Việc phòng và chống lãng phí trong chi tiêu ngân sách nhà nước là một vấn đề mà trong quá trình hình thành và phát triển ngân sách nhà nước luôn luôn được nhắc đến. Giải quyết vấn đề này rất khó khăn và không thể giải quyết sớm trong ngày một ngày hai được mà chúng ra cần phải có thời gian.Việc giải quyết vấn đề này là sự kểt hợp giải quyết nhiều vấn đề lãng phí khác nhau.Tuy nhiên có một số biện pháp chung để giải quyết vấn đề này đó là:
+ Hoàn thiện cơ chế tài chính trong quản lý chi tiêu công. Nhà nước đã ban hành khá nhiều văn bản quy định về chế độ, tiêu chuẩn, định mức trong chi tiêu công ở các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, vẫn còn không ít văn bản tồn tại nhiều kẻ hở trong các chế độ tài chính, tạo cơ hội cho tình trạng lãng phí hoành hành.
+ Ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với điều kiện thực tế, có tính khả thi.
+ Tăng cường công khai, minh bạch về tài chính.Điều này sẽ giảm thiểu đựơc sự tham nhũng ,thất thoát.
+ tăng cường kiểm tra, giám sát chi tiêu ngân sách nhà nước. Việc kiểm tra, thanh tra tài chính cần được đẩy mạnh. Có kế hoạch kết hợp giữa thanh tra nhà nước, thanh tra tài chính và thanh tra của của bộ, ngành, địa phương để mở rộng diện thanh tra và tránh sự chồng chéo, phiền hà. Nâng cao chất lương đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra cả về chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã chủ động khai thác các thế mạnh để phát triển kinh tế trên địa bàn của mình .
Trong hệ thống ngân sách nước ta, Ngân sách Trung ương chi phối phần lớn các khoản thu và chi quan trọng, còn ngân sách địa phương được giao nhiệm vụ đảm nhận các khoản thu và chi có tính chất địa phương.
3.2. Phân cấp quản lý NSNN
Chế độ phân cấp quản lý NSNN ở nước ta ra đời từ năm 1967, tới nay đã có nhiều lần bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với tưng giai đoạn nhât định nhằm giả quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa nhà nước trung ương và chính quyền các cấp trong quản lý NSNN. NSNN được phân cấp quản lý giữa chính phủ và các cấp chính quyền địa phương là một tất yếu khách quan khin tổ chức hệ thống NSNN gồm nhiều cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế, mà còn từ cơ chế phân cấp quản lý về hành chính.Mỗi cấp chính quyền đềi có nhiệm vụ bảo đảm bằng các nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp trực tiếp đề xuất và bố chí chi tiêu sẽ có hiệu quả hơn là việc áp đặt từ trên xuống. Mặt khác xét về yếu tố lịch sử và điều kiện thực tế hiện nay ,trong khi trống tư tưởng địa phương, cục bộ … vẵn còn có chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền các địa phương phát huy, tính độc lập tự chủ tính chủ động sáng tạo của địa phương mình trong phát triển kiuh tế xã hội trên địa bàn . Có một số khoản thu như tiền thuê mặt đất ,mặt nước đối với các doanh nghiệp, tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu nhà nước ,lệ phí trước bạ, thuế môn bài ,thuế sát sinh giao cho địa phương quản lý sẽ có hiệu quả hơn. Phân cấp quản lý NSNN là xác định phạm vị trách nhiệm quyền hạn của chính quyền nhà nước các cấp trong việc quản lý điều hành thực hiện nhiệm vụ thu chi của ngân sách. Phân cấp quản lý NSNN là cách tốt nhát để gắn kết các hoạt độnh của NSNN với các hoạt động của kinh tế xã hội một cách cụ thể và nhằm tập chung đầy đủ kịp thời. đúng chính sách chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân phối công bằng sử dụng chúng hợp lý tiết kiệm và có hiệu quả cao phục vụ các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Phân cấp và quản lý NSNN đúng đắn không chỉ đảm bảo phưong tiện tài chính cho duy trì phát triển các hoạt động vủa các cấp chính quyền nhà nước mà còn tạo điều kiện phát huy đựoc các lợi thế nhiều mặt của từng vùng ,từng địa phương trong cả nước .Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá NSNN được tốt hơn,điều chỉnh các mối quan hệ của chính quyền cũng như mối quan hệ giữa các cấp ngân sach được tốt hơn.
Việc phân cấp quản lý NSNN dựa trên một số nguyên tắc:
- Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội của từng nước
- Ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo ,tập chung các nguôn lực cơ bản để thực hiện các mục tiêu cơ bản trọng yếu trên cả nước
- Phân định rõ nhiệm vụ chi giữa các cấp
- Đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách
4.Những nội dung thu chi của ngân sách nước ta
4.1 Thu NSNN
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN thoả mãn nhu cầu của nhà nước
- Thuế ,phí ,lệ phí do các tổ chức và cấ nhân nôp theo quy đinh của pháp luật.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước như lợi tức từ vốn góp củan nhà nước vào các cơ sở kinh tế ,tiền thu hồi vốn của nhà nước tại các cơ sỏ kin tế và thu hồi tiền cho vay của nhà nứơc.
- Thu từ hoạt động sự nghiệp.
- Thu hồi quỹ dự trữ nhà nước .
- Tiền sử dụng đăt ,thu từ hoa lợi công sản và đất công ích .
- Các khoản huy động đóng góp từ các tổ chức ,cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở .
- Các khoản đóng góp tự nguyện của các cá nhân tổ chức và că nhân trong và ngoài nước.
- Khoản di sản nhà nước được hưởng
- Thu kết dư ngân sách năm trước
….
4.2. Chi NSNN
Chi NSNN là việc sử dụng và phân phối quỹ NSNN nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhấp định .
Chi NSNN ta bao gồm:
- Chi thường xuyên
- Chi đầu tư phát triển
- Chi trả nợ gốc tiền cho Nhà nước vay
- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
4.2.1 Nội dung chủ yếu của chi Ngân sách nhà nước
Thứ nhất, xoá bỏ bao cấp vốn trong kinh tế (loại bỏ chính sách tầm gửi), giảm chi bù lỗ, chỉ tập trung trong lĩnh vực cần thiết cấp bách, đảm bảo vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế
Thứ hai, giảm chi tiêu dùng, nâng cao chi cho đầu tư phát triển
Thứ ba, chú trọng đầu tư cho các mục tiêu chiến lược kinh tế – xã hội (các ngành kinh tế mũi nhọn, hạ tầng cơ sở kinh tế- xã hội, các dự án huy động được nhiều lao động nhằm tận dụng nhân lực, đầu tư máy móc công nghệ hiện đạ
Thứ tư, chi thường xuyên không vượt quá nguồn thu thuế, phí và lệ phí trong nước
Thứ năm, tăng chi hợp lý cho các mục tiêu trong điểm: Giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội (chú ý công tác dân số, xoá đói giảm nghèo và khắc phục tệ nạn xã hội)
Thực hiện triệt để tiết kiệm và nâng cao hiệu quả mọi khoản chi
Hoàn thiện cơ chế chính sách chi tiêu của nhà nước đúng đối tượng, mục đích, hiệu quả. Rà soát lại các định mức tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp
Hình thành các quỹ dự trữ quốc gia đủ mạnh (quỹ dự trữ tài chính, ngoài tệ, kim khí quý, vật tư chiến lược).
Không phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách, kiểm soát lạm phát.
