Và nó đặc biệt có ý nghĩa trong điều kiện hiện nay khi mà cả nước đang như một công trường xây dựng, nhu cầu về vốn là rất lớn. Chúng ta vẫn phải vay vốn nước ngoài, điều kiện thì khó khăn, phải trả lãi cao, chịu sự can thiệp về chính trị trong khi hàng tỷ đôla đang vẫn nằm nhàn rỗi trong tay dân cư trong nước. Nếu huy động được thì đó là nguồn vốn hiệu quả nhất, hiệu quả về nhiều mặt. Chúng ta có thể làm được điều này bằng cách khuyến khích người dân mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng.
- Đối với tổ chức cá nhân đó là sự tiện lợi, nhanh chóng; an toàn; thể hiện trình độ dân trí cao.
- Đối với ngân hàng : Nhiều nghìn tỷ đồng tiền mặt đang rải rác trong từng cá nhân, gia đình, quỹ cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp để thanh toán trực tiếp khi mua hàng, kể cả mua bất động sản trị giá hàng tỷ đồng sẽ được huy động phục vụ nhu cầu về vốn cho nền kinh tế đồng thời là nguồn thu phí dịch vụ quan trọng cho ngân hàng .
34 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1018 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờng khẳ năng kiểm soát của nhà nước, của ngân hàng.
- Tạo ra sự văn minh lịch sự trong thanh toán
1.2 Sự cần thiết phải phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Nguồn gốc của thanh toán không dùng tiền mặt.
Trong xã hội loài người, nếu còn sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá, thì sự tồn tại của mối quan hệ Tiền – Hàng là một tất yếu khách quan. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau.
Theo tiến trình lịch sử hình thành tiền tệ, đồng tiền đã có những bước phát triển từ thấp đến cao. Trong nền kinh tế tự nhiên khép kín, do nhu cầu còn rất đơn giản con người tự sản xuất được những gì mình cần và do đó họ không có nhu cầu trao đổi. Khi xã hội phát triển và mở rộng hơn, họ thấy rằng mình không thể tự sản xuất mọi thứ mà mình cần do nhiều lý do, lúc này nhu cầu trao đổi xuất hiện và vấn đề là trao đổi như thế nào. Vấn đề trùng lắp nhu cầu xuất hiện. Nhưng không phải lúc nào và ở đâu cũng có sự trùng lắp nhu cầu. Muốn trao đổi được hàng hoá người ta nghĩ tới một hàng hoá mà nhiều người cùng cần, đó là vật đứng ra làm vật ngang giá chung – hình thức đầu tiên của tiền tệ. Lúc đầu vật ngang giá chung rất đơn giản, nó có thể là vỏ sò vỏ hến hay con bò, miếng đồngDo yêu cầu thuận tiện trong trao đổi người ta thấy rằng cần phải có vật ngang giá chung thế nào đó dễ vận chuyển, dễ chia nhỏ, không hao mòn và có thể tích trữ dùng cho sau này. Con người đã chọn vàng.
Sản suất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá đưa vào lưu thông càng nhiều, đòi hỏi phải có thêm lượng tiền đưa vào thêm đáp ứng nhu cầu của hàng hoá đưa vào lưu thông. Hơn nữa người ta thấy rằng trong mua bán chịu, tờ giấy ghi nợ cũng có giá trị như tiền vậy. Tiền giấy ra đời và nó đã giúp cho việc trao đổi hàng hoá diễn ra thuận lợi hơn rất nhiều.
Nhưng sản xuất không ngừng phát triển, khối lượng tiền đưa vào lưu thông ngay một lớn, đặc biệt là khi có lạm phát. Tiền giấy bộc lộ những hạn chế nhất định như : Chi phí in ấn, bảo quản, tiền giả, kiểm đếmHơn nữa trong nền kinh tế phát triển như ngày nay khối lượng tiền trong một giao dịch là rất lớn, nếu thanh toán bằng tiền mặt thì rõ ràng là bất tiện. Như vậy đòi hỏi phải có phương thức thanh toán mới ưu việt hơn khắc phục được những hạn chế trên, phù hợp với một giai đoạn phát triển kinh tế mới.Thanh toán không dùng tiền mặt xuất hiện như một tất yếu, thể hiện bước phát triển và hoàn thiện ở đỉnh cao của lịch sử phát triển của tiền tệ.
Sự cần thiết phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
Thanh toán là cầu nối giữa sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng. Đồng thời nó cũng là khâu mở đầu và là khâu kết thúc của quá trình tái sản xuất xã hội. Tổ chức tốt công tác thanh toán nói chung sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách trôi chảy nhịp nhàng. Ngược lại việc thanh toán bị trục trặc, ách tắc thì quá trình sản xuất kinh daonh sẽ lâm vào trì trệ.
Hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đã phát triển sang một giai đoạn mới, lúc này ngân hàng phải phát huy đầy đủ các chức năng của mình đó là trung tâm thanh toán trong nền kinh tế.
ở đây ta hiểu thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ với chức năng là phưong tiện thanh toán giữa các tổ chức cá nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản này sang tài khoản khác hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian thanh toán của ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác.
Đối với nền kinh tế thị trường thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò rất lớn.
+ Đối với nền kinh tế nói chung :
- Thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ phục vụ cho các hoạt động của các tổ chức, cá nhân mà nó còn góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
- Thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hoá , vật tư, tăng nhanh tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.
+ Đối với ngân hàng :
- Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng tập chung được các nguồn vốn trong dân cư.
- Giúp cho ngân hàng có được khoản thu từ phí cung cấp dịch vụ thanh toán ổn định và an toàn.
- Tạo điều kiện cho Ngân hàng nhà nước kiểm soát và điều tiết lượng tiền đi vào lưu thông, từ đó có các chính sách phù hợp tác động vào nền kinh tế.
-Với vai trò là các trung gian tài chính việc thanh toán qua ngân hàng giúp cho việc thu thập các nguồn thông tin về doanh nghiệp và sự chuyển dịch vốn trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho việc thẩm định các dự án đầu tư được tố hơn.
+ Đối với xã hội :
- Tạo môi trường thanh toán văn minh, lịch sự, thuận tiện và nhanh chóng.
- Giúp người dân có thói quen thanh toán qua ngân hàng và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
- Hạn chế nạn tiền giả, rửa tiền, thành lập các quỹ đen
Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Theo quyết định 22/NH 21/01/1994 do Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng trong hệ thống ngân hàng bao gồm : Séc, Uỷ nhiệm chi, Uỷ nhiệm thu, Thư tín dụng, Ngân phiếu thanh toán, Thẻ thanh toán.
Quyết định 22/QĐ-NH1 ngày 21/12/1994 của Thống đốc Ngõn hàng Nhà nước Việt Nam là văn bản hướng dẫn đầy đủ nhất về TTKDTM. Tuy nhiờn, bản thõn nội dung văn bản này cũn nhiều bất cập. Điều 7 Quyết định đưa ra cỏc hỡnh thức TTKDTM: sộc, ủy nhiệm chi - chuyển tiền, ủy nhiệm thu, thư tớn dụng, ngõn phiếu thanh toỏn, thẻ thanh toỏn. Một số chuyờn gia cho rằng ngõn phiếu thanh toỏn khụng phải là TTKDTM mà chẳng qua là một loại tiền mệnh giỏ lớn. Cũn nếu coi ủy nhiệm chi - chuyển tiền là một thể thức TTKDTM thỡ là sai về khỏi niệm, vỡ ủy nhiệm chi là một thể thức thanh toỏn, nhưng chuyển tiền lại là phương thức thanh toỏn...
Gần đây nhất theo quyết định số 235/2002/QĐ-NHNN ngày 27/03/2002 của thống đốc NHNN về việc chấm dứt việc phát hành trái phiếu thanh toán. Theo đó kể từ ngày 1/4/2002 NHNN sẽ không phát hành ngân phiếu thanh toán nữa. Vậy nên với nội dung chính của đề tài là các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay tại Việt Nam nên em xin không đề cập đến hình thức thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán, Uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi.
