch ốp lát Hà Nội có thể thấy việc tổ chức và sử dụng VLĐ của công ty còn một số hạn chế nhất định cần phải được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Với thực tế nghiên cứu cùng với sự hiểu biết của mình, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm tổ chức tốt hơn công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ tại công ty gạch ốp lát Hà Nội. 2.1. Thực hiện tốt việc kế hoạch hoá VLĐ, đảm bảo việc chủ động huy động các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để tăng cường hiệu quả của số VLĐ bỏ ra, điều quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp là phải xác định được nhu cầu VLĐ tối thiểu. Đó là lượng VLĐ tối ưu vừa đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục hiệu quả vừa giúp cho công tác sử dụng VLĐ được chủ động, hợp lý, tiết kiệm. Thực trạng sử dụng VLĐ của công ty gạch ốp lát Hà Nội cho thấy công ty chưa thực sự chủ động trong công tác tổ chức và sử dụng vốn.Vốn lưu động của công ty chủ yếu là vốn vay (chiếm 75,41% tổng nguồn VLĐ năm 2000 và chiếm 77,79% tổng VLĐ năm 2001). Việc sử dụng vốn vay như con dao hai lưỡi. Một mặt nó giúp cho công ty có vốn để kinh doanh, mặt khác nó tạo nên gánh nặng nợ nần mà chỉ khi hoạt động sản xuất kinh doanh bị xấu đi là sẽ biết hậu quả của nó ngay vì tiền lãi phải trả rất lớn. Trong khi đó, nguồn VLĐ thường xuyên quá ít (chỉ chiếm 22,21% tổng nguồn VLĐ) làm công ty mất đi tính chủ động trong việc sử dụng vốn kinh doanh. Các khoản phải thanh toán chủ yếu phụ thuộc từ luồng thu từ bán hàng hay vay của công nhân qua quỹ lương. Thực tế cho thấy nếu hoạt động như vậy thì sẽ không có hiệu quả bền vững. Do đó, việc xác định nhu cầu VLĐ là hết sức cần thiết. Để xác định được nhu cầu VLĐ một cách chính xác, có thể đi theo hướng sau: - Trước hết, công ty cần tính toán nhu cầu VLĐ cần thiết đó, tính toán nhu cầu VLĐ cho từng khâu, từng khoản mục dựa trên các chỉ tiêu tài chính của kỳ trước và dự định về hoạt động của công ty trong kỳ kế hoạch để từ đó huy động đáp ứng VLĐ cho từng khâu từng khoản mục một cách đầy đủ, kịp thời, tránh lãng phí và đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục hiệu quả. Có nhiều cách để xác định nhu cầu VLĐ tối thiểu nhưng theo em công ty Gạch ốp lát Hà Nội nên tính toán nhu cầu này theo phương pháp tính toán căn cứ vào tổng mức luân chuyển vốn và số vòng quay VLĐ dự tính năm kế hoạch. Phương pháp tính như sau: Vnc = M1 L1 Trong đó: Vnc : Nhu cầu VLĐ năm kế hoạch M1 : Tổng mức luân chuyển VLĐ năm kế hoạch L1 : Số vòng quay VLĐ kỳ kế hoạch Như đã phân tích ở trên, tổng mức luân chuyển vốn năm 2001 đã tăng 2,35% so với năm 2000, và dựa trên dự định mở rộng sản xuất loại gạch ốp tường nhiều hơn nữa, vì thực tế năm 2001 vừa qua, doanh thu tiêu thụ loại gạch này đã tăng so với năm 2000, do vậy kế hoạch cho năm 2002 của công ty là sẽ tăng doanh thu, tăng tổng mức luân chuyển vốn năm 2002 là 10%, tức là tổng mức luân chuyển vốn năm 2002 là: 218.762.273.247 + (218.762.273.247 x 10%) = 240.638.500.571đ Và số vòng quay VLĐ cũng tăng thêm 0,5 vòng so với năm 2001, tức là đạt 3,7 vòng/ năm. Vậy nhu cầu VLĐ cho năm kế hoạch là: 240.638.500.571 Vnc = = 65.037.432.587 đ 3.7 Để xác định được nhu cầu VLĐ cần thiết năm kế hoạch cho từng khâu kinh doanh theo phương pháp tính toán trên, công ty có thể căn cứ vào tỷ trọng VLĐ được phân bổ hợp lý trên các khâu kinh doanh. Theo thống kê từ các năm trước, tỷ trọng VLĐ ở các khâu kinh doanh như sau: - VLĐ khâu dự trữ sản xuất: gồm giá trị các khoản NVL chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, công cụ lao động nhỏ, tổng cộng chiếm 10% tổng VLĐ. - VLĐ khâu sản xuất gồm giá trị các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, tổng