4.2.2.Vai trò của chi Ngân sách nhà nước
* Điều tiết kích thích sự tăng trưởng phát triển kinh tế:
Cùng với sự thay đổi của cơ chế kinh tế, vai trò của Ngân sách nhà nước nói chung và vai trò của chi Ngân sách nhà nước nói riêng cũng được thay đổi cho phù hợp và theo xu hướng ngày càng phát triển. Trước đây trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, việc sử dụng Ngân sách nhà nước trong vấn đề điều tiết nền kinh tế hết sực thụ động, quản lý theo kiểu cấp phát, hoạt động của ngân sách nhà nước chủ yếu gắn với khu vực kinh tế quốc doanh và cho bộ máy nhà nước. Trong thời kỳ này, chi ngân sách tràn lan lại luôn phải bù lỗ dẫn đến hạn chế trong việc điều hoà các hoạt động kinh tế. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có định hướng của nhà nước, việc chi tiêu ngân sách nhà nước cũng được điều chỉnh một cách rõ ràng: ưu tiên chi phát triển những ngành mũi nhọn, đẩy mạnh các mặt hàng xuất khẩu, chi xây dựng kết cấu hạ tầng để thu hút đầu tư nước ngoài...đồng thời bằng chính sách chi tiêu của ngân sách chính phủ để vừa kích thích, vừa gây sức ép đối với các doanh nghiệp nhằm định hướng việc hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển kinh doanh và chống độc quyền.
*Giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội):
Trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tính chất bao cấp tràn lan trong mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội đã hạn chế đáng kể vai trò của việc chi tiêu ngân sách nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trong thời kỳ này mọi sự ưu tiên ưu đãi của Nhà nước đều được dành cho khu vực Nhà nước. Những chế độ bao cấp về nhà ở, cung cấp lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng với giá thấp… đã gây tâm lý sùng bái biên chế nhà nước, tâm lý trông chờ ỷ lại vào Nhà nước. Điều đó một mặt làm giảm công tác, hiệu quả tiền vốn. Mặt khác vừa tác động ngược chiều đến việc bảo đảm công bằng xã hội. Bên cạnh đó sự bao cấp tràn lan cho các hoạt động có tính chất xã hội (các hoạt động sự nghiệp), song lại thiếu sự tính toán hợp lý về phạm vi, mức độ hiệu quả của nó cũng dẫn đến những hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu về mặt xã hội.
Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ máy Nhà nước, lực lượng quân đội, công an, sự phát triển của các hoạt động xã hội, y tế, văn hoá có ý nghĩa quyết định. Việc thực hiện các nhiệm vụ này về cơ bản thuộc về nhà nước và không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng các dịch vụ kể trên được phân chia giữa những người tiêu dùng, nhưng nguồn tài trợ để thực hiện các nhiệm vụ đó lại được cấp phát từ Ngân sách nhà nước. Như vậy, trong việc thực hiện những nhiệm vụ có tính chất chung cho toàn xã hội, Ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ có tính chất chung cho toàn xã hội, hàng năm chính phủ vẫn có sự chú ý đặc biệt cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp nhất. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó thông qua các loại trợ giúp trực tiếp được giành cho những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội; các loài trợ giúp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu (lương thực, điện, nước…), các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, các chương trình quốc gia lớn về chống mù chữ, chống dịch bệnh, các chi phí cho việc cung cấp hàng hoá khuyến dụng, hàng hóa công cộng….Tuy rằng mọi tầng lớp dân cư đều được hưởng dịch vụ này, nhưng hiện nay ở nước ta, tỷ lệ người nghèo còn chiếm phần lớn trong dân cư nên phần được hưởng của người nghèo cũng lớn hơn.
* Góp phần ổn định thị trường, giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường)
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, sự đơn điệu về chế độ sở hữu, bó khung trong hai hình thức quốc doanh và tập thể đã dẫn đến sự phát triển yếu ớt của các quan hệ thị trường. Bệnh cạnh đó, cơ chế chỉ huy (bằng các mệnh lệnh hành chính) với việc nhà nước quyết định giá cả của các hàng hoá, dịch vụ, chỉ định nơi cung cấp vật tư, tiêu thụ sản phẩm…cũng đã làm cho các quan hệ thị trường kém phát triển. Trong cơ chế đó, sự vận động của giá cả, chi phí thoát ly quan hệ cung – cầu của thị trường, sự vận động của chúng được che dấu bởi sự bao cấp của Nhà nước.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, giá cả chủ yếu phụ thuộc vào quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Do đó để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động vào cung hoặc cầu hàng hoá trên thị trường. Sự tác động này không chỉ được thực hiện thông qua thuế mà còn được thực hiện thông qua chính sách chi tiêu của Ngân sách nhà nước. Bằng nguồn vốn cấp phát của chi tiêu Ngân sách nhà nước hàng năm, các quỹ dự trữ Nhà nước về hàng hoá tài chính được hình thành. Trong trường hợp thị trường có nhiều biến động, giá cả lên có cao hoặc xuống quá thấp, nhờ lực lượng dự trữ hàng hoá và tiền, chính phủ có thể điều hoà cung - cầu hàng hoá, vật tư để bình ổn giá cả trên thị trường, bảo vệ quyền lời người tiêu dùng và ổn định sản xuất. Chính phủ cũng có thể sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi nạn lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách thắt chặt ngân sách, nghĩa là cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách, chống tình trạng bao cấp lãng phí trong chi tiêu.
4.2.3 Quản lý chi Ngân sách nhà nước.
Quản lý Nhà nước đối với chi Ngân sách nhà nước là quá trình tác động của Nhà nước đến Ngân sách nhà nước, nhằm làm cho hoạt động của Ngân sách nhà nước một mặt theo đúng pháp luật nhà nước, mặt khác kích thích kinh tế phát triển, đảm bảo tính hiệu quả của các khoản chi, giảm bớt bội chi ngân sách.
Trong quản lý Nhà nước đối với chi ngân sách nhà nước, Nhà nước vừa là cửu sở hữu Ngân sách nhà nước vừa là chủ thể quản lý Ngân sách nhà nước mà trực tiếp là các quan hệ các bộ phận của ngân sách là đối tượng, khách thể quản lý. Chi ngân sách nhà nước được quản lý theo Luật Ngân sách và chế độ kế hoạch hoá ngân sách.
Các nguyên tắc quản lý chi Ngân sách nhà nước :
- Nguyên tắc tập trung thống nhất. Cả quốc gia chỉ có một Ngân sách nhà nước thống nhất theo Luật Ngân sách nhà nước. Sự thống nhất đó thể hiện bằng pháp luật, bằng chính sách, chế độ và bằng kế hoạch ngân sách hàng năm. Quốc hội quy định, sửa đổi và bãi bỏ các khoản chi của ngân sách. Chính phủ quy định thẩm quyền ban hành và nguyên tắc quản lý các loại phí và các khoản thu ngoài thuế khác, kể cả việc huy động và sử dụng tiền đóng góp của dân.
- Tính trung thực của Ngân sách nhà nước: Phản ánh các khoản chi của Ngân sách nhà nước đã diễn ra trong thực tế là đúng sự thật khách quan. Các dự toán, quyết toán phải được kiểm tra, thẩm định nghiêm túc theo một trình tự chặt chẽ, không cho phép các cơ quan hành chính tự ý làm điều sai trái mà cơ quan lập pháp đã quyết định Ngân sách nhà nước.
- Tính công khai: các khoản chi của Ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương được Quốc hội và Hội đồng nhân dân thảo luận và biểu quyết công khai, khi được quyết định phải được công bố công khai cho nhân dân biết. Tính công khai của Ngân sách nhà nước nói chung và chi ngân sách nói riêng là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”.
- Tính cân bằng của ngân sách nhà nước: Các khoản chi tiêu của Ngân sách nhà nước phải được thực hiện trên cơ sở cân bằng thu chi Ngân sách nhà nước nghĩa là cân bằng giữa cung cầu vốn tiền tệ của nhà nước trong năm; cân bằng cung cầu vốn Ngân sách nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng chi phối cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế; bội chi Ngân sách nhà nước là một trong các nguyên nhân gây lạm phát.
