* Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay họ có thể phát hành cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và dài hạn. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có được sự chủ động trong việc huy động và sử dụng vốn, giảm được nguy cơ phá sản khi gặp khó khăn (vì có thể không phải phân chia lợi tức cổ phần hoặc có thể hoãn trả lợi tức khi bị lỗ hoặc không có nhiều lãi) hay làm tăng vốn chủ sở hữu, giảm hệ số nợ của doanh nghiệp.Tuy nhiên, chỉ có các doanh nghiệp thỏa mãn những điều kiện nhất định mới được sử dụng hình thức này. Với nước ta, do thị trường tài chính còn chưa phát triển nên hình thức tài trợ này còn ít được sử dụng hoặc nếu có sử dụng thì hiệu quả chưa cao.
* Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu.
Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp. Sử dụng phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể huy động vốn cho hoạt động kinh doanh mà không dẫn đến phải chia quyền kiểm soát doanh nghiệp như khi sử dụng cổ phiếu thường. Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động kinh doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã nói trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó.
85 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 909 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trợ cho các công ty liên doanh với nước ngoài.
Về hoạt động nghiệp vụ: hoạt động nghiệp vụ tín dụng xuất khẩu đã được triển khai ở nhiều địa bàn khác nhau trên cả nước và tại một số địa bàn có tiềm năng xuất khẩu mạnh như Nha Trang, Đắc Lắc, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang... đã triển khai tốt hoạt động này và đang là các hạt nhân để thúc đẩy việc thực hiện tốt trong toàn hệ thống. Kết quả hoạt động nghiệp vụ của chi nhánh đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Kết quả hoạt động toàn hệ thống: Dư nợ tín dụng xuất khẩu mặc dù chiếm tỷ trọng chưa cao so với tổng dư nợ song tăng trưởng liên tục qua các năm. Như năm 1998, dư nợ tín dụng xuất khẩu đạt 35.451 triệu đồng, chiếm 36,8% trong tổng dự nợ tín dụng xuất khẩu, năm 1998 đạt 45.980 triệu đồng chiếm 30% tổng dư nợ tín dụng xuất khẩu, năm 2000 là 69.687 triệu đồng, chiếm 28,6% trong tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu. (Bảng 10).
Tín dụng xuất khẩu của Chi nhánh hiện nay 100% là cho vay ngắn hạn để thu mua nguyên vật liệu và đáp ứng nhu cầu vốn lưu động tạm thời. Tỷ trọng cho vay xuất khẩu đạt trung bình trên 30%, năm 1998 cao nhất là 40%. Hai năm trở lại đây, tỷ trọng này có giảm song không lớn (32% năm 1999 và 28% năm 2000.) và dư nợ cho vay tuyệt đối vẫn tăng trong điều kiện hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.
Tín dụng nhập khẩu: Hoạt động tín dụng nhập khẩu của Chi nhánh được quan tâm thực hiện sớm hơn tín dụng xuất khẩu, bởi từ lâu Chi nhánh đã là bạn hàng của các Doanh nghiệp trong lĩnh vực công- thương nghiệp vốn có nhu cầu nhập khẩu lớn về thu mua, dự trữ vật tư hàng hoá, thiết bị vầ cũng bởi nhiều năm trước đây nhu cầu nhập khẩu của nước ta về hàng hoá lớn nhiều so với hiện nay bởi các lý do: Hoặc hàng hoá của ta không sản xuất được, hoặc sản xuất ra nhưng không xuất khẩu được do chất lượng kém, giá thành lại cao. Đặc biệt là trước đây Chi nhánh chưa quan tâm đến tín dụng XNK, chính nhờ kinh nghiệm có được trong cho vay về nhập khẩu vật tư, hàng hoá, thiết bị, những năm lại đây hoạt động tín dụng XNK của Chi nhánh luôn đạt được những thành công đáng khích lệ, mặc dù lĩnh vực Ngân hàng quốc tế không phải là chủ lực của Chi nhánh. Cụ thể:
Về quan hệ bạn hàng và mạng lưới hoạt động: Đến thời điểm này quan hệ trong hoạt động tín dụng cho nhập khẩu của Chi nhánh có thể nói là khá rộng. Ngân hàng đã thiết lập được mối liên hệ tài trợ cho rất nhiều món vay, dự án nhập khẩu với nhiều Ngân hàng trong nước và nước ngoài. Mạng lưới trong nước cũng không ngừng được mở rộng từ Nam chí Bắc, do đó đã dành được thị phần xấp xỉ các Ngân hàng Ngoại Thương trên địa bàn trong cho vay nhập khẩu. Điều này có ý nghĩa lớn đối với sự mở rộng và tăng cường khả năng cạnh tranh của Ngân hàng đối với Ngân hàng khác.
Về hoạt động nghiệp vụ: Dư nợ tín dụng nhập khẩu tăng mạnh trong điều kiện bất lợi về tỷ giá và đóng góp lớn trong việc dự trữ vật tư, hàng hoá, tăng cường hiện đại hoá trang thiết bị, máy móc, dây chuyền công nghệ của Doanh nghiệp. Năm 1998 dư nợ tín dụng nhập khẩu đạt 60.779 triệu đồng, năm 1999 đạt 108.948 triệu đồng, năm 2000 là 173.762 triệu đồng. Tỷ trọng dư nợ tín dụng nhập khẩu chiếm trung bình trên 60% trong tổng dư nợ XNK. Trong đó cho vay nhập khẩu chủ yếu là cho vay trung- dài hạn bằng ngoại tệ. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn thường xấp xỉ so với tổng dư nợ nhập khẩu điều này thể hiện, hiện nay hầu hết các món vay nhập khẩu mà Chi nhánh đang đáp ứng vẫn là các dự ánnhập khẩu lớn, việc vay trả có thể diễn ra nhiều năm.
ã Tình hình nợ quá hạn tín dụng XNK của Chi nhánh
Chất lượng tín dụng của Ngân hàng được phản ánh khá rõ ở tình hình nợ quá hạn (NQH). Do đó, sẽ là thiếu sót khi ta xem xét chất lượng tín dụng XNK của Ngân hàng mà không chú ý đến tỷ lệ nợ quá hạn của Chi nhánh (Bảng 11)
Bảng 11: Nợ quá hạn tín dụng xuất nhập khẩu
của ngân hàng giai đoạn 98-2000
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
So sánh 99/98
So sánh
2000/99
1. Dư nợ ngắn hạn (DN)
88.629
146.815
248.882
58.186
102.067
- Nợ quá hạn (NQH)
2.366,4
3.156,53
3.111,025
790,13
- 45,505
- Tỷ lệ NQH/DN
2,67%
2,15%
1,25%
0,52%
- 0,9%
2. Dư nợ trung - dài hạn
7.601
8.151
12.802
550
4651
- Nợ quá hạn (NQH)
154,83
117,98
102,505
- 36,85
- 15,475
- Tỷ lệ NQH/DN
2,04%
1,45%
0,8%
- 0,59%
- 0,65%
3. Tổng dư nợ
96.230
155.929
243.449
59.699
87.520
- Tổng dư nợ
2.521,23
3.274,51
3.213,53
753,28
- 60,98
- Tỷ lệ NQH/DN
2,62%
2,1%
1,32%
-0,52%
-,78%
Nguồn: Báo cáo tín dụng XNK NHCT Ba Đình giai đoạn 98 - 2000
So với các Ngân hàng khác trong cùng hệ thống thì tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng XNK của Chi nhánh là thấp hơn khá nhiều. Chẳng hạn như ở Chi nhánh EXIMBANK Hà Nội, một Chi nhánh Ngân Hàng chủ lực trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại thì tỷ lệ NQH tín dụng XNK , năm 1998 là 4,6% năm 1999 có hạ xuống khoảng trên 3%. Đây có thể coi là thành tựu không thể phủ nhận của Ngân hàng trong hoạt động tín dụng XNK.
