Mặt khác cũng xem xét tình hình hoạt động của Ngân hàng thương mại Việt Nam, đồng thời đi sâu vào đánh giá tình hình quản lý nguồn vốn ở Việt Nam. Thông qua chuyên đề này tôi đã hiểu thêm về phương thức hoạt động của NH, đồng thời hiểu được vài trò tầm quan trọng của công tác quản lý nguồn vốn. Đó là nội dung quan trọng đánh giá và là cơ sở để tăng hiệu quả hoạt động của Ngân hàng
33 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề trong quản lý nguồn vốn của các ngân hàng thương mại nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á các nguồn tìm kiếm làm tăng tỷ phần khác nhau trong cơ cấu vốn. Mục đích làm tăng nguồn vốn từ các nguồn khác nhau. Mặt khác nó là một công cụ để quản lý hiệu quả nguồn vốn như giảm chi phí trả lãi. Đồng thời lại là yếu tố làm giảm rủi ro, phân tán rủi ro đáp ứng nhu cầu về tính thanh khoản và an toàn sử dụng vốn.
Một yếu tố cũng rất là quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của Ngân Hàng. Yếu tố cốt lõi của công tác quản lý để tăng hiệu quả hoạt động phải dựa trên cơ sở ổn định về nguồn vốn. Việc ổn định này không chỉ là nhân tố tác động hiệu quả sử dụng nguồn vốn mà còn là cơ sở bảo đảm khả năng thanh toán giảm rủi ro.
Tìm kiếm các công cụ nợ mới nhằm phát triển thị trường nợ của Ngân Hàng. Việc phát hành, tìm kiếm các công cụ mới với mục đích mở rộng quy mô vay vốn trên thị trường liên Ngân Hàng…Việc mở rộng thì trường nợ của Ngân Hàng làm lượng vốn huy động tăng lên, khả năng cho vay tăng, và thu được lợi nhuận cao nhưng vẫn đảm bảo tỉ lệ thanh toán.
A.3. Các nội dung chính của hoạt động quản lý nghiệp vụ trong Ngân Hàng thương mại.
Trong hoạt động của Ngân Hàng việc quản lý nguồn vốn rất phức tạp bởi vai trò của nó làm cơ sở cho các hoạt động cho vay, thanh toán…quản lý hoạt động. Xem xét về tình hình hoạt động thì phần lớn các khoản nợ của Ngân Hàng liên quan tới chi phí trả lãi. Chi phí trả lãi là toàn bộ chi phí lớn nhất đối với Ngân Hàng vì vậy mà nó ảnh hưởng quyết định đến với thu nhập của Ngân Hàng. Chi phí trả lãi bị tác động trực tiếp bởi các yếu tố về quy mô nguồn vốn và cơ cấu vốn, lãi suất.
3.1. Quản lý về quy mô và cơ cấu nguồn vốn.
Đây là nội dung đầu tiên trong quản lý các khoản nợ là quản lý quy mô cơ cấu lãi suất các khoản nợ và gửi tiết kiệm. Từ đó ổn định các khoản tiền gửi, khoản nợ quyết định một phần an toàn trong kinh doanh Ngân Hàng và thời hạn tín dụng.
Quản lý quy mô và cơ cấu là nhằm đưa ra và thực hiện các biện pháp để gia tăng quy mô, thay đổi cơ cấu của nguồn một cách có hiệu quả nhất. Việc gia tăng các khoản tiền gửi và đi vay là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của Ngân Hàng, là điều kiện để Ngân Hàng mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Cơ cấu nguồn ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của Ngân Hàng.
Quản lý quy mô và cơ cấu vốn gồm các nội dung sau:
Thống kê đầy đủ kịp thời các thay đổi về các loại vốn, tốc độ quay vòng của mỗi nguồn.
Phân tích kỹ lưỡng các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (Các nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng)
Lập kế hoạch nguồn cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng.
Công tác thống kê nguồn sẽ cho các nhà quản lý nghiên cứu mỗi liên hệ giữa số lượng, cấu trúc nguồn của các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy được đặc tính thị trường nguồn của Ngân Hàng.
Trong điều kiện cụ thể các nguồn của một Ngân Hàng có thể có tốc độ và quy mô thay đổi khác nhau. Các Ngân Hàng lớn có quy mô nguồn lớn và tôc độ tăng trưởng nguồn có thể không cao như các Ngân Hàng nhỏ. Những Ngân Hàng ở trung tâm tiền tệ có cơ cấu nguồn khác với Ngân Hàng ở xa.
Những nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cấu của nguồn tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đây là cơ sở để Ngân Hàng đưa ra các quyết định phù hợp để thay đổi quy mô và kết cấu của nguồn tiền, vào gần dịp tết quy mô của tiền gửi tiết kiệm có thể giảm xuống tương đối, hoặc nếu Ngân Hàng phục vụ chủ yếu các doanh nghiệp xây lắp, tiền gửi của họ tăng hay giảm phụ thuộc nhiều vào mùa xây dựng. Từ đó, nhà quản lý Ngân Hàng cần phải chia các loại khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn. Các nhóm khách hàng hay khách hàng riêng, cá nhân có tiền gửi lớn cần được đặc biệt chú ý, các nhóm khách hàng truyền thống, các nhóm khách hàng nhạy cảm với những thay đổi về công nghệ, lãi suất và chất lượng, dịch vụ kèm theo phải được nghiên cứu cụ thể. Nhà quản lý cùng xem xét thị phần nguồn tiền của các Ngân Hàng khác trên địa bàn và khả năng cạnh tranh của họ.