- Đảm bảo quỹ dự trữ tài chính: Chi ngân sách nhà nước phải trên cơ sở đảm bảo quỹ dự trữ tài chính của nhà nước, đây là vấn đề có tính chiến lược, đảm bảo sử dụng ổn định tài chính và chủ động trong điều hành ngân sách nhà nước. Quỹ này không mất đi, mà tăng hàng năm
- Đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu kinh tế xã hội: kế hoạch chi tiêu của ngân sách nhà nước phải phản ánh và phục vụ đúng mục tiêu kinh tế – xã hội, hướng hoạt động Ngân sách nhà nước theo yêu cầu mục tiêu kinh tế – xã hội
- Tính kỷ cương heo pháp luật: Vấn đề chi tiêu của Ngân sách nhà nước phải chấp hành nghiêm túc luật Ngân sách nhà nước, các văn bản pháp quy của Nhà nước, bảo đảm trật tự kỷ cương trong quản lý tài chính đất nước
Chương 2. Thực trạng của chi tiêu Ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng chung
Trong thời kỳ nền kinh tế được vận hành theo cơ chế kê hoạch hoá tấp trung của nước ta trước đây, do tính chất bao cấp tràn lan trong mọi lĩnh vực kinh tễ – xã hội đã hạn chế đáng kể vai trò của việc chi tiêu ngân sách nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội.Trong nền kinh tế thị trường, nước ta đã có những điều chỉnh đáng kể trong chính sách quản lý Ngân sách nhà nước đặc biệt là chính sách chi tiêu Ngân sách nhà nước. Do đó chi Ngân sách nhà nước đã có một cơ cấu thích hợp, đã tập trung vào con người, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ, y tế văn hoá và xoá đói giảm nghèo.
Ngày 16/12/2002, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 2 đã thông qua luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi), có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004, thay thế Luật ngân sách nhà nước. Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi quán triệt nội dung về tài chính – ngân sách theo nghị quyết đại hội toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX là: “thực hiện nguyên tắc công bằng và hiệu quả trong phân phối và phân phối lại nguồn thu nhập xã hội. Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển nguồn lực tài chính, gắn việc đổi mới chính sách chi tiêu Ngân sách nhà nước với việc thực hiện mạnh mẽ chủ trương xã hội hoá. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý tài chính và Ngân sách nhà nước, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của ngân sách trưng ương; đồng thời phát huy tính sáng tạo của ngân sách địa phương và các ngành trong quản lý tài chính ngân sách đã được phân cấp. Nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội, HĐND các cấp trong việc quyết định và thực hiện ngân sách, thực hiện công khai minh bạch trong thực hiện chi tiêu ngân sách. Cân đối ngân sách một cách tích cực, tăng dự trữ, giữ bội chi ở một mực hợp lý, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; quy định rõ và thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ”. Theo luật Ngân sách nhà nước sửa đổi việc chi tiêu của Ngân sách nhà nước trong những năm gần đây đã đạt được những thành quả đáng kể, tuy nhiên vẫn còn những khó khăn tồn tại cần phải khắc phục.
2. Những kết quả đạt được
Năm 2006 thu NSNN tăng 26.600 tỷ đồng .Bộ tài chính cho biết ,năm 2006 dự toán thu NSNN là 273.000 tỷ đồng ,tăng 26.600 tỷ đồng so với năm 2005.Trong đó thu nội địa là 132.000 tỷ đồng ,thu từ dầu thô 63.000 tỷ đồng .còn lại là thu từ xuất nhập khẩu.Năm 2005 tổng thu NSNN đạt 210.400 tỷ đồng ,vượt 15% so với kế hoạch đề ra ,trong đó thu nội địa đạt 115.000 tỷ ( vượt 9,2%) thu từ dầu thô đạt 55.500 tỷ đồng ( vượt 46,1%) còn lại là thu từ hoạt động xuất nhập khẩu .Với những số liệu trên đã cho chúng ta thấy tình hình thu ngân sách của nước ta ngày một hiệu quả hơn, nhiều hơn .Để có được sự thành công này cần phảI có những chính sách hợp lý đối với mọi khoản thu của NSNN.Tăng thu ngân sách từ việc sử luật thuế. Bộ tài chính cho biết, lần sửa đổi thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng ôtô, rượu bia, thuốc lá ,Nhà nước tăng thu hàng nghìn tỷ đồng.Trong đó riêng mặt hàng ôtô ,ước tính nguồn này tăng khoảng 217.8 tỷ đông. Theo dự ỏn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiờu thụ đặc biệt, từ ngày 1/1/2006, thuế tiờu thụ đặc biệt đối với ụtụ sản xuất trong nước và xuất khẩu sẽ cú mức thuế suất chung là 50% đối với ụtụ dưới 5 chỗ ngồi, từ 6 đến 15 chỗ ngồi là 30% và 15% đối với loại xe từ 16 đến 24 chỗ ngồi. Mức thuế suất này sẽ tương đương với thuế suất của Thỏi Lan, Philipines và thấp hơn Malaysia khoảng 35-50%.
Đỏnh giỏ về tỏc động của việc điều chỉnh này đối với nguồn thu ngõn sỏch Nhà nước, Bộ trưởng Tài chớnh Nguyễn Sinh Hựng cho rằng, nếu tớnh trờn cơ sở sản lượng ụtụ sản xuất trong nước năm 2004 là 40.141 chiếc ụtụ nhập khẩu là 792 chiếc thỡ khi thuế tiờu thụ đặc biệt thay đổi thỡ Nhà nước sẽ giảm thu khoảng 139,5 tỷ đồng. Tuy nhiờn, số thu từ ụtụ sản xuất trong nước lại tăng khoảng 357,3 tỷ đồng, bự từ nguồn tăng giảm này thỡ Nhà nước vẫn tăng thu khoảng 217,8 tỷ đồng.
Đối với mặt hàng thuốc lỏ, Bộ Tài chớnh đang đề nghị năm 2006-2007 sẽ cú thuế tiờu thụ đặc biệt là 55% và từ năm 2008 cú thể nõng lờn 65%. Mức thuế suất này cơ bản tương đồng với cỏc nước trong khu vực, nếu nõng cao hơn nữa sẽ rất khú hạn chế được buụn lậu trong điều kiện hội nhập ngày càng sõu hơn. Theo tớnh toỏn của Bộ Tài chớnh, 2 năm đầu ỏp dụng thuế suất 55%, ngõn sỏch nhà nước sẽ giảm khoảng 98 tỷ đồng và từ năm 2008 sẽ tăng thu khoảng 672 tỷ đồng/năm.
Riờng mặt hàng bia hơi, hiện Bộ Tài chớnh vẫn cõn nhắc 2 phương ỏn là năm 2006-2007 bia tươi và bia hơi sẽ cú mức thuế suất là 40% và từ năm 2008 sẽ là 50% hoặc 30% cho cỏc năm 2006-2007 từ 40% từ năm 2008. Với phương ỏn 1, dự kiến số thu thuế từ bia tươi giảm khoảng 8 tỷ đồng/năm, số thu từ bia hơi tăng khoảng 75 tỷ đồng trong 2 năm đầu và từ năm 2008, số thu sẽ tăng khoảng 120 tỷ đồng.
Đó là một nét chính về các khoản thu để bù đắp những chi phí cho cho các hoạt động của chính phủ.Việc cân đối giữa thu và chi là rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản lý cũng như phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên tình hình điều tiết các khoản thu và chi cũng tuỳ thuộc vào tình hình của đất nước trong mỗi thời kì.
Trong những năm gần đây vấn đề chi tiêu của NSNN luôn luôn được sự quan tâm của tất cả các tầng lớp dân chúng. Chúng ta đã ngày càng sử dụng tốt hơn nguồn ngân sách để phục vụ các vấn đề xã hội. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chi Ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách nhà nước và Luật ngân sách nhà nước, việc chi tiêu Ngân sách nhà nước đã đạt được những kết quản đáng kể:
Công tác quản lý và giải pháp tài chính ngân sách đã có nhiều những đổi mới cơ bản, nâng cao quyền chủ động và tráchn nhiệm của các đơn vị, các địa phương và các ngành trong sử dụng ngân sách, giúp cho việc chi tiêu ngân sách nhà nước đạt hiệu quả cao hơn.