Qua số liệu trên ta có thể thấy rằng tỷ lệ NQH tín dụng XNK của Chi nhánh được hạ thấp qua các năm từ năm 1998 đến 1999, năm 1998 tỷ lệ NQH tín dụng XNK là 2,62% năm 1999 giảm xuống còn 2,1% và năm 2000 là 1,32% con số này phản ánh nỗ lực rất lớn của Ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng XNK.
Tỷ lệ NQH thấp chủ yếu là do nợ quá hạn trung- dài hạn thấp. Năm cao nhất tỷ lệ NQH trung dài hạn chỉ có 2,04%. Ngược lại với tỷ lệ trên thì tỷ lệ NQH tín dụng ngắn hạn cao hơn nhiều so với tín dụng trung- dài hạn bởi các lý do
Cho vay ngắn hạn tập chung vào cho vay xuất khẩu mà các mặt hàng xuất khẩu như nông, lâm, thuỷ hải sản thường mang tính mùa vụ cao do đó thời điểm hoàn trả thường sai lệch so với thời điểm các Doanh nghiệp xuất khẩu thu được tiền hàng
Thứ hai là do cho và ngắn hạn thường gặp những khó khăn do sự biến động giá cả, tỷ giá hơn so với cho và trung- dài hạn
Thứ ba là do tâm lý những khoản vay ngắn hạn thường nhỏ và phân tán ở nhiều khánh hàng khác nhau nên việc thẩm định đối với các dự án nà còn lỏng lẻo, sự quản lý đôn đốc thu nợ ở các chi nhánh chưa thực hiện tốt.
Năm 1998 là năm mà tỷ lệ NQH tín dụng ngắn hạn XNH cao nhất 2,67% đây là thời kỳ thị trường thế giới và khu vực có nhiều biến động lớn làm ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá XNK hưng từ các năm tiếp theo tỷ lệ này giảm xuống, tưng ứng là 2,15% năm 1999 và 1,25% năm 2000.
Qua những số liệu và việc phân tích ở trên ta có thể thấy Chi nhánh đã đạt được những kết quả khá tốt về mặt chất lượng tín dụng cho xuất nhập khẩu. Điều đó được phản ánh thông qua sự hỗ trợ vốn kịp thời và có hiệu quả cho nhiều ngành, nhiều dự án xuất nhập khẩu quan trọng của các doanh nghiệp cũng như của đất nước, sự tin tưởng của khánh hàng cũng như sự gia tăng về các mối quan hệ của Chi nhánh với các bạn hàng ở trong nước và quốc tế. Ngoài ra, với những chỉ tiêu cụ thể về Tổng dư nợ tăng, nợ quá hạn giảm đã cho thấy chất lượng tín dụng XNK của chi nhánh đang dần được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đối với vấn đề chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu, Ngân hàng còn có nhiều hạn chế cần quan tâm giải quyết.
2.3.2. Hạn chế:
Nói về những mặt hạn chế của ngân hàng hiện nay thì trước hết ta có
thể nói chi nhánh ngân hàng công thương Ba Đình chưa phát triển hết khả năng hiện có vì:
Thứ nhất: Nợ quá hạn của ngân hàng hiện nay.
Những năm qua mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm đi và ở mức thấp tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn còn cao so với mục tiêu dưới 1% của ngân hàng: Hơn thế nữa mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn giảm nhưng về số tuyệt đối vẫn còn tăng như vậy cũng là không tốt.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn của ngân hàng trong đó có một số nguyên nhân chính là: Môi trường pháp lý, kinh doanh trong nước chưa đồng bộ chặt chẽ, thị trường quốc tế thời gian qua có nhiều biến động dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp thấp.
Về phía ngân hàng do số lượng cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu thiếu về số lượng, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu. Trong khi đó khi xét duyệt cho vay lại thiếu sâu sát, chưa nghiên cứu kỹ đặc điểm từng ngành, thiếu thông tin trong lĩnh vực xuất nhập khẩu (thông tin thị trường, giá cả đối thủ cạnh tranh....) nghiệp vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu còn chưa đầy đủ, các báo cáo phân tích chưa thật đầy đủ trong khi công tác kiểm toán của các công ty, tổng công ty chưa đi vào nề nếp gây khó khăn cho công tác thẩm định của ngân hàng.
Thứ hai: Nguồn vốn cho xuất nhập khẩu chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hiện nay ngân hàng với nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế thì nguồn vốn trung và dài hạn còn thấp, số tiền gửi thanh toán chưa cao, gây khó khăn trong việc triển khai các dự án tài trợ trung và dài hạn có giá trị lớn cũng như việc hạ thấp chi phí đầu vào.
Nguyên nhân của hạn chế này là do nhiều phía: Đối với người gửi tiền họ có thể còn thiếu tin tưởng vào sự ổn định tiền tệ, sự bùng nổ lạm phát những năm trước đây đã tác động đến tâm lý khách hàng khi đem gửi tiền vào ngân hàng bởi vậy họ thường chỉ gửi tiền trong thời gian ngắn. Đối với ngân hàng vì khách hàng có quyền tự do lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản giao dịch do đó với một ngân hàng mới đi vào hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu nên chưa tạo được mối quan hệ lâu dài và ổn định với bạn hàng, mặt khác do đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu,do đó đối với các đơn vị này họ thường tìm đến các ngân hàng ngoại thương có tầm cỡ để giao dịch. Vì vậy với lĩnh vực xuất nhập khẩu thì các ngân hàng công thương Việt Nam nói chung và ngân hàng công thương Ba Đình nói riêng thường gặp rất nhiều hạn chế. Mặt khác đối với ngân hàng còn hạn chế về mặt khách quan khác đó là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu nông, lâm,thuỷ hải sản thường mang tính thời vụ và phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện tự nhiên. Do đó nhu cầu vốn thường không ổn định, gây khó khăn cho việc chuẩn bị vốn của ngân hàng.
Thứ ba là về cơ cấu tín dụng xuất nhập khẩu chưa hợp lý, hình thức còn đơn điệu.
Hiện nay tín dụng xuất nhập khẩu của chi nhánh vẫn chủ yếu là phục vụ nhập khẩu, tín dụng xuất khẩu chiếm tỷ trọng nhỏ chỉ tập trung cho vay ngắn hạn. Trong cơ cấu cho vay theo loại tiền thì tỷ trọng cho vay bằng VNĐ còn nhỏ. Điều này một phần xuất phát từ thực tế ngân hàng đi vào hoạt động xuất nhập khẩu chưa lâu, mặt khác là do cho vay nhập khẩu buộc phải sử dụng bằng ngoại tệ.
Bên cạnh đó cơ cấu tín dụng chưa hợp lý, thì về hình thức tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng còn chưa đa dạng. Các hình thức hiện nay ngân hàng đang áp dụng mới chỉ là các hình thức truyền thống, nhiều hình thức tín dụng xuất nhập khẩu mới và khả năng thích ứng còn chưa được áp dụng dẫn đến các sản phẩm cung cấp không đa dạng và hạn chế khả năng được lựa chọn của khách hàng cũng như phân tán rủi ro cho ngân hàng.
Về đối tượng khách hàng, do đặc thù về lĩnh vực hoạt động khách hàng chủ yếu của ngân hàng là các doanh nghiệp Nhà nước. Với chính sách phát triển nền kinh tế đa thành phần của Đảng và Nhà nước. Hiện nay thì việc duy trì cơ cấu khách hàng như vậy là chưa thích hợp vì nó sẽ làm cho ngân hàng mất đi một thị trường rộng lớn là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn... đang hoạt động có hiệu quả. Không có cơ sở thực sự nào để khẳng định doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác.
