MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ SANG THỊ TRƯỜNG EU 2
I. Thị trường thống nhất eu 2
1. Liên minh Châu Âu EU 2
1.1. Quá trình hình thành và phát triển : 2
1.2. Thị trường thống nhất Châu Âu : 4
1.2.1 . Liên minh thuế quan và thị trường chung. 4
1.1.2. Thị trường thống nhất và sự hình thành liên minh kinh tế và tiền tệ. 6
2. Vị thế của EU trên thế giới. 8
2.1 Liên minh Châu Âu trong thương mại toàn cầu. 8
2.2 Liên minh Châu Âu trong quan hệ giữa 3 trung tâm kinh tế thế giới 11
2.3 Liên minh Châu Âu và thị trường Châu Á 13
3. Đặc điểm của thị trường EU 14
3.1 Đặc điểm về thị hiếu người tiêu dùng 14
3.2 Đặc điểm về hệ thống phân phối 14
3.3 Đặc điểm về các chính sách thương mại 15
3.3.1 Chính sách thương mại nội khối 15
3.3.2 Chính sách ngoại thương 15
II. Nền tảng quan hệ thương mại Việt Nam. 15
1. Khuôn khổ pháp lý cho quan hệ thương mại Việt Nam-EU. 16
1.1. Hiệp định về dệt-may. 16
1.2. Hiệp định khung . 17
2.Việt Nam. 19
3. Liên minh châu âu EU 20
4.Đặc điểm quan hệ thương mại Việt Nam –EU 21
III.Vai trò của xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU. 23
1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. 23
1.1. Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu. 23
1.2 Tác động đến quấ trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nền sản xuất trong nước. 23
1.3 Góp phần giải quyết lao động, việc làm. 23
1.4. Là nền tảng trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại . 23
1.5 Đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước . 23
2. Vai trò của việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU. 24
CHƯƠNH II:THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN QUA 27
I. kết quả hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang liên minh châu âu (eu) thời gian qua 27
1. Trước năm 1990 27
2. Sau năm 1990 28
3. Các Hiệp định thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam – EU. 31
II. Tình hìnhXuất khẩu của Việt Nam sang EU 32
1. Tình hình chung. 32
2. Cơ cấu bạn hàng 34
2.1. Bạn hàng Đức. 36
2.2. Bạn hàng Anh 37
2.3. Bạn hàng Hà Lan. 37
2.4.Bạn hàng Pháp 39
3. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. 40
3.1. Hàng giầy,dép 41
3.2. Hàng dệt may. 42
3.3. Hàng thủy sản 43
3.4. Sản phẩm gỗ gia dụng 45
3.5. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ. 45
III. Đánh giá tổng quát thực trạng hoạt động xuất khẩu Việt Nam – EU thời gian qua 47
1. Quy mô thương mại 48
2. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam 50
3. Quan hệ giữa các đối tác 52
4.Hình thức xuất khẩu 52
IV. Thuận lợi và khó khăn, thách thức của hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU trong thời gian tới. 53
1. Thuận lợi 53
2. Những khó khăn thách thức xuất khẩu sang EU 56
2.1. Nhóm khó khăn liên quan tới Việt Nam 56
1.2. Nhóm khó khăn liên quan đến EU 59
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN MINH CHÂU ÂU GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 62
I. Định hướng phát triển thương mại Việt Nam – liên minh châu âu trong giai đoạn mới 62
1. Định hướng phát triển thương mại Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 62
1.1. Xuất khẩu. 62
1.2. Nhập khẩu. 63
1.3. Thị trường xuất nhập khẩu. 63
1.4 Cơ cấu mặt hàng. 65
2. Định hướng quan hệ thương mại Việt Nam EU65
2.1. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá sang EU giai đoạn 2000 - 2004 66
2.2 Triển vọng xuất khẩu hàng hoá sang EU giai đoạn 2005 - 2010 67
3. Định hướng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang EU giai đoạn 2001 -2010 68
3.1. Định hướng thị trường xuất khẩu: 68
3.2. Định hướng cơ cấu mặt hàng: 68
III. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá củaViệt Nam – EU 69
1. Nhóm các giải pháp vĩ mô 69
1.1. Nâng cao vai trò của cơ quan quản lý 69
1.2. Tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu vào EU 71
1.3 Kêu gọi hỗ trợ tài chính từ các nước thành viên EU 71
1.4. Hợp tác với EU chống gian lận thương mại, giữ uy tín hàng hoá Việt Nam 72
1.5. Đấu thầu hạn ngạch, tiến tới bán hạn ngạch 72
1.6. Xác định “cầu nối” với EU 72
1.7. Nâng cao vai trò của Nhà nước để san bằng khoảng cách chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu 73
1.8 Hoàn thiện chính sách thương mại theo hướng phù hợp với xu thế thương mại quốc tế 73
2. Nhóm giải pháp vi mô 74
2.1. Đầu tư cho công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá 74
2.2. Đảm bảo thực hiện các điều khoản hợp đồng 75
2.3 Tạo lập quan hệ với các kênh phân phối chủ đạo của EU 75
2.4. Nghiên cứu kỹ thị trường 75
2.5. Tận dụng thông tin từ nhiều phía 76
2.6. Khuyếch trương sản phẩm tại các hội chợ thương mại ở châu Âu 76
2.8. Tăng cường áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 78
3. Nhóm giải pháp liên quan đến đồng EURO 79
3.1. Nhanh chóng chấp nhận sử dụng EURO trong thanh toán quốc tế 79
3.2. Thiết lập nền móng EURO trong ngoại thương Việt Nam với EU 80
3.3. Điều chỉnh luật và các nghị định về quản lý ngoại hối nhằm cho phép sử dụng EURO trong các giao dịch quốc tế 80
3.4. Xem xét thành phần dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước 80
3.5. Xem xét việc lập tỷ giá chuẩn cho rổ tiền tệ và điều chỉnh tỷ giá VND/EUR linh hoạt, căn cứ vào nhiều ngoại tệ 81
KẾT LUẬN 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1621 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2001 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ EU chủ yếu là các mặt hàng truyền thống với các nhãn hiệu quen thuộc, chúng ta không có nhiều thông tin về các mặt hàng mới với công nghệ thực sự mang tính đột phá. Thương vụ của các đại sứ quán các nước EU tại Việt Nam thực sự cũng chưa phát huy hết vai trò giới thiệu các sản phẩm của các công ty nước mình cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như tìm hiểu nhu cầu từ phía Việt Nam.
Giá hàng hoá của EU còn cao, không phù hợp với tiềm năng tài chính của Việt Nam
Sản phẩm của EU được sản xuất với công nghệ cao, theo những tiêu chuẩn về kỹ thuật cao nhất, giá nhân công cao vì vậy giá thành thường cao hơn so với các mặt hàng cùng loại của một số quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hồng Kông, Trung Quốc. Doanh nghiệp Việt Nam lại có tiềm năng về tài chính hạn chế nên khi quyết định nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, nhất là thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất, họ sẽ có xu hướng lựa chọn các sản phẩm có chất lượng tương tự và giá thành hợp lý hơn. Nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn đi thì giải pháp của các doanh nghiệp Việt Nam cũng là hợp lý.
EU chưa có một kênh phân phối sản phẩm chung tại thị trường Việt Nam cũng như một đầu mối xuất khẩu thống nhất sang thị trường các nước Đông Nam Á
Các sản phẩm EU hiện đang có mặt tại Việt Nam đều do các hãng sản xuất, các quốc gia EU riêng biệt tổ chức giới thiệu và phân phối. EU chưa có một kênh phân phối sản phẩm chung cho cả khối nhằm giới thiệu sản phẩm một cách quy mô, thống nhất. EU cũng chưa thành lập được những đầu mối xuất khẩu chính thức sang Việt Nam vì thế nhiều khi cùng một mặt hàng xuất khẩu của EU có giá cả và chế độ bảo hành khác nhau khi chúng được xuất đi từ các nước thành viên khác nhau. Điều đó đã gây ra không ít trở ngại cho các nhà nhập khẩu Việt Nam vốn đã thiếu thông tin. Nhiều trường hợp chúng ta đã phải khảo giá tại cả 15 nước EU trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
EU vẫn xem Việt Nam là nước có nền thương nghiệp quốc doanh khi áp dụng những biện pháp chống bán phá giá
Những định kiến trên đã khiến cho hàng hoá của Việt Nam trở nên bất lợi hơn so với các nước khác. Chẳng hạn, EU lấy giá thành sản phẩm của một nước phát triển làm chuẩn, trong khi giá nhân công và nguyên vật liệu của nước đó lại cao hơn nước ta, do đó hàng Việt Nam trở nên rẻ hơn nhưng lại bị EU cho rằng có sự bảo hộ của nhà nước.