Tổng chi Ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2001 – 2005 ước tính đạt trên 889 nghìn tỉ đồng, tăng 18.06% so với mục tiêu đề ra (720 – 750 nghìn tỉ đồng); tốc độ tăng chi bình quân đạt 16.1%/ năm (trong đó mục tiêu đại hội IX là 12%/ năm)
Cơ cấu chi có những chuyển biến tích cực: Chi cho đầu tư phát triển dự kiến đạt 29.2% tổng chi ngân sách nhà nước, đạt 8.32%GDP, vượt qua mục tiêu đại hội IX (khoảng 25 – 26% tổng chi Ngân sách nhà nước), chi tiêu cho giáo dục đào tạo tăng từ 15% tổng chi Ngân sách nhà nước năm 2000 lên 18% năm 2005. Chi Ngân sách nhà nước phần nào đáp ứng được các nhiệm vụ kinh tế - xã hội theo nghị quyết của Quốc hội đề ra. Chi đầu tư phát triển tăng đã góp phần đưa nhiều dự án hạ tầng quan trọng hoàn thành đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả vốn đầu tư…Chi ngân sách cho các lĩnh vực phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh cũng tăng so với dự toán – nhất là những vùng trọng điểm và những vùng có nhiều khó khăn. Nhiều địa phương đã chủ động sử dụng dự phòng ngân sách để xử lý kịp thời các nhiệm vụ phát sinh đột xuất như: hạn hán, lũ lốc, dịch bệnh đối với cây trồng và vật nuôi; sử dụng nguồn trung ương hỗ trợ, bố trí ngân sách địa phương và huy động sức dân đẩy mạnh thực hiện đầu tư kiên cố hoá các công trình thuỷ lợi, kênh mương, giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn…
Các bộ và địa phương đã quán triệt và triển khai thực hiện tốt chủ trương của Quốc hội về việc bố trí ngân sách và thực hiện chính sách tạo nguồn theo quy định để thực hiện cải cách tiền lương. Nhiều bộ địa phương đã tập trung chỉ đạo công tác triển khai thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ- CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về đổi mới cơ chế quản lý tài chính, giao quyền chủ động cho đơn vị sự nghiệp trong quản lý biên chế, phát triển nhiệm vụ chuyên môn; triển khai mở rộng thí điểm khoán biên chế và khoán chi hành chính theo Quyết định số 192/2001/QĐ - TTg ngày 17/12/2001 của Thủ tướng chính phủ; đã tạo cho các đơn vị quyề tự chủ trong quản lý biên chế, lao động, hoạt động chuyên môn, quản lý tài chính; chủ động tổ chức huy động các nguồn lực phát triển các hoạt động dịch vụ; chủ động xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ phù hợp với đặc thù của đơn vị.
Chi trả nợ nươc ngoài cũng được đảm bảo. Tỷ lệ nợ nước ngoài được khống chế ở mức dưới giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính co kết quả tích cực. Bội chi Ngân sách nhà nước được xử lý theo hướng tích cực và được kiềm chế trong giới hạn cho phép (5%GDP), đảm bảo thanh toán kịp thời đầy đủ các khoản nợ theo đúng cam kết.
Đánh gía tình hình phân bổ NSNN giai đoạn 2004 - 2006 và dự thảo phân bổ NSNN giai đoạn 2007 - 2009: Đây là chủ đề hội thảo do uỷ ban kinh tế - Ngân sách quốc hội phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch - Đầu tư tổ chức tại Hà Nội trong ngày 11 và 12/4/2006. Theo đánh giá chung, nhờ thực hiện định mức phân bổ và cơ chế ổn định đối với ngân sách địa phương theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2004 - 2006, tổng thu NSNN tăng 34.2% trong đó thu NSTW tăng 40.5%; tổng chi NSNN tăng 46.2%, trong đó tổng chi cân đối NSĐP tăng gần 40%, chi đầu tư phát triển NSĐP tăng gần 71% .Định mức phân bổ NSNN theo quyết định 149 đã cơ bản phù hợp với tình hình thực tế về nguồn lực ngân sách đáp ứng kinh phí thực hiện các nhiệm vụ của từng bộ cơ quan trung ương và các địa phương; phù hợp với khả năng cân đối ngân sách nhà nước. Định mức phân bổ ngân sách với hệ thống tiêu chí phân bổ ngân sách cụ thể, rõ ràng ,minh bạch dễ thực hiện, dẽ kiểm tra … đã ưu tiên các địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc có nhiều khó khăn; ưu tiên các địa phương có đóng góp thu vào NSTW.Đảm bảo tính công bằng công khai và minh bạch các nhiệm vụ chi ngân sách của từng Bộ, cơ quan Trung ương và các địa phương theo quy định của luật NSNN.Góp phần thúc đẩy tiết kiệm ,khuyến khích xã hội hoá, cảI cách hành chính trong công tác xây dựng và quản lý dự toán NSNN. Tuy vậy định mức phân bổ ngân sách theo quyết định 139 vẫn còn một số tồn tại cần sửa đổi bổ sụng để đảm bảo kinh phí thực hiện những chế độ, chính sách nhà nước mới ban hành ; thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn phát triển mới theo nghị quyết của Đảng ; đáp ứng yêu cầu chiến lược tài chính ngân schs giai đoạn 2006 - 2010. Theo ông Đỗ Hoàng Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ NSNN - Bộ tài chính ,định mức phân bổ năm 2007 được xây dựng trên cơ sở kế thừa những kết quả của định mức phân bổ chi NSNN theo quyết đinh 139 về hệ thống tiêu chí phân bổ, về phân vùng ; bổ sung định mức phân bổ ngân sách đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường; thực hiện chính sách trợ giá trợ cước; tăng mức ưu tiên đối với miền núi ,vùng đồng bào dân tộc khó khăn. Đối với chi NSĐP, tiếp tục lấy chỉ tiêu dân số là chỉ tiêu là chủ yếu ,đồng thời sử dụng các tiêu chí bổ sung đối với từng lĩnh vực chi ngân sách để đảm bảo tính đặc thù đối với từng vùng từng địa phương; đảm bảo kinh phí thực hiện các chế độ chính sách của nhà nước đã được ban hành và nhu cầu kinh phí thực hiện chế độ tiền lương; đảm bảo từng địa phương khi thực hiện định mức phân bổ mới có mức tăng hợp lý so với dự toán năm 2006 Quốc hội đă quyết định, Thủ tướng Chính phủ đã giao.Khả năng cân đối NSNN năm 2007 - 2010 làm cơ sở hệ thống định mức phân bổ chi chi thường xuyên của NSNN được Bộ Tài chính dự kiến như sau: Dự toán thu NSNN năm 2007 và giai đoạn 2007 - 2010 dự kiến tăng 22%GDP , trong đó thuế và phí 19-20%;đối với các tỉnh, thành phố yêu cầu đối với dự toán năm 2007 phấn đấu tăng tối thiểu 21-22% so với nhiệm vụ dự toán năm 2006 HĐND đã quyết định; phấn đấu thực hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế 8%/năm; chỉ số giá tiêu dùng dưới 8%.... Dự toán chi NS năm 2007 và giai đoạn 2007 - 2010 dự kiến 26-27% GDP trên cơ sở thực hiện các mức cân đối thu ngân sách ở trên; bội chi ngân sách 5% GDP ;chi đầu tư phát triển bao gồm cả trái phiếu chính phủ chiếm 20-31% tổng chi NSNN; chi trả nợ đẩm bảo các nghĩa vụ trả nợ trong và ngoài nước; chi giáo dục và đào tạo năm 2007 đạt 20% tổng chi NSNN; chi khoa học công nghệ ở mức 2% ; chi cho bảo vệ môi trường 1% chi NSNN; Tăng lĩnh vực y tế nhất là khi kinh phí đảm bảo khám chữa bệnh cho người nghèo,trẻ em dưới 6 tuổi; tăng chi đối với lĩnh vực gia đình chính sach, người có công , cho xoá đói giảm nghèo, cho các chương trình mục tiêu quốc gia. Phương án này sẽ được đại diện các Bộ, ngành và các địa phương cho ý kiến thể hiện quan điểm của mình trong ngày 12/4 trước khi Chính phủ và Uỷ ban Kinh tế ngân sách tổng hợp trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tới đây.