Thứ tư là tín dụng xuất nhập khẩu còn mang nặng tính tự phát chưa được triển khai đồng bộ trong toàn hệ thống dẫn đến chất lượng hoạt động thấp.
Hiện nay cho vay xuất khẩu chỉ tập trung ở một số tổ,nhóm lớn chủ động triển khai tìm kiếm dự án cho vay như thành phố Hồ Chí Minh, Đắc Lắc,... Các chi nhánh khác hầu như thụ động thiếu định hướng có hiệu quả từ ngân hàng trung ương. Số lượng các tổ nhóm hoạt động tốt chưa nhiều do đó thiếu hạt nhân tạo đà thúc đẩy cho toàn hệ thống. Hoạt động tín dụng xuất khẩu chưa được xác định rõ nét các biện pháp hỗ trợ riêng còn đan xen với các hoạt động khác.
+ Về nhận thức: Cho vay xuất khẩu chưa trải đều và sâu rộng, mang nặng quan niệm ngân hàng là cho vay trong lĩnh vực công thương nghiệp. Việc cho rằng khách hàng kinh doanh xuất nhập khẩu phải tìm đến ngân hàng ngoại thương mới đúng.
+ Về con người: Đây là hình thức nghiệp vụ còn nhiều mới mẻ, do vậy lực lượng cán bộ tín dụng để triển khai vừa thiếu, vừa yếu về kinh nghiệm nghiệp vụ và ngoại ngữ so với yêu cầu.
+ Về công cụ thực thi: Mạng lưới thanh toán quốc tế chưa đủ lớn và phù hợp, chưa có khả năng tự thực hiện nghiệp vụ hoàn chỉnh.
Nhận biết được những thành tựu cũng như hạn chế và nguyên nhân của chúng trong vấn đề chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu là rất cần thiết. Tuy vậy để chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn, ngân hàng cần thực thi một số giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng. Đó chính là nội dung được đề cập ở chương 3 “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại chi nhánh ngân hàng công thương Ba Đình”.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi Nhánh
Ngân Hàng Công Thương Ba Đình.
3.1. Phương hướng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Chi Nhánh thời gian tới
3.1.1. Mục tiêu
- Từng bước đẩy mạnh hoạt động cho vay xuất khẩu, coi đây là hoạt động mũi nhọn trong năm 2001 và những năm tiếp theo, với nguyên tắc hoạt động phải mang tính khoa học, thận trọng, bài bản và có hiệu quả. Lựa chọn điểm đột phá là ngành hàng, gắn ngành hàng với các Tổng công ty có tiềm năng xuất khẩu.
- Tích cực tìm hiểu (gắn xuất khẩu với nhập khẩu) có chọn lọc kỹ lưỡng các dự án đầu tư có hiệu quả của các doanh nghiệp làm ăn có uy tín để cho vay bằng nguồn vốn trong nước cũng như nguồn vốn nước ngoài, tiếp tục hạn chế nợ quá hạn, đưa nợ quá hạn xuống dưới 1% tránh tình trạng không thu hồi được nợ theo kế hoạch.
- Đẩy mạnh các hoạt động MARKETTING, nhằm thu hút các đơn vị xuất nhập khẩu, đặc biệt là những đơn vị có hoạt động xuất nhập khẩu lớn về quan hệ giao dịch với chi nhánh Ngân Hàng. Duy trì phát triển tốt mối quan hệ hợp tác với các Ngân hàng nước ngoài để thu xếp nguồn vốn tài trợ, sử dụng các dịch vụ Ngân hàng và học hỏi kinh nghiệm về các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế.
Đảm bảo đủ nội lực để tạo đà cho bước nhảy vọt của hoạt động tín dụng xuất khẩu bên cạnh việc duy trì và phát triển hoạt động tài trợ nhập khẩu và các dịch vụ ngân hàng quốc tế.
Mục tiêu của Chi Nhánh đã đề ra cho các năm tới để phấn đấu sau như:
+ Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn tăng 20%.
+ Tốc độ tăng trưởng dư nợ 20%.
+ Nợ quá hạn < 1%.
+ Lợi nhuận hạch toán tăng so với năm trước 5%
3.1.2. Các mặt hoạt động cụ thể
Đối với hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
- Rà soát lại các Bộ, Tổng công ty đã và chưa có quan hệ tín dụng với Ngân Hàng, xem xét mức độ quan hệ tín dụng của từng Tổng công ty hiện nay (với Ngân Hàng và các NHTM khác) để phát triển và thiết lập quan hệ tín dụng, dịch vụ ngân hàng. Đặc biệt chú trọng các Tổng công ty có tiềm năng về xuất nhập khẩu.
Mở rộng tiếp thị, làm việc trực tiếp với các Tổng công ty có tiềm năng về xuất nhập khẩu như TCT than, TCT chè, TCT cà phê, TCT lương thực, TCT dệt may, TCT da giầy, TCT cao su, TCT thuỷ tinh gốm sứ, TCT rau quả, TCT lâm nghiệp, TCT chăn nuôi, TCT xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến, TCT máy và phụ tùng, TCT thiết bị ytế, TCT dược, các TCT của Bộ thuỷ sản). Cố gắng tối đa để phục vụ nhu cầu vay vốn và các dịch vụ ngân hàng của các Tổng công ty này.
Mở rộng quan hệ giao dịch với các đơn vị có nguồn ngoại tệ để đẩy mạnh nghiệp vụ huy động vốn và kinh doanh ngoại tệ, phấn đấu tự cân đối vốn được ngoại tệ nhằm tài trợ hơn nữa cho tín dụng xuất nhập khẩu.
Trên cơ sở ban hành Quy chế tạm thời về cho vay tài trợ hàng xuất, trước mắt tập trung triển khai tại chi nhánh, địa bàn trọng điểm kết hợp với Tổng công ty có tiềm năng xuất khẩu, trên nguyên tắc thận trọng, đảm bảo an toàn về vốn, mua lại được ngoại tệ, tăng số lượng giao dịch xuất khẩu qua Chi Nhánh, nhằm nâng cao uy tín của Ngân Hàng trên thị trường quốc tế. Phấn đấu năm 2001, Tổng doanh số cho vay xuất khẩu của toàn hệ thống tập trung vào 8 nhóm mặt hàng chính là cà phê, gạo, hạt có dầu, hải sản, may mặc, giầy dép, chè, cao su đạt doanh số năm nay cao hơn năm trước
Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động này bằng việc tích cực tìm kiếm, lựa chọn khách hàng, dự án đầu tư có hiệu quả thông qua các kênh thông tin như các ngân hàng nước ngoài có quan hệ, các chi nhánh, các Bộ, các Tổng công ty; gắn tín dụng nhập khẩu với tín dụng xuất khẩu.
Nghiên cứu để triển khai thí điểm việc cho vay theo những phương thức mới, tiên tiến , dễ áp dụng và phù hợp với điều kiện nền kinh tế của Viêt Nam hiện nay .
3.2. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình.
Để tiếp tục phát triển một cách vững chắc và ngày càng đóng góp nhiều
hơn cho sự nghiệp phát triển đất nước, Chi Nhánh còn rất nhiều việc cần phải làm. Và một mục tiêu quan trọng mà Ngân Hàng cần phải đạt được là nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng của toàn hệ thống. Qua thời gian thực tập và nghiên cứu về hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân Hàng, với những hiểu biết về thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động này như phân tích ở trên, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng trong những năm tới. Các giải pháp đó bao gồm:
3.2.1. Thực hiện nghiêm các biện pháp phòng ngừa rủi ro, hạn chế nợ quá hạn.
Công việc đầu tiên để thực hiện ngăn ngừa rủi ro là Ngân hàng phải củng cố mạng lưới thu thập và xử lí thông tin khách hàng để nâng cao được chất lượng của công tác thẩm định dự án. Ngân hàng cần liên hệ thường xuyên với khách cũng như các cơ quan quản lí khách hàng (các Bộ, các Tổng công ty..) để có được những thông tin chính xác về thực trạng kinh doanh hiện tại của khách hàng, khả năng phát triển trong tương lai của họ lấy đó là một cơ sở quan trọng nhất để ra quyết định cấp tín dụng.