Thanh toán bằng Séc.
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng của ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định trên tài khoản của mình mở tại ngân hàng để trả cho người cầm Séc hoặc cho người được chỉ định trên tờ Séc ( tổ chức kinh tế hay cá nhân ).
Séc là một mệnh lệnh, chứ không phải là một yêu cầu, do đó khi nhận được Séc Ngân hàng chấp nhận vô điều kiện, trừ trường hợp tài khoản của người phát hành không đủ hoặc không có tiền trả.
Cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt của nước ta quy định về xử phạt những tờ Séc phát hành quá số dư tiền gửi hoặc tiền lưu ký như sau :
+ Người phát hành Séc phải chịu phạt bằng 30% số tiền phát hành quá số dư.
+ Người phát hành Séc phỉa chịu phạt về chậm trả ( kể từ ngày tờ Séc quay về ngân hàng phục vụ người phát hành Séc đến ngày có đủ tiền thanh toán).
Ngoài ra nếu người chủ tài khoản vi phạm phát hành Séc đến tờ thứ hai, Ngân hàng nhà nước trung ương sẽ thông báo đến tất cả các ngân hàng, khách hàng phát hành Séc quá số dư sẽ bị đình chỉ việc sử dụng loại Séc đó, thời gian đình chỉ tối thiểu là 3 tháng. Trường hợp việc vi phạm nguyên tắc phát hành Séc dẫn tới hậu quả nghiêm trọng thì Người phát hành Séc sẽ bị truy tố theo quy định của pháp luật.
Các loại Séc bao gồm :
- Séc chuyển khoản.
Séc chuyển khoản – Séc thông thường là loại Séc được sử dụng rộng rãi, nó có giá trị thanh toán như tiền tệ, do đó trên tờ séc phải có đầy đủ những yếu tố bắt buộc theo luật định. Thông thường séc được in sẵn, người phát hành chỉ việc điền vào chỗ quy định bằng loại mực không phai.
Viẹc ghi trên tờ séc phải bảo đảm tính hợp lệ, hợp pháp đối với việc sử dụng Séc. Séc chuyển khoản cũng như các loại séc khác chỉ có hiệu lực trong phạm vi thời hạn nhất định. Bởi vậy trong thời hạn hiệu lực của tờ Séc ngân hàng phải thanh toán ngay khi người thụ hưởng Séc nộp Séc vào ngân hàng. Cơ chế sử dụng Séc chuyển khoản hiện nay quy định : Thời hạn hiệu lực của Séc là 10 ngày và séc chuyển khoản chỉ được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở một chi nhánh ngân hàng hoặc khác chi nhánh ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực tiếp hàng ngày.
- Séc bảo chi và Séc định mức.
Séc bảo chi và Séc định mức là loại Séc xác nhận được ngân hàng bảo đảm khả năng thanh toán và chống lại việc phát hành khống.
- Séc chuyển tiền.
Séc chuyển tiền hay Séc chuyển tiền cầm tay là một loại chuyển tiền được sử dụng theo yêu cầu của khách hàng. Việc chuyển tiền mặt giữa các tỉnh thành phố qua ngân hàng được các ngân hàng thực hiện bằng phương thức chuyển tiền nhanh bằng điện đến địa chỉ người lĩnh tiền, hoặc cấp séc chuyển tiền cho khách hàng.
- Séc cá nhân.
Séc cá nhân được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền gửi đứng tên cá nhân tại ngân hàng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và các khoản thanh toán khác.
Hiện nay theo quy định của ngân hàng Séc cá nhân có số tiền trên 5 triệu phải làm thủ tục bảo chi Séc, người thụ hưởng phải yêu cầu người phát Séc xuất trình CMND để kiểm tra và chỉ nhận Séc do đích thân người có tên trên và sau tờ Séc và phải ký tên tại chỗ.
Thời hạn hiệu lực của Séc cá nhân là 10 ngày và chỉ được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở một chi nhánh ngân hàng hoặc khác chi nhánh ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực tiếp hàng ngày.
Thanh toán bằng hình thức thẻ thanh toán.
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại vì nó gắn với kỹ thuật tin học ứng dụng trong ngân hàng. Thẻ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình ( các doanh nghiệp, cá nhân ) để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán nợ và lĩnh tiền mặt. ở một số nước các hãng, các công ty lớn cũng phát hành thẻ thanh toán để thu tiền bán hàng của hãng mình.
Thẻ thanh toán bao gồm thẻ từ và thẻ điện tử. Thẻ từ là loại thẻ dùng kỹ thuật băng từ để ghi và đọc thông tin trên thẻ. Thẻ điện tử là loại thẻ có gắn bộ nhớ vi điện tử trên thẻ, ghi và đọc thông tin qua bộ nhớ vi điện tử.
Có 3 loại thẻ thanh toán được áp dụng :
- Thẻ thanh toán không phải ký quỹ.
Người sử dụng thẻ không phải lưu ký tiền vào tài khoản để đảm bảo thanh toán. Căn cứ để thanh toán là số dư tài khoản tiền gửi của người chủ sở hữu thẻ mở tại ngân hàng với hạn mức tối đa do ngân hàng quy định. Hạn mức được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử, vào giải băng từ nếu là thẻ điện tử.
ở nước ta quy định thẻ thanh toán không phải ký quỹ là loại thẻ A. nó được áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán tốt và thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng.
- Thẻ thanh toán phải ký quỹ trước tại ngân hàng .
Người sử dụng thẻ phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản để đảm bảo thanh toán. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ và được ghi vào bộ nhớ của thẻ.
Loại thẻ này được quy định là loại thẻ B, nó được áp dụng với mọi loại khách hàng.
- Thẻ tín dụng.
Thẻ tín dụng là loại thẻ không phải ký quỹ và được quy định là loại thẻ C. Nó được áp dụng đối với những khách hàng được vay vốn ngân hàng. Mức tiền cho vay là hạn mức tín dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ.
Chương 2
Thực trạng về các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
tại Việt Nam hiện nay.
2.1 Những quy định mang tính nguyên tắc trong thanh toán không dùng tiền mặt .
Thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của ngân hàng, nghiệp vụ này có liên quan chặt chẽ đến quan hệ trao đổi hàng hoá và dịch vụ của tất cả các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế. Để hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt diễn ra thuận lợi, an toàn, bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia, cần phải thống nhất công tác tổ chức và có những quy định cụ thể. Ngân hàng nhà nước đã có quy định như sau :
Quy định chung.
Các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, đoàn thể, cá nhân được quyền lựa chọn ngân hàng để mở tài khoảngiao dịch và thực hiện thanh toán.
Việc mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng, kho bạc nhà nước thì thực hiện qua tài khoản được ghi bằng đồng Việt Nam. Trường hợp ghi bằng ngoại tệ phải thực hiệntheo quy chế quản lý ngoại hối của chính phủ Việt Nam ban hành.
Quy định đối với ngân hàng.
Thực hiện uỷ thác thanh toán của chủ tài khoản, bảo đảm chính xác, an toàn, thuận tiện. Các ngân hàng và kho bạc có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặthoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gửi theo yêu cầu của chủ tài khoản.
Kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện thanh toán và được uỷ quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền, đồng 1thời không chịu trách nhiệm về những nội dung liên đới của bên khách hàng.
Nừu thiếu sót trong quá trình thanh toán, gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng và kho bạc phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và tuỳ theo mức độ thiệt hại mà có thể bị xử lý theo pháp luật.
Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng ngân hàng được thu phí theo quy định của thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Quy định đối với khách hàng.
Để đảm bảo thực hiện thanh toán đầy đủ kịp thời, các chủ tài khoản phải có đủ tiền trên tài khoản, mọi trường hợp thanh toán quá số dư là phạm pháp và phải xử lý theo quy định của pháp luật.