EU vẫn dùng các biện pháp hạn chế nhập khẩu đối với hàng hoá Việt Nam
Trong quan hệ thương mại với Việt Nam, bản thân EU cũng chưa đối xử cởi mở. Tuy EU đã mở rộng cửa đối với hàng hoá Việt Nam sau khi ký kết các Hiệp định, nhưng về mức độ thì EU vẫn dè dặt, chưa thực sự nới lỏng, vẫn dùng hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam có năng lực sản xuất lớn như hàng dệt may.
Mặt khác, EU còn có những yêu cầu không bình đẳng: Việt Nam muốn tăng hạn ngạch thì phải giảm thuế nhập khẩu nguyên vật liệu(dùng trong sản xuất dệt may). Nếu so sánh biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam với các nước đang phát triển ở Châu Á thì mức thuế này chỉ ngang bằng. Việc nhập khẩu nguyên vật liệu từ EU để làm hàng dệt may xuất khẩu trở lại thị trường này tỏ ra là một biên pháp tốn kém, làm giảm giá gia công của Việt Nam.
Một thực tế đáng lo ngại nữa là trên thị trường dệt may đang có sự thay đổi nhanh chóng về mẫu mốt. Áo jacket, mặt hàng chủ lực một thời chiếm tới 50% lượng hàng xuất khẩu sang EU nay tỏ dấu hiệu tiêu thụ châm lại. Năm tháng đầu năm 2000, lượng áo jacket xuất khẩu sang thị trường này giảm khoảng 1 triệu cái, chỉ bằng 60 – 65% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, giá gia công áo jacket cũng giảm 10%.
Không chỉ mặt hàngdệt may bị hạn chế nhập khẩu mà giày dép cũng đang rơi vào tình trạng tương tự do áp lực của một số nước buộc Uỷ ban Châu Âu phỉa thực thi những biên pháp đó trước tìnhtrạng tăng bất thường lượng hàng Việt nam xuất khẩu vào thị trường này. Đã thế, với cả hai mặt hàng dệt may và giày dép EU đều kiểm tra ngặt nghèo về xuất xứ. Ngoài ra, EU còn đánh thuế hai lần với một số mặt hàng nông sản như gạo, sắn lát,...
Trong một thời kỳ dài, theo những biến động của lịch sử, quan hệ thương mại Việt Nam - EU thực sự đã có những chuyển biến quan trọng: từ chỗ không có quan hệ thương mại thực sự đến chỗ chúng ta đã là một bạn hàng khá tin cậy của EU. Sự chuyển biến đó đánh dấu những nỗ lực không ngừng của cả hai bên theo hướng tích cực, phù hợp với xu hướng của thời đại. Hai bên đã đạt được những thành quả tốt đẹp, hứa hẹn nhiều triển vọng trong tương lai. Trong thời gian qua, cả hai bên cũng đã nhận ra những khó khăn còn tồn tại, những thách thức cần giải quyết một cách nghiêm túc sao cho quan hệ đôi bên phát triển lên một mức mới, tương xứng với tiềm năng sẵn có. Làm được điều đó, đòi hỏi cả hai bên phải cùng nhau nỗ lực, tạo cho nhau những điều kiện tốt nhất theo hướng hợp tác hai bên cùng có lợi. Chắc chắn rằng trong tương lai, kết quả quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu sẽ đạt được những tầm cao mới.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN MINH CHÂU ÂU GIAI ĐOẠN 2001 - 2010
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
1. Định hướng phát triển thương mại Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001 –2010 đặt ra mục tiêu trong vòng 10 năm tới GDP sẽ tăng gấp đôi (bình quân hàng năm tăng 7,2 %), giá trị sản lượng tăng khoảng 4%/năm, đến năm 2010 sản lượng lương thực đạt 40 triệu tấn, nông nghiệp chiếm tỷ trọng 16 –17 % GDP, tỷ trọng công nghiệp chiếm 40 – 41% GDP.
Những nhiệm vụ và phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của nươc ta đã được khảng định trong văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục xác định: “ Củng cố vị trí ở các thị trường quen thuộc, khôI phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm kiếm thị trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá mức vào một thị trường. Tạo một số thị trương và bạn hàng lâu dai về những mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu chủ yếu, giảm suất, nhập khẩu qua con đường trung gian ”.
Chiến lược còn dự kiến nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp đôI nhịp độ tăng trưởng GDP, tức là 14,4%/ năm. trong đó nông sản xuất khẩu qua chế biến đạt kim ngạch từ 6 – 7 tỷ USD và năm 2010, lương thực bình quân từ 4 –5 triên tấn/ năm, khoáng sản đạt kim ngạch 3 tỷ USD, sản phẩm công nghiệp chiếm 70 – 80 % tổng kim ngạch xuất khẩu ( các chỉ tiêu này sẽ còn được đIều chỉnh).
1.1. Xuất khẩu.
* Xuất khẩu hàng hoá.
Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001 –2010 là 15%/ năm, trong đó giai đoạn 2001 – 2005 tăng khoảng 16% / năm, giai đoan 2006 – 2010 tăng 14%/ năm. Giá trị tăng từ khoản 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD năm 2005 và 54,6 tỷ USD năm 2010, gấp hơn bốn lần 2000.
* Xuất khẩu dịch vụ.
Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001 – 2010 là 15% / năm. Giá trị tăng từ khoảng 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD năm 2005 và 8,1 tỷ USD năm 2010 tức là gấp 4 lần so với năm 2000.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,5 tỷ USD vào năm 2000 lên 32,4 tỷ USD vào năm 2005 và 63,7 tỷ USD vào năm 2001, tăng lên 4 lần.
1.2. Nhập khẩu.
Do Việy Nam còn đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trình độ phát triển kinh tế còn thấp lên chưa thể xoá bỏ ngay được tình trạng nhập siêu. tuy nhiên cần phảI tiết kiệm ngoại tệ trong nhập khẩu, chỉ nhập các máy móc cần thiết, kìm chễ nhập siêu. Dự kiến nhập khẩu như sau.
* Nhập khẩu hàng hoá:
Tốc độ tăng trưởng bình quân trọng thời kỳ 2001 –2010 là 14 %/ năm, trong đó giai đoạn 2001 –2005 là 15% và giai đoạn 2006 –2010 là 13%/ năm. Giá trị kim ngạch nhập khẩu tăng từ khỏng 14,5 tỷ USD năm 200 lên 29,2 tỷ USD vào năm 2005 và 53,7 tỷ USD năm 2010.
* Nhập khẩu dịch vụ.
Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 – 2010 là 11%/ năm. Giá trị tăng khoản 2,02 tỷ USD năm 2005 và lên 3,4 tỷ USD năm 2010. Tổng kim ngạch nhập hàng hoá và dịch vụ tăng từ 15,7 tỷ USD năm 2000 lên 31,2 tỷ USD năm 2005 và 57,14 tỷ USD năm 2010.
Như vậy ttrong năm năm đầu 2001 –2005 nhập siêu về hàng hoá giảm dần, bình quân 900 triệu USD/ năm và cả thởi kỳ là 4,74 tỷ USD, năm năm tiếp theo 2006 – 2010 nhập siêu tiếp tục giảm. Đến năm 2008 thì cân bằng xuất nhập khẩu hàng hoá, phấn đấu xuất siêu khoảng 1 tỷ USD vào 2010.
1.3. Thị trường xuất nhập khẩu.
* Khu vực Châu á - TháI Bình Dương.
Khu vực này được coi là thị trường trọng đIúm, và thị trường trọng đIểm tại khu vực này sẽ là các nước ASEAN, Trung Quốc,…
* Khu vực Châu Âu.
Tại Tây Âu trong tâm sẽ là các nước: Đức, Anh , Pháp, Italy,.. kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng rất nhanh thời kỳ 1991 đến 1999. Để phát triển hơn nữa xuất khẩu sang EU, phảI đáp ưng đòi hỏi cao về chất lượng và những luật lệ rất phức tạp của EU.