cộng chiếm 40% tổng VLĐ. - VLĐ trong khâu lưu thông chiếm 50% tổng VLĐ. Vậy nhu cầu VLĐ năm kế hoạch cho từng khâu kinh doanh là: - Khâu dự trữ sản xuất: 65.037.432.587 x 10% = 6.503.743.259 đ - Khâu sản xuất : 65.037.432.587 x 40% = 26.014.973.034 đ - Khâu lưu thông : 65.037.432.587 x 50% = 32.518.746.294 đ Cộng: 65.037.432.587 đ Phương pháp này có ưu điểm là tương đối đơn giản, giúp doanh nghiệp ước tính được nhanh chóng nhu cầu VLĐ năm kế hoạch để xác định nguồn tài trợ phù hợp. - Trên cơ sở nhu cầu VLĐ theo kế hoạch đã lập công ty cần có kế hoạch huy động và sử dụng vốn sao cho chi phí vốn bỏ ra thấp nhất và thu được hiệu quả cao nhất. ở đây cũng cần thấy rằng để quá trình SXKD được tiến hành thuận lợi thì nguồn VLĐ thường xuyên cần thiết của doanh nghiệp phải là nguồn vốn ổn định có tính vững chắc. Từ thực trạng của công ty ta thấy, nguồn vay ngắn hạn của công ty đã được khai thác triệt để (chiếm 61,80% tổng nợ ngắn hạn), công ty cần phải sử dụng nguồn vốn này một cách linh hoạt, hết sức khéo léo không nên lạm dụng quá gây mất uy tín với khách hàng, vì đây là những khoản nợ dưới một năm thậm chí một vài tháng nên công ty phải thường xuyên thay đổi chúng để không bị biến thành con nợ khó đòi. Để thuận lợi cho công tác tính toán, công ty nên áp dụng phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu để xác định nhu cầu VLĐ của mình. Cụ thể như sau: Doanh thu thuần của năm 2001 là 218.762.273.247 đồng, từ đó ta có tỷ lệ phần trăm của các khoản mục có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với doanh thu như sau: Tài sản % Nguồn vốn % 1.Tiền 0,3 1.Phải trả người bán 2,4 2.Các khoản phải thu 27,0 2.Thuế và các khoản nộp NN 4,0 3.Hàng tồn kho 4,6 3.Phải trả CNV 0,7 4.Tài sản lưu động khác 0,5 4.Phải trả phải nộp khác 0,8 Cộng 32,4 Cộng 7,9 Như vậy, cứ 1 đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm tăng lên, công ty cần phải tăng 0,324 đồng VLĐ để bổ sung cho phần tài sản. Cứ 1 đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm tăng lên thì công ty chiếm dụng đương nhiên được 0,079 đồng. Vậy thực chất 1 đồng doanh thu tăng lên, công ty cần bổ sung: 0,324 - 0,079 = 0,245 đồng Vậy nhu cầu VLĐ cần huy động các nguồn khác ngoài nguồn chiếm dụng cho kỳ kế hoạch là: 240.638.500.571 - 218.762.273.247 = 21.876.227.324 đồng Sau khi xác định được nhu cầu VLĐ, cần xác định số vốn thừa thiếu để từ đó tìm nguồn tài trợ có lợi nhất đảm bảo cung ứng đầy đủ cho sản xuất với chi phí sử dụng vốn thấp nhất. - Khi thực hiện công ty cần căn cứ vào kế hoạch huy động và sử dụng VLĐ đã tạo lập được làm cơ sở điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế của công ty. Trong thực tế, nếu phát sinh thêm nhu cầu vốn công ty cần chủ động cung ứng kịp thời đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục. - Việc lập kế hoạch huy động nhất thiết phải dựa vào sự phân tích tính toán các chỉ tiêu tài chính của kỳ trước với những dự tính về tình hình hoạt động kinh doanh, khả năng tăng trưởng trong kỳ tới và những dự kiến về sự biến động của thị trường như căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của kỳ trước, dự kiến số lượng đơn đặt hàng cho kế hoạch từ đó dự kiến số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, dự kiến số VLĐ cần thiết cho kỳ kế hoạch. 