Chủ tài khoản phải lập chứng từ theo mẫu in sẵn do ngân hàng ấn hành và các chứng từ phải đầy đủ các yếu tố quy định về mẫu, chữ ký dăng ký tại ngân hàng.
Thực trạng về các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Đã có một thời, việc kiểm soát tiền mặt tồn quỹ được thực hiện ráo riết, tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt (qua ngân hàng) tăng cao, thanh toán bằng tiền mặt giảm mạnh. Nhưng biện pháp hành chính đó không phù hợp với cơ chế thị trường. Đến nay, nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 30% tổng doanh số thanh toán trong nền kinh tế. Nhiều nghìn tỷ đồng tiền mặt đang rải rác trong từng cá nhân, gia đình, quỹ cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp để thanh toán trực tiếp khi mua hàng, kể cả mua bất động sản trị giá hàng tỷ đồng. Sử dụng tiền mặt phổ biến trong thanh toán vừa gây nhiều lãng phí, vừa là kẽ hở lớn cho nạn tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế luồn lách, lẩn trốn sự kiểm soát của Nhà nước và xã hội.
(thêm vao trong ổ đia ,hihhihihi)
Trong thời kỳ tập trung bao cấp, Nhà nước ta cũng rất quan tâm đề ra những chủ trương lớn về việc sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cơ chế mệnh lệnh hành chính quan liêu cùng với hệ thống ngân hàng một cấp, việc mở rộng thanh toán chuyển khoản chỉ phát huy hiệu lực trong bộ phận kinh tế nhà nước. Lợi ích chính đáng và hợp pháp của chủ thể thanh toán không được tôn trọng đúng mức chính là lý do làm cho những chủ trương nói trên trở nên kém thực thi, thậm chí còn bị biến dạng trở thành phương tiện thể hiện quyền lực nhằm mục đích gây sách nhiễu, phiền hà. Trước năm 1985, thanh toán không dùng tiền mặt chiếm 80%, nhưng trong cuộc lạm phát phi mã 1985 – 1988, thanh toán không dùng tiền mặt sút giảm ghê gớm vì tiền mặt khan hiếm đến mức các ngân hàng quốc doanh khi đó, với thế độc quyền, đã khất chi tiền mặt. Một cái séc chuyển khoản nộp vào ngân hàng phải 15 ngày sau mới tính ra bằng tiền mặt được.
Thực tế trên đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay, nhất là khi nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường. Mọi việc lại trở nên “quá đà” khi xã hội không chấp nhận rộng rãi các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Hệ thống thanh toán thông qua định chế tài chính – ngân hàng mặc dù có bước phát triển vượt bậc so với trước đây, nhưng nhìn chung còn bất cập trong xu thế hội nhập quốc tế, chưa đi vào cuộc sống, thậm chí còn rất xa lạ với đại đa số dân cư.
Thực trạng xã hội nước ta vẫn là “một quốc gia sử dụng quá nhiều tiền mặt” như nhận xét của nhiều khách nước ngoài. Thực trạng đó theo Phó Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng : “làm cho việc điều hoà lưu thông tiền tệ và quản lý kho quỹ rất khó khăn, phân tán, tốn kém, ảnh hưởng rất lớn đến việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và cấu trúc lại hệ thống”.
Thanh toán bằng Séc.
Ngày 9/5/1996, chính phủ đã ban hành nghị định 30 về phát hành và sử dụng Séc. Ngày 27/12/1996 Ngân hàng nhà nước đã ban hành thông tư 07 hướng dẫn việc thi hành nghị định trên của chính phủ. Những văn bản pháp quy về phát hành và sử dụng Séc có hiệu lực hơn 5 năm nay. Nhưng, Séc vẫn chưa đi vào cuộc sống. Như vậy, những văn bản pháp quy trên, nhất là thông tư 07 của Ngân hàng nhà nước có những điểm chưa phù hợp, nên Séc chưa đi vào cuộc sống. Ta có thể thấy rõ điều này qua các con số thống kê về thanh toán không dùng tiền mặt tại TP. Hồ Chí Minh.
TP.HCM là một thành phố lớn có tốc độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người cao nhất cả nước. Nhưng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng phát triển rất “ì ạch”.Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi được ưa chuộng nhất trong khâu thanh toán do thủ tục đơn giản, hiện đang chiếm vị trí tuyệt đối trong khâu thanh toán giữa các thể nhân và pháp nhân khác nhau trong nền kinh tế. Tính hết 6 tháng đầu năm nay, thể thức này chiếm tỷ trọng 90,97% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Trong khi đó, tỷ trọng thanh toán bằng séc qua ngân hàng còn rất khiêm tốn, tỷ trọng này chỉ là 0,31% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt tại Tp.HCM tính đến 6 tháng đầu năm nay. Còn uỷ nhiệm thu, tỷ trọng thanh toán cũng rất thấp, chỉ bằng 2,07% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Vậy vì sao các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt ở một đô thị lớn như Tp.HCM lại phát triển chậm và lệch lạc như vậy? dẫu rằng không phải chúng không thấy được tác dụng tích cực của nó.
Đây là một ví dụ, dẫn chứng thực tế :
Vừa qua, cỏc doanh nghiệp (DN) lắp rỏp xe gắn mỏy hai bỏnh đó mua linh kiện của cỏc DN sản xuất trong nước, thực hiện nội địa hoỏ, với số tiền hơn tỷ đồng, thanh toỏn một lần bằng tiền mặt để trốn thuế. Xảy ra hiện tượng này một phần là do dịch vụ thanh toỏn khụng dựng tiền mặt của ngõn hàng (NH) chưa phỏt triển, Chớnh phủ chưa ban hành cơ chế; phạm vi và số tiền tối đa được thanh toỏn bằng tiền mặt.
- Mặc dù có nhiều công cụ thanh toán hiện đại xuất hiện, nhưng séc vẫn là một công cụ thanh toán phổ biến trên thế giới. Phần lớn ở các nước đều có Luật séc riêng, hoặc séc sẽ được quy định trong luật Thương Mại, hoặc nếu không sẽ sử dụng ngay Luật Thống nhất về séc, nên khi sử dụng séc tính pháp lý rất cao, quyền lợi của người sử dụng séc được đảm bảo. Còn ở Việt Nam chưa có luật Séc, trong Luật Thương mại cũng không quy định mà mới chỉ được ban hành dưới dạng Nghị định của Chính phủ. Song thực tế Nghị định này và Thông tư hướng dẫn của NHNN để thực hiện Nghị định về séc còn nhiều điểm chưa phù hợp, do vậy tính khả thi không cao, tính pháp lý chưa đảm bảo vững chắc, quyền lợi và nghĩa vụ của những người tham gia sử dụng séc không rõ ràng.
Nguyên nhân.
Một là, vấn đề mở tài khoản :
Trong thông tư của Ngân hàng nhà nước hướng dẫn thi hành Nghị định 30 về phát hành và sử dụng séc chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và văn bản pháp quy của Ngân hàng nhà nước. Trong thông tư 07 dùng ngôn từ “tài khoản thanh toán” trong khi đó hệ thông kế toán của ngân hàng thương mại do Ngân hàng nhà nước ban hành chỉ có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và tài khoản tiền gửi có kỳ hạn. Trên thế giới, doanh nghiệp, cá nhân cùng một lúc mở hai tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và chỉ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mới có quyền rút tiền mặt hoặc thanh toán không dùng tiền mặt.
Hai là, Hình thức tờ Séc do Ngân hàng nhà nước thiết kế không phù hợp với thực tế.
Theo mẫu Séc kèm theo thông tư 07 của Ngân hàng nhà nước, người phát hành Séc ngoài việc ghi họ tên người thụ hưởng còn phải gi số ngày cấp và nơi cấp CMND ; số hiệu tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và địa chỉ người thụ hưởng. Điều này thực tế rất khó thực hiện. Ngườiphát hành Séc và người thị hươngr cùng thành phố, phải gặp nhau mới thực hiện được nội dung tờ Séc này yêu cầu.