3.Những khó khăn tồn tại
Tồn tại lớn nhất trong vấn đề chi tiêu ngân sách nhà nước của chúng ta hiện nay đó là tình trạng thất thoát lãng phí và tham nhũng. Ngày 26/2/1998, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành “Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”. Sau 6 năm thực hiện, nhìn chung Pháp lệnh vẫn chậm đi vào cuộc sống, lãng phí vẫn là vấn đề bức xúc, có nơi, có lĩnh vực trở nên nghiêm trọng. Lãng phí trong việc chi tiêu công xuất hiện dưới nhiều hình thức cụ thể, trong các lĩnh vực khác nhau. Có thể nêu một số dạng lãng phí nổi bật như sau:
- Lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản: Đây là nơi tình trạng lãng phí chi tiêu ngân sách diễn ra rất nghiêm trọng mà nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó là việc quyết định đầu tư sai lầm. Chủ trương đầu tư sai chiếm tới 60 – 70% số lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản( như việc đầu tư theo phong trào dẫn đến hiệu ứng xi măng lò đứng và các nhà máy đường mọc lên ở khắp nơi. Hiện cả nước có 44 nhà máy đường với tổng vốn đầu tư là 9505.5 tỉ đồng, trong số đó không ít nhà máy sau khi xây dựng xong không có đủ điều kiện và nguyên liệu để hoạt động, nhiều nhà máy đã phải di dời đến các địa phương khác, gây lãng phí rất lớn về tiền của), lãng phí do buông lỏng từ khâu thiết kế thi công cho đến giám sát làm cho công trình không đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, không bảo đảm chất lượng và xuống cấp nhanh chóng. Tuy chưa có số liệu thống kê tính toán về những thất thoát do lãng phí trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản, nhưng tình trạng lãng phí ở các công trình này cho thấy những con số báo động. Qua các công trình đã thanh tra thì tỉ lệ thất thoát lên đến 14 – 19%. Năm 2004 đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách nhà nước là 44000 tỉ đồng, như vậy mưc thất thoát là từ 6160 – 8360 tỉ đồng.
- Lãng phí trong chi thường xuyên: Lãng phí trong chi thường xuyên biểu hiện ở rất nhiều dạng khác nhau, từ lãng phí trong việc sử dụng vật dụng phục vụ cho công việc hàng ngày đến sự lãng phí trong mua sắm sử dụng xe công, chi tiêu biếu xén, sử dụng điện thoại vượt định mức …
Tình trạng lãng phí trong việc chi tiêu ngân sách cơ chế giám sát chi tiêu ngân sách nhà nước ở nước ta còn nhiều hạn chế từ môi trường kinh tế và chấp hành pháp luật. Nghĩa là, khung pháp lý, phương thức, các biện pháp của hoạt động giám sát chi ngân sách trung ương phục vụ quản lý hành chính nhà nước hiện nay còn lạc hậu, không thể đáp ứng nhu cầu về quản lý tài chính trong điều kiện kinh tế thị trường, chưa pháp huy đầy đủ tính quyền lực, tính kịp thời và hiều quả của hệ thống giám sát chi ngân sách trung ương phục vụ quản lý hành chính nhà nước, đồng thời thiếu cơ chế ràng buộc việc giám sát một cách có hiệu quả đối với những đơn vị quản lý hành chính sử dụng ngân sách nhà nước. Trong những năm gần đây, việc giám sát chi ngân sách trung ương phục vụ quản lý hành chính nhà nước chủ yếu áp dụng hình thức giám sát sau. Việc kiểm tra trước và trong quá trình thực hiện chi ngân sách phục vụ quản lý hành chính nhà nước vẫn còn yếu kém. Hoạt động giám sát chi ngân sách chủ yếu thực hiện thông qua các báo cáo tài chính và sổ sách kế toán, chú trọng đến tính hợp pháp trong việc sử dụng nguồn vốn ngân sách mà chưa phân tích tính hợp lý trong các khoản chi ngân sách nên không thể đưa ra các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả.
Việc lãng phí trong chi tiêu ngân sách gây nên những tác hại nghiêm trọng. Thứ nhất, lãng phí gây thiệt hại to lớn đến Ngân sách nhà nước.Trong những năm qua, tốc độ gia tăng thu và chi Ngân sách nhà nước có những tiến bộ đáng kể. Nhưng với tình trạng lãng phí như hiện nay, phần tăng lên của thu ngân sách có lẽ cũng chỉ đủ để bù đắp những mất mát, lãng phí do sự bàng quan, vô trách nhiệm của các công chức nhà nước. Thứ hai, lãng phí làm mất lòng tin của nhân dân vào Nhà nước. Ngân sách nhà nước được hình thành từ sự đóng góp của các tổ chức và dân cư cho nhà nước. Trách nhiệm của bất kỳ một nhà nước nào cũng là sử dụng một cách có hiệu quả nhất là số tiền thuế và các khoản khác mà người dân nộp cho nhà nước. Việc chi tiêu lãng phí Ngân sách nhà nước, thể hiện qua rất nhiều bằng chứng trên thực tế và được phản ánh hàng ngày qua các phương tiện thông tin đại chúng sẽ làm người dân mất lòng tin vào nhà nước. Đó có thể là một tác nhân tạo ra môi trường kinh tế không lành mạnh, là một trong những lý do của tình trạng trốn tránh các nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước ….Thứ ba, Việc lãng phí làm mất uy tín đối với những nhà đầu tư và tài trợ. Chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2004 đã có sự thụt lùi đáng kể trong con mắt của các nhà đầu tư. Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới, nếu như năm 2003, Việt Nam xếp hạng 60 trên 102 nước thì năm 2004, chúng ta đã bị thụt lùi 17 bậc, xếp hạng 77 trên 104 nược. Trong đó, chỉ số chi tiêu lãng phí của chính phủ xếp thứ 68, chỉ số về tham nhũng xếp thứ 97. Các nhà tài trợ sẽ rất ngần ngại khi rót vốn vào nơi mà có rủi ro rất lớn về sự mất mát vô hình do lãng phí và tham nhũng.