Trong thẩm định dự án phải chú trọng đến năng lực pháp lí của người vay và đặc biệt là kế hoạch về khả năng sinh lời của dự án, kế hoạch trả nợ trên cơ sở gắn những yếu tố về chi phí thu nhập của dự án với các yếu tố tương đương trên thị trường và xu hướng biến động của chúng trong tương lai. Ngoài ra, với những khách hàng mới cũng cần có sự đảm bảo của cơ quan chủ quản(Tổng công ty, Bộ...) hay sử dụng tài sản cầm cố. Tuy nhiên, không quá coi trọng vào tài sản thế chấp.
Tiếp đến Ngân hàng phải tiến hành phân định cán bộ tín dụng theo dõi tình hình sử dụng vốn trong suốt dự án chứ không chỉ chú trọng ở riêng giai đoạn đầu và cuối như hiện nay.
Về quản lí thu nợ và xử lí nợ quá hạn: Ngân hàng và khách hàng phải xác định lịch trả nợ phù hợp với lịch thu được lợi nhuận từ hoạt động của khách, tránh gây căng thẳng về vốn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần qui định chặt chẽ về việc yêu cầu doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng để thuận lợi thu nợ.
Ngân hàng cần phát hiện sớm các khoản cho vay có dấu hiệu bị đe doạ thông qua các dấu hiệu như: Doanh nghiệp chậm chễ trong việc nộp báo cáo tài chính, báo các kết quả hoạt động kinh doanh; có dấu hiệu trốn tránh sự kiểm tra của Ngân hàng; số dư tiền mặt giảm; gia tăng bất thường về hàng tồn kho hoặc các khoản nợ thương mại, hoàn trả nợ và lãi chậm... để chủ động tìm biện pháp xử lí chứ không nên trông chờ vào doanh nghiệp. Cụ thể:
- Cán bộ Ngân hàng có thể cho lời khuyên hoặc cố vấn cho khách hàng trong tiêu thụ sản phẩm, thu nợ khách hàng của doanh nghiệp.
- Tăng thêm vốn cho doanh nghiệp thông qua các hình thức như: mở rộng cho vay tín chấp. Hay là, Ngân hàng có thể cho vay thêm hợp đồng tín dụng với khác trên cơ sở có người đứng ra bảo lãnh.
- Đề nghị doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài thông qua các hình thức như cổ phiếu, trái phiếu.
- Đối với các khoản cho vay mà sau khi phát hiện và thực hiện các biện pháp hỗ trợ vẫn không có tác dụng dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi khi đó Ngân hàng cần phải thực hiện các biện pháp về khai thác và thanh lí.
+ Biện pháp khai thác: Ngân hàng có thể gia hạn hợp đồng tín dụng, giảm qui mô hoàn trả trước mắt hoặc có thể dãn nợ cho các doanh nghiệp. Các hình thức này chỉ nên áp dụng với các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh, có thu nhập có khả năng trả nợ; có ý thức trả nợ, trong quá trình vay đã trả được một phần nợ gốc và lãi; doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố thế chấp dễ phát mại.
+ Biện pháp thanh lí tài sản thế chấp: Khi mà mọi sự cứu vãn tình thế trở nên không còn hiệu quả thì Ngân hàng cần phải sử dụng biện pháp thanh lí nợ. Ngân hàng có thể áp dụng hình thức gán nợ hay khởi kiện tuỳ theo quan hệ với khách, ý thức mong muốn trả nợ và nguyên nhân không trả được nợ của khách.
- Gán nợ: Ngân hàng sẽ áp dụng hình thức gán nợ với các khách hnàg không có khả năng trả nợ và họ uỷ quyền cho Ngân hàng toàn quyền quyết định đối với tài sản thế chấp. Ngân hàng có thể sử dụng tài sản để cho thuê, làm trụ sở hay bán lại cho người khác.
- Khởi kiện: Với những khách hàng có hành vi trốn tránh, lừa đảo thì Ngân hàng sẽ tiến hành khởi kiện ra pháp luật.
Nếu các tài sản thế chấp có đủ hồ sơ hợp pháp, sau khi có quyết định của toà án thì Ngân hàng nên chuyển qua trung tâm đấu giá hoặc thu hồi sử dụng như với hình thức gán nợ. Còn nếu các tài sản có đủ hồ sơ pháp lí nhưng lại có thế chấp ở Ngân hàng khác thì tiến hành phát mại và phân chia theo quyết định của toà án.
Đối với những khoản vay không có thế chấp, bảo đảm thì khả năng gánh chịu rủi ro của Ngân hàng là khó tránh khỏi.
3.2.2. Thực hiện đa dạng hoá khách hàng và các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu
Trong cơ cấu tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân Hàng, cho vay đối với các Doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm tỉ trọng cao. Để nâng cao được chất lượng thì Ngân hàng cần thiết phải đa dạng hoá khách hàng bởi vì đây là việc làm có liên quan chặt chẽ đến khả năng phòng chống rủi ro tín dụng. Hơn thế, đa dạng hoá khách hàng sẽ đem lại cho Ngân Hàng một thị trường rộng hơn trong hoạt động tín dụng và qua đó tăng trưởng được tín dụng, nâng cao được lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu thiếu vốn của các thành phần kinh tế khác đặc biệt là các cơ sở thu mua xuất khẩu nhỏ.
Đối với Ngân Hàng việc đa dạng hoá khách hàng theo thành phần kinh tế phải gắn liền với đa dạng khách hàng theo ngành hàng. Chẳng hạn với các ngành hàng như điện tử, xe máy, ôtô... Đây là những ngành hàng có nhiều triển vọng mà Ngân Hàng còn bỏ ngỏ. Trong thời gian tới Ngân Hàng nên tiến hành tham gia vào các ngành hàng này.
Cùng với việc đa dạng hoá khách hàng Ngân Hàng cũng cần phải tiến hành mở rộng các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu.
Những năm qua hoạt động tín dụng nhập khẩu của ngân hàng đã phát triển khá mạnh. Tuy nhiên, về hình thức còn đơn điệu, làm hạn chế khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó hoạt động tài trợ xuất khẩu lại chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến doanh số thấp, hình thức cổ điển. Vì vậy với phương hướng lấy tín dụng xuất khẩu làm trọng tâm và kết hợp giữa tín dụng xuất khẩu và nhập khẩu, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu thì trong giai đoạn tới việc xem xét mở rộng các hình thức tín dụng cho xuất khẩu cũng như nhập khẩu là đòi hỏi cấp thiết đối với Ngân Hàng
3.2.3. Đẩy mạnh đa dạng hoá nguồn vốn cho xuất nhập khẩu
Trong những năm qua mặc dù Chi Nhánh đã thực hiện huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau tuy nhiên, đối với hoạt động xuất nhập khẩu còn có một số hình thức huy động mà Ngân hàng chưa thực sự quan
tâm khai thác như:
- Tham gia đồng tài trợ cho các dự án xuất nhập khẩu với các ngân hàng nước ngoài để khai thác những nguồn vốn, với chi phí thấp.
- Sử dụng hình thức tái tài trợ của các nước theo cơ chế Ngân Hàng vay ngắn hạn dưới hình thức quay vòng của các Ngân hàng nước ngoài với lãi suất ngắn hạn sau đó cho vay lại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước với lãi suất chênh lệch.