Nội dung trên là không cần thiết mà nên dành cho chi nhánh ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước tiếp nhận tờ Séc. Khi đó người thụ hưởng Séc phải xuất trình Séc cùng chứng minh thư.
Trên tờ Séc đòi hỏi hai chữ ký : Kế toán trưởng và chủ tài khoản. Điều này gây phiền phức cho bên phát hành Séc. Các chuyên gia cho rằng trên tờ Séc chỉ cần một chữ ký của chủ tài khoản hoặc người dược chủ tài khoản uỷ quyền.
Ba là, phạm vi thanh toán của Séc qúa hẹp.
Như trong phần lý luận chung ta đã thấy thanh toán bằng séc có phạm vi khá hẹp, không cho thanh toán ngoài hệ thống, ngoài địa bàn thành phố nên bị hạn chế. Thủ tục luân chuyển séc cũng chậm vì còn yêu cầu ghi nợ trước, ghi nợ sau. Trường hợp 2 đơn vị mua bán có tài khoản tại 2 nơi khác nhau, phải mất thời gian chuyển cho ngân hàng bên mua để ghi nợ trước rồi ngân hàng bên bán mới được ghi có sau vào tài khoản đơn vị bán. Việc này áp dụng với cả séc bảo chi gây không ít phiền hà cho khách vì phải lưu ký tiền trên tài khoản mà không rút ngắn được thời gian luân chuyển chứng từ. Theo thời báo ngân hàng ngày 11/1/2002
Với các dịch vụ thanh toán, việc sử dụng các công cụ thanh toán ban hành theo Nghị định 91/CP, Quy định 22-NH và Thông tư 08 của Ngân hàng Nhà nước về kinh doanh thương mại hiện nay không còn phù hợp với thực tế. Các hình thức thanh toán như séc định mức, thư tín dụng hoàn toàn không được sử dụng, séc chuyển tiền chỉ được sử dụng rất ít.
Một số thủ tục còn rườm rà như trong chế độ quy định khi mua séc, chủ tài khoản phải lập giấy đề nghị bán séc, đồng thời uỷ nhiệm chi trích tài khoản tiền gửi để mua séc, hay loại chứng từ cho cùng một nội dung. Một số trường hợp như người thụ hưởng séc nộp séc vào ngân hàng quá thời hạn thanh toán, đơn vị thu hộ chuyển séc chậm cho đơn vị thanh toán... phải đến UBND xã, phường nơi cư trú hoặc đóng trụ sở để xin xác nhận lý do bất khả kháng. Quy định này khiến cho công chúng cân nhắc việc lựa chọn sử dụng séc vì các cơ quan chức năng nói trên chưa chắc đã am tường về séc để dễ dàng xác nhận trên chứng từ. Do đó, cần xác định rõ thế nào là yếu tố "bất khả kháng" để các cơ quan chức năng có thể dễ dàng xác nhận.
Với tài khoản cá nhân, chỉ được uỷ quyền từng lần phát hành séc hoặc uỷ quyền trong một thời gian nhất định, mỗi lần uỷ quyền phải ra UBND huyện, quận xác nhận. Đối với pháp nhân, chủ tài khoản là người toàn quyền chịu trách nhiệm về sử dụng tài khoản của mình. Mỗi khi uỷ quyền tạm thời cho người khác, chủ tài khoản cũng phải ra UBND quận huyện xác nhận là điều vô lý. Đối với thời hạn hiệu lực, nếu chỉ cho phép có 15 ngày thì quá ngắn so với thông lệ ở các nước khác 6 tháng hay 1 năm. Do hiện nay, séc được phép chuyển nhượng nên nếu kéo dài thời hạn hiệu lực của tờ séc sẽ làm cho người thụ hưởng séc an tâm hơn, không phải lo đi minh chứng yếu tố bất khả kháng tại các cơ quan chức năng. Theo các chuyên gia, không cần ghi địa chỉ người phát hành séc vì họ đã có tài khoản tín dụng, và địa chỉ của họ đã lưu trong hồ sơ mở tài khoản. Cũng không cần ghi số chứng minh nhân dân của người thụ hưởng trên tờ séc vì một khi séc đã cho phép chuyển nhượng thì người thực sự trình séc lãnh tiền ở ngân hàng có thể không phải là người thụ hưởng có tên ghi trên séc, còn với séc vô danh thì người nào trình séc người đó lĩnh tiền.
2.2.2 Thẻ thanh toán.
Thanh toỏn bằng thẻ, dự cũn khỏ khiờm tốn nhưng được coi là khả quan và cú chiều hướng phỏt triển vỡ đang hấp dẫn cỏ nhõn sử dụng. Sau thời kỳ hoàng kim những năm đầu thập kỷ 90, tỡnh hỡnh sử dụng thẻ tớn dụng tại Việt Nam đó chững hẳn lại, và chỉ gần đõy mới sụi động lờn với sự tham gia của nhiều ngõn hàng phỏt hành và thanh toỏn.
Ta có thể thấy thực trạng của hoạt động thanh toán thẻ qua sự phát triển và một số vấn đề của hình thức thanh toán này ở các ngân hàng lớn tại Việt Nam.
2.2.2.1 Cỏc ngõn hàng trong cuộc đua ATM .
Theo ụng Nguyễn Thanh Toại, phú tổng giỏm đốc Ngõn hàng Á chõu (ACB): Rồi đõy, trong cuộc đua sử dụng thẻ rỳt tiền tự động, cỏc ngõn hàng VN sẽ đi vào vết xe đổ như từng xảy ra tại Singapore: một siờu thị cú tới hàng chục mỏy rỳt tiền.
Automated Teller Machine (ATM) là hỡnh thức đang được nhiều ngõn hàng thương mại phỏt triển, chủ yếu tại cỏc thành phố lớn, nhằm giảm tải nhu cầu giao dịch bằng tiền mặt. Mỏy này cho phộp chủ tài khoản cú thể rỳt, chuyển tiền, xem số dư tài khoản
Hiện nay, Ngõn hàng đầu tư phỏt triển, Ngõn hàng cụng thương, ACB, Vietcombank đang rỏo riết thương thảo cỏc hợp đồng thuờ chỗ đặt mỏy ATM. Sẽ lắp thờm 100 mỏy ở một số tỉnh, thành trong cả nước. Và hiện đang có 400 máy ATM khăp cả nước.
Giải bài toỏn đầu tư phỏt triển dịch vụ thẻ thanh toỏn khụng phải dễ, cần cú thời gian cho nhõn viờn làm quen với cụng việc mới cũng như để khỏch hàng chấp nhận sử dụng tiện ớch mới. Vietcombank bắt đầu phỏt hành thẻ này từ năm 1993, nhưng đến thỏng 12/1999 phải cho ngừng hoạt động vỡ khụng hiệu quả.
Chi phớ để mua mỏy (30.000 USD/mỏy) khụng tốn bằng chi phớ vận hành hệ thống mỏy. Mỗi năm, ACB đó phải chi bạc tỷ cho trung tõm thẻ hoạt động, trong khi phải mất đến 5 năm, trung tõm này mới làm ra lói.
Ngõn hàng Nhà nước TP HCM vừa khuyến nghị cỏc ngõn hàng thương mại nờn cõn nhắc khi đầu tư và phỏt triển hệ thống ATM sao cho hiệu quả. Do thiếu phối hợp trong khõu phỏt hành thẻ nờn thẻ của ngõn hàng nào chỉ cú thể rỳt được tiền từ mỏy của ngõn hàng đú.
Do vậy, nếu muốn tạo thuận lợi cho người rỳt tiền thỡ cựng một nơi cụng cộng, phải trang bị nhiều loại mỏy của từng ngõn hàng khỏc nhau, rất lóng phớ. Trờn thực tế, hầu hết cỏc mỏy rỳt tiền hiện chỉ được lắp đặt tại ngay trụ sở ngõn hàng, chưa cú tại nơi cụng cộng, do vậy ớt người sử dụng.
Chưa thờ̉ ngăn chặn nạn dùng thẻ tín dụng giả.