Nhìn chung, nhiều mặt hàng có thể xuất khẩu vào EU, nhưng trong tâm vẫn là hàng dệt may, dầy dép, hảI sản và rau hoa quả…
Qua hệ thương mại với các nước Đông Âu và các nước SNG cần được khôI phục bởi đây là thị trường có nhiêu tiềm năng, Việt Nam cần thay đổi về việc họ “ dễ tính” vì họ đã chuyển đổi cơ chế, quan hệ chính trị với Việt Nam tuy vẫn tốt song không còn như trước. Trong tâm của hàng hoá xuất khẩu sẽ là cau su, chè, thực phẩm chế biến, rau quả và hoá phẩm tiêu dùng,.. Hàng nhập khẩu chủ yếu là thiết bị năng lượng, thiết bị mỏ, hàng quốc phòng, phâm bón,..
* Khu vực Bắc Mỹ.
Trong tâm là thị trương Hoa Kỳ, đây là nước nhập khẩu đứng hàng đầu thế giới với nhu cầu rất đa dạng, nắm những đỉnh cao về khoa học – công nghệ và công nghệ nguồn.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ là hang dệt may, dầy dếp sản phẩm nhựa gỗ và cơ khí.
Tóm lại trong thời tới, bên cạnh việc tiếp tục củng cố và tăng cường chỗ đứng tại các thị trường đã có sẽ là sự có mặt tại thị trường Trung Quốc, Nga, mở ra thị trường Mỹ, Châu Phi. Dự kiến đến năm 2010 tỷ trọng các thị trường xuất khẩu như sau.
Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu
Đơn vị (%)
Thị trường
Tỷ trong 2000
Tỷ trong 2010
Châu á
Nhật Bản
ASEAN
Trung Quốc
Châu Âu
EU
SNG và Đông Âu
Bắc Mỹ (Mỹ)
úC và NEWZELAND
Các khu vực khác
57 – 60
15 – 16
23 – 25
16 –18
26 – 27
21 –22
1,5 –2
5 –6
3- 5
2
45 –50
17 –18
15 – 16
14 – 16
27 – 30
25 –27
3– 5
15 – 20
5 – 7
2-3
Nguồn : Bộ thương Mại – Dự Báo chiến lược phát triển xuất nhập khẩu.
1.4 Cơ cấu mặt hàng.
* Hàng dệt may: Dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng 16%/năm. Dự kiến xuất khẩu vào thị trường EU 40%, Hoa Kỳ 20%, Nhật Bản 20%, các nước Châu á khác 10% và các thị trường khác 10%.
*Giày dép: Tuy có chậm hơn trước nhưng dự báo thời kỳ này xuất khẩu hàng giày dép vẫn là một trong những mặt hàng tăng nhanh nhất, 18,5% trên năm. Dự kiến thị trường xuất khẩu hàng giày dép vào EU 55%, Hoa Kỳ 15%, Nhật Bản 15%, Hàn Quốc 5%,…các thị trường còn lại 5%.
* Hạt tiêu: Việt Nam có sản lượng sản xuất chiếm khoảng trên 10% và xuất khẩu chiếm 15% tổng lượng hạt tiêu buôn bán trên thế giới. Dự báo giá hạt tiêu thế giới tiếp tục tăng, giá trị xuất khẩu hạt tiêu tăng 8,4%/năm.
2. Định hướng quan hệ thương mại Việt Nam EU.
Theo phát biểu của Vụ Đa Biên - Bộ Thượng Mại trên báo thương mại số ra ngày 27 tháng 12 năm 1999, trong thời gian tới quan hệ thương mại Việt Nam EU sẽ được coi trọng và đẩy mạnh theo hướng nhìn nhận EU là một đối tác chiến lược bởi những lý do sau.
Các nước EU lâu nay vần có tháI độ tốt với Việt Nam. Các nước Bắc ÂUSD vẫn luôn luôn viện trợ hào phóng cho Việt Nam, Pháp, một trong hai đầu tầu kinh tế của EU vốn có quan hệ văn hoá lâu đời với Việt Nam lên rất hiểu người Việt Nam. Hiện nay Pháp vẫn chủ trương, đồng thời tích cực hoạt đông để trở lại mối quan hệ thân thiết với Việt Nam trên cơ sơ hàn gắn vết thương chiến tranh và nhin về tương lai.
EU là một trong những khu vực lớn nhất thế giới với hơn 300 triệu dân, sông trên 15 quốc gia tư Bắc xuông Nam châUSD lục, EU đen cho Việt Nam sự đa dạng về nhu cầu và mức sống. Việt Nam có cơ hôI thực thi chính sách đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở khai thác nhiều mảng thị trường.
EU có đầy đủ khẩ năng để trở thành đối trong kinh tế và công nghệ cho Việt Nam. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường EU và nhiều mặt hàng xuất khẩu của EU cũng rất phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đây là ba quan đIểm chính, chỉ đạo đường lối đối ngoại Việt Nam với EU trong thời gian tới. Những quan đIểm này đã được thực tiễn quan hệ Việt Nam - EU kiểm nghiệm và chứng minh tính xác thực
2.1. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá sang EU giai đoạn 2000 - 2004
Trong giai đoạn này, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan (GSP) và chỉ riêng hàng dệt may là bị quản lý bằng hạn ngạch. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này hàng năm gần như phụ thuộc vào hạn ngạch do EU ấn định. Hiện nay, một số mặt hàng của Việt Nam vào EU như giày dép, dệt may và thuỷ sản đang có ưu thế hơn so với các mặt hàng cùng loại của Trung Quốc và các nước ASEAN khác có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam như Thái Lan, Indonesia…vì những mặt hàng xuất khẩu của họ đã bị loại khỏi danh sách hàng hoá được hưởng GSP của EU. Tuy có những lợi thế tương đối so với các đối thủ cạnh tranh nhưng tại thời điểm này Việt Nam đang ở gian đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và với hiện trạng xuất khẩu như hiện nay thì xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2000 - 2004 vẫn tiếp tục phát triển nhưng có tốc độ phát triển không cao.
Do được hưởng ưu đãi về thuế quan nên trong giai đoạn này, quy mô và kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản và các mặt hàng thuộc nhóm 4 sẽ tăng rất nhanh. Còn mặt hàng nông sản, dệt may, giày dép và các mặt hàng khác thuộc nhóm 1 và 2 sẽ tăng chậm lại và đến năm 2003, 2004 sẽ chỉ tăng nhẹ. Trong khi đó, sản phẩm gỗ, nhựa gia dụng, thực phẩm chế biến, sản phẩm điện tử và linh kiện vi tính sẽ có mức tăng trưởng khá vì những mặt hàng này đang được thị trường EU ưa chuộng, nhu cầu nhập khẩu tăng nhanh.
Đây là những năm cuối hàng Việt Nam được hưởng GSP và hạn ngạch của EU nên chúng ta cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi hàng hoá Việt Nam phải đương đầu với tình hình mới. Điều đó đồng nghĩa với chất lượng hàng hoá đi đôi với giá cả cạnh tranh và các dịch vụ hoàn hảo sau khi bán.
2.2 Triển vọng xuất khẩu hàng hoá sang EU giai đoạn 2005 - 2010
Kể từ năm 2005, EU huỷ bỏ hạn ngạch và GSP đối với hàng của các nước đang phát triển khi xuất khẩu vào thị trường EU. Hàng Việt Nam sẽ không còn được hưởng ưu đãi thuế quan như hiện nay và phải cạnh tranh bình đẳng với hàng xuất khẩu của các nước khác đang là đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Thái Lan…
Kim ngạch xuất khẩu của chúng ta chắc chắn sẽ bị giảm sút trong thời kỳ 2005 - 2007: hàng thuỷ sản giảm khoảng 15 - 20%, hàng giày dép giảm khoảng 10 - 15%, hàng dệt may giảm 7 - 10% và kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng thuộc nhóm 3 và 4 cũng sẽ bị giảm mạnh. Chắc chắn trong những năm này chỉ có một vài mặt hàng xuất khẩu mới khai thác có kim ngạch xuất khẩu tăng còn phần lớn các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam sang EU sẽ có tốc độ tăng trưởng kim ngạch âm. Do đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU năm 2005 có thể giảm 20 - 25% so với năm 2004, năm 2006 giảm 10 - 15% so với năm 2005, năm 2007 sẽ chỉ giảm 3 - 5% so với năm 2006.
Thời kỳ 2008 - 2010, các mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam sang EU sẽ lấy lại được thăng bằng và bắt đầu tăng nhẹ. Các mặt hàng xuất khẩu mới khai thác có tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này cũng sẽ lấy lại được sự ổn định và tăng trưởng nhẹ. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 có thể tăng 5 - 7% so với năm 2007, năm 2009 tăng 7 - 10% so với năm 2008, năm 2010 có thể tăng 10 - 15% so với năm 2009.