- Sử dụng nguồn vốn ODA tạm thời nhàn rỗi để cho vay ngắn hạn xuất nhập khẩu.
Đây là những nguồn vốn nước ngoài rất có ý nghhĩa đối với hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu bởi nó gắn với hoạt động ngân hàng quốc tế và quan hệ chặt chẽ với hoạt động tài trợ cho xuất nhập khẩu của Ngân hàng. Ngoài ra, nó còn góp phần không nhỏ trong việc đạt mục tiêu cung cấp hơn 5.000 tỉ cho hoạt động xuất nhập khẩu trong năm 2000 và các năm sau đó. Để khai thác được các nguồn vốn này thì Ngân hàng cần phải:
+ Không ngừng nâng cao uy tín trong quan hệ vay trả với nước ngoài, trả lãi và gốc đúng hạn.
+ Tiếp tục mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế trên cơ sở phát triển các mối quan hệ cũ và xúc tiến những mối quan hệ mới.
Bên cạnh khai thác các nguồn mới nói trên Ngân Hàng cũng cần tiếp tục đẩy mạnh các hình thức huy động truyền thống trong và ngoài nước như: nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, phát hành kì phiếu và trái phiếu, huy động vốn bằng các nguồn tài trợ của nước ngoài trên cơ sở phát triển các dịch vụ liên quan đến trái phiếu, kì phiếu như chiết khấu, lưu giữ, bảo quản, thanh toán, môi giới trái phiếu kì phiếu..., có chính sách lãi suất phù hợp, sử dụng nhiều loại kì hạn khác nhau, tạo sự thuận tiện trong việc sử dụng tiền trên tài khoản của khách, thực hiện tốt việc bảo hiểm tiền gửi của khách hàng nhằm tạo tâm lí yên tâm cho họ...
3.2.4. Tăng cường công tác cán bộ
Về số lượng cán bộ: Hiện nay, với lĩnh vực tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân Hàng thì số lượng cán bộ tín dụng trong lĩnh vực này chưa nhiều, trong khi phải xử lí một khối lượng công việc rất lớn từ tìm kiếm khách hàng, hướng dẫn khách hàng, thực hiện phát tiền vay, theo dõi, quản lí vốn vay... đến thu hồi vốn và lãi và xử lí nợ quá hạn. Vì vậy, theo tôi Ngân Hàng nên bổ sung cho Phòng một số người để bổ xung. Số cán bộ bổ sung này nên lấy từ phòng thanh toán quốc tế, Phòng bảo lãnh sang để dễ nắm
bắt được công việc.
Về chất lượng cán bộ: Hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu gắn thuộc nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế nên khá phức tạp và đòi hỏi về trình độ cán bộ tín dụng cao hơn. Thực tế ở Ngân Hàng cho thấy thường thì một cán bộ phải mất tối thiểu hơn một năm mới có khả năng nắm và triển khai công việc của Phòng chuyên tránh về cấp phát tín dụng xuất nhập khẩu. Để các cán bộ của Phòng có thể vừa nghiên cứu vừa triển khai công việc thì ngoài sự hiểu biết về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và các kiến thức kinh tế liên quan họ còn phải thông thạo ngoại ngữ, vi tính. Để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu, việc tăng cường đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu là đòi hỏi cấp thiết. Cụ thể là Ngân Hàng cần tạo điều kiện cho cán bộ của Phòng tham gia các chương trình đào tạo về những mặt sau:
- Ngoại ngữ ngoại thương, các chương trình sử dụng vi tính liên quan đến công việc.
- Các khoá học về qui chế, yêu cầuvà hướng dẫn thực hiện hoạt động tín dụng quốc tế.
- Các khoá học về thẩm địng dự án, phân tích tín dụng, ứng dụng Marketing vào hoạt động Ngân hàng.
- Các khoá học về qui chế tổ chức và các vấn đề liên quan đến hoạt động thương mại, kinh tế quốc tế.
- Các vấn đề có liên quan đến đồng tài trợ, tài trợ cho dự án bằng đồng vốn của nước ngoài...
Tham gia trao đổi hoạt động nghiệp vụ xuất nhập khẩu với các chuyên gia trong lĩnh vực này của các Ngân hàng trong nước và quốc tế có quan hệ với Ngân Hàng. Nếu có điều kiện thì nên cử một số cán bộ sang đào tạo ở nước ngoài.
3.2.5. Đẩy mạnh các nghiệp vụ dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu như: kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế có liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu.
Mua bán ngoại tệ sẽ tác động đến trạng thái ngoại tệ của Ngân hàng do vậy tác động đến nguồn vốn ngoại tệ cho xuất nhập khẩu đặc biệt là nhập khẩu. Ngoài ra, nó còn có tác động đến sự ổn định tỉ giá ngoại tệ, làm ảnh hưởng rất lớn đối với khả năng vay, trả nợ của khách từ đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Thanh toán quốc tế tác động đến chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu thông qua việc đáp ứng kịp thời về chi trả của khách, nó là một phần của nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu ở khâu thanh toán. Thực hiện việc thanh toán nhanh chóng kịp thời không chỉ nâng cao uy tín cho Ngân hàng mà còn hạn chế được tổn thất do yếu tố chủ quan và nhờ đó nâng cao chất lượng tín dụng cho Ngân hàng.
Để đẩy mạnh được các dịch vụ kinh doanh ngoại tệ cũng như thanh toán quốc tế Ngân hàng cần phải:
- Tìm kiếm các đối tác kinh doanh ngoại tệ, mở rộng quan hệ thanh toán. Chẳng hạn như với thị trường Mỹ, quan hệ xuất nhập khẩu giữa Việt nam và Mỹ có rất nhiều triển vọng đặc biệt khi mà Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được kí kết. Ngân Hàng nên sớm tìm kiếm đối tác ở thị trường này.
- Sử dụng các công cụ thanh toán hiện đại qua mạng internet
- Xác định hạn mức kinh doanh ngoại tệ.
- Theo dõi tình hình thu chi ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu có cam kết bán lại ngoại tệ cho Ngân hàng khi có doanh thu xuất khẩu.
- Chủ động nắm bắt kịp thời sự biến động tỉ giá trên thị trường để có xác định các tỉ giá giao dịch thuận lợi cho cả khách hàng và Ngân hàng.
Thường xuyên theo dõi cân đối dự trữ ngoại tệ trong từng giai đoạn, từng thời kì.
3.2.6. Ban hành qui định cụ thể cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
Về chức năng nhiệm vụ của phòng hoạt đọng trong lĩnh vực tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng: Hiện nay, do chưa có qui định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của Phòng tín dụng xuất nhập khẩu nên trong quá trình hoạt động có nhiều phát sinh làm hạn chế khả năng hoạt động của phòng. Chẳng hạn, sự chồng chéo giữa hoạt động tín dụng cho các tổng công ty của Phòng tín dụng với hoạt động tín dụng cho xuất nhập khẩu đối với các Tổng công ty này (bởi vì đối tượng xuất nhập khẩu lớn lại là các Tổng công ty). Do vậy Ngân hàng cần sớm xét duyệt và thông qua chức năng nhiệm vụ của Phòng. Đồng thời, cải tiến cơ chế quản lí hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu trong hệ thống, phân định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm quản lí cho một bộ phận chuyên trách, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các phòng ban ở Ngân Hàng.