Thanh toán bằng thẻ tín dụng mới xuṍt hiợ̀n ở Viợ̀t Nam, nhưng đã xảy ra nhiờ̀u vụ sử dụng thẻ giả đờ̉ mua hàng hóa, ăn chơi, thọ̃m chí "móc trụ̣m" của ngõn hàng cả trăm nghìn USD. Tuy nhiờn, viợ̀c điờ̀u tra, tṍn cụng loại tụ̣i phạm này mới dừng lại ở phõ̀n ngọn
Trung tõm an toàn thẻ của tụ̉ chức Master Card khu vực Chõu á đánh giá cao cụng tác chụ́ng loại tụ̣i phạm này ở Viợ̀t Nam. Tuy nhiờn, mọi viợ̀c điờ̀u tra, thu giữ, giám định thẻ giả được thực hiợ̀n lõu nay mới chỉ là phõ̀n ngọn, còn phõ̀n gụ́c là những tụ̉ chức đường dõy làm thẻ giả thì rṍt mờ mịt.
Cơ quan Điờ̀u tra (Bụ̣ Cụng an), cho biờ́t, sử dụng thẻ tín dụng giả đờ̉ lừa đảo xảy ra ở nhiờ̀u nước trờn thờ́ giới. Là thị trường mới áp dụng thẻ thanh toán khụng dùng tiờ̀n mặt, Viợ̀t Nam đang trở thành “điờ̉m hẹn” của bọn tụ̣i phạm tiờu thụ thẻ giả, mà chủ yờ́u là người nước ngoài.
2.2.2.3 Hệ thống ATM cú được khai thỏc hiệu quả?.
Hiện nay, hệ thống ATM đó bắt đầu được triển khai khỏ rộng rói tại cỏc ngõn hàng Việt Nam. Cú nhiều nguồn tin cho rằng việc đầu tư vào cỏc hệ thống ATM là khụng cú hiệu quả, bởi vỡ chi phớ vận hành hàng năm cho một mỏy ATM cú thể lờn tới 300 triệu đồng, trong khi đú số lượng khỏch hàng sử dụng dịch vụ này thỡ lại quỏ ớt.
Hiện nay cú rất nhiều ý kiến cho rằng, cỏc ngõn hàng nờn cõn nhắc khi đầu tư và phỏt triển hệ thống ATM
Khi cỏc ngõn hàng cú một khoản chi phớ, thay vỡ mua hoặc xõy thờm một trụ sở hay mở thờm một chi nhỏnh họ sẽ đầu tư trang bị mỏy ATM. Hệ thống ATM sẽ giỳp cho xó hội được văn minh hơn và tăng cỏc giao dịch khụng sử dụng tiền mặt. Việc đầu tư thờm thiết bị mới sẽ giỳp cỏc ngõn hàng cú phương tiện để kinh doanh hiệu quả hơn. Tuy nhiờn, việc đầu tư vào hệ thống ATM để cú lợi nhuận ngay thỡ đến nay trờn thế giới vẫn chưa cú ngõn hàng nào thực hiện được, bởi vỡ để tớnh chi phớ và doanh thu riờng cho một dịch vụ là rất khú. Một cỏ nhõn sử dụng dịch vụ ATM cú thể thực hiện nhiều giao dịch cú liờn quan khỏc như: kiểm tra cỏc thụng số về thẻ tớn dụng, gửi nhận tiền và cỏc dịch vụ khỏc... Do vậy việc đỏnh giỏ hiệu quả của dịch vụ này ngay khi đầu tư là rất khú.
Cú một tỡnh trạng hiện nay là thẻ của ngõn hàng nào thỡ chỉ cú thể rỳt tiền từ mỏy ATM do ngõn hàng đú trang bị, điều này đó gõy ra rất nhiều bất lợi cho người sử dụng và lóng phớ. Cần phải làm gỡ để giải quyết được vấn đề này? Cỏc ngõn hàng cú nờn liờn minh về hệ thống ATM?
Đõy là vấn đề sử dụng một hay nhiều thẻ. Nếu như khụng cú một chuẩn cụng nghệ chung thỡ sẽ cú tỡnh trạng hàng trăm hệ thống dịch vụ sẽ tương ứng với hàng trăm loại thẻ khỏc nhau. Do vậy ở đõy cần phải cú vai trũ của Chớnh phủ trong việc tạo ra một cơ sở phỏp lý để cỏc ngõn hàng hoạt động thống nhất với nhau trờn một nền tảng cụng nghệ chung. Nền tảng cụng nghệ chung ở đõy cú nghĩa là mỗi ngõn hàng cú thể cú một kiến trỳc khỏc nhau nhưng sẽ cú một chuẩn cụng nghệ quốc gia để cỏc ngõn hàng cú thể giao tiếp được với nhau và cỏc dịch vụ của ngõn hàng cú thể cung cấp cho khỏch hàng theo nhiều kờnh khỏc nhau. Và khi cú vai trũ của Chớnh phủ, thỡ chỉ cần cú một thẻ mà cỏc ngõn hàng vẫn thể cạnh tranh một cỏch bỡnh đẳng.
Cũn việc liờn minh giữa cỏc ngõn hàng về hệ thống ATM thỡ đõy là vấn đề tự cỏc ngõn hàng nhận thấy là cú cần thiết hay khụng? Về bản chất ATM chỉ là một trong 16 kờnh dịch vụ của ngành tài chớnh ngõn hàng.
Xu hướng phỏt triển cỏc dịch vụ từ hệ thống ATM?
Hệ thống ATM khụng đơn giản là dịch vụ rỳt tiền tự động, mà hệ thống ATM cũn cho phộp ngõn hàng triển khai cỏc dịch vụ như tra cứu số dư tài khoản, tra cứu thụng tin về tỷ giỏ, lói suất của ngõn hàng, chuyển khoản, thanh toỏn cỏc loại hoỏ đơn như tiền điện thoại, điện, nước, trả lương cho cỏn bộ cụng nhõn viờn. Thậm chớ, hệ thống ATM cú thể phỏt hành được cỏc ấn phẩm như tem, vộ xem phim...
Hơn thế nữa, hệ thống ATM khụng chỉ dựng cho cỏc giao dịch của ngõn hàng, mà nú cũn liờn quan đến ngành thuế, hải quan, bảo hiểm và cỏc ngành kinh tế khỏc. Trong tương lai, khi xó hội ngày càng phỏt triển thỡ khối lượng giao dịch tiền mặt sẽ ngày càng thấp đi, và xu hướng giao dịch bằng một thẻ sẽ là tất yếu. Trong xó hội hiện đại đú, một thẻ cú thể dựng cho mọi giao dịch liờn quan như: chứng minh thư, bảo hiểm, y tế, ngõn hàng, cỏc hệ thống siờu thị...
Và người dựng sử dụng dịch vụ nào sẽ trả tiền cho dịch vụ đú. Tại khu vực chõu Á, Hồng Kụng và Malaysia là hai vớ dụ điển hỡnh trong việc xõy dựng một lộ trỡnh hướng tới mọi giao dịch thụng qua một thẻ duy nhất.
Nếu ai đó từng sống hay đi qua cỏc nước kinh tế phỏt triển, sẽ thấy cỏc giao dịch thanh toỏn của người dõn thụng qua dựng thẻ thanh toỏn hay thẻ tớn dụng là rất phổ biến, thậm chớ cú nước giỏ trị thanh toỏn đú lờn đến trờn 90% tổng giỏ trị thanh toỏn tiờu dựng. Vậy tại sao thanh toỏn bằng thẻ vẫn chưa thành hỡnh ở nước ta như ở cỏc nước phỏt triển, thiết nghĩ cú 3 yếu tố:
- Thứ nhất, cơ sở hạ tầng về cụng nghệ thụng tin của họ rất đầy đủ. Bởi vậy, hầu như tất cả cỏc cửa hàng, thậm chớ ở trong trường học họ đều cú mỏy thanh toỏn tiền trực tuyến. Điều này Việt Nam chưa hội đủ điều kiện. Mặt khỏc luật phỏp của Việt Nam chưa cú quy định nào bắt buộc cỏc cơ sở kinh doanh phải cú mỏy thanh toỏn (quy định này cú thể nằm trong Luật Doanh nghiệp chứ khụng cần phải quy định trong Luật cỏc Tổ chức Tớn dụng hay Luật Ngõn hàng Nhà nước).