Kế hoạch nguồn cần được xây dựng cho từng giai đoạn, bao gồm kế hoạch gia tăng quy mô của mỗi nguồn, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay đầu tư hoặc nhu cầu chi trả cho các doanh nghiệp và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn hoặc tìm kiếm nguồn mới. Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch sử dụng và lợi nhuận kỳ vọng, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc điểm huy động, loại nguồn, tiếp thị…
3.2. Quản lý về lãi suất chi trả và kỳ hạn:
Mặt khác quản lý cơ cấu nguồn vốn nhằm quản lý về khả năng thanh toán. Quản lý về khả năng thanh toán để giảm thiểu rủi ro, tăng khả năng huy động, và uy tín của Ngân Hàng. Đảm bảo khả năng thanh toán tức là công tác quản lý liên quan đến lãi suất chi trả, quản lý kỳ hạn, khả năng thanh khoản.
Để đảm bảo tính ổn định của các khoản nợ, thì ổn định về thời hạn thanh toán và lãi suất chi trả hợp lý thì vẫn có thể thu hút và bảo đảm tốt khả năng huy động và cho vay. Trước tiên để có thể quản lý cơ cấu nguồn vốn thì cần quản lý tốt ở khâu lãi suất của các khoản nợ. Đó chính là xác định các loại và cơ cấu lãi suất trả cho các nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì quy mô kết cấu nguồn phù hợp với yêu cầu sinh lợi của Ngân Hàng. Quản lý lãi suất của các khoản nợ là một bộ phận trong quản lý chi phí của Ngân Hàng. Lãi suất càng cao có thể huy động vay mượn được càng lớn, từ đó mở rộng cho vay và đầu tư. Tuy nhiên, lãi suất càng cao làm gia tăng chi phí của Ngân Hàng và nếu doanh thu không tăng kịp chi phí, lợi nhuận của Ngân Hàng sẽ giảm tương ứng. Vì vậy, quản lý lãi suất của nguồn vốn có liên quan chặt chẽ quản lý lãi suất cho vay và đầu tư của Ngân Hàng. Nội dung của quản lý lãi suất:
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tối lãi suất huy động.
Đa dạng hoá lãi suất.
Lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của Ngân Hàng với mỗi Ngân Hàng, lãi suất huy động thường xuyên thay đổi dưới ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: Khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia, nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp, nhà nước, hộ gia đình. Ngoài ra còn có ảnh hưởng của yếu tố lạm phát, khả năng sinh lời của hoạt động đầu tư khác, trình độ phát triển của thị trường tài chính, khả năng sinh lời của Ngân Hàng, độ an toàn của nó. Những yếu tố này ảnh hưởng đến hình thành nên lãi suất huy động của Ngân Hàng thương mại. Lãi suất của mỗi Ngân Hàng phân biệt theo nhiều hình thức khác nhau:
Lãi suất phân biệt theo thời gian: Thời gian huy động càng dài thì lãi suất càng cao.
Lãi suất phân biệt theo loại tiền: Nội tệ và ngoại tệ.
Lãi suất phải phân biệt theo mục đích gửi, theo mục đích huy động.
Lãi suất phân biệt theo rủi ro của Ngân Hàng: Lãi suất của các Ngân Hàng nhỏ, và Ngân Hàng tư nhân thường cao hơn Ngân Hàng lớn, hoặc Ngân Hàng của nhà nước.
Lãi suất phân biệt theo dịch vụ đi kèm theo như tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm bảo hiểm lãi suất thấp hơn tiết kiệm khác.
Lãi suất phân biệt theo quy mô…
Nhìn chung thì tiện ích của Ngân Hàng cung cấp cho người gửi tiền và người cho vay càng cao thì lãi suất càng thấp. Một số nguồn tiền lãi suất Ngân Hàng trả bằng không và người gửi phải trả phí để được hưởng tiện ích của Ngân Hàng. Ngân Hàng không chỉ quản lý về lãi suất mà còn phải quản lý về kỳ hạn huy động cho phù hợp với yêu cầu của kỳ hạn sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn vốn. Với các hoạt động chính của quản lý kỳ hạn như xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng, xác định kỳ hạn thực của các nguồn và các nhân tố ảnh hưởng, xem xét khả năng chuyển hoán kỳ hạn của nguồn.