Ngoài tình trạng thất thoát lãng phí, chi tiêu công còn có những khó khăn tồn tại khác cần phải khắc phục, đó là:
- sức ép tăng chi ngân sách vẫn còn lớn do nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế - xã hội ngày càng cao trong khi sự phân bố ngân sách còn dàn trải chưa chú ý hiệu quản kinh tế xã hội. Do sự hạn hẹn của Ngân sách nhà nước mà định mức chi Ngân sách nhà nước phần lớn mới chỉ thực hiện được nhiệm vụ duy trì , chưa mang tính thúc đẩy phát triển các hoạt động kinh tế xã hội
Chủ trương xã hội hoá một số khoản chi, lĩnh vực chi ( như y tế, giáo dục, văn hoá) chưa được nhận thức đẩy đủ, quán triệt kịp thời, phổ biến rỗng rãi, dẫn đến triển khai chậm, quản lý chưa tốt. Công tác quản lý tài chính thiếu tập trung, chưa chắt chẽ. Quan hệ giữa ngân sách nhà nước và doanh nghiệp nhà nước vẫn còn lẫn lộn giữa bao cấp và tài trợ hợp lý dẫn đến sự bảo hộ quá mức của ngân sách nhà nước, tạo tư tưởng thụ động, ỷ lại, trông chờ, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hội nhập
Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trên chủ yếu là chưa giải quyết được tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước đang có xu hướng giảm trong khi nhu cầu chi tiêu của Ngân sách nhà nước luôn luôn đòi hỏi rất lớn. Việc chi ngân sách vẫn dành bao cấp cho một số lĩnh vực (bao câp trực tiếp hoặc gián tiếp), cho một số khoản chi không thuộc phạm vi bảo đảm của ngân sách nhà nước (như chi cho các hiệp hội quần chúng, hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước, chi sự nghiệp trong các tổng công ty nhà nước …), tỉ trọng chi dành cho lương quá lớn do bộ máy quản lý cồng kềnh nên mức lương bình qu Tồn tại lớn nhất trong vấn đề chi tiêu ngân sách nhà nước của chúng ta hiện nay đó là tình trạng thất thoát lãng phí và tham nhũng. Ngày 26/2/1998, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành “Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”. Sau 6 năm thực hiện, nhìn chung Pháp lệnh vẫn chậm đi vào cuộc sống, lãng phí vẫn là vấn đề bức xúc, có nơi, có lĩnh vực trở nên nghiêm trọng. Lãng phí trong việc chi tiêu công xuất hiện dưới nhiều hình thức cụ thể, trong các lĩnh vực khác nhau. Có thể nêu một số dạng lãng phí nổi bật như sau:
- Lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản: Đây là nơi tình trạng lãng phí chi tiêu ngân sách diễn ra rất nghiêm trọng mà nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó là việc quyết định đầu tư sai lầm. Chủ trương đầu tư sai chiếm tới 60 – 70% số lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản( như việc đầu tư theo phong trào dẫn đến hiệu ứng xi măng lò đứng và các nhà máy đường mọc lên ở khắp nơi. Hiện cả nước có 44 nhà máy đường với tổng vốn đầu tư là 9505.5 tỉ đồng, trong số đó không ít nhà máy sau khi xây dựng xong không có đủ điều kiện và nguyên liệu để hoạt động, nhiều nhà máy đã phải di dời đến các địa phương khác, gây lãng phí rất lớn về tiền của), lãng phí do buông lỏng từ khâu thiết kế thi công cho đến giám sát làm cho công trình không đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, không bảo đảm chất lượng và xuống cấp nhanh chóng. Tuy chưa có số liệu thống kê tính toán về những thất thoát do lãng phí trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản, nhưng tình trạng lãng phí ở các công trình này cho thấy những con số báo động. Qua các công trình đã thanh tra thì tỉ lệ thất thoát lên đến 14 – 19%. Năm 2004 đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách nhà nước là 44000 tỉ đồng, như vậy mưc thất thoát là từ 6160 – 8360 tỉ đồng.
- Lãng phí trong chi thường xuyên: Lãng phí trong chi thường xuyên biểu hiện ở rất nhiều dạng khác nhau, từ lãng phí trong việc sử dụng vật dụng phục vụ cho công việc hàng ngày đến sự lãng phí trong mua sắm sử dụng xe công, chi tiêu biếu xén, sử dụng điện thoại vượt định mức …
Tình trạng lãng phí trong việc chi tiêu ngân sách cơ chế giám sát chi tiêu ngân sách nhà nước ở nước ta còn nhiều hạn chế từ môi trường kinh tế và chấp hành pháp luật. Nghĩa là, khung pháp lý, phương thức, các biện pháp của hoạt động giám sát chi ngân sách trung ương phục vụ quản lý hành chính nhà nước hiện nay còn lạc hậu, không thể đáp ứng nhu cầu về quản lý tài chính trong điều kiện kinh tế thị trường, chưa pháp huy đầy đủ tính quyền lực, tính kịp thời và hiều quả của hệ thống giám sát chi ngân sách trung ương phục vụ quản lý hành chính nhà nước, đồng thời thiếu cơ chế ràng buộc việc giám sát một cách có hiệu quả đối với những đơn vị quản lý hành chính sử dụng ngân sách nhà nước. Trong những năm gần đây, việc giám sát chi ngân sách trung ương phục vụ quản lý hành chính nhà nước chủ yếu áp dụng hình thức giám sát sau. Việc kiểm tra trước và trong quá trình thực hiện chi ngân sách phục vụ quản lý hành chính nhà nước vẫn còn yếu kém. Hoạt động giám sát chi ngân sách chủ yếu thực hiện thông qua các báo cáo tài chính và sổ sách kế toán, chú trọng đến tính hợp pháp trong việc sử dụng nguồn vốn ngân sách mà chưa phân tích tính hợp lý trong các khoản chi ngân sách nên không thể đưa ra các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả.
6 tháng đầu năm 2006, chi sai khoảng 75 tỷ đồng. Đây là một lượng tiền chi ko đúng mục đích rất lớn, khiến cho việc phân bổ các nguồn vốn khó khăn lên. Theo kho bạc nhà nước(KBNN) :6 tháng đầu năm 2006, KBNN đă từ chối thanh toán gần 75 tỷ đồng chi không đúng chế độ trong đó 20 tỷ đồng tiền mua xe công. Ngày 4-7, phóng viên báo lao động đã có cuộc phỏng vấn với ông Phạm Sỹ Danh - Tổng giám đốc KBNN - về vấn đề này. Ông Danh cho biết: Theo báo cáo toàn bộ hệ thống KBNN, 6 tháng đầu năm có khoảng 1500 lượt đơn vị bị từ chối thanh toán, với khoản tiền lên tới gần 75 tỷ đồng, trong đó khoảng 20 tỷ chi mua sắm xe công. Sở dĩ xay ra điều này là do các đơn vị khi triển khai thực hiện chi ngân sách đã không thực hiện đúng các quy định về tiêu chuẩn chế độ…Vì vậy KBNN buộc phảI không thanh toán. Đáng chú ý là điều này xảy ra cả trong chi thường xuyên và chi đàu tư xây dựng cơ bản . Việc chi không đúng chế độ trong vấn đề mua xe công thể hiện ở những điểm như sai tiêu chuẩn, sai định mức ,sai chủng loại, vầ không đúng thời hạn mua xe. Tất cả những chỉ tiêu này vừa sai chế độ vừa không tuân thủ chương trình hạnh động của chính phủ về thực hiện tiết kiệm và chống lãng phí.
Việc lãng phí trong chi tiêu ngân sách gây nên những tác hại nghiêm trọng. Thứ nhất, lãng phí gây thiệt hại to lớn đến Ngân sách nhà nước.Trong những năm qua, tốc độ gia tăng thu và chi Ngân sách nhà nước có những tiến bộ đáng kể. Nhưng với tình trạng lãng phí như hiện nay, phần tăng lên của thu ngân sách có lẽ cũng chỉ đủ để bù đắp những mất mát, lãng phí do sự bàng quan, vô trách nhiệm của các công chức nhà nước. Thứ hai, lãng phí làm mất lòng tin của nhân dân vào Nhà nước. Ngân sách nhà nước được hình thành từ sự đóng góp của các tổ chức và dân cư cho nhà nước. Trách nhiệm của bất kỳ một nhà nước nào cũng là sử dụng một cách có hiệu quả nhất là số tiền thuế và các khoản khác mà người dân nộp cho nhà nước. Việc chi tiêu lãng phí Ngân sách nhà nước, thể hiện qua rất nhiều bằng chứng trên thực tế và được phản ánh hàng ngày qua các phương tiện thông tin đại chúng sẽ làm người dân mất lòng tin vào nhà nước. Đó có thể là một tác nhân tạo ra môi trường kinh tế không lành mạnh, là một trong những lý do của tình trạng trốn tránh các nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước ….Thứ ba, Việc lãng phí làm mất uy tín đối với những nhà đầu tư và tài trợ. Chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2004 đã có sự thụt lùi đáng kể trong con mắt của các nhà đầu tư. Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới, nếu như năm 2003, Việt Nam xếp hạng 60 trên 102 nước thì năm 2004, chúng ta đã bị thụt lùi 17 bậc, xếp hạng 77 trên 104 nược. Trong đó, chỉ số chi tiêu lãng phí của chính phủ xếp thứ 68, chỉ số về tham nhũng xếp thứ 97. Các nhà tài trợ sẽ rất ngần ngại khi rót vốn vào nơi mà có rủi ro rất lớn về sự mất mát vô hình do lãng phí và tham nhũng.