2.2. Tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, đẩy nhanh quá trình thu hồi tiền hàng. Như đã phân tích ở trên, trong năm 2001, VLĐ của công ty còn bị chiếm dụng quá lớn và với tỷ trọng cao (83,45%). Điều đó cho thấy công tác bán hàng, thanh toán tiền hàng, thu hồi công nợ cần phải khắc phục hơn nữa. Công ty chưa có các biện pháp khuyến khích khách hàng mua với khối lượng lớn, thanh toán ngay hoặc thanh toán nhanh. Khi bán hàng qua đại lý thì bán được hàng, các đại lý mới thanh toán nên đã làm cho kỳ thu tiền bình quân kéo dài đến 95 ngày. Do đó, để đảm bảo sự ổn định, lành mạnhvà tự chủ về mặt tài chính, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của VLĐ từ đó góp phần sử dụng vốn có hiệu quả, công ty cần có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế tới mức tối đa tình trạng nợ nần dây dưa, chưa thanh toán của khách hàng. Theo em, công ty cần áp dụng một số biện pháp sau: + Trước khi ký kết hợp đồng tiêu thụ công ty cần xem xét kỹ lưỡng cơ sở vật chất của khách hàng, tình hình tài chính, khả năng tiêu thụ sản phẩm của khách hàng, công ty có thể từ chối ký hợp đồng với những khách hàng nợ nần dây dưa hoặc không có khả năng thanh toán, hoặc những đơn đặt hàng mà số tiền ứng trước là rất nhỏ. + Trong các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm phải quy định rõ thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán... và yêu cầu các bên phải chịu trách nhiệm một cách đầy đủ, nghiêm túc các điều khoản đã quy định trong hợp đồng phù hợp với chế độ chính sách tài chính quy định. Chẳng hạn, nếu thanh toán chậm so với thời hạn quy định phải chịu vi phạm hợp đồng, phạt nợ quá hạn hoặc phải chịu lãi theo lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng. + Mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ phải thu trong và ngoài công ty, thường xuyên đôn đốc để thu hồi đúng hạn. Nếu công ty có nhiều khách hàng mua chịu, các tài khoản kế toán phải được thiết kế sao cho chúng nêu lên được mỗi khách hàng đã mua được bao nhiêu, đã trả được bao nhiêu và công ty còn phải thu của mỗi khách hàng là bao nhiêu nữa. Và từ các sổ chi tiết đó, công ty nên lập dự phòng cho các khoản phải thu khó đòi. + Sử dụng chiết khấu bán hàng, giảm giá cho khách hàng mua với số lượng lớn, thanh toán sớm tiền hàng nhằm khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh, hạn chế thanh toán chậm dẫn đến nợ nần dây dưa khó đòi. Để làm được điều đó thì tỷ lệ chiết khấu phải được đặt sao cho phù hợp, phát huy được hiệu quả của nó. Theo em, để có thể xác định tỷ lệ chiết khấu hợp lý cần phải đặt nó trong mối liên hệ với lãi suất vay vốn hiện hành của ngân hàng. Bởi vì, khi bán hàng trả chậm, công ty sẽ phải đi vay vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hàng liên tục. Vì vậy, việc công ty giảm cho khách hàng một tỷ lệ nhất định tính trên tổng số tiền hàng mà tỷ lệ đó nhỏ hơn lãi suất vay vốn để thu hồi tiền hàng ngay vẫn có lợi hơn là không chiết khấu để cho khách hàng nợ một thời gian và trong thời gian đó công ty lại phải đi vay vốn để chịu tiền lãi. Giả sử tất cả các khoản phải thu của khách hàng có thời hạn 1 tháng. Tại thời điểm 31/12/2001 khoản phải thu của khách hàng là 59.065.813.777 đồng. Với việc vay vốn ngân hàng với lãi suất 0,6%/ tháng, nếu khi khách hàng thanh toán ngay thì công ty sẽ không phải chịu số tiền lãi là: 59.065.813.777 x 0,6% = 354.394.883 đồng Do đó, để thu được tiền hàng ngay, công ty có thể chiết khấu cho khách hàng thanh toán ngay là 0,3% giá trị hàng bán. Khi đó số tiền chiết khấu cho khách hàng là: 59.065.813.777 x 0,3% = 177.197.441 đồng Số tiền tiết kiệm được do áp dụng chiết khấu là: 177.197.441 - 354.394.883 = - 177.197.442 đồng Từ những tính toán trên, công ty nên sử dụng tỷ lệ chiết khấu như sau: - Nếu khách hàng thanh toán ngay khi mua hàng, công ty có thể sử dụng chiết khấu cho khách hàng là 0,3% giá trị hàng bán. - Nếu khách hàng thanh toán chậm trong vòng 15 ngày công ty sẽ phải chịu mức lãi suất là: 15 ngày x 0,6% = 0,3% 30 ngày Do đó công ty có thể chiết khấu cho khách hàng 0,2% giá trị hàng bán. - Nếu khách hàng thanh toán trong vòng 15- 20 ngày, công ty sẽ phải