Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn tại công ty thiết bị điện thoại - Viteco

- Định kỳ (tháng, quý) Công ty phải đối chiếu, tổng hợp phân tích tình hình công nợ phải thu, đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, quá hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý. - Nâng cao chất lượng sản phẩm khoản phải thu chỉ thu hồi khi đã bán được hàng. Hàng có bán được hay không còn phụ thuộc vào thị hiếu của khách hàng. Nếu chất lượng quá kém hoặc lỗi mốt, khách hàng sẽ không mua tức là doanh nghiệp sẽ bị tồn đọng hàng hoá do đó mất khoản phải thu đó. Như vậy để hàng hoá bán được và thu được tiền Công ty phải tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Công ty cần khuyến khích các đơn vị thực hiện thanh toán ngay khi tiêu thụ hàng hoá tránh để lâu sẽ tạo điều kiện cho đơn vị chiếm dụng vốn của Công ty, thực hiện tổ chức việc thu hồi nợ một cách đều đặn, nhịp nhàng, không để tình trạng thu hồi nợ dồn dập vào cuối năm làm cho vốn của Công ty bị chiếm dụng quá lâu, gây thiếu vốn cho nhu cầu kinh doanh trong năm, trong khi đó lượng tiền tại quỹ tăng nhanh vào cuối năm gây tình trạng dư thừa tiền mặt giả tạo. - Công ty có thể đề nghị ban tài chính của Tổng công ty đứng ra làm trung tâm thanh toán. Sản phẩm chủ yếu là bán cho các đơn vị trong ngành, phục vụ cho các công trình lớn, thời gian thi công dài và quyết toán cho Công ty chậm. Để tránh bị ứ đọng vốn, Tổng công ty có thể đứng ra thanh toán hộ các đơn vị thành viên và trở thành chủ nợ mới của các đơn vị này. - Các cán bộ quản lý tài chính cần xây dựng một số chính sách tín dụng thương mại hợp lý. Xây dựng những quy tắc chung nhất về việc có chấp nhận cho khách hàng nợ hay không, nếu có thì cấp như thế nào và việc thu hồi các khoản phải thu này được tiến hành như sau: - Đối với việc xem xét có chấp nhận cho khách hàng nợ hay không, trước hết cán bộ quản lý tài chính phải xem xét phẩm chất tư cách tín dụng của khách hàng có đạt yêu cầu mà mình đề ra hay không. Sau đó cần xem xét các yếu tố như: năng lực trả nợ của khách hàng(tình hình tài chính hiện nay, trong tương lai ), các điều khoản về thế chấp, thanh toán mà khách hàng đề nghị.

doc54 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn tại công ty thiết bị điện thoại - Viteco, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
40.702 64,45 174,10 112,49 3.Hàng tồn kho 11.731 22,52 12.453 18,64 11.767 18,64 106,16 94,48 4.TSLĐ khác 1.617 2.633 2.676 TSLĐ 52.100 100 66.806 100 63.157 100 128,28 94,54 (Nguồn: báo cáo tài chính của Công ty qua các năm) Tài sản lưu động của năm 2000 tăng 28,23% so với năm 1999 điều này được giải thích bằng việc tăng các khoản phải thu. Trong cơ cấu tài sản lưu động, các khoản phải thu chiếm một tỷ trọng lớn 50,48% năm 1999, 68,49% năm 2000 và 64,45% năm 2001 chứng tỏ doanh nghiệp đã bị chiếm dụng vốn. Mà các khoản phải thu của công ty tăng nhanh hơn tốc độ tăng tài sản lưu động. Điều này có liên quan chặt chẽ vơí chính sách tín dụng khách hàng của công ty. Với các doanh nghiệp thương mại thì đây có thể là biện pháp kích thích bán hàng nhưng với đặc thù của công ty sản phẩm chủ yếu là bán cho các đơn vị trong ngành và được sự bảo trợ của Tổng công ty. Công ty cần phải có những biện pháp để tăng cường thu hồi nợ. Tiền chiếm tỷ trọng thấp nhất trong cơ cấu tài sản lưu động của công ty năm 1999 tiền chiếm 23,90%, 8,92% năm 2000 và 12,69% năm 2001. Trong cơ cấu tiền tiền gửi ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trên 90% còn lại là tiền mặt tại quỹ. Đây là một đặc trưng trong hoạt động kinh doanh của Công ty, hầu hết các giao dịch thanh toán với khách hàng đều thông qua ngân hàng. Điều này cũng cho thấy công ty đã không để tiền “chết” (tiền không sinh lời). Công ty đã tận dụng triệt để chi phí cơ hội của tiền. Nếu để tiền quá nhiều tại quỹ, vừa mất đi chi phí giữ tiền lại vừa mất công bảo quản. Việc gửi tiền vừa tạo thuận lợi trong quá trình thanh toán với các doanh nghiệp khác đặc biệt là việc thanh toán bằng L/C trong công tác xuất nhập khẩu của công ty, lại vừa có thu nhập từ lãi gửi tiền. Lượng tiền mặt tại quỹ để chi dùng những khoản chi không lớn lắm đòi hỏi thanh toán bằng tiền mặt. Hàng tồn kho chiếm tỷ trọng trên dưới 20% trong cơ cấu tài sản lưu động. Năm 1999 hàng tồn kho chiếm 22,52%, năm 2000 chiếm 18,64% và năm 2001 chiếm 18,63% tổng tài sản lưu động. Tỷ lệ hàng tồn kho giảm dần theo các năm chứng tỏ công ty quản lý tốt mức dự trữ. Trong hàng tồn kho chủ yếu là nguyên vật liệu tồn kho. Nguyên nhân là do cuối năm phải nhập khối lượng nguyên vật liệu lớn phục vụ cho kỳ sản xuất tiếp theo. Thành phẩm tồn kho chiếm tỷ trọng nhỏ và ngày càng giảm dần vì hầu hết các sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng, chỉ có một số ít các sản phẩm lỗi mốt nên không tiêu thụ được. Khoản mục tài sản lưu động khác cũng tăng dần qua các năm chủ yếu là do công ty tăng các khoảm tạm ứng. Trên đây là các khoản mục chủ yếu có tác động lớn đến cơ cấu vốn lưu động của công ty. Tuy nhiên điều đó chỉ là sự phản ánh về mặt lượng, chưa nói lên được mặt chất trong hoạt động quản lý và sử dụng vốn lưu động của công ty. Thể hiện được điều này ta cần kết hợp với một số yếu tố khác như doanh thu thuần, lợi nhuận thuần trong việc tính toán các chỉ tiêu cụ thể. Bảng 8: Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Đơn vị: triệu đồng. Chỉ tiêu 1999 2000 2001 giá trị giá trị 2000/99 (%) giá trị 01/2000 (%) 1.Doanh thu thuần 26.997 25.668 28.332 2.Lợi nhuận sau thuế 3.203 1.380 1.734 3.Vốn lưu động bình quân 58.371 59.453 64.982 4.Hệ số luân chuyển vốn lưu động (1)/(3) 0,46 0,43 93,48 0,44 102,32 5.Doanh lợi vốn lưu động (2)/(3) 0,05 0,02 40 0,03 150 6.Thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động (ngày) 783 837 818 7.Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động (3)/(1) 2,16 2,32 2,29 (Nguồn: báo cáo tài chính của Công ty qua các năm) Qua bảng số liệu trên ta thấy hệ số luân chuyển vốn lưu động năm 2000 giảm 0,03 so với năm 1999 đến năm 2001 hệ số này tăng lên đạt 0,44. Điều này thể hiện rõ qua hệ số doanh lợi vốn lưu động năm 2000 giảm chỉ còn bằng 40% so với năm 1999 và thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động từ 783 ngày lên 837 ngày. Đến năm 2001 doanh lợi vốn lưu động đã tăng 50% so với năm 2000 nhưng vẫn chưa tăng cao bằng năm 1999 và thời gian luân chuyển vốn lưu động là 818 ngày. Tóm lại, qua các số liệu và tính toán các chỉ tiêu cho thấy Công ty sử dụng vốn lưu động chưa có hiệu quả. Công ty đã đầu tư cho tài sản lưu động của Công ty một khoản rất lớn mà doanh thu đem lại thì nhỏ. Công ty cần nghiên cứu để giải quyết vấn đề này. Để đánh giá cụ thể hơn về hiệu quả sử dụng vốn lưu động ta xét riêng hiệu quả sử dụng của từng tài sản lưu động. Bảng 9: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng của từng tài sản lưu động. Đơn vị: triệu đồng. Chỉ tiêu 1999 2000 2001 giá trị giá trị chênh lệch giá trị chênh lệch 1.Doanh thu thuần 26.997 25.668 28.332 2.Hàng tồn kho 11.731 12.453 11.767 3.Các khoản phải thu 26.299 45.759 40.702 4.Kỳ thu tiền bình quân = (3)*360/(1) (ngày) 351 642 291 517 125 5.Vòng quay các khoản phải thu = (1)/(3) (vòng) 1,02 0,56 0,62 6.Vòng quay hàng tồn kho = (1)/(2) (vòng) 2,30 2,06 2,41 (Nguồn: báo cáo tài chính của Công ty qua các năm) Kỳ thu tiền bình quân của năm 1999 là 351 ngày, năm 2000 là 642 ngày, năm 2001 là 517 ngày. Kỳ thu tiền bình quân của Công ty là quá lớn chứng tỏ Công ty đang ở tình trạng bị chiếm dụng vốn, khả năng thu hồi vốn trong Công ty thấp. Tỉ lệ này thấp nhất vào năm 1999 chứng tỏ Công ty bị chiếm dụng vốn nhỏ nhất trong năm này. Điều này dẫn đến vòng quay các khoản phải thu lớn nhất vào năm 1999. Nguyên nhân của kỳ thu tiền bình quân lớn là do các khoản phải thu quá lớn và tăng nhanh. Đến năm 2000 ta thấy tình hình quản lý khoản phải thu còn kém hơn năm 1999 và tình trạng này có được cải thiện một chút vào năm 2001. Vấn đề đặt ra là phải tăng vòng quay các khoản phải thu và hệ số kỳ thu tiền bình quân để giảm tình trạng ứ đọng vốn như hiện nay. Công ty phải tìm mọi biện pháp để thu hồi các khoản phải thu. Vòng quay hàng tồn kho của 3 năm thấp và ổn định, vòng quay hàng tồn kho năm 1999 là 2,30 vòng, năm 2000 là 2,06 vòng và đến năm 2001 đã tăng lên tới 2,41 vòng chứng tỏ tình hình Công ty đang có chiều hướng tốt. Tuy nhiên, Công ty cấn cố gắng để khắc phục tình trạng này bằng cách tăng doanh thu và giảm hàng tồn kho sao cho tương ứng với doanh thu. 2.4.Thực trạng sử dụng toàn bộ vốn tại công ty. Để đánh giá tình hình sử dụng toàn bộ vốn tại Công ty, chúng ta hãy xem xét về hiệu quả sử dụng vốn chung của doanh nghiệp. Bảng 10: Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn. Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 giá trị giá trị 2000/1999 (%) giá trị 2001/2000 (%) 1.Doanh thu thuần 26.997 25.668 28.332 2.Lợi nhuận sau thuế 3.203 1.380 1.734 3.Vốn bình quân 65.896 66.833 72.241 6.Hiệu quả sử dụng vốn (1)/(3) 0,41 0,38 92,68 0,39 102,63 7.Doanh lợi vốn (2)/(3) 0,05 0,02 40 0,02 100 8.Hệ số doanh lợi sau thuế (2)/(1) 0,12 0,05 44,6 0,06 120 (Nguồn: báo cáo tài chính của Công ty qua các năm) Qua các số liệu ở bảng trên ta thấy các chỉ tiêu năm 2000 đều giảm so với năm 1999 và tăng lại vaò năm 2001 nhưng tỷ lệ tăng rất nhỏ. Năm 1999 một đồng vốn đem kinh doanh thu được 0,41 đồng doanh thu và 0,05 đồng lãi, năm 2000 tỷ lệ này là 0,38 đồng và 0,02 đồng, năm 2001 là 0,39 đồng và 0,02 đồng. Năm 1999 trong một đồng doanh thu có 0,12 đồng lợi nhuận, năm 2000 là 0,05 giảm 55,4% so với năm 1999 và năm 2001 là 0,06 tăng 20 % so với năm 2001. Tóm lại, ta thấy cơ cấu nguồn vốn của Công ty chưa hợp lý, nợ chiếm tỷ trọng lớn (trên 70%) còn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn của Công ty. Sử dụng vốn của năm 1999 là tốt nhất, sau đó giảm vào năm 2000 và tăng lại vào năm 2001 thể hiện qua các chỉ tiêu đã phân tích ở phần trên. Công ty cần có biện pháp cơ cấu lại nguồn vốn cũng như có các biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng các nguồn vốn hơn nữa. III.Đánh giá hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị Điện thoại Những kết quả đạt được Do đặc thù về tổ chức sản xuất sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm nên nguồn vốn của Công ty cũng có những đặc thù riêng phù hợp sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty tổ chức sản xuất dây chuyền theo một công nghệ khép kín liên tục. Phương pháp này có ưu điểm là: tổ chức sản xuất khoa học, năng suất lao động cao, chi phí tiền lương nhỏ, khai thác tối đa công suất máy móc. Nhưng cũng đòi hỏi phải đầu tư công nghệ cao, hoàn chỉnh và yêu cầu nhân viên có trình độ kỹ thuật cao. Hơn nữa sản phẩm của Công ty chủ yếu là sản phẩm kỹ thuật, công nghệ cao. Chính vì vậy mà Công ty đã huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Vốn ngân sách. Vốn Tổng công ty. Vay ngân hàng. Vay cán bộ công nhân viên. Tín dụng thương mại. 1.1. Về tình hình huy động vốn Nguồn vốn của Công ty khá phong phú, tình hình huy động vốn của Công ty gặp thuận lợi cũng như khó khăn do yếu tố khách quan và chủ quan. Khi thành lập Công ty, Công ty đã nhận được nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước và Tổng công ty. Hiện nay, hàng năm Công ty không nhận được nguồn vốn cấp thêm của Chính phủ nhưng vẫn nhận được nguồn vốn bổ sung từ Tổng công ty. Do hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm qua khá ổn định và tình hình nền kinh tế cũng như chính trị ổn định nên công nhân viên tin tưởng cho Công ty vay vốn. Nền kinh tế Việt nam trong giai đoạn 1999-2000 nổi bật lên tình trạng giảm phát tạo điều kiện cho công ty huy động vốn (nhất là vốn vay) trên thị trường với lãi suất thấp, Công ty có thể mở rộng vốn vay từ ngân hàng. Hơn nữa, Tổng công ty có thể đứng ra bảo lãnh cho Công ty khi vay vốn ngân hàng đó cũng là điều kiện thuận lợi để Công ty huy động vốn. 1.2 Về tình hình sử dụng vốn. Đầu tư của Công ty trong những năm qua là tương đối hiệu quả, đúng và phù hợp với vốn huy động. Chất lượng sản phẩm phục vụ cho mạng lưới viễn thông quốc gia ngày càng tăng, bước đầu thực hiện được các mục tiêu làm chủ công nghệ, góp phần vào tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Các khoản phải thu lớn nhưng không có nợ khó đòi. Có tình hình tài chính trong tương đối khả quan, lợi nhuận giữ lại tương đối ổn định và hứa hẹn một sự tăng trưởng trong thời gian tới. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động cho thấy Công ty sử dụng vốn cố định tương đối hiệu quả nhưng sử dụng vốn lưu động chưa được hiệu quả. Tỷ trọng phần vốn chiếm dụng của khách hàng trong tổng nguồn vốn ngắn hạn của Công ty ngày càng tăng. Tỷ trọng này tuy lớn song Công ty vẫn chứng tỏ sự đảm bảo về khả năng thanh toán do vậy những rủi ro về tài chính hầu như không có khả năng xảy ra. Công ty vẫn thanh toán đầy đủ cho người bán, Tổng công ty, ngân hàng, cán bộ công nhân viên. Công ty không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn. Tóm lại, hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty là khá cao so với toàn ngành biểu hiện ở hệ số sử dụng tài sản cố định cao. Trong công tác quản lý vốn lưu động, Công ty luôn đáp ứng được đầy đủ nhu cầu vốn lưu động cho sự tăng trưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Được sự giúp đỡ của Nhà nước và Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông cùng với sự nỗ lực của bản thân, công ty đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong hoạt động huy động và sử dụng vốn của Công ty vẫn còn bộc lộ một số hạn chế do cả nhân tố chủ quan và khách quan. 2. Hạn chế 2.1. Về tình hình huy động vốn Công ty chưa tận dụng nguồn vay ngắn hạn của Tổng công ty. Nguồn này có ưu điểm là chi phí thấp (bằng 50% chi phí vay ngân hàng) nhưng quy mô lại phụ thuộc vào chính sách của Tổng công ty, và khi Công ty cần thì Tổng công ty không thể đáp ứng ngay được. Công ty cũng chưa sử dụng hình thức thuê mua. Ưu điểm của hình thức này là Công ty không phải bỏ ra số vốn lớn ban đầu để đầu tư vào tài sản, định kỳ tiền thuê được tính vào chi phí. Hết thời hạn thuê Công ty có thể mua lại tài sản cố định. Nhưng hình thức tài trợ này chi phí tương đối cao (cao hơn lãi vay ngân hàng). Do đặc điểm của Công ty không phải là công ty cổ phần nên Công ty chưa huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. 2.2. Về sử dụng vốn Tỷ lệ nợ/tổng nguồn vốn khá cao nên ít nhiều tính chủ động về nguồn vốn của Công ty bị giảm sút, khả năng thanh toán của Công ty mặc dù được đảm bảo nhưng cách thức dự phòng này sẽ mang đến một trở ngại là Công ty luôn bị tồn đọng một lượng vốn nhất định. Điều này có thể gây ra tình trạng lãng phí vốn đồng thời giảm tính chủ động trong kinh doanh. Mặc dù Công ty chiếm dụng được nguồn vốn lớn nhưng bù lại nguồn vốn của Công ty bị chiếm dụng một tỷ lệ khá cao. Các khoản phải thu, phải trả cũng như thời hạn thanh toán cần phải được xem xét theo từng nội dung và đối tượng thanh toán một cách cụ thể để tránh tình trạng bị động về tài chính. Công ty chưa có chiến lược vay dài hạn để tài trợ cho các khoản đầu tư tài sản cố định nên trong thời gian tới nếu không tìm được nguồn tài trợ sẽ vấp phải những khó khăn về tài chính. 3.Nguyên nhân 3.1. Nguyên nhân chủ quan Công ty chưa có chiến lược về vốn dài hạn mà dùng vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn, về lâu dài có nhiều rủi ro, tình hình thanh toán sẽ gặp khó khăn nếu không cơ cấu lại nguồn vốn. Chưa có kế hoạch dự trữ tiền mặt nên lượng tiền dự trữ không đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán dẫn đến hệ số thanh toán tức thời thấp. Khoản phải thu quá lớn do Công ty chưa có kế hoạch thu tiền. Do trình độ chuyên môn của ngành nói chung, của Công ty nói riêng còn có những hạn chế. Mức độ hiện đại trong trang bị máy móc có thể ngang tầm với khu vực nhưng trình độ đội ngũ CBCNV thì chưa thể bằng họ. Đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật chưa được đào tạo đồng bộ. Đội ngũ cán bộ quản lý cũng cần nâng cao trình độ hoàn thiện hơn nữa. 3.2 Nguyên nhân khách quan Nhà nước, Tổng công ty chưa có quy định chặt chẽ về thuế suất, ưu đãi đầu tư, cộng với các quy định ngặt nghèo về các nguồn tài trợ được sử dụng gây khó khăn cho việc huy động vốn của Công ty. Do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường nên việc tiêu thụ sản phẩm trên ngày càng khó khăn. Công ty phải chấp nhận bán chịu hàng hoá cho khách hàng để tiêu thụ sản phẩm gây ra các khoản phải thu lớn. Trong tương lai khi Việt nam gia nhập AFTA, WTO, làm thuế quan giảm, việc ngày càng nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường trong nước đặt công ty trước nhiều thách thức hơn. Do tập quán của người Việt Nam tính theo năm âm lịch nên việc thanh toán tiền hàng được thực hiện vào cuối quý, cuối năm (âm lịch) mà Công ty lại hạch toán tại thời điểm năm dương lịch nên tại thời điểm này (cuối năm dương lịch) công nợ lớn. chương III: một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn tại công ty thiết bị điện thoại. I. Định hướng phát triển của công ty. Mục tiêu của toàn ngành bưu điện. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đã và đang phát triển, tiếp tục khẳng định vai trò của một Tổng công ty chủ đạo trong lĩnh vực phát triển Bưu chính - Viễn thông, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Bước vào thế kỷ XXI, Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam xây dựng kế hoạch phát triển 5 năm (2001- 2005) là bước mở đầu quan trọng trong thực hiện chiến lược phát triển của Tổng công ty đến năm 2010. Mục tiêu của kế hoạch là tập trung mọi nguồn lực duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh và đầu tư, cơ cấu kinh tế trở thành một tập đoàn kinh tế - kỹ thuật chủ đạo, xây dựng một hạ tầng cơ sở thông tin lành mạnh, kinh doanh đa dạng các dịch vụ bưu chính, viễn thông và tin học làm nòng cốt; tập đoàn có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, có năng lực cạnh tranh và hội nhập hiệu quả trên thị trường Bưu chính - Viễn thông quốc tế; góp phần giữ vững và bảo vệ anh ninh chính trị, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Trong kế hoạch phát triển 5 năm 2001- 2005 của Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam dự kiến với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 6,5% năm, tổng doanh thu phát sinh của Tổng công ty trong 5 năm là 89.672 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân là 6,8% năm. Đến năm 2005, tổng doanh thu phát sinh đạt 20.457 tỷ đồng, thị phần chiếm lĩnh là 89,42% với dự kiến lợi nhuận là 4.743 tỷ đồng. Với số vốn các công trình dự kiến đầu tư giai đoạn 2001- 2005 là 31.720 tỷ đồng, bình quân hàng năm là 6.344 tỷ đồng, Tổng công ty sẽ phát triển các dịch vụ Bưu chính - Viễn thông như phát triển mạng Bưu chính phát hành báo chí, phát triển mới khoảng 3- 3,1 triệu máy điện thoại, phát triển mạng lưới viễn thông quốc tế, mạng liên tỉnh, nội tỉnh, phát triển các dịch vụ viễn thông, tin học. Định hướng phát triển của Công ty. Định hướng và kế hoạch phát triển của công ty là yếu tố quyết định chiến lược huy động nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh. Công ty đã và đang phấn đấu để hoàn thành và vượt mức kế hoạch mà Tổng công ty giao cho. Mục tiêu của công ty là: Đổi mới công nghệ. Đầu tư chiều sâu. Đầu tư nghiên cứu hoàn thiện sản phẩm. Tăng cường hợp tác với các ngành khác để chế tạo sản phẩm. Đầu tư, mở rộng thị trường và thị phần. Tăng sản lượng. Tăng lợi nhuận. Tăng các khoản phải nộp ngân sách. Tăng thu nhập của CBCNV. Để đạt được kế hoạch đặt ra, Công ty cần phải khắc phục những tồn tại trong thời gian qua đặc biệt là vấn đề huy động và sử dụng vốn. Đồng thời, trên cơ sở đó phải đề ra biện pháp huy động và sử dụng vốn cho phù hợp. Sau đây là một số biện pháp để nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn tài trợ. II.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị Điện thoại. 