Ngoài tình trạng thất thoát lãng phí, chi tiêu công còn có những khó khăn tồn tại khác cần phải khắc phục, đó là:
- sức ép tăng chi ngân sách vẫn còn lớn do nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế - xã hội ngày càng cao trong khi sự phân bố ngân sách còn dàn trải chưa chú ý hiệu quản kinh tế xã hội. Do sự hạn hẹn của Ngân sách nhà nước mà định mức chi Ngân sách nhà nước phần lớn mới chỉ thực hiện được nhiệm vụ duy trì , chưa mang tính thúc đẩy phát triển các hoạt động kinh tế xã hội.Chủ trương xã hội hoá một số khoản chi, lĩnh vực chi ( như y tế, giáo dục, văn hoá) chưa được nhận thức đẩy đủ, quán triệt kịp thời, phổ biến rỗng rãi, dẫn đến triển khai chậm, quản lý chưa tốt. Công tác quản lý tài chính thiếu tập trung, chưa chắt chẽ. Quan hệ giữa ngân sách nhà nước và doanh nghiệp nhà nước vẫn còn lẫn lộn giữa bao cấp và tài trợ hợp lý dẫn đến sự bảo hộ quá mức của ngân sách nhà nước, tạo tư tưởng thụ động, ỷ lại, trông chờ, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hội nhập.Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trên chủ yếu là chưa giải quyết được tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước đang có xu hướng giảm trong khi nhu cầu chi tiêu của Ngân sách nhà nước luôn luôn đòi hỏi rất lớn. Việc chi ngân sách vẫn dành bao cấp cho một số lĩnh vực (bao câp trực tiếp hoặc gián tiếp), cho một số khoản chi không thuộc phạm vi bảo đảm của ngân sách nhà nước (như chi cho các hiệp hội quần chúng, hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp ân cho mỗi cán bộ, công nhân viên thấp. Ngân sách phải chi cho các đổi tượng thuộc trợ cấp xã hội còn lớn, trong khi chính sách xã hội hoá các nguồn lực để đầu tư cho một số lĩnh vực (giáo dục, y tế, văn hoá…) tiến hành còn chậm. Đồng thời, việc triển khai thực hiện phân bổ giao dự toán ngân sách đến tận đơn vị sử dụng ngân sách còn chậm so với thời gian quy định đã làm giảm tính linh hoạt của ngân sách nhà nước.
Năm 2006 bội chi ngân sách vẫn cao.Khi bàn về tình hình kinh tế xã hội thu chi ngân sách năm 2006 và dự kiến năm 2007, nhiều đại biểu quốc hội cho rằng bội chi ngân sách là 5% tổng sản phẩm trong nước như chính phủ đặt ra vẫn còn cao và nếu giải quyết triệt để những yếu kém tron quy hoạch ,đầu tư xây dựng cơ bản, chống lãng phí ,tham nhũng sẽ giảm được bôị chi ngân sách hàng năm. Hiện nay GDP của Việt Nam khoảng 980.000 tỷ đồng, chính phủ dự tính mức tăng GDP năm 2007 là 8,3 - 8,5% so với năm 2006.Nhiều đại biểu đã đồng tình với ý kiến của đại biểu Nguyễn Ngọc Trân (tỉnh An Giang), rằng đầu tư phát triển toàn xã hội lớn nhưng chất lượng chưa cao có tác động đến bội chi ngấn sách.Theo ông Trân ,từ nhiều năm nay bội chi ngân sách đều đạt dưới 5% GDP. Tuy nhiên do tổng nợ của Việt Nam ( khoảng 37% GDP )gần ngưỡng an toàn 40% đối với nước đang phát triển nên ông Trân nói " không nên để (bội chi ngân sách ) 5%GDP mà nên hạ xuống" - biện pháp mà đại biểu này đề nghị chính là phải giảm sự đầu tư dàn trảI kém hiệu quả hiện nay. Đại biểu Phạm Chuyên (TP Hà Nội) chỉ ra ba dạng lãng phí :tài nguyên, tài sản công, nhân lực và cho rằng "nếu hạn chế được tham nhũng ,lãng phí trong chi ngân sách ,mức bội chi ngân sách không thể đến mức này". Hậu quả của lãng phí theo ông Chuyên không thua kém tham nhũng nhưng các biện pháp chống tham nhũng, lãng phí cho đến nay chưa chúng trọng tâm và dưới góc độ đạo đức nhiều hơn."Gải pháp dưới góc độ kinh tế, chính trị theo tôi là bước đột phá ", ông Chuyên nói" những biện pháp về kinh tế như buộc phải phân bố lại sử dụng tài sản trong nước ,quyền sở hữu tài sản nhà nước để mọi tài sản đều phải có chủ, đều phải có trách nhiệm". Lãng phí trong chi tiêu ngân sách qua lời các đại biểu quốc hội hiện đang là nỗi bức xúc của cử tri. Đại biểu Lâm Văn Kỷ(tỉnh Sóc Trăng) liệt kê một loạt công trình đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn của nhà nước trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng dở dang, lấp đi, lấp lại, để cỏ mọc mà không biết bao giờ kết thúc.Trong khi đó những hạng mục đầu tư như cầu ,ưu tiên hàng đầu của cử tri địa phương như kiên cố hoá trường học ,xây dựng trường cao đẳng dạy nghề … lại đang rất cần vốn. Trong 3 ngày thảo luận về tình hình kinh tế xã hội và ngân sách tại hội trường vừa qua ,nhiều vấn đề bức xúc đã được các đại biểu Quốc hội phản ánh ,từ vấn đề tiêu cực trong thi cử ,nhập nhèm sữa bột sữa tươi cho đến quản lý nhà công vụ ,sự thất bại của công trình nuôi bò sữa … Tuy nhiên ,có những vấn đề như chất lượng tăng trưởng ,thất thoát lãng phí ,đầu tư dàn trải … lặp đi lặp lại nhiều lần tại các kỳ họp mà chưa tìm ra giải pháp cụ thể và triệt để.