Về cơ chế chung: Để chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu ngày được nâng cao, ngoài sự quan tâm phát triển mạng lưới mở rộng thị trường và các biện pháp khác thì Ngân Hàng cũng cần phải sớm hoàn thành việc ban hành cơ chế hướng dẫn hoạt động và vai trò cụ thể trong việc điều tiết hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu ở TW. Cụ thể:
+ Hoàn thiện cơ chế:
- Ngân hàng phải sớm hoàn thiện qui chế cho vay tài trợ xuất khẩu và tài trợ nhập khẩu để ban hành chính thức, thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống. Trong đó chú trọng đến quản lí sau khi vay và các hìh thức bảo đảm nợ vay.
- Xây dựng cơ chế có liên quan về quản lí, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế trên cơ sở pháp lệnh của NHNN và vận dụng linh hoạt vào điều kiện Ngân hàng.
Xây dựng chiến lược phát triển cụ thể cho nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu những năm tiếp theo trong toàn hệ thống.
3.2.7. Triển khai Marketing ngân hàng trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, một trong những bí quyết thành công của các ngân hàng là không ngừng thu hút khách hàng và mở rộng thị trường. Để làm được điều đó Ngân hàng không thể không thực hiện áp dụng Marketing, cho dù theo hình thức này hay hình thức khác. Đối với Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu mới đi vào hoạt động điều này càng đòi hỏi phải chú trọng đến Marketing nhiều hơn.
Hơn hai năm qua trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình đã bước đầu chú ý đến công tác tiếp thị tìm hiểu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng. Song để tiến tới những thành công lớn hơn Ngân Hàng cần phải xây dựng cho mình một chiến lược Marketing hỗn hợp gồm 4 chính sách lớn:
- Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra: Thực hiện chính sách này ngân hàng phải nắm bắt được nhu cầu về sản phẩm trên thị trường, xem khách hàng hiện tại, khách hàng tương lai là ai, họ mong muốn điều gì ở các sản phẩm của Ngân Hàng. Qua đó tiến hành phân loại khách hàng theo các mục tiêu cần nghiên cứu và có biện pháp để lôi kéo khách hàng của các Ngân hàng đối thủ và xây dựng được mạng lưới khách hàng ổn định.
- Chính sách sản phẩm giá cả: Ngân Hàng cần phải tạo ra sự khác biệt về sản phẩm so với các ngân hàng khác thông qua chính sách lãi suất và các dịch vụ hỗ trợ kèm theo như: tư vấn cho khách hàng về thị trường sản phẩm cung cấp các thông tin về khách hàng cho các doanh nghiệp...
- Chính sách phân phối: Đây là chính sách nền tảng cho mối quan hệ giữa khách hàng và Ngân hàng. Thực hiện chính sách này Ngân hàng phải xây dựng được mạng lưới phân phối phù hợp trên cơ sở quan tâm xem xét đến các yếu tố về địa điểm mở quầy giao dịch, trang bị cơ sở vật chất, bố trí đội ngũ cán bộ...
- Chính sách giao tiếp khuyếch trương: Để thực hiện tốt chính sách này Ngân hàng ngoài quảng cáo còn cần phải tiến hành mở rộng các hình thức tín dụng, dịch vụ về xuất nhập khẩu. Công việc này cần phải được thực hiện bởi toàn chi nhánh, mọi cán bộ nhân viên trong toàn hệ thống chứ không nên chỉ giới hạn ở Ngân Hàng.
Để làm tốt công tác trên Chi Nhánh cần sớm hoàn thành việc xây dựng trang chuyên đề về tài trợ xuất nhập khẩu trên mạng nội bộ INTRANET, nhằm giới thiệu các văn bản pháp lí về hoạt động xuất nhập khẩu của Ngân Hàng và các Bộ, ngành có liên quan để tạo ra một diễn đàn, chuyên đề về xuất nhập khẩu toàn hệ thống Ngân Hàng.
3.2.8. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Hiện nay công nghệ ngân hàng tại Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình đã được nâng cao nhưng chưa toàn diện, chưa đồng bộ trong toàn hệ thống. Do vậy, Ngân Hàng cũng cần phải tiếp tục đầu tư hơn nữa để nâng cao công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng cho việc áp dụng các hình thức tín dụng mới và hỗ trợ cho việc thanh toán diễn ra nhanh chính xác từ đó giảm được chi phí, nâng cao khả năng phòng chống rủi ro và chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng.
Một vài kiến nghị với Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước
Đối với Nhà nước
Hoạt động xuất nhập khẩu nắm giữ một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Vì vậy để thúc đẩy hoạt động này một cách có hiệu quả nhất đồng thời nâng cao được chất lượng tín dụng cho xuất nhập khẩu không chỉ là mối quan tâm của các Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của Nhà nước. Để đạt được mục tiêu nói trên theo tôi trong giai đoạn trước mắt Nhà nước cần phải:
1. Bổ sung, hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách quản lí Nhà nước đối với hoạt động kinh tế đối ngoại theo hướng tinh giản chính xác và thuận lợi nhằm tạo hành lang pháp lí an toàn cho các doanh nghiệp và Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thời gian qua chính sách và cơ chế quản lí Nhà nước về kinh tế, tuy đã có nhiều sửa đổi nhưng vẫn bộc lộ những yếu kém. Minh chứng cho điều này là hàng loạt các vụ án kinh tế lớn có liên quan đến các Doanh nghiệp và Ngân hàng. Sự lừa đảo chiếm đoạt vốn của Ngân hàng, của Nhà nước của các cá nhân, các doanh nghiệp đã thể hiện lỏng lẻo trong quản lí Nhà nước. Việc ban hành các chính sách, chế độ còn nhiều khe hở khiến cho bọn lừa đảo có thể lợi dụng. Tác hại của những vụ việc đó không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng mà cả vơí nền kinh tế.
Để khắc phục những hạn chế đó, Nhà nước cần:
- Tiến hành nghiên cứu sửa đổi các chính sách cũ, ban hành các chính sách mới chặt chẽ hơn nhưng lại phải thuận lợi cho các doanh nghiệp và Ngân hàng làm ăn đích thực hơn.
- Cải tổ hơn nữa bộ máy ngoatị thương bao gồm: cơ quan quản lí Nhà nước về hoạt động ngoại thương, các đơn vị chuyên doanh xuất nhập khẩu. Cần phân chia rõ lợi ích của các tổ chức ngoại thương và người trực tiếp làm hàng xuất nhập khẩu.
Thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu và quỹ tín dụng xuất khẩu:
Về quỹ bảo hiểm xuất khẩu: xuất phát về tính rủi ro cao về giá cả thị trường quốc tế. Để các nhà xuất khẩu yên tâm ổn định sản xuất và một phần giúp đỡ họ khi gặp rủi ro bất lợi, Nhà nước nên sớm thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu. Quỹ này có thể vận động theo nguyên tắc: Bộ thương mại và các cơ quan quản lí có liên quan sẽ tiến hành khảo sát thị trường để định ra một mức giá trị bảo hiểm nhất định sao cho người sản xuất có thể thu hồi vốn đầu tư, trang trải các chi phí và có được một phần lợi nhuận hợp lí.
Khi giá thị trường thế giới thuận lợi, giá xuất khẩu cao hơn giá bảo hiểm. Nhà nước sẽ thu phần chênh lệch bổ sung vào quỹ. Ngược lại khi giá thị trường thế giới thay đổi, giá xuất khẩu thấp hơn giá bảo hiểm, Quỹ sẽ trích tiền hỗ trợ cho nhà xuất khẩu để họ có sản phẩm tại mức giá bảo hiểm.
Như vậy, quỹ bảo hiểm xuất khẩu, Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp ổn định thu nhập, từ đó gián tiếp tác động đến khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng của doanh nghiệp. Đối với Ngân hàng thì điều này là hết sức có ý nghĩa trong việc nâng cao chất lượng của các khoản tín dụng.