1.các giải pháp huy động vốn. Trước khi huy động vốn Công ty cần xác định nhu cầu vốn từ đó đưa ra kế hoạch huy động vốn. Mỗi doanh nghiệp có một cách huy động vốn khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng, chi phí vốn và khả năng chuyển đổi giữa các nguồn. Chiến lược huy động vốn của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, sự ổn định của nền kinh tế, uy tín của doanh nghiệp và khả năng thích ứng trong các tình huống cụ thể của người quản lý.. Như vậy doanh nghiệp sẽ tìm nguồn vốn phù hợp với đặc điểm kinh doanh của mình với chi phí vốn nhỏ nhất. 1.1.Kế hoạch hoá nguồn vốn nhằm tạo ra chủ động trong hoạt động huy động và sử dụng vốn. Để sử dụng vốn có hiệu quả ta phải kế hoạch hoá nguồn vốn dự đoán nhu cầu vốn kinh doanh. Một số biện pháp chủ yếu được sử dụng là: 1.1.1.Phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu Đây là phương pháp dự đoán nhu cầu tài chính ngắn hạn và đơn giản. Khi áp dụng phương pháp này đòi hỏi người thực hiện phải hiểu được đặc thù sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (quy trình sản xuất, tính thời vụ, đặc điểm sản xuất...) và phải hiểu được tính quy luật của mối quan hệ giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm với tài sản, tiền vốn, phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Phương pháp này được tiến hành theo 4 bước sau: Bước 1: Tính số dư của các khoản mục trong BCĐKT Bước 2: Chọn các khoản mục chịu tác động trực tiếp và có mối quan hệ chặt chẽ với doanh thu và tính tỉ lệ phần trăm của các khoản đó so với doanh thu thực hiện trong kỳ. Bước 3: Dùng tỉ lệ phần trăm đó để ước tính nhu cầu vốn kinh doanh cho năm kế hoạch trên cơ sở doanh thu dự kiến cho năm kế hoạch. Bước 4: Định hướng nguồn trang trải cho nhu cầu tăng vốn kinh doanh trên cơ sở kết quả kinh doanh của kỳ kế hoạch. ứng dụng phương pháp này cho Công ty Thiết bị Điện thoại ví dụ dự đoán nhu cầu vốn lưu động cho năm 2002 biết doanh thu năm 2001 là 28 tỷ đồng, doanh lợi doanh thu trước thuế là 9%. Dự kiến năm 2002 doanh thu là 30,52 tỷ đồng. Sau khi tính toán các chỉ tiêu theo các bước trên ta có kết quả: nhu cầu vốn lưu động ở năm 2002 là 4,6388 tỉ đồng, Công ty có thể dùng lợi nhuận không chia là 0,748 tỉ đồng còn Công ty phải huy động từ bên ngoài: 4,6388- 0,748= 3,8908 (tỉ đồng) 1.1.2.Dự đoán nhu cầu vốn bằng các chỉ tiêu đặc trưng Khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, người ta thường dùng hệ thống các chỉ tiêu này được hoàn thiện. Do vậy để dự đoán nhu cầu vốn và tài sản cho kỳ kế hoạch, người ta thường xây dựng hoặc dựa vào một hệ thống chỉ tiêu tài chính được coi là chuẩn và dùng nó để ước lượng nhu cầu vốn cần phải có tương ứng với một mức doanh thu nhất định. Phương pháp này là người lập kế hoạch phải nắm rõ tình hình hoạt động, quy mô của doanh nghiệp để nắm rõ doanh thu dự kiến hàng năm. Ta có thể dự đoán nhu cầu vốn của công ty như sau: Doanh thu dự kiến là 30,52 tỷ đồng Công ty xây dựng chỉ tiêu tài chính như sau: Vòng quay của toàn bộ vốn: 3 vòng Hệ số nợ là 60% Nợ ngắn hạn chiếm khoảng 70% tổng số nợ Hệ số thanh toán ngắn hạn 2, hệ số thanh toán nhanh 0,3 Kỳ thu tiền trung bình 70 ngày Căn cứ vào số liệu ta có thể xác định các khoản vốn và tài sản năm 2002 tương ứng như sau: Doanh thu +Vòng quay vốn = =3 Vốn sản xuất Doanh thu Vậy vốn sản xuất = = 10,17 (tỷ đồng) 3 Nợ phải trả +Hệ số nợ = = 0,6 Tổng vốn Vậy: Nợ phải trả = tổng vốn*0,6 = 6,102(tỷ đồng) Nợ ngắn hạn = tổng nợ phải trả *0,6 = 4,2714 (tỷ đồng) Nợ phải trả = nợ ngắn hạn + nợ dài hạn Vậy: Nợ dài hạn = nợ phải trả - nợ ngắn hạn = 1,8306 (tỷ đồng) Tổng nguồn vốn = nợ phải trả + vốn chủ sở hữu Vậy: Vốn chủ sở hữu = tổng nguồn vốn –nợ phải trả = 4,068 (tỷ đồng) + Hệ số thanh toán TSLĐ = = 2 ngắn hạn Nợ ngắn hạn Vậy: TSLĐ = 2*nợ ngắn hạn = 8,5428 (tỷ đồng) Tổng tài sản = TSCĐ + TSLĐ Vậy: TSCĐ (GTCL) = Tổng tài sản - TSLĐ = 1,6272 (tỷ đồng) Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu bình quân 1 ngày Doanh thu *70 = = 5,93 (tỷ đồng) 360 Tiền Hệ số thanh toán nhanh = = 0,3 Nợ ngắn hạn Vậy: tiền = Nợ ngắn hạn * 0,3 = 1,8306 (tỷ đồng) TSLĐ = Tiền + Vốn vật tư hàng hoá + Các khoản phải thu Vậy: vốn vật tư hàng hoá = TSLĐ - Tiền – Các khoản phải thu = 0,7822 (tỷ đồng) Như vậy để đạt được doanh thu 30,52 tỷ đồng Công ty cần một lượng vốn là 10,17 tỷ đồng. Nhìn chung, hai phương pháp trên được xây dựng một cách khái quát về nhu cầu vốn ngắn hạn. Còn để xác định vốn dài hạn Công ty cần dựa vào chiến lược dài hạn của Công ty, Tổng công ty và các chính sách của Nhà nước, tình hình kinh tế nói chung. 1.2. Các giải pháp huy động vốn. 1.2.1.Tăng vốn chủ sở hữu Do tỷ lệ nợ của Công ty quá cao (khoảng 70%) đã làm giảm tính chủ động về vốn trong kinh doanh. Để tăng tính chủ động, ta phải tăng vốn chủ sở hữu. Điều này phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước và Tổng công ty nhưng quyết định chính vẫn là tình hình sản xuất của Công ty. Hàng năm, vốn ngân sách cấp bổ sung cho Công ty hầu như không có. Tuy nhiên Công ty vẫn nhận được nguồn vốn cấp của Tổng công ty nhưng nguồn vốn này không lớn. Do đó, lợi nhuận giữ lại vẫn là nguồn vốn chủ sở hữu chính được tăng thêm hàng năm của Công ty. Theo quy chế tài chính, lợi nhuận sau thuế sau khi chi cho một số khoản sẽ dùng để trích các quỹ trong đó có 50% dành cho quỹ đầu tư phát triển. Quỹ đầu tư phát triển là một bộ phận của nguồn vốn chủ sở hữu dùng để đầu tư mở rộng và phát triển kinh doanh. Muốn tăng quỹ này, phải tăng lợi nhuận, để tăng lợi nhuận có thể thực hiện theo 3 phương pháp sau: Cố định thu, giảm chi: áp dụng khi nền kinh tế suy thoái. Phương pháp này còn được gọi là phương pháp bảo toàn thu nhập. Giữ chi, tăng thu: áp dụng khi nền kinh tế cân bằng ổn định. Khi nền kinh tế tương đối ổn định, các chi phí đầu vào không biến động lớn thì việc giữ chi là thực hiện được. Tăng thu tăng chi nhưng tốc độ tăng thu lớn hơn tăng thu lớn hơn tăng chi. Phương pháp này được áp dụng phổ biến hiện nay. Nội dung của phương pháp này là tăng chi phí đầu vào nhằm đạt được tốc độ tăng nhanh hơn khối lượng sản phẩm đầu ra. Tăng chi phí để: + Cải tiến công nghệ. + Nâng cao năng suất lao động. + Sắp xếp lại sản xuất, thay đổi nguyên vật liệu sử dụng. Đối với Công ty, phương pháp tăng thu tăng chi là hợp lý nhất vì Công ty cần tập trung nhiều vào đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động cao hơn do đó sẽ tăng thu. Công ty nên huy động 100% vốn khấu hao vào đầu tư, thực hiện đúng, tính đủ khấu hao theo quy định của Nhà nước. Tóm lại, để khai thác hết nguồn lực, Công ty cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các quỹ trích lập theo mục đích nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối để bổ sung cho vốn lưu động. Nếu thiếu mới lập kế hoạch vay ngắn hạn để tận dụng tối đa nguồn vốn vừa giảm lãi vay. 1.2.2.Mở rộng các hình thức huy động vốn. Nguồn tài trợ cho doanh nghiệp nói chung là rất đa dạng. Do đặc điểm mô hình tổ chức của Công ty nên chưa phát huy được nhiều nguồn, vốn chủ sở hữu của Công ty chủ yếu là vốn từ lợi nhuận giữ lại, nguồn vay nợ từ ngân hàng, vay cán bộ công nhân viên. - Công ty cần tận dụng tối đa các nguồn vốn trên đặc biệt là vốn tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển theo hạn mức kế hoạch. Để huy động được nguồn vốn vay ngân hàng thì Công ty cần phải xây dựng các phương án kinh doanh, các dự án đầu tư khả thi trình lên ngân hàng. Đồng thời để giữ được quan hệ lâu dài với các ngân hàng thương mại thì yêu cầu Công ty cũng phải tìm ra biện pháp kinh doanh có lãi, thanh toán các khoản lãi và gốc đúng hạn, xây dựng được uy tín và lòng tin từ các ngân hàng. Do việc thực hiện kế hoạch vay trả đúng hạn Công ty đã thiết lập được mối quan hệ tín dụng khá tốt đối với các ngân hàng, do đó Công ty có thể vay cả vốn ngắn, trung và dài hạn từ các ngân hàng mà không gặp mấy khó khăn. Hơn nữa ta biết rằng một doanh nghiệp kinh doanh thành công là một doanh nghiệp biết sử dụng vốn của người khác một cách có hiệu quả nhất nó sẽ góp phần làm giảm chi phí vốn, tăng lợi nhuận lên. Tuy nhiên trong vài năm gần đây Công ty chưa tận dụng hết ưu điểm của nguồn vốn này, Công ty nên sử dụng nguồn vốn vay này để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Công ty nên vay ngắn hạn và dài hạn cán bộ công nhân viên trong Công ty vì chi phí nguồn này thường thấp hơn nguồn vay ngân hàng. Hơn nữa, trong những năm qua ngành Bưu chính viễn thông đã không ngừng phát triển: thu nhập bình quân của ngành luôn đạt mức cao và ổn định so với mức trung bình của các ngành, các doanh nghiệp Nhà nước khác trong nền kinh tế. Do đó cán bộ công nhân viên trong Công ty có khả năng tin tưởng cho Công ty vay. - Công ty nên vay ngắn hạn và dài hạn vốn của Tổng công ty vì chi phí của nguồn này thấp (bằng 50% lãi suất vay ngân hàng) nhưng quy mô nhỏ và phụ thuộc vào chính sách của Tổng công ty. - Ngoài ra Công ty có thể khai thác từ các nguồn vốn nướcngoài: + Nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA theo hiệp định vay của Chính phủ Việt nam với các Chính phủ các nước khác, các tổ chức tài chính quốc tế. + Nguồn tài trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế và các nước Liên doanh với các đối tác trong và ngoài nước thông qua các dự án đầu tư dây chuyền công nghệ cao, đòi hỏi vốn lớn tức là bên nước ngoài cung cấp công nghệ cho công ty sản xuất. Công ty nên tận dụng sự giúp đỡ, viện trợ cho vay vốn từ các đối tác nước ngoài. Việc huy động vốn nước ngoài có thể được thực hiện dưới các hình thức sau: + Mua trả chậm: khi đã có quan hệ làm ăn đủ độ tin cậy, các hãng nước ngoài có thể bán máy móc thiết bị cho ta theo phương thức trả chậm. ưu điểm của phương thức này là không phải bỏ ngay một lượng vốn lớn ban đầu và lãi suất do họ yêu cầu cũng thấp hơn lãi suất mà doanh nghiệp phải vay vốn từ các ngân hàng Việt Nam. + Đầu tư mua thiết bị công nghệ bằng hình thức vay vốn trực tiếp của nước ngoài. Để bán được thiết bị công nghệ, nhiều hãng nước biết các doanh nghiệp Việt Nam không có vốn nên đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam vay vốn của họ. Khi đó họ sẽ tiêu thụ được hàng hoá. - Công ty vận dụng triệt để các khoản vốn chiếm dụng: các khoản phải trả ngươì bán, người mua trả tiền trước, các khoản mà doanh nghiệp phải trả đi. Tuy không thể coi đây là nguồn huy động chính nhưng nó có một lợi thế rất lớn là doanh nghiệp không phải mất chi phí cho việc huy động nguồn này. Tuy nhiên không nên vì thế mà kéo dài việc thanh toán nợ gây mất uy tín cho doanh nghiệp. Tuy nhiên các nguồn nêu trên bị hạn chế và phụ thuộc nhiều vào nguyên nhân khách quan. Để chủ động Công ty có thể tìm những nguồn khác. Một hướng để đa dạng hoá nguồn vốn cho Công ty là tiến hành cổ phần hóa vì theo quy định của Luật Doanh nghiệp, công ty cổ phần được phép phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Các công cụ này là nguồn tài trợ tương đối dồi dào khi công ty cổ phần huy động thông qua thị trường chứng khoán. Cổ phần hoá bên cạnh ưu điểm là tăng khả năng huy động vốn cho doanh nghiệp còn tăng tinh thần trách nhiệm của người lao động đối với Công ty. Trong Tổng công ty đã có 2 đơn vị tiến hành cổ phần hoá là Nhà máy Vật liệu và Cáp quang (SACOM) và xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin (KASATI). Công ty có thể tiến hành cổ phần hoá ở một vài bộ phận (các trung tâm) nếu tiến triển tốt thì nên tiến hành trên phạm vi toàn Công ty. 2. các giải pháp quản lý và sử dụng vốn. 2.1. Quản lý và sử dụng vốn lưu động )))))))))))))))) Tỷ trọng tài sản lưu động chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng tài sản của Công ty, trong đó chủ yếu là các khoản phải thu và hàng tồn kho. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của Công ty trong những năm qua là tốt nhưng Công ty cần phải thay đổi lại cơ cấu tài sản của mình cho phù hợp. Không nên duy trì tỷ lệ tài sản lưu động quá lớn như vậy. 2.1.1. Biện pháp thu hồi và quản lý các khoản phải thu. Chính sách tín dụng thương mại có vai trò quan trọng trong công tác quản lý vốn lưu động. Việc cho khách hàng chậm thanh toán là một chính sách khuyến khích khách hàng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng nếu cho khách hàng nợ quá nhiều thì doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng vốn, khả năng không đòi được nợ cao. Như trên đã phân tích do đặc thù của Công ty các khoản phải thu của Công ty chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản lưu động. Các khoản phải thu của Công ty cần tập trung chủ yếu ở 3 khoản: trả trước người bán, phải thu nội bộ và phải thu khách hàng. Khoản trả trước người bán có tỷ trọng nhỏ trong khoản phải thu là điều khó có thể chấp nhận được trong tình hình cạnh tranh hiện nay. Tuy nhiên Công ty có thể tăng bằng các biện pháp sau: Tăng cường tìm kiếm các nhà cung cấp mới đáng tin cậy trên thị trường có chính sách bán hàng “ cởi mở”. Tăng cường mối quan hệ sẵn có với các nhà cung cấp đã quen biết nhằm làm tăng thêm sự tin tưởng của họ đối với Công ty, thắt chặt mối quan hệ này. Các khoản phải thu khách hàng là một khoản phải thu rất quan trọng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các khoản phải thu của Công ty. Giải quyết tình trạng phải thu quá lớn là yêu cầu bức thiết đối với doanh nghiệp. Để giải quyết tình trạng này Công