Giai đoạn 2005 - 2010 là giai đoạn “Hậu GSP” và “Hậu hạn ngạch”. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với hàng hoá Việt Nam trên thị trường rộng lớn đầy tiềm năng. Nếu chúng ta trang bị tốt cho hàng xuất khẩu sang EU ngay từ bây giờ để có thể chiến thắng trong cuộc cạnh tranh khốc liệt thì triển vọng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này sẽ khả quan hơn.
3. Định hướng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang EU giai đoạn 2001 -2010
3.1. Định hướng thị trường xuất khẩu:
đề đạt ra cho việc thực hiện xuất khẩu là mở rộng thị trường đối với từng thành viên của EU hiện nay và cả thành viên sẽ được kết nạp trong tương lai. Trong giai đoạn này chúng ta sẽ tập trung chủ yếu vào các bạn hàng lớn như Anh, Pháp, Đức, Hà Lan,… đồng thời tăng cường mở rộng quan hệ thương mại với các thành viên khác mà chúng ta có thể xuất khẩu các mặt hàng lợi thế.
3.2. Định hướng cơ cấu mặt hàng:
Trong giai đoạn tới những mặt hàng chủ lực của Việt Nam có khả năng xuất khẩu sang EU là dệt may, giày da, thuỷ sản, gạo, chè, than đá,…do có lợi thế về tài nguyên và khả năng sản xuất tốt các mặt hàng này. Cụ thể
1. Hàng dệt may
Bộ Thuơng mại phối hợp với các cơ quan hữu quan rà soát lại cơ chế điều hành xuất khẩu sang EU để có những điều chỉnh phù hợp, tăng cuờng sử dụng hạn ngạch như:
+ Chuyển thêm các mặt hàng sang chế độ cấp giấy phép tự động (không phân bổ hạn ngạch).
+ Đề nghị giảm đồng loạt 50% giá trúng thầu chi tất cả các loại hàng đua ra đấu thầu.
+ Phân bổ tiếp hạn ngạch còn lại, kể cả việc sử dụng truớc 5% hạn ngạch của năm 2002 theo đúng quy chế đã thoả thuận với EU, trong đó uu tiên các doanh nghiệp có thể gia tăng xuất khẩu, thực hiện hết hạn ngạch.
-Chủ động đàm phán với EU về việc tăng hạn ngạch cho Việt Nam, trong truờng hợp EU bãi bỏ hạn ngạch cho các nuớc thành viên WTO theo quy định của Hiệp định ATC.
-Đề nghị Bộ Lao động – Thuơng binh Xã hội cho phép tăng số giờ đuợc phép làm ngoài giờ trong một năm từ 200 giờ lên 400 giờ.
2. Hàng da – giày
Đề nghị Thủ tuớng Chính phủ cho phép đưa ngành này vào diện đuợc huởng hỗ trợ trực tiếp từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Phuơng án hỗ trợ sẽ do Bộ Thuơng mại bàn với các cơ quan hữu quan sau khi khảo sát các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tu nuớc ngoài. Đoàn khảo sát cần đuợc tổ chức ngay trong tháng này để phát hiện những vuớng mắc và bàn các biện pháp tháo gỡ.
3. Thuỷ sản
Để hỗ trợ hơn nữa cho kim ngạch xuất khẩ, cần chủ động đàm phán với EU để bổ sung thêm các doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu vào thị truờng EU, đề nghị EU công nhận thêm các vùng tu hoạch nhuyễn thể và công nhận Việt Nam đã kiểm soát đuợc du luợng các chất độc hại trong thuỷ sản nuôi trồng.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦAVIỆT NAM – EU
Tất cả những giải pháp được đề cập ở đây phần lớn nhằm mục đích thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - EU trong giai đoạn 2001 - 2010. Trong những giai đoạn tiếp theo, khi điều kiện khách quan và chủ quan có thay đổi, những giải pháp này cần được thay thế, sửa đổi, bổ sung,... nhằm đạt được sự hợp lý và hiệu quả cần thiết.
1. Nhóm các giải pháp vĩ mô
1.1. Nâng cao vai trò của cơ quan quản lý
Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là hoạt động xuất nhập khẩu với thị trường EU, Bộ Thương mại cần khẳng định hơn nữa vai trò của mình. Cụ thể, Bộ Thương mại nên làm tốt 5 công tác sau:
*Dự báo và thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp và người sản xuất trong nước biết thị trường cần gì trong năm nay và trong một vài năm tới
Muốn thế, Bộ cần thông qua các đại diện thương mại của EU, hoặc khai thác hiệu quả đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ xuất nhập khẩu, am hiểu thị trường EU, đặc biệt là các thị trường mà Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn như Pháp, Đức, Anh, Italia, Thuỵ Điển, Hà Lan…
* Đàm phán, ký kết các văn bản pháp lý với các nước thành viên EU
Do thị trường EU là thị trường cấp liên minh, nhưng từng quốc gia vẫn có quyền tự quyết riêng, nên Việt Nam không những phải đạt được các thoả thuận với Uỷ ban châu Âu, mà còn phải ký kết được những văn bản với các nước thành viên EU, để hưởng thêm những ưu đãi mà cấp liên minh không cấp cho.
* Giới thiệu cho các doanh nghiệp những nguồn thị trường hấp dẫn trong khối EU
Bộ Thương mại phải xây dựng mạng lưới tham tán thương mại ở các nước thành viên EU, từ đó tạo một web site về thị trường EU để các doanh nghiệp có điều kiện cập nhật thông tin thường xuyên. Ví dụ, một tỷ lệ lớn hàng hoá Việt Nam hàng năm xuất đi EU nhằm vào khu vực thị trường Pháp, Đức, Italia, Anh... Tuy nhiên, một số tham tán thương mại Việt Nam đã có ý kiến rằng trong vài năm gần đây, những nhà nhập khẩu của Thuỵ Điển, Luxembourg bắt đầu quan tâm đến hàng Việt Nam. Với Luxembourg, đây là thị trường nhỏ nhưng thu nhập bình quân đầu người lại cao nhất thế giới. Tiềm năng tiêu thụ của thị trường này rất lớn, phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Bởi lẽ, Việt Nam có thể xin tối đa vốn ODA từ Luxembourg, tuy không nhiều nhưng điều kiện kèm theo lại khá dễ dàng.
* Tổ chức doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm tại các nước thành viên EU
Mỗi năm, EU tổ chức hàng nghìn hội chợ, triển lãm thương mại lớn nhỏ. Tuy nhiên, hội chợ, triển lãm hữu ích mà Bộ Thương mại nên hướng dẫn các doanh nghiệp Việt Nam tham gia là những hội chợ chuyên ngành, như Expo Hannover (thành phố Hannover, CHLB Đức); hội chợ Paris; Europartenariat; Frankfurt.
*Tích cực tạo lập thông tin hai chiều
Bộ Thương mại phải giới thiệu cho doanh nghiệp Việt Nam biết rõ ràng về thị trường Châu Âu, từ hệ thống thuế quan phổ cập, các biện pháp phi hạn ngạch, thủ tục xuất nhập khẩu, tiêu chuẩn chất lượng, giá cả, nhất là các mặt hàng tương tự của các nước trên thị trường EU… và ngược lại thông tin cho khách hàng châu Âu về thị trường, chủng loại, mẫu mã, giá cả hàng hoá Việt Nam có thể xuất khẩu và cả nhu cầu nhập khẩu. Cần huy động các đại diện thương mại tại EU và từng nước thuộc EU tham gia vào cuộc xúc tiến thương mại đa biên và song biên. Trong chừng mực nào đó, có thể giao cho các đại diện chỉ tiêu về xuất khẩu có tính chất hướng dẫn vào một thị trường nào đó của EU, và có chế độ khuyến khích vật chất nếu đem lại hiệu quả. Ngược lại, chắp mối quan hệ trực tiếp giữa cơ quan đại diện thương mại của EU, của từng nước thành viên với cơ quan quản lý, doanh nghiệp Việt Nam để giải toả nhanh một vài mối tắc và mở thêm cơ hội hợp tác.