Về quỹ tín dụng xuất khẩu: Với mục đích hỗ trợ vốn cho xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng cho các NHTM tham gia tài trợ xuất khẩu, hầu hết các nước trên thế giới đều có cơ quan tài trợ và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu như EXIM bank Nhật, EXIM bank Hàn quốc, EXIM bank Thái Lan, EXIM bank Mỹ... Vì vậy, Chính phủ cần nhanh chóng cho ra đời Quỹ tín dụng xuất khẩu để cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu và hạn chế rủi ro cho các NHTM.
Về nguyên tắc hoạt động: Quỹ sẽ do Ngân hàng Nhà nước quản lí. Đối với từng dự án cụ thể, Quỹ sẽ tài trợ một phần hay toàn bộ. Để tăng hiệu quả Quỹ nên hỗ trợ một phần với lãi suất ưu đãi, phần còn lại các Doanh nghiệp tự đi vay của Ngân hàng. Như vậy, vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp và Ngân hàng, vừa đạt mục tiêu xuất khẩu.
3. Tăng cường vai trò điều tiết giá xuất nhập khẩu hợp lí thông qua Quỹ bình ổn giá
Hoạt động của Quỹ bình ổn giá thời gian qua đã phát huy được vai trò nhất định trong việc điều tiết thị trường hàng hoá (cả xuất khẩu và nhập khẩu ). Song do tiềm lực tài chính và phương thức sử dụng còn hạn chế đã làm cho vai trò của Quỹ đôi lúc còn bị động và chưa kịp thời. Trong thời gian tới, Nhà nước cần hỗ trợ thêm về mặt tài chính cho Quỹ ngoài phần phụ thu như hiện nay. Mặt khác Quỹ nên tập trung vào những Doanh nghiệp lớn mà sự tham gia hoặc rút lui của các Doanh nghiệp này thực sự có ảnh hưởng đến cung cầu, giá cả trên thị trường.
Các phương thức điều tiết cũng nên đa dạng hơn gồm:
- Hỗ trợ lãi suất cho Doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng, hỗ trợ một phần không hoàn lại số lỗ phát sinh trong trường hợp doanh nghiệp phải thực hiện giá mua cao hơn giá bán.
- Hỗ trợ một phần lỗ phát sinh do các doanh nghiệp có nộp phụ thu nay gặp phải đột biến giá cả thị trường trong và ngoài nước cho các doanh nghiệp trực tiếp vay vốn ưu đãi, hỗ trợ chi thay cho NSNN theo lệnh của Chính phủ.
4. Sắp xếp lại các Doanh nghiệp Nhà nước chuyên doanh xuất nhập khẩu, khuyến khích tiết kiệm trong nước, giảm giá thành sản xuất tăng năng suất lao động trong khu vực làm hàng xuất khẩu.
Từ khi qui chế cho vay không cần thế chấp đối với các Doanh nghiệp Nhà nước ra đời, hầu như thị trường tín dụng đổ dồn vào các DNNN. Tại Ngân Hàng khách hàng là DNNN chiếm tới 80-90%. Trong hoạt động xuất khẩu cũng không có ngoại lệ, khách hàng chính hiện nay vẫn là các DNNN. Chính vì vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN có tác động rất lớn đến chất lượng chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Năm 1998 theo báo cáo của Viện quản lí kinh tế Trung Ương, dư nợ tín dụng đối với khu vực DNNN tăng lên đến 75% Tổng dư nợ đối với nền kinh tế. Song mặt khác có tới 66% số lượng các DNNN làm ăn không có hiệu quả . Điều này gây khó khăn không chỉ đối với hoạt động xuất nhập khẩu mà còn rất nhiều lĩnh vực khác. Do đó, trong thời gian tới Chímh phủ cần sớm hoàn thành việc sắp xếp lại các DNNN theo hướng giải thể hoặc sát nhập các Doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, đẩy mạnh cổ phần hoá để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và chất lượng tín dụng cung cấp của các Ngân hàng.
Đồng thời với việc sắp xếp lại các DNNN, Chính phủ cũng cần đề ra các chính sách khuyến khích tiết kiệm trong nước, giảm giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động trong lĩnh vực làm hàng xuất khẩu. Chẳng hạn như khuyến khích dùng nguyên vật liệu trong nước, đề ra chính sách thi đua, khen thưởng thích đáng để khuyến khích người lao động trong lĩnh vực này...
5. Ban hành qui định về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất
Hiện nay về việc đảm bảo tiền vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thường là bất động sản nhưng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà chưa nhiều dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không đủ điều kiện thế chấp do vậy cho vay đối với loại hình này gặp nhiều khó khăn. Hơn thế, nhiều khi doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng đem tài sản thế chấp ra phát mại lại rơi vào trường hợp khách hàng chưa có quyền sử dụng, sở hữu nhà đất hợp pháp. Do vậy để thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài vay vốn hoạt động và cũng là để tránh rủi ro cho các Ngân hàng Nhà nước nên sớm ban hành qui định cụ thể về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu nhà đất cho các doanh nghiệp.
6. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường trong và ngoài nước
Để giúp các doanh nghiệp nắm bắt được thông tin kịp thời chính xác phục vụ cho việc ra các quyết định về sản xuất, đầu tư, đồng thời để định hướng thị trường cho các doanh nghiệp và ngân hàng. Nhà nước cần xây dựng một hệ thống thông tin thị trường trong và ngoài nước một cách chính xác và đầy đủ. Chẳng hạn có thể lập một trương trình truyền hình riêng về thông tin thị trường cập nhật.
7. Quản lí nghiêm việc thực hiện báo cáo tài chính công khai và kiểm toán thường xuyên đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Đây là việc làm hết sức quan trọng không chỉ đối với các doanh nghiệp và ngân hàng mà còn cả với các cơ quan quản lí của Chính phủ.
Việc thực hiện báo cáo tài chính công khai và kiểm toán thường xuyên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng: các Ngân hàng sẽ giảm bớt được gánh nặng trong việc phân tích tài chính doanh nghiệp. Đồng thời có những thông tin chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Qua đó hạn chế được rủi ro và nâng cao được chất lượng tín dụng của mình.
Đối với các cơ quan quản lí của Nhà nước việc làm này sẽ giúp cho họ có thể phát hiện ra được những yếu kém trong hoạt động của các doanh nghiệp và có biện pháp khắc phục.
8. Chính phủ cần tiếp tục thực hiện chương trình thanh toán nợ nước ngoài
Những năm qua Chính phủ đã rất nỗ lực để đàm phán và thanh toán nợ với nước ngoài. Tuy nhiên, để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nâng cao được uy tín cho các doanh nghiệp và ngân hàng trên trường quốc tế Chính phủ cần tiếp tục cố gắng hơn nữa trong việc thanh toán nợ với nước ngoài. Do điều kiện của Việt nam còn nhiều khó khăn Chính phủ có thể đàm phán để được giãn nợ, trả dần và đặc biệt là đàm phán để được thanh toán nợ bằng hàng hoá.
3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước
1. Xây dựng các văn bản pháp lí về tín dụng xuất nhập khẩu
Hiện nay các văn bản pháp lí về tín dụng xuất nhập khẩu còn sơ sài. Các Ngân hàng chỉ được hướng dẫn theo định hướng chung mà chưa có hệ thống văn bản qui định và hướng dẫn cụ thể. Do vậy NHNN cần sớm ban hành các văn bản pháp lí và hướng dẫn thực hiện về hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu để các ngân hàng có cơ sở hoạt động, tránh được sự vi phạm pháp luật đồng thời hạn chế được rủi ro và nâng cao được chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của mình.