ty có thể sử dụng một số giải pháp sau: Định kỳ (tháng, quý) Công ty phải đối chiếu, tổng hợp phân tích tình hình công nợ phải thu, đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, quá hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý. Nâng cao chất lượng sản phẩm khoản phải thu chỉ thu hồi khi đã bán được hàng. Hàng có bán được hay không còn phụ thuộc vào thị hiếu của khách hàng. Nếu chất lượng quá kém hoặc lỗi mốt, khách hàng sẽ không mua tức là doanh nghiệp sẽ bị tồn đọng hàng hoá do đó mất khoản phải thu đó. Như vậy để hàng hoá bán được và thu được tiền Công ty phải tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Công ty cần khuyến khích các đơn vị thực hiện thanh toán ngay khi tiêu thụ hàng hoá tránh để lâu sẽ tạo điều kiện cho đơn vị chiếm dụng vốn của Công ty, thực hiện tổ chức việc thu hồi nợ một cách đều đặn, nhịp nhàng, không để tình trạng thu hồi nợ dồn dập vào cuối năm làm cho vốn của Công ty bị chiếm dụng quá lâu, gây thiếu vốn cho nhu cầu kinh doanh trong năm, trong khi đó lượng tiền tại quỹ tăng nhanh vào cuối năm gây tình trạng dư thừa tiền mặt giả tạo. Công ty có thể đề nghị ban tài chính của Tổng công ty đứng ra làm trung tâm thanh toán. Sản phẩm chủ yếu là bán cho các đơn vị trong ngành, phục vụ cho các công trình lớn, thời gian thi công dài và quyết toán cho Công ty chậm. Để tránh bị ứ đọng vốn, Tổng công ty có thể đứng ra thanh toán hộ các đơn vị thành viên và trở thành chủ nợ mới của các đơn vị này. Các cán bộ quản lý tài chính cần xây dựng một số chính sách tín dụng thương mại hợp lý. Xây dựng những quy tắc chung nhất về việc có chấp nhận cho khách hàng nợ hay không, nếu có thì cấp như thế nào và việc thu hồi các khoản phải thu này được tiến hành như sau: Đối với việc xem xét có chấp nhận cho khách hàng nợ hay không, trước hết cán bộ quản lý tài chính phải xem xét phẩm chất tư cách tín dụng của khách hàng có đạt yêu cầu mà mình đề ra hay không. Sau đó cần xem xét các yếu tố như: năng lực trả nợ của khách hàng(tình hình tài chính hiện nay, trong tương lai…), các điều khoản về thế chấp, thanh toán mà khách hàng đề nghị. Sau khi đã chấp nhận cấp thì cán bộ quản lý tài chính của Công ty cần thống nhất với khách hàng các điểm sau: + Giá trị khoản phải thu. + Thời hạn của khoản phải thu. + Điều kiện về thanh toán. + Các điều kiện thế chấp (nếu có). Khi tiến hành thu hồi các khoản phải thu, cán bộ quản lý tài chính của Công ty cần chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ cần thiết cho việc thu hồi đồng thời thông báo cho khách hàng biết yêu cầu thanh toán đúng hạn. Nếu có những trục trặc thì cán bộ cần xem xét nguyên nhân gây ra và có biện pháp xử lý tình hình nhanh chóng. Cần xác định rõ nguyên nhân khách quan và chủ quan để có thể đánh giá chính xác. Biện pháp đưa ra có thể là đưa thêm những yêu cầu khác đối với khách hàng để đảm bảo khoản nợ được thanh toán, có thể là đưa ra toà án kinh tế hoặc có thể phải chấp nhận mất không. 2.1.2.Quản lý tiền mặt. Hàng tháng, quý, năm Công ty phải tính toán cụ thể các nhu cầu về nguyên vật liệu cho sản xuất kinh doanh để từ đó có kế hoạch phân bổ ngân quỹ hợp lý. Đồng thời dựa trên kế hoạch này để xử lý phần vốn lưu động còn lại theo hướng có lợi nhất, tránh tình trạng để vốn lưu động không sử dụng được hay không đạt hiệu quả cao. Việc sử dụng vốn lưu động cũng có thể thay đổi theo từng chu kỳ sản xuất kinh doanh hay theo từng tháng, quý, năm để phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không nhất thiết phải cứng nhắc trong việc sử dụng vốn lưu động theo một khuôn mẫu vạch sẵn. Trong thời gian chưa cần mua sắm nguyên vật liệu hay phải trả khách hàng... thì doanh nghiệp có thể sử dụng phần vốn đó để gửi ngân hàng hay đầu tư vào công việc khác, vừa đảm bảo dễ thu hồi vốn khi cần thiết, vừa sinh lời. Thực tế cho thấy dự trữ tiền mặt của Công ty là rất nhỏ, hệ số thanh toán tức thời chưa tốt. Công ty cần có biện pháp dự trữ tiền mặt để đảm bảo thanh toán. Xác định mức dự trữ trữ mặt tối ưu theo công thức: và khoảng dao động tiền mặt là trong đó M*: lượng tiền mặt tối ưu Mn: lượng tiền mặt giải ngân hàng năm Cb: chi phí cho mỗi lần bán chứng khoán Vb: phương sai của thu chi ngân quỹ d: khoảng cách của giới hạn trên và giới hạn dưới i: lãi suất Mức tiền mặt tối ưu = mức tiền mặt giới hạn dưới + d/3. Tuy nhiên Công ty không thể áp dụng mô hình này vì: Việc lấy số liệu thức tế chính xác về thu chi ngân quỹ hàng ngày của Công ty rất khó khăn. Trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển, đa số các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen đầu tư tiền mặt dư thừa vào chứng khoán thanh khoản cao. Vì vậy số liệu về mua bán chứng khoán là không có. Do đó Công ty có thể tính lượng tiền tối ưu như sau: Lấy số liệu thu- chi (nợ –có) của 2 tài khoản 111 và 112 cộng lại để có số liệu thu chi tiền mặt của từng tháng. Chia mức thu chi từng tháng cho 30 ngày để lấy gần đúng mức thu chi trong từng ngày và có thể coi đó gần đúng như một mẫu thu chi ngân quỹ 12 ngày. Tính độ lệch chuẩn theo mẫu này. Độ lệch chuẩn đo lường độ phân tán của mức thu chi ngân quỹ xung quanh giá trị trung bình. Nếu độ lệch chuẩn càng lớn, mức thu chi dao động càng lớn, chứng tỏ giao dịch tiền hàng ngày của Công ty lớn và như vậy mức tồn quỹ an toàn càng cao. Cộng độ lệch chuẩn trên với con số thấp nhất trong mức tồn quỹ của 12 ngày đã tính ra được mức tiền tối ưu. Độ lệch chuẩn tính theo công thức: trong đó X là vectơ dãy số có n phần tử 2.1.3.Quản lý dự trữ. Hàng tồn kho của Công ty chiếm tỉ trọng không lớn lắm trong tổng TSLĐ nhưng cần phải quan tâm đến vấn đề này. Công ty cần xác định mức dự trữ tối ưu để có mức dự trữ hợp lý không gây gián đoạn sản xuất và cũng gây ứ đọng vốn dự trữ.Xác định đúng nhu cầu về vật tư hàng hoá cho từng thời kỳ để có kế hoạch dự trữ tốt, trên cơ sở đó xác định đúng nhu cầu về vốn lưu động cần thiết cho từng thời kỳ sản xuất của Công ty. Xem xét giảm dần việc mua các loại nguyên vật liệu mà trong kho vẫn còn tồn đọng nhiều. Bố trí các khoản nguyên vật liệu tồn kho hợp lý sao cho tránh tình trạng nguyên vật liệu này thì thừa, nguyên vật liệu kia thì thiếu. Với các loại hàng hoá đã tồn kho quá lâu và có khả năng không còn phù hợp với thị trường, với sản xuất kin doanh thì nên có biện pháp thông báo rộng rãi cho công chúng để tiến hành mua bán đấu thầu. Công ty cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường cả trước, trong và sau khi sản phẩm đã ra đời.Trước khi sản xuất sản phẩm cần nghiên cứu thị trường để nắm bắt nhu cầu và thị hiếu khách hàng. Sau đó phân đoạn thị trường và xác định nhóm khách hàng mục tiêu. Trong khi sản xuất sản