1.2. Tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu vào EU
Trong những năm tới, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nâng cao kim ngạch thương mại với EU, bởi Trung Quốc đã gia nhập WTO nên sẽ khai thác tối đa tiềm năng tiêu thụ của thị trường EU rộng lớn này. Do đó, để giảm thiểu khó khăn, Nhà nước cần tích cực tìm hiểu những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU, chẳng hạn như:
*Thành lập thí điểm Quỹ xuất khẩu mậu dịch vào EU
Nếu Nhà nước cho phép thành lập thí điểm Quỹ xuất khẩu mậu dịch vào thị trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện hỗ trợ nhau cùng xuất khẩu hàng hoá, không những hỗ trợ về vốn mà còn hỗ trợ cả về kinh nghiệm và thông tin thị trường.
* Sớm thành lập và phát triển Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu và các loại quỹ tín dụng khác
Mục đích thành lập các quỹ này là tạo cơ hội thuận lợi nhất để hỗ trợ các doanh nghiệp trong phát triển sản xuất và kinh doanh thương mại. Ví dụ, Công ty bảo hiểm ngoại thương của Pháp (COFACE) là một loại hình quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, chịu trách nhiệm giúp đỡ các doanh nghiệp Pháp thâm nhập thị trường mới và bồi thường rủi ro nếu các doanh nghiệp này thâm nhập thị trường không thành công.
1.3 Kêu gọi hỗ trợ tài chính từ các nước thành viên EU
Như trên đã phân tích, EU có tiềm lực vốn rất mạnh và các doanh nghiệp EU rất muốn làm ăn với Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại có quy mô vừa và nhỏ nên khả năng vốn rất yếu. Do vậy, Nhà nước cần tích cực hợp tác với EU để đạt được những hỗ trợ tài chính cần thiết. Hiện nay, Việt Nam đã đạt được một thoả thuận với Đức, theo đó Đức sẽ tài trợ gần 50% kinh phí cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam tham dự hội chợ tìm kiếm thị trường ở Đức. Trong tương lai, nước ta cần tiếp tục thương lượng với các quốc gia thành viên khác để đạt được những hỗ trợ tài chính tương tự. Bởi lẽ, theo Uỷ ban châu Âu tại Hà Nội, do các doanh nghiệp châu Âu rất muốn làm ăn với Việt Nam nên Phòng Thương mại và Công nghiệp các nước thành viên sẵn sàng thương lượng để tiến hành những giúp đỡ tài chính cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam.
1.4. Hợp tác với EU chống gian lận thương mại, giữ uy tín hàng hoá Việt Nam
Hiện nay, EU đang áp dụng hệ thống kiểm tra kép đối với mặt hàng giày dép nhập khẩu từ Việt Nam. Điều này đã gây nhiều rắc rối cho các cơ quan chức năng Việt Nam (điển hình là Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan) và các doanh nghiệp Việt Nam khi buộc phải hoàn thành thêm một thủ tục hành chính nữa mới được xuất hàng. Do đó, để đảm bảo quyền lợi cho EU, đồng thời tránh mất uy tín cho Việt Nam, nên nước ta cần hợp tác với EU chống gian lận thương mại. Cụ thể, Nhà nước nên đề nghị EU gộp chứng thư xuất nhập khẩu với C/O form A và cam kết sẽ cung cấp thường xuyên và trực tiếp cho cơ quan có thẩm quyền của EU những thông số của giấy chứng nhận xuất xứ do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cấp, để cơ quan hữu trách đối chiếu với C/O do nhà nhập khẩu xuất trình.
Bên cạnh đó, nước ta vẫn cần phải tiến hành suôn sẻ việc cấp giấy chứng nhận xuất khẩu (E/C), giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) đối với hàng dệt may, giày dép, ngăn chặn việc lập chứng thư giả về hạn ngạch, nhằm giữ uy tín hàng Việt Nam.
1.5. Đấu thầu hạn ngạch, tiến tới bán hạn ngạch
Hiện nay, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được bán sang thị trường EU thông qua hình thức Nhà nước chính sách thưởng hạn ngạch cho các doanh nghiệp xuất khẩu có kết quả kinh doanh tốt. Tuy nhiên, cơ chế này nảy sinh không ít tiêu cực, làm ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá và uy tín doanh nghiệp xuất khẩu trên thị trường EU. Do đó, Việt Nam nên sử dụng hiệu quả hạn ngạch mà EU cấp theo hướng tạo dựng một cơ chế cụ thể về đấu thầu hạn ngạch, theo đó các doanh nghiệp phải chứng minh ưu thế cạnh tranh thì mới có thể đạt được nhiều hạn ngạch. Chẳng những thế, trong tương lai, nước ta nên áp dụng cơ chế bán hạn ngạch, để các doanh nghiệp thực sự có nhu cầu xuất khẩu vào thị trường EU có thể mua hạn ngạch tuỳ theo mức độ cần thiết.
1.6. Xác định “cầu nối” với EU
Trên cơ sở lý luận, ta thấy rằng Pháp sẽ là cầu nối lý tưởng giữa Việt Nam và EU vì những nguyên nhân sau:
Pháp có tiềm năng kinh tế và ảnh hưởng lớn trên thương trường quốc tế. Hiện tại, Pháp là cường quốc kinh tế lớn thứ tư trên thế giới, và một trong hai đầu tầu kinh tế của EU (Đức và Pháp).
Pháp có mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam từ nhiều thập kỷ nay. Ngay sau chiến tranh, thống nhất đất nước, Pháp là quốc gia phương Tây duy nhất vẫn giữ quan hệ với Việt Nam, viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam. Hiện nay, Pháp vẫn tích cực trở lại và hợp tác với nước ta trên mọi mặt, nhất là văn hoá và kinh tế.
1.7. Nâng cao vai trò của Nhà nước để san bằng khoảng cách chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu
Đây là giải pháp then chốt. Nhà nước cần tiếp tục công khai và luật hoá những chủ trương, chính sách, cải tiến cơ chế xuất nhập khẩu, không phải chỉ ở định hướng mà phải chú trọng cả những hoạt động nghiệp vụ mang tính thủ tục hành chính thuần tuý, tránh gây nản lòng cho đối tác.
Mặt khác, nên có phương sách cụ thể về nhập khẩu đối với thị trường EU để san lấp xuất siêu như đã nói trên. Máy móc, thiết bị của thị trường EU rất tân tiến, và trong một số lĩnh vực như dệt may, giày dép, đồ nhựa, người dân Việt Nam có thể tiếp nhận chuyển giao công nghệ được. Và lẽ thường tình là muốn có sản phẩm đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu vào khu vực EU, thì chúng ta phải nhập khẩu trang trí thiết bị, quy trình công nghệ, bản quyền sáng chế… từ thị trường này. Bên cạnh đó, trong cân đối khung, Nhà nước nên tạo điều kiện ngang bằng để hàng tiêu dùng châu Âu vào được thị trường Việt Nam, như thế sẽ góp phần nâng cao sản xuất và thị hiếu của người Việt Nam. Hơn nữa, hàng hoá nhập chính thức sẽ là đối trọng với hàng của các nước khác đang ùa vào Việt Nam từ các ngả, nhất là đường buôn lậu.
1.8 Hoàn thiện chính sách thương mại theo hướng phù hợp với xu thế thương mại quốc tế
Hợp tác thương mại với EU có nghĩa là tham gia vào thị trường thế giới. Để đảm bảo quyền lợi của bạn hàng, từ đó hoà nhập vào xu thế tự do hoá thương mại, Việt Nam cần hoàn thiện chính sách thương mại cho phù hợp. Trên cơ sở phân tích những khó khăn, thách thức hoạt động nhập khẩu từ EU, chúng tôi mạnh dạn đề nghị các giải pháp sau:
* Đơn giản hoá các mức thuế xuất, nhập khẩu, tiến tới bãi bỏ thuế xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu, giảm dần thuế suất thuế nhập khẩu, giảm số lượng mức thuế suất thuế nhập khẩu, mở rộng khoảng cách giữa các mức thuế. Trong tương lai, biểu thuế nên quy định theo 8 mức: 0%, 3%, 5%, 10%, 20% 30%, 40% và mức thuế cao nhất là 50%.
* Tiến hành thực hiện Hiệp định xác định giá trị hải quan theo quy định của GATT/WTO. Giá tính thuế nhập khẩu nên xác định trên cơ sở hợp đồng ngoại thương.