- Thứ hai, nhỡn về vấn đề thu nhập ở cỏc nước kinh tế phỏt triển, người dõn cú thu nhập đều và cao, do đú số dư tiền gửi trờn tài khoản thanh toỏn là khoản tiền ổn định và khỏ lớn, số tiền này được gọi là khoản vốn vóng lai trong hoạt động ngõn hàng. Do ngõn hàng cú thể sử dụng một phần số tiền đú để kinh doanh, nờn khi người sử dụng tài khoản thanh toỏn thỡ chỉ phải trả một khoản phớ rất nhỏ hoặc thậm chớ bằng khụng. Núi dựng tiền mặt "rẻ hơn" tiền thẻ là hoàn toàn đỳng với Việt Nam. Trờn thực tế cỏc ngõn hàng thương mại Việt Nam sẽ khú cú thể đưa ra giỏ thành rẻ hơn.
- Thứ ba, về thúi quen người tiờu dựng và trỡnh độ nhận thức, một phần do người dõn và một phần do cả Ngõn hàng Nhà nước cũn chưa quan tõm đến việc khuyến khớch người dõn dựng thẻ thanh toỏn. Thực sự ngạc nhiờn, tại sao Ngõn hàng Cụng thương lại lắp đặt hai mỏy rỳt tiền tự động trong Sở Giao dịch của Ngõn hàng Nhà nước. Trong khi muốn để người dõn tiếp cận việc thanh toỏn thẻ, cần cú sự tiện lợi rỳt và gửi tiền qua cỏc mỏy ATM. Sở giao dịch Ngõn hàng Nhà nước chủ yếu lại là nơi giao dịch của cỏc doanh nghiệp ngõn hàng và một bộ phận nhỏ là cỏn bộ của Ngõn hàng Nhà nước. Nếu số tiền đầu tư cho hai mỏy ATM trờn được lấy từ quỹ hiện đại húa ngõn hàng do World Bank tài trợ thỡ quả là phớ, khụng hiệu quả về mặt kinh tế và chưa phục vụ cho việc phỏt triển thanh toỏn thẻ ở Việt Nam.
Thiết nghĩ, trờn gúc độ phỏt triển kinh tế, Ngõn hàng Nhà nước nờn quan tõm và đưa chiến lược phỏt triển thanh toỏn thẻ vào trong những chiến lược phỏt triển và củng cố hệ thống ngõn hàng thương mại của Việt Nam hiện nay. Mặc dự chi phớ đầu tư ban đầu lớn nhưng xột về tổng thể, thanh toỏn thẻ sẽ giảm chi phớ cho nền kinh tế về in tiền, hủy tiền hiện nay, hạn chế tiền giả, tăng tớnh minh bạch trong nền kinh tế, kớch thớch tiờu dựng và đồng thời giỳp cho việc chống tham nhũng ở nước ta. Theo nghiờn cứu về kinh tế của nhiều nước, họ đều kết luận rằng người sử dụng thẻ tiờu dựng cao hơn dựng tiền mặt. Trong khi Chớnh phủ Việt Nam đang cần kớch cầu nền kinh tế, thiết nghĩ đõy cú thể sẽ là đũn bẩy quan trọng.
đáng giá thực trạng về các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
2.3.1 mặt tích cực
+Thị trường thẻ tớn dụng “núng” trở lại .
Sau thời kỳ hoàng kim những năm đầu thập kỷ 90, tỡnh hỡnh sử dụng thẻ tớn dụng tại Việt Nam đó chững hẳn lại, và chỉ gần đõy mới sụi động lờn với sự tham gia của nhiều ngõn hàng phỏt hành và thanh toỏn
+Là nước đi sau:
Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước, nhờ đó có thể tránh được một số rủi ro nhất định.
+ Người tiêu dùng Việt Nam
Rất nhanh trong việc thích nghi và ứng dụng các dịch vụ mới. Ví dụ : Dịch vụ điện thoại thẻ, điện thoại di động, dịch vụ Internet trong một thời gian ngắn đã phát triển rất nhanh chóng trong khi nhu cầu thực sự không đến mức như vậy. Như vậy không có lý do gì mà không thể phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt – một hình thức thanh toán rất tích cực và văn minh. Đó là xu hướng chung của thế giới.
+ Thị trường mấy năm qua va hiên nay
(thêm vao trong ổ đia a , hihihihi)
2.3.2 mặt hạn chế
Thời gian không còn sớm đối với yêu cầu phải đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghệ ngân hàng đối với các ngân hàng trong nớc. Trong lộ trình hội nhập, những hàng rào bảo hộ dần đợc gỡ bỏ, các ngân hàng trong nớc sẽ phải đối mặt với những cạnh tranh của ngân hàng nớc ngoài mạnh hơn nhiều lần, đặc biệt khi mà chỉ còn vài năm nữa, những rào cản trong lĩnh vực ngân hàng phải đợc dỡ bỏ theo Hiệp định Thơng mại Việt - Mỹ. Hiện tại, nhiều ngân hàng đang chạy đua phát triển đa dạng dịch vụ của mình.
Qua thực trạng và các nguyên nhân trên ta có thể đưa ra nhận xét sơ bộ ban đầu như sau :
+ Thiếu cơ sở phỏp lý cho thanh toỏn khụng dựng tiền mặt.
Luật Ngõn hàng Nhà nước và Luật Cỏc tổ chức tớn dụng là hai văn bản phỏp lý cao nhất quy định về hoạt động thanh toỏn khụng dựng tiền mặt (TTKDTM). Tuy nhiờn, việc ỏp dụng thể thức thanh toỏn này vẫn dựa trờn những văn bản dưới luật ra đời cỏch đú 2-4 năm và đang gõy nhiều khú khăn cho hoạt động tài chớnh.
+ Dùng tiền mặt phổ biến hơn thanh toán qua ngân hàng.
Những khó khăn mà các ngân hàng đến nay vẫn đề cập là sự chậm chạp trong việc cải tiến các hình thức thanh toán qua ngân hàng, việc thay đổi tập quán thanh toán tiền mặt trong rất nhiều giao dịch. Đề cập riêng ở lĩnh vực thẻ thanh toán – một phơng tiện thanh toán tiên tiến và phổ biến trên thế giới, thế nhưng đến nay cũng chỉ mới có ba ngân hàng trong nớc là có phát hành thẻ tín dụng quốc tế với số lợng chỉ vài chục ngàn thẻ. Đối với giao dịch của cá nhân trong nước, chỉ mới có 20 ngân hàng đã phát hành thẻ thanh toán. Như vay cũng chưa đủ để hình thức mới này trở nên phổ biến - thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Thu nhập bình quân chưa cao
Thu nhập của dân cư nói chung còn thấp, nhu cầu thiết yếu dân cư còn mua ở chợ “ tự do” là chủ yếu; thêm vào dó la thói quen sự dụng tiền mặt đơn giạn thuận tiện bao đời nay không dễ một sớm , một chiều thay đổi được; đòng thời muốn sự dụng phương tiện thanh toán hiện đại lại cũng cần co sợ hiểu biết nhất định
+ Cơ sở hạ tầng công nghệ thanh toán
Đang trong giai đoạn hình thành với việc vận dụng các kỹ thuật , qui trình công nghệ thông tin, thanh toán hiện đại, một vấn đề phức tập rất cần có sự phối hợp trên nhiều phương tiện : vốn, phương tiện thanh toán va kỹ thuật thanh toán mới tiên tiến, lượng thời gian cần thiết trình độ tổ chức vận hành thực hiện. V. v.