chịu mức lãi suất là: 25 ngày x 0,6% = 0,5% 30 ngày Công ty có thể chiết khấu cho khách hàng 0.1% giá trị hàng bán. - Nếu khách hàng thanh toán trong vòng 15 -30 ngày thì công ty sẽ phải chịu toàn bộ lãi suất là 0,6%/ tháng khi vay vốn ngân hàng, do đó công ty không cần phải chiết khấu cho khách hàng - Nếu khách hàng thanh toán chậm sau một tháng công ty sẽ tính lãi suất theo lãi suất vay vốn của ngân hàng hiện hành trên số thanh toán chậm vốn trước đó. Việc sử dụng chiết khấu bán hàng như trên sẽ khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh hơn và tỷ lệ chiết khấu có thể điều chỉnh dễ dàng khi lãi suất ngân hàng thay đổi. + Định kỳ công ty nên tổng kết công tác tiêu thụ, liệt kê những khách hàng quen, khách hàng mua với khối lượng lớn, mua thường xuyên thì nên hồi khấu một phần tiền hàng cho họ tính theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định trên tổng số tiền hàng mà họ đã mua và đã thanh toán cho công ty. Sau đó, công ty có thể tổ chức hội nghị khách hàng để thông báo quyết định hồi khấu của mình trước toàn thể khách hàng nhằm khích lệ các khách hàng khác thanh toán nhanh. Việc sử dụng chiết khấu bán hàng, giảm giá và thực hiện hồi khấu, công ty cần ghi rõ trong hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa hai bên và với cách bán hàng trên thì chắc chắn rằng khối lượng thành phẩm tồn kho của công ty sẽ giảm xuống, kỳ thu tiền bình quân sẽ rút ngắn lại, vốn sẽ luân chuyển nhanh hơn, sử dụng vốn sẽ tiết kiệm hơn và do đó việc sử dụng vốn nói chung và VLĐ nói riêng sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, đối với các khoản nợ quá hạn đã đến hạn trả nhưng chưa thu được tiền, công ty cũng cần phải có những biện pháp tích cực để đòi nợ. Các biện pháp này có thể từ mềm mỏng như gọi điện, viết thư yêu cầu, đôn đốc hoặc cứng rắn hơn như cử người trực tiếp đến đòi, cắt bỏ hợp đồng, tiếp theo phạt tiền và thu hồi lại sản phẩm của công ty hoặc có thể gửi tới toà án, yêu cầu toà án can thiệp. 2.3. Thực hiện tồn kho hợp lý nguyên vật liệu. Hàng tồn kho dự trữ có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Việc sử dụng tiết kiệm và có kế hoạch dự trữ linh hoạt hợp lý sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến việc hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty. Thực tế ở công ty Gạch ốp lát Hà Nội, hàng tồn kho chiếm tỷ trọng tương đối lớn (gần 20%) và cũng có xu hướng ngày càng tăng lên.Trong đó nguyên vật liệu và thành phẩm tồn kho chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng hàng tồn kho.Để đảm bảo cho nguyên vật liệu của công ty được sử dụng tiết kiệm với mức dự trữ hợp lý công ty cần phải: - Lập kế hoạch sản xuất sản phẩm năm kế hoạch, trên cơ sở tình hình năm báo cáo, chi tiết khối lượng sản xuất theo từng tháng, từng quý. Kiểm tra bám sát chặt chẽ khâu mua nguyên vật liệu: khi nhận hàng từ người bán, công y cần phải kiểm tra chất lượng kỹ thuật cẩn thận từng kiện hàng. Nếu có hàng kém phẩm chất thì phải đề nghị người bán đền bù, tránh thiệt hại cho công ty. - Đối với nguyên vật liệu nhập ngoại, công ty cần phải có kế hoạch thu mua, dự trữ hợp lý về số lượng, chất liệu, chủng loại....cần liên hệ với nhiều nguồn cung cấp, tăng cường nghiên cứu tìm kiếm tiếp cận thị trường đầu vào thông qua khách hàng của công ty hay qua mạng Internet để tìm kiếm nguồn cung cấp thuận lợi hơn, thường xuyên hơn với giá cả phải chăng. Tích cực tìm kiếm nguồn nguyên liệu trong nước, sử dụng nguồn nguyên liệu nội địa để giảm được chi phí vận chuyển, thuế nhập khẩu...qua đó giảm được giá vốn hàng bán, tăng lợi nhuận cho công ty. - Bảo quản tốt việc dự trữ nguyên liệu hàng hoá mua về. Hàng tháng, kế toán nguyên vật liệu cần phải đối chiếu sổ sách và thức