* Về các biện pháp phi thuế quan:
Trong thời gian trước mắt, cần chuẩn bị điều kiện để tiến tới thực hiện đấu thầu hạn ngạch nhập khẩu và bán hạn ngạch nhập khẩu một cách công khai. Việc quy định các mặt hàng cấm nhập khẩu cần có cân nhắc cẩn thận, tránh gây ra các tác động tiêu cực như buôn lậu, trốn thuế. Việc tài trợ xuất khẩu cần xác định rõ mục đích, phương hướng và cơ chế bảo đảm, tránh tình trạng các doanh nghiệp ỷ lại, trì trệ và không cố gắng cải thiện tình hình, vươn ra thị trường thế giới. Xét về chuẩn mực quốc tế, biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ sản xuất trong nước không được WTO chấp thuận. Vì vậy, về lâu dài chúng ta cần xem xét để có thể bãi bỏ các biện pháp này và tiến hành thuế hoá các biện pháp phi thuế quan phù hợp với quy định của WTO.
*Về thể chế thương mại
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, quy định về quản lý thương mại, chủ động phê chuẩn các công ước quốc tế và ký kết các hiệp định thương mại với các nước để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần tăng cường hiệu lực thực hiện các quy định pháp luật về thương mại, bảo đảm thực hiện nghiêm minh, hạn chế mức cao nhất những vi phạm pháp luật thương mại.
2. Nhóm giải pháp vi mô
2.1. Đầu tư cho công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá
Tiêu chí phấn đấu của chúng ta là chất lượng tiêu chuẩn châu Âu, giá cả có khả năng cạnh tranh và phương thức kinh doanh linh hoạt. Muốn vậy, không có cách nào khác là phải nhanh chóng nâng cấp, trang bị công nghệ mới. Việc 18 xí nghiệp chế biến hải sản của Việt Nam đã giành được quyền xuất khẩu vào thị trường EU nhờ đầu tư mạnh và kiểm định chất lượng khắt khe đã chứng minh cho đề xuất này.
Để xâm nhập vào một thị trường khó tính như EU, các doanh nghiệp Việt Nam cần tranh thủ tối đa nguồn vốn hỗ trợ của EU cũng như gọi vốn từ các nguồn khác (Nhà nước, ngân hàng). Hiện nay, các tổ chức thương mại của EU đều có chính sách hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam để nhập khẩu máy móc, công nghệ từ EU. Muốn xin được tài trợ, các doanh nghiệp Việt Nam cần có dự án sản xuất cụ thể, và gửi tới các tổ chức thương mại của EU như Qũy đầu tư châu á, Phái đoàn đại diện ECC, Hội đồng thương mại châu Âu, các phòng Thương mại và Công nghiệp của Đức, Pháp, Thuỵ Điển, Italia, Hà Lan… tại Việt Nam.
2.2. Đảm bảo thực hiện các điều khoản hợp đồng
Thị trường EU kiểm tra chất lượng sản phẩm rất nghiêm ngặt, nên tốt nhất là doanh nghiệp Việt Nam phải thông qua một công ty kiểm định chất lượng có uy tín của châu Âu. Ngoài ra, doanh nghiệp cần ký kết hợp đồng vận chuyển với một đơn vị vận chuyển có uy tín. Bởi sản phẩm giao không đúng chất lượng theo hàng mẫu, không bảo đảm thời gian giao hàng đều sẽ bị đối tác phạt không nhân nhượng. Và chỉ một lần phạt thôi sẽ dẫn đến nguy cơ mất khách vì hiện nay, không chỉ có Việt Nam mà còn rất nhiều công ty của các nước khác như Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc.. cũng đang tấn công mạnh vào thị trường này với chất lượng sản phẩm rất cạnh tranh.
2.3 Tạo lập quan hệ với các kênh phân phối chủ đạo của EU
Phân phối hàng hoá là một khâu quan trọng trong chính sách marketing hỗn hợp. Do vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam nên tìm hiểu các kênh phân phối của EU để có thể xuất khẩu trực tiếp hàng hoá vào thị trường này. Chẳng hạn, các mặt hàng thiết yếu thường được chi phối bởi những nhà nhập khẩu và phân phối như ICA với 35% thị phần chuyên bán lẻ, KF với 20% thị phần chuyên cung cấp từ các hợp tác xã. Với mỗi loại sản phẩm khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tìm đến các nhà nhập khẩu khác nhau của EU.
2.4. Nghiên cứu kỹ thị trường
Thị trường EU rất đa dạng và phức tạp. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp của Việt Nam cần nghiên cứu kỹ thị trường này trước khi xuất hàng, để tránh những rủi ro dẫn đến giảm sút doanh thu và mất uy tín doanh nghiệp.
Một trong những điểm mà các doanh nghiệp nước ta nên chú ý là biểu thuế nhập khẩu của EU. Hiện nay, EU đang áp dụng một số ưu đãi thuế với hàng hoá nhập khẩu từ Việt Nam, với các mức từ 15% đến 25%. EU có các biểu thuế nhập khẩu chung áp dụng cho tất cả các hàng hoá nhập khẩu vào thị trường các nước thành viên EU. Thuế sẽ áp trên từng tên gọi mặt hàng. Do vậy, doanh nghiệp cần chú ý để một mặt hàng khỏi phải đóng nhiều loại thuế. Bên cạnh đó, trước khi xuất hàng đi, doanh nghiệp có thể đàm phán với các cơ quan chức năng về mức thuế suất.
Khi đã xâm nhập thị trường, doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý cập nhật các thông tin về thị trường, nhất là việc áp mã thuế. Một doanh nghiệp Việt Nam chuyên xuất bánh tráng sang EU cho biết, nếu họ để tên bằng tiếng Anh trên hoá đơn thì phải chịu thuế suất 100%, còn để bằng tiếng Pháp thì chỉ chịu 70%. Ông Marc Villard, Chủ tịch Phòng thương mại và Công nghiệp Pháp tại Việt Nam giải thích: “Thị trường EU tuy thống nhất nhưng mỗi nước thành viên EU vẫn có thể có quy định riêng. Doanh nghiệp Việt Nam cần tham khảo thông tin về thuế và biểu thuế trước khi xuất hàng. Nếu thấy có bất hợp lý thì có thể thương lượng với hải quan trước khi xuất hàng”.
2.5. Tận dụng thông tin từ nhiều phía
Các doanh nghiệp Việt Nam cần nhận biết rằng, thông tin là một hàng hoá có giá trị đối với mọi hoạt động nghiên cứu, tìm kiếm thị trường và đối tác. Do đó, doanh nghiệp cần năng động khai thác thông tin từ nhiều phía.
Về phía Việt Nam, triển vọng hợp tác của Việt Nam với EU có thể được các doanh nghiệp xem xét tại Cục xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại), Trung tâm nghiên cứu châu Âu, phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam. Về phía EU, các doanh nghiệp có thể yêu cầu tra cứu danh sách các doanh nghiệp kinh doanh tốt, nhu cầu thị trường EU, các sản phẩm cạnh tranh với Việt Nam… tại Phòng Thương mại và Công nghiệp các nước thành viên EU tại Việt Nam, và đặc biệt tại Phòng Thương mại EU tại Hà Nội. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng có thể tìm hiểu thông tin qua các web site trên internet, catalogues và những bài bình luận trên các tạp chí kinh tế của EU.
2.6. Khuyếch trương sản phẩm tại các hội chợ thương mại ở châu Âu
Điều đáng nói hiện nay là nhận thức chưa đúng của các doanh nghiệp Việt Nam về việc tham gia hội chợ triển lãm. Nhiều doanh nghiệp còn coi hội chợ là nơi chủ yếu để bán hàng. Thậm chí, có những doanh nghiệp còn từ chối những hội chợ ở nước ngoài - nơi họ có thể tìm kiếm các hợp đồng và khuyếch trương sản phẩm.
Trong tương lai, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam cần tin tưởng rằng, hội chợ triển lãm là một phần quan trọng của xúc tiến thương mại, giúp các doanh nghiệp có thể hội nhập vào thị trường quốc tế mà không cần trông vào sự bảo hộ của Nhà nước. Riêng đối với thị trường EU, các doanh nghiệp càng nên tích cực tham gia vào những kỳ hội chợ triển lãm tổ chức tại các nước thành viên EU để giới thiệu sản phẩm và thiết lập mối quan hệ trực tiếp với bạn hàng, từ đó tránh thất thiệt khi xuất khẩu qua trung gian.
Tuy nhiên, hàng năm EU có hàng chục ngàn hội chợ triển lãm lớn nhỏ khác nhau trên tất cả 15 quốc gia thành viên. Do khả năng tài chính có hạn, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ nên tham gia những hội chợ triển lãm chuyên ngành, có quy mô lớn và có chọn lọc khách mời. Từ đó, doanh nghiệp mới có thể giảm thiểu chi phí mà vẫn đạt được hiệu quả kinh tế cao.