2. NHNN cần xem xét đề ra một cơ chế điều hành lãi suất và tỉ giá một cách thông thoáng hơn.
Về lãi suất: Hiện nay NHNN đang sử dụng trần lãi suất để điều chỉnh lãi suất cho vay của các NHTM. Điều này đã đem lại cơ hội giảm chi phí vay vốn một cách bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy vậy, thời gian qua trần lãi suất liên tục 5 lần bị điều chỉnh xuống để kích cầu dẫn đến hiện tượng lãi suất không vận động theo cung cầu tiền tệ.
Với các Ngân hàng lãi suất đầu ra giảm trong khi lãi suất đầu vào vẫn tăng (do biến động khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới các nước hạn chế đầu tư ra nước ngoài và do các Ngân hàng vẫn phải cạnh tranh lãi suất để huy động vốn) vì vậy lợi nhuận không cao.
Với các chủ đầu tư khi lãi suất thấp họ sẽ đầu tư tràn lan mà không cần xem xét đến hiệu quả sử dụng vốn dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp trong khi đó các Ngân hàng lại muốn cho vay nhiều để tăng lợi nhuận nên khả năng nợ quá hạn tăng là khó tránh khỏi.
Để vừa khuyến khích các nhà xuất nhập khẩu tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh NHNN cần phải xem xét điều tiết lãi suất trên cơ sở bám sát thị trường sao cho đảm bảo cân đối giữa lãi suất đầu ra và đầu vào của các Ngân hàng đồng thời buộc các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả hoạt động của mình.
Về tỉ giá hối đoái: Do ảnh hưởng của nền kinh tế trong những tháng qua, do qui chế cho vay bằng ngoại tệ và một phần tâm lí của khách hàng sợ biến động tỉ giá nên việc cho vay ngoại tệ đạt mức thấp.
Việc tỉ giá giữa đồng nội tệ VND với USD tăng làm cho việc xuất khẩu có chiều hướng thuận lợi hơn nhưng bên cạnh đó các nhà nhập khẩu lại gặp khó khăn trong việc mua bán hàng hoá từ nước ngoài về và thanh toán số nợ ngoại tệ trước đây cho ngân hàng điều này có thể dẫn đến nguy cơ nợ quá hạn đối với các ngân hàng. Vì vậy NHNN cần phải có sự điều chỉnh tỉ giá sao cho cân đối được lợi ích của các bên xuất khẩu và nhập khẩu và của cả các ngân hàng.
3. NHNN cần đẩy mạnh việc nghiên cứu sử dụng đồng EURO trong giao dịch thanh toán quốc tế đồng thời nghiên cứu sử dụng đồng nội tệ của các nước trong khu vực thay cho việc sử dụng USD để hạn chế ảnh hưởng biến động của USD và nâng cao vai trò thanh toán của VND.
Quan hệ thương mại quốc tế giữa Việt nam và các nước thuộc nhóm sử dụng đồng EURO là khá chặt chẽ. Bởi từ lâu các nước này đã là những nước nhập khẩu lớn các sản phẩm xuất khẩu của ta về các mặt hàng như nông, lâm, thuỷ sản... Ngoài ra đây còn là những nước cung cấp các mặt hàng nhập khẩu quan trọng cho Việt nam đó là các dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị... Và đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp và các khoản viên trợ nước ngoài. Bởi vậy, để cho sự hợp tác này diễn ra được thuận lợi hơn nữa, NHNN cần sớm triển khai việc nghiên cứu và sử dụng đồng EURO trong giao dịch thanh toán quốc tế của Việt nam với các nước. Đồng thời để hạn chế sự lệ thuộc vào đồng USD, và nâng cao vị trí của đồng VND trên trường quốc tế chúng ta cũng cần phải xem xét sử dụng các đồng tiền khác của các nước trong khu vực vào việc thanh toán trực tiếp với Việt nam.
4. Mở các lớp đào tạo nghiệp vụ, các diễn đàn trao đổi giữa các ngân hàng Việt nam và với các Ngân hàng quốc tế
Với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN nên đứng ra mở các lớp đào tạo nghiệp vụ và tổ chức các diễn đàn trao đổi giữa các ngân hàng Việt nam với các ngân hàng quốc tế để tạo điều kiện cho các NHTM Việt nam có điều kiện nâng cao trình độ nhận thức và học hỏi kinh nghiệm hoạt động của các Ngân hàng bạn. Qua đó nâng cao được chất lượng trong hoạt động của mình. Ngoài ra, đây cũng là cơ hội để thúc đẩy sự hợp tác quốc tế cho ngành ngân hàng Việt nam.
kết luận
Những năm qua, trước yêu cầu đổi mới nền kinh tế theo hướng mở cửa và đặc biệt là nhu cầu vốn ngày càng tăng của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước đi tích cực trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực ngân hàng quốc tế nhằm đáp ứng tốt nhất những yêu cầu đó.
Cùng với các ngân hàng trong toàn ngành, Chi Nhánh Ngân hàng Công Thương Ba Đình với vai trò Ngân hàng chủ đạo trong lĩnh vực công thương nghiệp đã tiến hành đổi mới hoạt động theo hướng kinh doanh đa năng, tổng hợp dần sang hoạt động ngân hàng quốc tế. Tín dụng xuất nhập khẩu, một sản phẩm mới của Ngân hàng trong vài năm gần đây đã thu được những thành công ban đầu và góp phần đáng kể vào sự phát triển hoạt động ngân hàng quốc tế của Ngân Hàng cũng như sự phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Có được thành công này một phần quan trọng là do Ngân Hàng đã thực hiện tốt phương châm “ lấy chất lượng làm đầu”. Ngân hàng đã coi việc nâng cao chất lượng tín dụng là biện pháp tối ưu để tăng trưởng tín dụng và thúc đẩy sự phát triển của Ngân hàng.
Tuy nhiên, do phải hoạt động trong môi trường mà các điều kiện về tiền tệ chưa ổn định, sự cạnh tranh gay gắt và do những nguyên nhân nội tại như về con người, về điều kiện phương tiện phục vụ hoạt động... mà việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng còn có những hạn chế nhất định.
Thấy được những hạn chế đó, với nỗ lực không ngừng và khả năng phát triển của Ngân Hàng như hiện nay chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng trong tương lai hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng của Ngân Hàng Công Thương Ba Đình sẽ phát triển mạnh mẽ và đóng góp nhiều hơn nữavào sự phát triển của Ngân Hàng cũng như sự phát triển chung của đất nước.
Danh mục Tài liệu tham khảo
Báo cáo hoạt động kinh doanh của NHCT Việt Nam và chi nhánh NHCT Ba Đình.
Các tài liệu nghiệp vụ khác của Ngân hàng Công thương Ba Đình
Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng nâng cao_Học viện ngân hàng.
Giáo trình tài chính doanh nghiệp - Trường Đại học KTQD Hà nội
Giáo trình Kinh tế quốc tế- Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội
8. Kinh tế Việt nam và thế giới năm 1999-2000- Thời báo kinh tế VN
9. Lý thuyết tài chính- tiền tệ Nguyễn Ngọc Hùng, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thống kê
10. Ngân hàng thương mại- Edward Weed, Ph.D và Edward K. Gill, Ph.D, NXB Thành phố Hồ Chí Minh
11. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại - David Cox, NXB Chính trị quốc gia
12. Tài chính học-Trường ĐH Tài chính-kế toán Hà nội, NXB Tài chính
13. Tài chính ngoại thương-Herbert-Jkessler, NXB Khoa học kỹ thuật
14. Tạp chí ngân hàng, Tạp chí Thị trường tài chính - tiền tệ năm 1998- 1999- 2000
15. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương- Đinh Xuân Trình, Trường Đại học Ngoại thương, NXB Giáo dục
16. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Fredẻic Minshkin, NXB Khoa học kỹ thuật
17. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ - Lê Văn Tư và Lê Tùng Vân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6689.doc