thu với thủ kho, phát hiện số nguyên vật liệu, thành phẩm, hàng hóa tồn đọng lại để xử lý, có biện pháp giải phóng nhanh số vật tư ứ đọng để thu hồi vốn. Như đã nói ở chương hai, lượng thành phẩm tồn kho chiếm tới 75, 21% trong tổng số hàng tồn kho, dẫn đến tình trạng hàng hoá bị ứ đọng gây nên việc sử dụng vốn kém hiệu quả làm giảm lợi nhuận của công ty. Công ty cần phải nhanh chóng tìm mọi cách để giảm lượng hàng tồn kho này. Để làm được điều đó công ty cần phải phát triển hoạt động kinh doanh, sử dụng có hiệu quả công tác marketing, có thể giảm giá bán tới một mức thích hợp khi cần thiết.Thậm chí giảm đến mức giá bán nhỏ hơn cả chi phí bỏ ra. - Lập dự phòng giảm giá đối với các loại vật tư, thành phẩm, hàng hoá tồn kho. Đây cũng là một biện pháp giúp công ty chủ động thực hiện bảo toàn vốn lưu động. 2.4. Nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Việc mở cửa của nền kinh tế đồng nghĩa với việc mở rộng giao lưu, buôn bán quốc tế, chính điều này đã tạo điều kiện cho hàng ngoại nhập tiêu thụ tràn lan trên thị trường, cạnh tranh mạnh mẽ với hàng nội địa. Điều này gây khó khăn chung cho các doanh nghiệp trong nước và công ty Gạch ốp lát Hà Nội cũng không ngoại lệ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để công ty có thể khẳng định chỗ đứng của mình trong cuộc cạnh tranh này. Câu trả lời là công ty phải nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường cả về chất lượng, giá cả và thời gian, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chất lượng sản phẩm được nâng cao sẽ tạo điều kiện tăng giá bán từ đó tăng doanh thu tiêu thụ, lợi nhuận cũng được tăng lên. Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Để giải quyết vấn đề này, công ty cần áp dụng một số biện pháp sau: - Phải kiểm tra nghiêm ngặt chất lượng nguyên vật liệu trước khi đưa vào sản xuất. Nếu như trong quá trình sản xuất, các loại vật kém chất lượng như: đất sét không đúng chủng loại, men không đạt chất lượng....mà vẫn sử dụng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Vì vậy, ngoài việc kiểm tra kỹ thuật, công ty cần phải kết hợp kiểm tra bằng tài chính các loại vật tư từ khâu nhập đến khâu sản xuất để đảm bảo cho vật tư được sử dụng đúng chất lượng quy định, đúng định mức kinh tế kỹ thuật đã đề ra, tránh hiện tượng gian lận, bớt xén vật tư, thay thế vật tư chất lượng tốt bằng vật tư chất lượng kém... làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Phải có hệ thống kho tàng thích hợp với từng loại nguyên vật liệu để đảm bảo bảo quản nguyên vật liệu được tốt. Tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề đội ngũ cán bộ công nhân viên nhất là nhân viên kỹ thuật. - Quản lý chặt chẽ khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm nhập kho cũng như khâu bảo quản, đầu tư mua sắm các phương tiện kỹ thuật kiểm tra hiện đại phục vụ cho khâu KCS. - Kiên quyết loại bỏ những sản phẩm không đủ tiêu chuẩn chất lượng. Cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã mặt hàng sản xuất kinh doanh là điều kiện hết sức cần thiết, nó ảnh hưởng tới tương lai phát triển lâu dài của công ty. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều sản phẩm gạch lát của các hãng được sản xuất với công nghệ cao như: TAICERA, SIJAR......ngoài ra là sự tràn ngập thị trường của gạch Trung Quốc với chủng loại, mẫu mã đặc sắc luôn đáp ứng thị hiếu của khách hàng. Công ty không những phải cạnh tranh về mặt chất lượng mà phải cạnh tranh về cả mẫu mã, trang trí hoa văn trên mặt gạch nước men và cả độ bóng của gạch. Công ty cần phải nghiên cứu, thường xuyên thay đổi mẫu mã, các chi tiết trang trí để tăng thêm sức hấp dẫn cho sản phẩm. Để có thể sản xuất được những sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đầu tiên khâu nghiên cứu thị trường phải cung cấp những thông tin chính xác, những số liệu về nhu cầu, thị hiếu.....