Một trong những hội chợ thích hợp nhất với các doanh nghiệp Việt Nam, cả về tính chất lẫn quy mô, là hội chợ Frankfurt, được tổ chức tại thành phố Frankfurt của Đức. Hội chợ này chỉ triển lãm, giới thiệu những hàng gia dụng, tiêu dùng và lưu niệm nên rất phù hợp với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam.
2.7. Không dựa mãi vào mặt hàng sẵn có
Một trong những khó khăn, thách thức hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU là cơ cấu nhập khẩu của thị trường này có những thay đổi mạnh trong vài năm trở lại đây. Trước tình hình này, doanh nghiệp Việt Nam cần có chính sách đa dạng hoá sản phẩm, theo đó doanh nghiệp phải tích cực đầu tư sản xuất vào những mặt hàng mà thị trường cần chứ không chỉ là những mặt hàng doanh nghiệp có. Bởi lẽ, nếu nhu cầu thị trường giảm xuống, không nhập khẩu gì hết, thì doanh nghiệp sẽ đứng trước tình trạng không trả nổi lương cho công nhân và buộc phải kêu cứu Nhà nước.
Sau nghi nghiên cứu thị trường EU, ta nhận thấy các doanh nghiệp Việt Nam không thể mãi mãi dựa vào mặt hàng truyền thống như dầu lửa, gạo, cà phê, dệt may, giày dép. Cần phải nhanh chóng chuyển sang những mặt hàng nông sản chế biến, hàng công nghiệp chế tạo. Ví dụ, một mặt hàng có triển vọng đặc biệt là thủy sản chế biến do nhu cầu thị trường EU còn lớn, nhưng tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam chưa nhiều do hạn chế về chất lượng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần xem xét khả năng xuất khẩu hàng điện tử phần mềm vi tính và hàng thủ công mỹ nghệ. Theo báo cáo của Viện nghiên cứu tiêu dùng Liên bang Đức thì nhu cầu tiêu thụ quà tặng của nước này ngày càng tăng. Những mặt hàng mỹ nghệ của Việt Nam chắc chắn sẽ gây không ít ngạc nhiên cho các khách hàng phương Tây. Bên cạnh đó, Đức, Pháp, Bỉ, Thuỵ Điển, Hà Lan và một số nước thành viên khác của EU mới đây đã báo động tình trạng thiếu kỹ sư tin học và các sản phẩm tin học, nên bắt đầu khuyến khích nhập khẩu lao động và sản phẩm tin học từ nước ngoài, Ấn Độ, Đài Loan, Malaysia đang mở rộng xuất khẩu mặt hàng này với giá thấp hơn nhiều so với Châu Âu. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam bắt kịp xu hướng này, thì chắc chắn sẽ nâng cao được kim ngạch xuất khẩu.
2.8. Tăng cường áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
Nói một cách khái quát, ISO 9000 là tập hợp một cách có hệ thống những kinh nghiệm quản lý chất lượng tốt nhất do Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế ISO đặt ra. Nó có tác dụng giúp các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản lý nhằm đạt được các mục tiêu tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm lãng phí và tỷ lệ phế phẩm để duy trì một dạng sản phẩm luôn có chất lượng đồng nhất và phấn đấu hạ giá thành..
Hiện nay, "vấn đề chất lượng" nổi lên như là một trong những yếu tố quan trọng nhất của thương mại và công nghiệp. Càng ngày, khách hàng EU nói riêng và khách hàng trên khắp thế giới nói chung càng có yêu cầu lớn đối với các nhà cung cấp như đảm bảo chất lượng hàng hoá và dịch vụ, chấp hành đầy đủ và nhanh chóng các điều kiện khác trong hợp đồng như thời hạn cung cấp, thái độ phục vụ v.v... Thông thường, khách hàng không chỉ muốn có được sản phẩm thích hợp với khả năng thanh toán của họ mà còn muốn các yêu cầu của họ phải được giải quyết một cách nhanh chóng. Vì vậy đối với một số sản phẩm xuất khẩu, việc chứng nhận phù hợp ISO 9000 gần như là một yêu cầu bắt buộc, là một trong những điều kiện giúp sản phẩm Việt Nam thâm nhập vào những thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản; tạo lợi thế và uy tín trong cạnh tranh thương mại quốc tế.
ISO 14000 là Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường, được xây dựng trên cơ sở thoả thuận quốc tế bao gồm các yêu cầu đối với các yếu tố cơ bản có thể điều chỉnh được để thiết lập nên Hệ thống quản lý môi trường có khả năng cải thiện môi trường một cách liên tục tại các tổ chức cơ sở.
Cũng như Bộ tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000 là bộ tiêu chuẩn quốc tế về quản lý (đối tượng quản lý của ISO 9000 là chất lượng, còn của ISO 14000 là môi trường). Ở các quốc gia đã có sức ép mạnh về yêu cầu bảo vệ môi trường như Hoa Kỳ, Canada, các nước EU, Nhật Bản,... Vì vậy, có thể nói rằng ISO 14000 cũng chính là một chìa khoá giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở cánh cửa vào thị trường EU. Bởi vì các sản phẩm có chất lượng cao nhưng quá trình sản xuất không đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường thì cũng không được nhập khẩu vào thị trường EU theo quy định của Uỷ ban Châu Âu (ECC) hoặc bị người tiêu dùng EU tẩy chay (cụ thể là mặt hàng đồ gỗ của Việt Nam đang bị người tiêu dùng Anh tẩy chay).
3. Nhóm giải pháp liên quan đến đồng EURO
Các nước thành viên EU đã sáng tạo ra đồng EURO nhằm lập thế cân bằng với đồng đô la Mỹ và đồng yên Nhật Bản, tránh xu hướng đô la hoá trên toàn thế giới. Do đó, khi đồng EURO chính thức có mặt trong lưu thông tiền tệ, thì các doanh nghiệp EU đương nhiên sẽ yêu cầu các đối tác phải sử dụng EURO như một đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán hợp đồng thương mại quốc tế. Do vậy Việt Nam cần:
3.1. Nhanh chóng chấp nhận sử dụng EURO trong thanh toán quốc tế
Chấp nhập sử dụng đồng EURO ngay sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam:
Sớm có điều kiện làm quen với đồng EURO - một ngoại tệ mạnh của thế giới, từ đó, nhanh chóng tìm được những lợi thế của đồng EURO và biết cách khai thác đồng tiền này theo hướng phục vụ cho lợi ích của mình.
Dễ tiếp cận với các đối tác sử dụng EURO từ ngày 01.01.1999 và thiết lập quan hệ buôn bán trực tiếp với họ trên cơ sở sử dụng EURO như một đơn vị tính toán và một phương tiện thanh toán.
Tránh được các hiện tượng tụt hậu về nhận thức dẫn đến lúng túng khi bắt buộc phải sử dụng EURO trong các quan hệ thương mại tài chính nợ với các đối tác EURO và các nước sử dụng EURO.
Các doanh nghiệp nước ta nên xem xét áp dụng một số biện pháp như thu thập thông tin đầy đủ về đồng EURO: cơ quan Nhà nước hoặc bản thân các doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm thông tin về đồng EURO ở Trung tâm nghiên cứu châu Âu, Trung tâm thông tin kinh doanh Châu Âu, Phái đoàn đại diện EC tại Hà Nội, các Web site về EU và EURO trên mạng intemet. Bên cạnh đó, cũng có thể tổ chức thêm những buổi thuyết trình, thảo luận về vai trò của đồng EURO trên thế giới và sự tác động của nó đến ngoại thương Việt Nam - EU.
3.2. Thiết lập nền móng EURO trong ngoại thương Việt Nam với EU
Nước ta cần xác định tỷ trọng sử dụng EURO như một đồng tiền tính toán và thanh toán trong các giao dịch buôn bán với EU và với các nước khác. Xác định một tỷ lệ thích hợp, nước ta sẽ giảm thiểu những rủi ro hối đoái khi còn sử dụng đồng đô la Mỹ trong thanh toán ngoại thương.