Đồng thời các khu công nghiệp, siêu thị tập trung chưa phát triển , dang trong giai đoạn qui hoạch , nên chư có điều kiện thu hút tiêu dùng cua dân cư, nên chưa được sụ dụng các công nghệ hiện đại tương thích.
+Các ngân hàng vẫn thiếu sự hợp tác với nhau.
Mặc dù có những nỗ lực cải tiến công nghệ, đa dạng các dịch vụ ngân hàng, nhưng theo nhiều ý kiến chuyên viên, việc tự mỗi ngân hàng vận động mà không có sự hợp tác đã làm giảm đi hiệu quả đầu tư, đơn cử như trong lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ. Mới đây nhất là việc cùng lúc nhiều ngân hàng cùng tự trang bị máy rút tiền tự động ATM chỉ để sử dụng cho thẻ của riêng ngân hàng mình. Theo Trung tâm thẻ ACB, chi phí đầu tư trang bị và vận hành máy ATM không nhỏ. Trung bình giá mỗi máy ATM khoảng 30.000 USD, nhưng đáng kể hơn còn chi phí tốn kém thường xuyên trong các hoạt động phục vụ khách hàng từ máy này. Trong khi đó, mỗi máy lại chỉ phục vụ cho việc rút tiền của một loại thẻ thay vì cần đợc sử dụng chung cho các loại thẻ của các ngân hàng khác nhau.
Tuy đi sau nhưng chúng ta đang đi theo vết xe đổ của một số nước trong khu vực : Sảy ra tình trạng trong một cửa có hàng chục loại máy ATM của các ngân hàng khác nhau.
Tại sao chúng ta không thống nhất sử dụng một chuẩn công nghệ chung, như thế vừa tiết kiệm, vừa thuận lợi cho khách hàng, lại vừa dễ quản lý ?
Chương 3
Giải pháp phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam hiện nay.
3.1 Một số đinh hướng phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại việt nam.
+ Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng. ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng thuận lợi và thông thoáng đến mọi doanh nghiệp và dân cư, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh và đời sống, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn.
+ Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng.
+ Cùng với việc sắp xếp lại bộ máy tổ chức, đào tạo cán bộ, xây dựng hoàn chỉnh cơ chế chính sách, hệ thống thanh tra, kiểm soát... Ngành Ngân hàng cần đặc biệt chú ý đến lĩnh vực đầu tư đổi mới công nghệ, ứng dụng nhanh sự tiến bộ của Khoa học Công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động Ngân hàng.
+ ứng dụng các thiết bị hiện đại cho hoạt động Ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường, để phục vụ cho nền kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh lành mạnh của từng Ngân hàng: Mở rộng, đa dạng các loại hình dịch vụ và hoạt động Ngân hàng của một Ngân hàng hiện đại, nhất thiết phải đầu tư, trang bị các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, xây dựng một hệ thống kỹ thuật công nghệ thông tin hiện đại. Việc xác định điểm xuất phát, lựa chọn giải pháp và hướng đi là bài toán khó, cho dù chúng ta có lợi thế của "người đi sau", thông qua những kinh nghiệm của "người đi trước". Tuy nhiên, vấn đề này phải được nghiên cứu thận trọng, tỷ mỷ, khoa học trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam để quyết định một hướng đi, một giải pháp khoa học. Chúng ta không thể theo giải pháp "đóng" của các nước đã đi trước khi mà xu thế của thế giới là toàn cầu hóa, đa dạng hóa. Giải pháp "mở" sẽ tạo ra chúng ta nhiều cơ hội thuận lợi trong đầu tư những thiết bị mạnh nhất, phù hợp với khả năng tài chính và kỹ thuật.
+ Nhân lực cho công nghệ. Đây là yếu tố rất quan trọng, quyết định mọi sự thành công.
Khi đổi mới từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không chỉ trang bị thêm cho đội ngũ cán bộ Ngân hàng kiến thức quản lý mới, nghiệp vụ mới, mà còn phải trang bị thêm những kiến thức công nghệ hiện đại, thay đổi cách nghĩ, cách làm, kỹ năng mới. Trong chiến lược cán bộ thì đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ Ngân hàng hiện có mang ý nghĩa quan trọng; bởi lẽ, đây là đội ngũ nòng cốt, có bề dày công tác, nhiều kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ. Đồng thời, tăng cường chất lượng lực lượng cán bộ trẻ được đào tạo chính quy tại các trường đại học trong nước, ngoài nước để vận hành, quản lý Ngân hàng hiện đại trong tương lai. Khi đó, không chỉ đơn thuần trong mối quan hệ điều hành giữa Người với Người trước đây, nó được thay thế bằng mối quan hệ giữa Người với Máy tính. Sự điều hành, tác nghiệp của mỗi cán bộ Ngân hàng trên cơ sở những thông tin chính xác do máy tính thu nhận, phân tích và cung cấp. Vì vậy, đòi hỏi từ thực tiễn phải chuẩn bị một lực lượng khoa học công nghệ cho hiện tại và tương lai.
+ Sử dụng các công cụ Marketing nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng.
Giải pháp.
Qua việc phân tích thực trạng, thuận lợi, khó khăn và hướng phát triển nêu trên, để có thể mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, phát huy đầy đủ thế mạnh và vai trò của nó trong nền kinh tế thiết nghĩ cần phải thực hiện một số giải pháp sau :
+ thứ nhất, xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp quy có hiệu lực cao để tạo môi trường và hành lang pháp lý vững chắc cho các hoạt động thanh toán.
Cần hoàn thiện Luật Séc. Hiện nay Séc vẫn là công cụ thanh toán rất phổ biến ngay cả khi có các công cụ thanh toán mới xuất hiện như thẻ thanh toán. Do vậy cần hoàn thiện luật Séc, có vậy thì mới điều chỉnh được các quan hệ về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan. Cả khách hàng và ngân hàng sẽ thực sự yên tâm hơn khi sử dụng Séc.
+ Thứ hai, thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ ngân hàng để thực hiện nhanh chóng, an toàn và chính xác là chủ trương lớn mà nghành ngân hàng đã đề ra từ nhiều năm nay.
- Ngân hàng nhà nước phải có kế hoạch, biện pháp tiếp nhận và sử dụng hợp lý các nguồn tài trợ của nước ngoài, đặc biệt là của WorldBank.
- Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại phải phối hợp với nhauđể nghiên cứu xây dựng quy trình chuyển tiền thanh toán điện tử đồng bộ, thống nhất dựa trên một số nguyên tắc chung nhất. Tránh tình trạng tự phát gây sự lãng phí lớn và thiếu đồng bộ.
+ Thứ ba, là tiếp tục triển khai, khuyến khích tổ chức cá nhân mở tài khoản và thanh toán tại ngân hàng.
- Ngân hàng phải cung cấp các thông tin về hoạt động của ngân hàng, các tiện ích của các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng bằng cách tuyên truyền, quảng cáo bằng nhiều hình thức khác nhau. Đây phải là việc làm thường xuyên tích cực chứ không phải qua loa đại khái, hình thức. Nói cách khác các ngân hàng phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
- Trong giai đoạn đầu, để khuyến khích sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt, chúng ta có thể chú trọng phát triển theo chiều rộng để người dân thấy được ưu điểm của nó. Các ngân hàng nên thu phí dịch vụ thấp, thậm chí chịu lỗ trong giai đoạn đầu, thể hiện sự “nhìn xa trông rộng của mình”.
+ Thứ tư, la nâng cao năng lực trình độ của cán bộ làm công tác thanh toán, tiếp xúc khách hàng.
- Trong hoạt động ngân hàng nói chung và lĩnh vực thanh toán nói riêng, yếu tố tổ chức và con người là quyết định. Do vậy người làm công tác thanh toán phải có đầy đủ năng lực, chuyên môn. Ngoài ra còn phải nắm vững luật pháp và chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, của nghành.