Năm 2007 nền kinh tế nước ta dự tính tắng trưởng với tốc độ cao khoảng 85%, vì vậy chúng ta cần phải có một lượng ngân sách đủ lớn để đầu tư và phát triển kinh tế chính trị và xã hội. Các năm trước, tỷ trọng của dầu thô chiếm rất lớn trong tổng nguồn thu ngân sách nước ta. Mà nguồn thu tư dầu thô này phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động tình hình trong nước và thế giới. Tính từ đầu năm 2005 trở lại đây, thì với quyết định 70/2006/QĐ-Bộ Tài chính, được ban hành vào đầu tuần thứ 3 tháng 12 năm 2006, Bộ Tài chính đã điều chỉnh 12 lần thuế nhập khẩu xăng dầu.Như vậy, sau hơn hai tháng áp thuế nhập khẩu xăng 20%, Bội Tài chính lại phải giảm xuống 10% và đây là lần đầu tiên trong số điều chỉnh gần đây ,mặt hàng chiến lược này mới được giảm thuế. Theo dõi công tác điều hành thuế nhập khẩu xăng dầu thời gian qua có thể thấy ,mỗi khi giá dầu thô trên thị trường thế giới tăng ,Bộ Tài chính điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu và ngược lại.Tuy nhiên giá dầu thô trên thị trường thế giới ít biến động và được giao dịch ở mức giá thấp ,thâm chí ngay trong ngày ban hành Quýêt định 70/2006QĐ-Bộ Tài chính ,giá dầu thô trên thị trường thế giới đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 2 tuần trở lại đây.Như vậy điều chỉnh theo cách cũ thì Bộ Tài Chính phải tăng thuế nhập khẩu xăng hoặc đề nghị Bộ Thương mại giảm giá bán lẻ xăng dâù theo đúng cơ chế mà hai bộ này tuyên bố :"Gía xăng dầu thế giới tăng thì sẽ tăng giá bán lẻ và ngược lại".Vậy tại sao Bộ Tài chính lại quyết định giảm thuế nhập khẩu xăng dâu? Theo Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh, do giá giá bán dầu thô có mối quan hệ mật thiết với giá bán xăng dầu trong nước và thuế nhập khẩu xăng dầu ,nên Bộ Tài chính sẽ điều chỉnh linh hoạt để không ảnh hưởng đến cân đối nguồn thu trong nước, không tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân ,đồng thời sẽ chuyển dân sang cơ chế thị trường. Ông Ninh cho biết :"Nếu gía bán dao động từ 58$/thùng đến 63$/thùng , thì sẽ không ảnh hưởng đến cân đối ngân sách năm 2007,vì thu từ xuất khẩu dầu thô giảm ,nhưng thu từ thuế nhập khẩu tăng lên".Theo Thứ trưởng Tài chính Trần Văn Tá ,thu từ dầu thô năm 2007 rất bấp bênh.Nếu như mọi năm, lập dự toán thu từ dầu thô , Bộ Tài chính đã nắm chắc sẽ vượt thu. Đơn cử như năm 2006, khi xây dựng dự toán, giá bán dầu thô trên thế giới dao động 58-60$/thùng,để " chắc ăn" Bộ Tài chính chỉ tính giá bình quân 57.2$/thùng .Mặc cuối cùng Quốc hội "quyết" mức giá 56.7$/thùng, nhưng thu từ dầu thô ước cả năm 2006 vẫn vượt 16500 tỷ đồng (tăng 26%so với dự toán ),do giá xuất khẩu bình quân đạt 65$/thùng.Thu từ dầu thô còn đem lại cho ngân sách khoảng 2500 tỷ đồng từ thuế nhập khẩu xăng.Trong khi đó, năm 2007, khi Quốc hội dự toán thu từ hoạt động khác ,xuất khẩu dầu thô ở mức 62$/thùng,thì giádâù thô bình quân trên thế giới giao dịch dưới mức 60$/thùng.Trước đây thực hiện bù lỗ giá nhiên liệu 8000-1000 tỷ đồng/năm nên tác động của giá dầu vào sản xuất chỉ ở mức độ vừa phải, nhưng từ năm 2007 cùng với giá than, giá điên, xi măn, xăng dầu phải thực hiện theo giá thị trường sẽ tăng thêm chi phí sản xuất, giảm thu nhập doanh nghiệp, khiến giảm thu ngân sách.Để đảm bảo hoàn thành vượt mức dự toán, ngành thuế phải tích cực khai thác các nguồn thu khác, đồng thời tích cức thu hồi nợ đọng thuế, không để nợ đọng phát sinh mới, đồng thời chúng ta phải có một kế hoạch chi tiêu ngân sách hợp lý. Chỉ khi nào làm được điều đó thì vấn đề chi tiêu ngân sách cho các mục tiêu phát triển kinh tế năm 2007 mới hoàn thành.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước
Việc phòng và chống lãng phí trong chi tiêu ngân sách nhà nước là một vấn đề mà trong quá trình hình thành và phát triển ngân sách nhà nước luôn luôn được nhắc đến. Giải quyết vấn đề này rất khó khăn và không thể giải quyết sớm trong ngày một ngày hai được mà chúng ra cần phải có thời gian.Việc giải quyết vấn đề này là sự kểt hợp giải quyết nhiều vấn đề lãng phí khác nhau.Tuy nhiên có một số biện pháp chung để giải quyết vấn đề này đó là:
+ Hoàn thiện cơ chế tài chính trong quản lý chi tiêu công. Nhà nước đã ban hành khá nhiều văn bản quy định về chế độ, tiêu chuẩn, định mức trong chi tiêu công ở các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, vẫn còn không ít văn bản tồn tại nhiều kẻ hở trong các chế độ tài chính, tạo cơ hội cho tình trạng lãng phí hoành hành.
+ Ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với điều kiện thực tế, có tính khả thi.
+ Tăng cường công khai, minh bạch về tài chính.Điều này sẽ giảm thiểu đựơc sự tham nhũng ,thất thoát.
+ tăng cường kiểm tra, giám sát chi tiêu ngân sách nhà nước. Việc kiểm tra, thanh tra tài chính cần được đẩy mạnh. Có kế hoạch kết hợp giữa thanh tra nhà nước, thanh tra tài chính và thanh tra của của bộ, ngành, địa phương để mở rộng diện thanh tra và tránh sự chồng chéo, phiền hà. Nâng cao chất lương đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra cả về chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm.
+ Xử lý kiên quyết các trường hợp lãng phí gây thất thoát nguồn lực của nhà nước. Việc xử lý các hành vi gây lãng phí gắn liền với việc quy trách nhiệm rõ ràng.
+ Xhấm dứt tình trạng nhà nước “trợ giúp” cho việc chi tiêu không dúng quy định.
+ Kiên quyết cắt bỏ những khoản chi không thật cần thiết hoặc có thể để cho xã hội tự chi trả.
kết luận
Ngân sách nhà nước có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Việc quản lý ngân sách một cách tốt nhất là điều kiện rất tốt để phát triển mọi ngành nghề trong nước, giúp cho các mục tiêu mà ngân sách để ra sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng và có hiệu quả nhất.Và việc quản lý tốt ngân sách sẽ khuyến khích toàn thể nhân dân lao động thực hiện các nghĩa vụ của nhà nước một cách tốt nhất.
Là một sinh viên khoa Ngân Hàng - Tài Chính em đã hiểu rõ hơn về vai trò của ngân sách đối nền kinh tế đất nước cũng như nghĩa vụ của mỗi người dân đối với NSNN.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo đã giúp em hoàn thành bài viết này.
tài liệu tham khảo
1.Danh mục tài liệu tham khảo Ngân sách năm 2007 khó trông vào dầu thô (www.mof.gov.vn)
2.Thu - chi NSNN năm 2006: Những giải pháp đồng bộ (www.mof.gov.vn)
3.Pháp luật về ngân sách nhà nước
4.Sáu tháng chi sai 75 tỷ đồng (www.mof.gov.vn)
5. Đánh giá tình hình phân bổ NSNN giai đoạn 2004-2006 và dự thảo quy định phân bổ NSNN giai đoạn 2007-2010
MụC LụC
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG I: tổng quan về ngân sách nhà nước 2
1. Khái niệm ngân sách nhà nước 2
2. Bản chất của Ngân sách nhà nước nền kinh tế thị trường 3
3. Hệ thống Ngân sách nhà nước và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 4
3.1. Hệ thống Ngân sách nhà nước 4
3.2. Phân cấp quản lý NSNN 6
4. Những nội dung thu chi của ngân sách nước ta 7
4.1 Thu NSNN 7
4.2. Chi NSNN 7
4.2.1 Nội dung chủ yếu của chi Ngân sách nhà nước 8
4.2.2.Vai trò của chi Ngân sách nhà nước 8
4.2.3 Quản lý chi Ngân sách nhà nước 10
Chương 2. Thực trạng của chi tiêu Ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay 12
1. Thực trạng chung 12
2. Những kết quả đạt được 12
3.Những khó khăn tồn tại 17
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước 25
kết luận 26
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0256.doc