3.3. Điều chỉnh luật và các nghị định về quản lý ngoại hối nhằm cho phép sử dụng EURO trong các giao dịch quốc tế
Điều quan trọng là Nhà nước sẽ cần công nhận chính thức sự có mặt của đồng tiền này trong lưu thông ngoại hối ở Việt Nam. Nước ta nên cho phép đồng EURO được niêm yết và buôn bán rộng rãi ở trong nước như các đồng tiền có khả năng chuyển đổi khác (USD, JPY, FRF, DEM,…)
3.4. Xem xét thành phần dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước
Nhằm đa dạng hoá tiền tệ trong mối quan hệ kinh tế quốc tế hiện tại và tương lai, việc hình thành đồng EURO trong các khoản dự trữ của Ngân hàng Nhà nước nên được điều chỉnh tương ứng với những tỷ lệ dự trữ bằng các ngoại tệ khác. Ví như Trung Quốc, ngay trước sự ra đời của đồng EURO, nước này đã tuyên bố nâng dự trữ đồng EURO lên mức 40% dự trữ ngoại tệ (tương đương với USD, các đồng tiền khác chiếm 20%), trên cơ sở đề cao vai trò của EU trong chiếm lược phát triển ngoại thương của đất nước. Hiện nay, EU là đối tác thương mại lớn thứ ba của Trung Quốc (sau Hoa Kỳ và Nhật Bản), kim ngạch ngoại thương của hai bên hàng năm đạt khoảng 45 tỷ USD.
Đối với Việt Nam, EU cũng đã trở thành một khu vực thị trường quan trọng. Kim ngạch ngoại thương của Việt Nam với cả 15 quốc gia thành viên EU chỉ sau kim ngạch ngoại thương với Nhật Bản. Do đó, để góp phần đưa quan hệ thương mại này lên một bước phát triển mới khi đồng EURO ra đời, Ngân hàng Nhà nước cần có tỷ lệ dự trữ đồng EURO thích hợp để có thể cung cấp ngoại tệ kịp thời cho ngoại thương. Trên cơ sở theo dõi động thái của đồng EURO từ gần một năm nay và nghiên cứu mối quan hệ ngoại thương Việt Nam - EU trong tương quan so sánh với các nước khác (điển hình là Trung Quốc), chúng tôi mạnh dạn đề nghị tỷ lệ dự trữ EURO là 25% trong tổng dự trữ ngoại tệ quốc gia.
3.5. Xem xét việc lập tỷ giá chuẩn cho rổ tiền tệ và điều chỉnh tỷ giá VND/EUR linh hoạt, căn cứ vào nhiều ngoại tệ
Sự ưa chuộng đồng đô la trong nhiều quan hệ mua bán của các doanh nghiệp Việt Nam với EU sẽ dẫn đến những rủi ro không lường trước. Ví dụ, việc giảm giá đột ngột đồng đô la sẽ khiến đồng Việt Nam lên giá cao hơn so với đồng EURO; từ đó khiến các hàng hoá của Việt Nam kém sức cạnh tranh hơn trên thị trường EU.
Việc dùng EURO làm chuẩn trong rổ tiền tệ sẽ làm giảm bớt sự biến động trong tỷ giá qua lại giữa Việt Nam và các nước thuộc khu vực này. Do vậy, cơ chế tỷ giá thả nổi VND/EUR có sự kiểm soát linh hoạt của Nhà nước, gắn với các ngoại tệ mạnh, có nhiều quan hệ với Việt Nam như USD, JPY, FRF,… là một hướng nghiên cứu nghiêm túc.
Nếu những biện pháp trên được áp dụng, ta có thể hình dung tương lai sử dụng đồng EURO trong quan hệ ngoại thương Việt Nam - EU như sau:
Trong buôn bán và hợp tác với EU, đồng EURO chiếm khoảng 15%.
Trong cơ cấu dự trữ ngoại tệ (hiện nay không đáng kể và thấp xa so với mức báo động quốc tế), đồng USD chiếm khoảng 50%, đồng EURO chiếm khoảng 25%, còn lại là đồng JPY và các đồng tiền khác.
Tóm lại, những giải pháp liên quan đến đồng EURO trên đây chủ yếu là những giải pháp mang tính kỹ thuật. Tuỳ theo hoàn cảnh thực tế và biến động trên thị trường tiền tệ thế giới mà chúng ta cần có những thay đổi cho phù hợp, tránh việc áp dụng một cách máy móc, cứng nhắc.
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh quan hệ thương mại Việt Nam - EU được xây dựng trên cơ sở đã phân tích những khó khăn tồn tại trong mối quan hệ song phương và xem xét hoàn cảnh cụ thể của hai bên hiện nay. Triển vọng về một mối quan hệ thương mại sâu rộng, vững chắc phụ thuộc vào đường lối, chính sách của cả hai bên. Đối với Việt Nam, đó chính là những định hướng dài hạn trong chính sách phát triển ngoại thương, chính sách phát triển và ổn định thị trường cũng như những phương sách cụ thể nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho các doanh nghiệp có thể thâm nhập vào EU và trụ vững trên thị trường này.
KẾT LUẬN
Quan hệ thương mại Việt Nam - EU trong những năm vừa qua phát triển rất mạnh nhờ những chiến lược rõ ràng của cả hai bên. Đối với EU thì chủ yếu đó là cái nhìn về chính trị và kinh tế đúng đắn hơn đối với châu Á - khu vực kinh tế năng động và có những biến chuyển thần kỳ - trong đó có Việt Nam. Còn đối với Việt Nam thì đó là chiến lược thúc đẩy quan hệ thương mại với tất cả các nước, đặc biệt là tham vọng đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu sang thị trường EU rộng lớn.
Xét thấy trong thời gian qua, nền kinh tế đất nước có phần chững lại, tiêu dùng nội địa giảm sút, nhưng hoạt động ngoại thương liên tục tăng trưởng vững vàng mà ở đó có một phần lớn sự đóng góp của thị trường EU nên Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá. Vì vậy, có thể nhận định một cách chắc chắn rằng, chính sách đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu và quan hệ thương mại với EU là một quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Tuy nhiên, trong hoạt động xuất nhập khẩu với thị trường này còn chưa có sự biến chuyển về chất, do những khó khăn tồn tại cố hữu, hay những khó khăn mới nảy sinh do tình hình mới. Tiêu biểu như việc EU còn áp dụng hạn ngạch với mặt hàng dệt may, thực thi chế độ kiểm tra chéo với mặt hàng giày dép, đánh thuế 100% vào mặt hàng gạo, hoặc những hạn chế về vốn và thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam...Tất cả đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiến sâu, tiến chắc vào thị trường này.
Trước tình hình đó, nhiều chính sách của nhà nước đã được ban hành nhằm góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - EU. Trên phương diện lý thuyết và trong một khuôn khổ có hạn mạnh dạn đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại và khó khăn, nhằm đóng góp một phần nhỏ bé vào việc mở rộng và đẩy mạnh thương mại Việt Nam trong giai đoạn mới. Các giải pháp trước hết tập trung vào việc nâng cao hơn nữa kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường EU như nâng cao vai trò của cơ quan quản trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp, kêu gọi bản thân các doanh nghiệp cũng phải cố gắng rất nhiều để tạo dựng uy tín và giữ bạn hàng. Ngoài ra, đứng trước việc đồng EURO chính thức trở thành đồng tiền duy nhất của châu Âu dể đưa ra các đề xuất nhằm có thể thích ứng đồng tiền này trong giao dịch thương mại với các nước thành viên EU và một số nước khác. Hy vọng rằng, những đề xuất và kiến nghị này sẽ góp phần vào việc hiện thực hoá chiến lược tăng cường quan hệ thương mại Việt Nam - EU nói riêng cũng như thúc đẩy thương mại Việt Nam nói chung tiến bộ cả về lượng và chất trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ vô cùng quý báu của TS. Phạm Duy Liên giáo viên hướng dẫn, cùng các cán bộ trong Xí nghiệp và tập thể giáo viên trong khoa đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình tiến hành nghiên cứu đề tài này.
Vì thời gian và điều kiện hạn chế, việc đi sâu đi sát thực tế nhằm tìm ra hướng giải quyết thoả đáng cho vấn đề còn gặp nhiều khó khăn nên chắc chắn chuyên đề nghiên cứu của em còn nhiều hạn chế. Em hy vọng rằng sẽ có điều kiện trở lại nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này trong thời gian tới. Rất mong sẽ nhận được ý kiến đóng góp của các cơ quan ban ngành, các thầy cô giáo và các bạn để đề tài nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế Quốc tế - ĐHKTQD
2. Giáo trình kinh tế phát triển - ĐHKTQD
3. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu năm 1999, 2000, 2001
4. Tạp chí kinh tế phát triển ĐHKTQD
5. Tạp chí Thương Mại
6. Luận văn Khoá 39 - 40
7. Thúc đẩy quan hệ Thương mại Việt Nam - EU
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC1138.doc