- Tất cả những yếu tố như cơ sở vật chất, con ngườidưới con mắt khách hàng đó là hình ảnh của ngân hàng. Vì vậy cần hết sức lưu ý. Chúng ta phải xây dựng hệ thống ngân hàng hiện đại nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh. Đại bộ phận dân cư còn có mức thu nhập thấp, họ rất ngại đến ngân hàng và tiếp xúc với nhân viên ngân hàng. Hình ảnh một nhân viên tiếp xúc khách hàng với vẻ mặt khó đăm đăm, hành chính là rất khó chịu với khách hàng. Đây cũng là yếu tố khiến cho cách hoạt động của ngân hàng chưa được xã hội hoá.
Vì vậy phải đào tạo đội ngũ nhân viên ngân hàng cỏi mở, phải xây dựng hình ảnh ngân hàng luôn là bạn tốt của Doanh nghiệp, của người dân. Không những cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng mà còn có khả năng tư vấn, hỗ trợ khách hàng.
-Vấn đề an toàn, bảo mật :
Hiện nay rất nhiêu người còn e dè chưa giám sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt vì vấn đề an toàn và bảo mật thông tin. Nhà nước nên coi các hành vi trộm cắp các thông tin về tài khoản, mã số là hành vi vi phạm pháp luật và có khung hình phạt thích đáng. Đồng thời các ngân hàng phải phối hợp tìm giải pháp bảo mật thông tin cho khách hàng. Phải để khách hàng thấy rằng gửi tiền vào ngân hàng là an toàn và kinh tế hơn là cất trong két sắt. Điều còn có lợi cho ngân hàng trong việc huy động vốn phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
- Các cơ quan nhà nước nên đi đầu trong lĩnh vực này. Chẳng hạn thay vì dùng thủ quỹ trả lương cho nhân viên như hiện nay chúng ta chuyển lương vào tài khoản của nhân viên mở tại ngân hàng, tạo thói quen và nhân rộng các hoạt động thanh toán qua ngân hàng .
- Về phía ngân hàng, phải làm tốt thanh toán liên hàng nói riêng và sự hợp tác giữa các ngân hàng nói chung.
Trên đây là một số giải pháp chung, cơ bản để có thể phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam hiện nay.
+ Thứ năm, có chính sách vĩ mô về quản lý bằng tiền mặt, trước mắt là các tổ chức , doanh nghiệp nhà nước.
3.3 kiến nghị
+ Ngõn hàng Nhà nước:
- Nờn khuyến khớch cỏc ngõn hàng thương mại trớch một phần vốn điều lệ đang được Chớnh phủ xem xột tăng cho ngõn hàng thương mại quốc doanh để đầu tư vào mạng lưới thanh toỏn thẻ.
- Khụng nờn chỉ để cho ngõn hàng thương mại quốc doanh độc quyền kinh doanh hoạt động thanh toỏn thẻ. Theo kinh nghiệm điển hỡnh của Nhật Bản, Cụng ty Dịch vụ Tiết kiệm của Tổng cụng ty Bưu chớnh Viễn thụng Việt Nam cú rất nhiều điều kiện thuận lợi để phỏt triển thanh toỏn thẻ ở Việt Nam.
+ Tổng cụng ty Bưu chớnh Viễn thụng:
Cần đầu tư xõy dựng và giảm chi phớ thuờ bao đường truyền thanh toỏn trực tuyến cho cỏc cửa hàng.
+ Chớnh phủ:
Nờn cú quy định bắt buộc cỏc cơ sở bỏn hàng, dịch vụ cú số vốn lớn, như cỏc siờu thị, phải trang bị thiết bị thanh toỏn thẻ. Xột trờn khớa cạnh tài chớnh chống thất thu thuế, đõy cú thể là giải phỏp rất hiệu quả.
+ Bộ tài chớnh:
Nờn miễn khoản thuế thu nhập từ hoạt động kinh doanh thanh toỏn cho cỏc ngõn hàng thương mại.
Kết luận.
Phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt là rất cần thiết đối với Việt Nam hiện nay.
Đối với nền kinh tế nó làm tăng tốc độ chu chuyển vốn; huy động tốt hơn các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tổ chức cá nhân; hình thành môi trường thanh toán minh bạch, thuận tiện và văn minh; góp phần chống lại các tệ nạn xã hội;
Và nó đặc biệt có ý nghĩa trong điều kiện hiện nay khi mà cả nước đang như một công trường xây dựng, nhu cầu về vốn là rất lớn. Chúng ta vẫn phải vay vốn nước ngoài, điều kiện thì khó khăn, phải trả lãi cao, chịu sự can thiệp về chính trị trong khi hàng tỷ đôla đang vẫn nằm nhàn rỗi trong tay dân cư trong nước. Nếu huy động được thì đó là nguồn vốn hiệu quả nhất, hiệu quả về nhiều mặt. Chúng ta có thể làm được điều này bằng cách khuyến khích người dân mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng.
- Đối với tổ chức cá nhân đó là sự tiện lợi, nhanh chóng; an toàn; thể hiện trình độ dân trí cao.
- Đối với ngân hàng : Nhiều nghìn tỷ đồng tiền mặt đang rải rác trong từng cá nhân, gia đình, quỹ cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp để thanh toán trực tiếp khi mua hàng, kể cả mua bất động sản trị giá hàng tỷ đồng sẽ được huy động phục vụ nhu cầu về vốn cho nền kinh tế đồng thời là nguồn thu phí dịch vụ quan trọng cho ngân hàng .
- Đối với quản lý xã hội : Sử dụng tiền mặt phổ biến trong thanh toán vừa gây nhiều lãng phí, vừa là kẽ hở lớn cho nạn tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế luồn lách, lẩn trốn sự kiểm soát của Nhà nước và xã hội.
Tác dụng của thanh toán không dùng tiền mặt là rất tích cực, chúng ta đã biết, nhưng để thanh toán không dùng tiền mặt đi vào cuộc sống thì thật không đơn giản, nó là cả một qua trình. Nó phải được cả xã hội quan tâm ủng hộ.
Là một sinh viên kinh tế, em thực sự mong muốn thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam sẽ phát triển cả về chất và về lượng phục vụ tốt nhất cho phát triển Kinh tế –Xã hội.
Tài liệu Tham khảo
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính (Frederic S. Mishkin)
Lý thuyết Tài chính- tiền tệ (Đại học tài chính-kế toán)
Giáo trình Kinh tế-chính trị Mác-Lê nin (Đại học kinh tế quốc dân)
Bài giảng Lý thuyết tài chính- tiền tệ (Ts. Đặng Ngọc Đức và Ts. Trần Thu Hà- Giảng viên trường ĐH KTQD - HN )
Tạp chí Ngân Hàng, Thời báo Ngân hàng
Tạp chí Thị trường tài chính-tiền tệ
Tạp chí tài chính.
Báo điện tử : vnexpress, vneconomy, Nhân dân, Lao động, Sài Gòn Giải Phóng.
Mục lục
Chương I : lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. 3
Lưu thông tiền tệ. 3
Khái niệm lưu thông tiền tệ. 3
Các hình thức lưu thông tiền tệ. 3
Sự cần thiết phải phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. 4
Nguồn gốc của thanh toán không dùng tiền mặt. 4
Sự cần thiết thanh toán không dùng tiền mặt. 5
Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. 7
Thanh toán bằng Séc. 7
Thanh toán bằng thẻ 9
Những quy định mang tính nguyên tắc chung trong thanh toán không dùng tiền mặt. 10
Quy định chung. 10
Quy định đối với ngân hàng. 11
Quy định đối với khách hàng. 11
Chương II : Thực trạng của công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam. 12
Thực trạng. 12
Thực trạng thanh toán bằng Séc. 13
Thực trạng thanh toán bằng Thẻ. 17
Nhận xét. 22
Thuận lợi khó khăn và hướng phát triển. 23
Thuận lợi 23
Khó khăn. 24
Hướng phát triển. 24
Chương III: Một số giải pháp phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam 27
Giải pháp. 27
Kiến nghị. 30
Kết luận. 31
Tài liệu tham khảo. 32
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8582.doc