ở khu vực thị trường của công ty. Sau đó trên cơ sở các thông tin đã được cung cấp, bộ phận thiết kế sẽ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thử một số mẫu gạch. Thông qua các hoạt động quảng cáo, công ty sẽ nhanh chóng giới thiệu các sản phẩm của mình với khách hàng và quan sát những thông tin phản hồi để có sự điều chỉnh kịp thời. Sự phối hợp giữa các khâu trên phải nhịp nhàng, chặt chẽ để có được những viên gạch đẹp, phù hợp với thị hiếu khách hàng, tiêu thụ nhanh và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, vấn đề giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm sẽ giúp công ty chiếm lĩnh được thị trường, tiêu thụ sản phẩm nhanh, tăng tốc độ luân chuyển VLĐ. Để giảm được giá bán, công ty phải phấn đấu có chi phí sản xuất và chi phí lưu thông nhỏ nhất, công ty cần phải thực hiện một số biện pháp sau: - Quản lý chặt chẽ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bằng việc quản lý định mức tiêu hao nguyên vật liệu chính, quản lý về cả số lượng, chất lượng nguyên vật liệu xuất dùng cho từng phân xưởng theo định mức kế hoạch, quản lý giá nhập kho của nguyên vật liệu, lựa chọn thị trường cung cấp vật tư ổn định. - Sắp xếp lao động một cách hợp lý trong sản xuất, tránh tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân viên, có chính sách tiền lương, tiền phạt hợp lý, tăng cường kỷ luật sản xuất. - Tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận. Trên đây là một số ý kiến, đề xuất mang tính chủ quan nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội .Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu và trình độ bản thân còn hạn chế cũng như do tính phức tạp của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, nên việc phân tích, đánh giá của đề tài chưa thật sâu sắc, biện pháp chưa đầy đủ và hoàn thiện, song hy vọng phần nào sẽ giúp ích cho công ty trong việc quản lý VLĐ trong thời gian tới. Kết luận Vốn lưu động và việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động không phải là một vấn đề mới mẻ nhưng nó luôn là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp bởi hiệu quả sử dụng vốn lưu động gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp với nhau, để đứng vững được trên thị trường là một vấn đề hết sức khó khăn. Công ty Gạch ốp lát Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, quy mô của công ty không lớn, trình độ quản lý còn hạn chế nên công ty cũng không tránh khỏi phải đối đầu với những khó khăn trong vấn đề quản lý và sử dụng vốn lưu động của mình.Do vậy việc tìm ra giải pháp để công ty sử dụng vốn lưu động hiệu quả hơn có một ý nghĩa rất quan trọng. Với đề tài này em muốn đưa ra một số vấn đề cơ bản và thực tiễn về hiệu quả công tác quản lý vốn lưu động của công ty.Thông qua đó đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác này của công ty. Hy vọng rằng các giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty nói chung và công tác quản lý vốn lưu động nói riêng. Do những khó khăn cộng với trình độ còn hạn chế, em không tránh khỏi những thiếu sót ngộ nhận, thiếu thực tế...khi đưa ra những ý kiến chủ quan, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến phê bình của thầy cô giáo và các bạn đọc để đề tài được hoàn thiện và có giá trị thực tiễn hơn. Em xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Bùi Văn Vần cùng toàn thể cán bộ phòng tài chính kế toán của công ty Gạch ốp lát Hà Nội đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập cũng như trong việc hoàn thành đề tài này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0172.doc
Tài liệu liên quan