phẩm Công ty vẫn phải tiến hành thăm dò thị trường để kịp thời điều chỉnh sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu khách hàng. Sau khi bán sản phẩm Công ty vẫn cần có chế độ bảo hành sản phẩm. Nâng cao chất lượng và giảm giá hàng bán. Đó là một trong những chính sách để có thể tiêu thụ được sản phẩm trước sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Muốn giảm giá hàng bán mà không ảnh hưởng đến lợi nhuận thì phải hạ giá thành sản phẩm. Hạ giá thành bằng cách tìm nguồn nguyên vật liệu rẻ, hạ thấp những chi phí không cần thiết. Đối với các hàng hoá chủ yếu (những hàng hoá mang lại doanh thu lớn nhất), công ty sẽ căn cứ vào: + Nhu cầu sản phẩm và thị trường bên ngoài + Thị phần của Công ty + Chu kỳ sống của sản phẩm + Thị hiếu của khách hàng + Giá bán hiện tại của sản phẩm + Chi phí sản xuất sản phẩm Từ đó lên kế hoạch sản xuất sao cho khả năng tiêu thụ là lớn nhất và khả năng tồn kho là nhỏ nhất. 2.2.Quản lý và sử dụng TSCĐ Theo dõi kết quả phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ của công ty tuy có khả quan nhưng chưa thực sự cao, đồng thời TSCĐ (GTCL) giảm dần. Để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp sau: Thứ nhất, xây dựng những quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ trong toàn Công ty. Đặc biệt là những tài sản mà khi đánh giá lại hiện nay có giá trị nhỏ hơn quy định cho phép. Công ty cần đánh giá lại toàn bộ TSCĐ (hữu hình) để đánh giá đúng giá trị thực của TSCĐ công ty, từ đó có quan điểm đúng đắn trong quản lý TSCĐ. Để dễ dàng nhận biết và quản lý tốt TSCĐ trong doanh nghiệp, TSCĐ nên được phân chia thành hai loại: TSCĐ phục vụ cho mục đích sản xuất như: xe vận tải, ô tô, xe máy TSCĐ phục vụ cho quản lý Công ty như: máy điều hoà, máy in, máy vi tính, nhà phục vụ quản lý. Chỉ khi có sổ phân loại cụ thể cho từng loại TSCĐ một cách rõ ràng thì cuối kỳ Công ty mới có thể đánh giá một cách chính xác sức sản xuất, sức sinh lời của TSCĐ. Thứ hai, trong quản lý TSCĐ, Công ty cần chú ý chặt chẽ hiện vật, không để mất mát hư hỏng trước thời hạn khấu hao. Công ty luôn quan tâm đến cơ cấu vốn cố định, xác định cơ cấu phù hợp, hơn nữa chỉ mua sắm tài sản khi thật cần thiết tránh quy mô vốn cố định quá lớn. Tuy nhiên phải chú trọng đổi mới trang thiết bị, phương pháp công nghệ sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ của công ty về thời gian và hiệu suất. Tiến hành thanh lý, nhượng bán các TSCĐ có hiệu suất thấp sau khi đã tiến hành đánh giá, phân loại nhằm thu hồi VCĐ để có thể dùng vào luân chuyển bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh Thứ ba, phân cấp quản lý TSCĐ cho các đơn vị trực thuộc Công ty nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng. Thứ tư, thực hiện duy trì đều đặn công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng TSCĐ của Công ty, trước hết Công ty phải áp dụng đúng chế độ khấu hao TSCĐ, sau đó Công ty nên sử dụng toàn bộ quỹ khấu hao này cho đầu tư đổi mới TSCĐ. Trong một số trường hợp khi chưa có nhu cầu tái tạo lại TSCĐ thì Công ty có thể sử dụng linh hoạt quỹ này cho hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, cần phải có kế hoạch trích lại quỹ khấu hao tránh trường hợp ăn vào vốn mà hịên nay một số doanh nghiệp mắc phải. 2.3.Biện pháp về cơ cấu vốn Theo nội dung phân tích ở trên thì Công ty có tỷ trọng nợ tương đối lớn trong tổng nguồn vốn đồng thời khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của Công ty thấp nhưng cũng có rất nhiều tiềm năng về thanh toán ngắn hạn. Một số biện pháp về cơ cấu vốn: Thứ nhất, lập kế hoạch vay dài hạn ngân hàng để có vốn đầu tư mua sắm hoặc thuê tài chính trong trường hợp Công ty có những dự án kinh doanh lớn trong việc xuất nhập khẩu. Công ty chưa tận dụng tối đa nguồn tài trợ này. Thứ hai, xây dựng kế hoạch thanh toán các khoản chiếm dụng ngắn hạn và tăng vay dài hạn nhằm đảm bảo TSCĐ của công ty được tài trợ một cách vững vàng bằng nguồn vốn dài hạn. 2.4. Đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ nhân viên trong Công ty. Con người là yếu tố quyết định trong việc sử dụng vốn, do đó cần nâng cao trình độ để CBCNV có tay nghề, có ý thức và trách nhiệm. Công ty cần đề ra chính sách tiết kiệm và có biện pháp khuyến khích bằng vật chất đối với những phân xưởng ít lãng phí. Nâng cao kiến thức để CBVNV có thể sử dụng được máy móc do đó nâng cao công suất và tránh lãng phí và hao mòn máy móc. Đồng thời giáo dục ý thức bảo vệ tài sản cho công nhân viên. Hàng năm doanh nghiệp phải trích một phần quỹ riêng dành cho đào tạo. Có thể đào tạo bằng nhiều hình thức như gửi cán bộ, công nhân đi học ở các trường kinh tế, kỹ thuật. Khuyến khích đội ngũ cán bộ công nhân viên đi học thêm để nâng cao trình độ chuyên môn theo chế độ tự túc. Hoặc Công ty có thể tổ chức các lớp học chuyên đề, bồi dưỡng ngắn hạn ngay tại Công ty và có quy định cụ thể về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của từng nhân viên sau mỗi lớp học. Khi kết thúc lớp học, mỗi học viên đều phải có bài kiểm tra chất lượng để Công ty có thể bố trí công việc phù hợp với trình độ của từng nhân viên. Công ty nên có chính sách khuyến khích tinh thần thi đua lao động và sáng tạo của nhân viên. Công việc này đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên liên tục để cho tất cả cán bộ công nhân viên trong Công ty thấy được vai trò và trách nhiệm của họ đối với công việc. Phải làm cho họ thấy yêu nghề, gắn bó và phục vụ hết mình cho Công ty. III. Một số kiến nghị. 1.Đối với Nhà nước và các cơ quan chức năng Các quy định của Nhà nước giữ vai trò rất quan trọng trong huy động vốn và sử dụng các nguồn tài trợ của doanh nghiệp. Chính sách pháp luật của Nhà nước càng bám sát thực tế hoạt động của doanh nghiệp thì tính đúng đắn càng cao. Trong thời gian qua hệ thống pháp luật về kinh tế của nước ta đã, đang và sẽ tiếp tục cải thiện cho phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên mỗi quy định mới không tránh khỏi những vướng mắc khi thực hiện. Em xin đưa ra một số kiến nghị sau: Cụ thể hoá và tăng cường các nội dung về trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước. Đơn giản các thủ tục, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự chủ hơn trong việc cho thuê và thế chấp, cầm cố tài sản cũng như nhượng bán hay thanh lý tài sản tại doanh nghiệp. Luật thuế GTGT bắt đầu đi vào thực hiện từ 1/1/1999 với mục đích tạo ra sự cân bằng hơn cho các doanh nghiệp. Nhưng do chưa có kinh nghiệm nên quá trình thực hiện vẫn tồn tại những trở ngại, gây khó khăn cho doanh nghiệp nói chung và Công ty nói riêng. Có khi cũng một sản phẩm nhưng do quan niệm khác nhau nên áp dụng mức thuế khác nhau. Cán bộ ngành thuế cần nghiên cứu theo mục đích sử dụng của sản phẩm để quy định thuế suất cho phù hợp. Ngành thuế nên tổ chức nhiều buổi tập huấn hơn nữa cho các cán bộ của ngành. Chính phủ cần có những điều chỉnh hợp lý đối với chính sách thuế theo hướng sắp xếp lại các sắc thuế cho phù hợp với tính chât của từng loại thuế, phù hợp với tiến trình hoà nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới, giảm bớt số lượng thuế xuất nhập khẩu, quy định cụ thể nhóm mặt hàng chịu thuế... để tránh tình trạng thông đồng giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế. Thông qua chính sách giảm thuế để ưu đãi đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp tích luỹ vốn mạnh dạn mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể mà doanh nghiệp có phương thức tạo vốn và huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp đa dạng hoá, thúc đẩy sự thu hút vốn vào các doanh nghiệp. Tuy nhiên cần lưu ý trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, do thị trường tài chính chưa phát triển, chưa hoàn chỉnh nên việc khai thác nguồn vốn có những nét riêng. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và thị trường tài chính sẽ sớm tạo điều kiện để các doanh nghiệp có những chính sách xây dựng một thị trường tài chính, thị trường chứng khoán ổn định. Thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, Công ty tài chính, các quỹ đầu tư... để hoà nhập thị trường vốn trong nước với khu vực, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tự huy động vốn thông qua các hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Chính phủ cũng cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá, khuyến khích các doanh nghiệp có đủ điều kiện cổ phần hoá và tham gia vào thị trường chứng khoán. Tình hình chiếm dụng vốn lẫn nhau giưa các doanh nghiệp ngày một tăng. Nhà nước cần nhanh chóng ban hành các quy định pháp luật về cơ chế tín dụng thương mại để có thể tránh được rủi ro cho các doanh nghiệp. Về các khoản nợ tồn đọng không có khả năng thanh toán cần được các cơ quan pháp luật có biện pháp thu hồi, coi đó như khoản bắt buộc cho Nhà nước và đưa vào luật các khoản nợ theo giá trị. Nếu có sự vi phạm cần có sự xử lý nghiêm minh. 2. Đối với Tổng công ty - Tổng công ty có thể điều chuyển vốn trong nội bộ, do vậy Tổng công ty nên xem xét giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp có nhu cầu. Tổng công ty nên thành lập Công ty tài chính có thể điều chuyển vốn nội bộ trong ngành một cách thuận lợi, cho các đơn vị thành viên với lãi suất ưu đãi. Công ty tài chính là nơi tập trung và phân bổ vốn trong Tổng công ty. Tổng công ty có thể đứng ra làm trung tâm thanh toán. Khi hai thành viên trong Tổng công ty nợ nhau, Tổng công ty có thể thay mặt bên nợ trả bên kia và trở thành chủ nợ mới của bên đó. Tổng công ty kết hợp với bộ tài chính cho phép khấu hao nhanh nhưng đảm bảo không bị thua lỗ để có thể thu hồi vốn và tái đầu tư vào máy móc, công nghệ hiện đại hơn phù hợp với nền kinh tế. - Tổng công ty cần nghiên cứu và phân cấp mạnh hơn cho các đơn vị thành viên trong các lĩnh vực hoạt động kinh doanh, quản lý và sử dụng các loại vốn nhằm phát huy tính sáng tạo, quyền tự chủ cao hơn nữa cho các đơn vị thành viên. - Tổng công ty phải tạo điều kiện hơn nữa trong công tác cấp vốn đầu tư, trong việc triển khai các thủ tục đầu tư, trong xét duyệt các dự án. - Tổng công ty nên xem xét các biện pháp đối với các đơn vị thành viên. Tổng công ty có thể cho phép huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu hoặc tiến hành cổ phần hoá rộng rãi hơn mà không ảnh hưởng lợi ích bí mật quốc gia. 3. Đối với ngân hàng Thủ tục xin vay hiện nay tuy có đơn giản hơn trước nhưng vẫn còn rườm rà, đặc biệt là các điều kiện về đảm bảo, điều kiện về thanh toán. Ngân hàng cần đơn giản hoá thủ tục hơn nữa, nhất là thời gian thẩm định đơn xin vay của doanh nghiệp. Đặc biệt là các khách hàng thường xuyên, có quan hệ lâu dài với doanh nghiệp. Ngân hàng cũng cần có những điều chỉnh cơ chế tín dụng hợp lý theo hướng kết hợp giữa thế chấp và tín chấp để các doanh nghiệp có thể dễ dàng vay vốn ngân hàng. Ngân hàng tăng cường cho vay vốn dài hạn để đáp ứng nhu cầu về vốn dài hạn của doanh nghiệp. Ngân hàng cũng cần xem xét lại lãi suất cho vay đặc biệt là lãi suất cho vay đối với các khách hàng truyền thống. Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị Điện thoại - VITECO. Để những giải pháp này có hiệu quả phải kết hợp nhiều phía như: Nhà nước và doanh nghiệp, trong đó Nhà nước chỉ đóng vai trò giám sát, khuyến khích tinh thần trách nhiệm của doanh nghiệp (cá nhân và tập thể CBCNV trong Công ty). Kết luận Để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cần phải tìm được nguồn vốn phù hợp và sử dụng có hiệu quả. Thông qua bài viết này, em muốn đưa ra cách thức huy động và sử dụng vốn tại một đơn vị cụ thể thuộc Tổng công ty Nhà nước - Công ty Thiết bị Điện thoại. Luận văn đã nêu được một số điểm sau: Cơ cấu nguồn vốn của Công ty Thiết bị Điện thoại. Các nguồn vốn Công ty đang sử dụng và các nguồn vốn Công ty chưa huy động và sử dụng. Cách thức sử dụng vốn, xác định nguyên nhân sử dụng vốn hợp lý và chưa hợp lý, đưa ra giải pháp khắc phục và nâng cao hơn hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty. Tuy nhiên luận văn còn nhiều hạn chế: Do thiếu trung bình ngành nên chưa thể đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn trong mối tương quan so sánh với các doanh nghiệp khác. Chưa đưa ra được những kinh nghiệm của các doanh nghiệp nước ngoài trong việc sử dụng vốn. Do trình độ bản thân còn có hạn và thời gian nghiên cứu ngắn nên những vấn đề nêu ra trong bài viết này còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp của các thầy cô và các cô chú ở Công ty Thiết bị Điện thoại để em có thể nghiên cứu vấn đề sâu sắc hơn trong tương lai. Danh mục tài liệu tham khảo: Giáo trình “Tài chính doanh nghiệp “ - TS Lưu Thị Hương - NXB Giáo dục - 1998. Quản trị tài chính doanh nghiệp - TS Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ, Th.s Nguyễn Quang Ninh - NXb Thống kê, Hà Nội - 1998. Những vấn đề cơ bản về quản trị tài chính doanh nghiệp - TS Vũ Duy Hào - NXB Thống kê - 2000. Luật Kinh tế - PGS Nguyễn Hữu Viện - NXB Đại học quốc gia, Hà Nội - 2000. Hệ thống chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính - NXB Thống kê - 1999. Quy chế tài chính của Tổng công ty Bưu chính -Viễn thông Việt Nam, Hà Nội - 2000. Các tạp chí chuyên đề tài chính, kế toán năm 200-2001-2002. Các tài liệu của Công ty Thiết bị Điện thoại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0014.doc
Tài liệu liên quan