Các kỳ hạn danh nghĩa thường gắn với một mức lãi suất thấp nhất định, theo xu hướng nguồn có kỳ hạn danh nghĩa càng dài, lãi suất càng cao. Trong trường hợp bình thường (không có khủng hoảng xảy ra) cũng có một số người rút tiền trước hạn, song nhìn chung người gửi tiền đều cố gắng duy trì kỳ hạn danh nghĩa để hưởng mức lãi suất cao nhất. Do vậy, kỳ hạn danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn. Để cho vay và đầu tư dài hạn, Ngân Hàng cần có khả năng duy trì tính ổn định của nguồn tiền. Nguồn có tính ổn định cao thường phải có chi phí duy trì cao. Quản lý kỳ hạn vì vậy là một nội dung đảm bảo an toàn và sinh lời cho Ngân Hàng.
Mặt khác từ những yếu tố ảnh hưởng đến kỳ hạn như thu nhập, nền kinh tế, lạm phát…mà Ngân Hàng có thể đưa ra các kỳ hạn huy động phù hợp với thị trường. Nhưng nhà quản lý thường quan tâm đến kỳ hạn thực tế của nguồn tiền bởi kì hạn thực tế liên quan đến kì hạn của khoản vay và đầu tư. Kỳ hạn thực tế là khoản thời gian mà khoản tiền gửi tồn tại liên tục tại một đơn vị Ngân Hàng. Bên cạnh các nhu cầu chi tiêu đột xuất và lãi suất cạnh tranh giữa các Ngân Hàng, lãi suất giữa các nguồn tiền khác nhau cũng góp phần quan trọng tới kì hạn. Sự thay đổi về lãi suất sẽ gây ra tình trạng dịch chuyển tiền từ Ngân Hàng này sang Ngân Hàng khác, từ kỳ hạn này sang kỳ hạn khác, từ loại tiền này sang loại tiền khác, làm giảm kì hạn thực tế của khoản tiền.
Nhưng việc quản lý về lãi suất tiền gửi và tính thanh khoản, chuyển khoản sẽ giảm tính biến động về kì hạn thông qua sự nối tiếp liên tục của các khoản huy động và đi vay. Do đó, một nguồn với kỳ hạn danh nghĩa ngắn, có thể tồn tại liên tục trong nhiều năm, tức là trở thành nguồn có kỳ hạn thực tế là trung và dài hạn. Phân tích và đo lường kì hạn thực tế của nguồn là cơ sở để Ngân Hàng quản lý thanh khoản, chuyển khoản chuyển hoán kì hạn của nguồn, sử dụng các nguồn có kì hạn ngắn để cho vay với kì hạn dài hơn.
Có thể nói quản lí kì hạn luôn gắn liền với quản lí lãi suất. Một sự gia tăng trong lãi suất nguồn đều liên quan đến không chỉ tăng quy mô của nguồn, mà còn tới tính ổn định của nguồn giữa các Ngân Hàng. Các cách tính khác nhau để cải thiện sự ổn định của khoản nợ.
Dựa vào những loại tiền gửi chủ yếu (Tiền giao dịch hoặc tiền tiết kiệm) . Mặc dù tiền gửi phải hoàn trả theo yêu cầu, song nó tương đối ổn định. Các Ngân Hàng lớn ngày nay đang cố gắng tăng tiền gửi để giảm vay.
Xây dựng các mỗi liên hệ với người gửi lớn sao cho họ tránh rút tiền trong lúc khủng hoảng.
Đa dạng các nguồn tiền là huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Điều này giảm sự phụ thuộc của Ngân Hàng vào một khách hàng.
Phát triển quản lí tài sản bên cạnh quản lí các khoản nợ.
3.3. Quản lí khả năng thanh khoản.
Đối với nhiều Ngân Hàng phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn đang trở thành trọng tâm quản lí nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn vốn được đo bằng khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới với chi phí và thời gian nhỏ nhất. Nhiều Ngân Hàng lớn, do thực hiện chuyển hoán kì hạn của nguồn (nguồn vốn kì hạn ngắn được chuyển sang đầu tư hoặc cho vay với kì hạn dài hơn) và duy trì tỉ lệ dự trữ thấp, rất quan tâm khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới để đáp ứng nhu cầu thanh khoản đắc biệt là các nguồn trong ngắn hạn.
Tính thanh khoản của nguồn tuỳ thuộc rất lớn vào thị trường của mỗi Ngân Hàng vào chính sách,vào chính sách tiền tệ đang được vận hành. Nói chung các Ngân Hàng lớn, có nhiều chi nhánh và gần các trung tâm tiền tệ có nhiều khả năng tìm kiếm các nguồn nhanh chóng hơn là các Ngân Hàng nhỏ, ít chi nhánh và ở xa. Hơn nữa việc phát triển các công nợ sẽ cho phép các Ngân Hàng có nhiều cơ hội tiếp xúc với các nguồn. Do vậy, tại các nước mà thị trường nợ kém phát triển thì tính thanh khoản của nguồn vốn của các Ngân Hàng cũng trở nên bị giảm thấp.
3.4. Quản lí lãi suất đảm bảo về hệ số khả năng sinh lời trên cơ sở nguồn vốn của Ngân Hàng thương mại.
Trên cơ sở nguồn vốn của Ngân Hàng ngoài những quản lí về mặt huy động và và vay của Ngân Hàng cần phải có công tác đánh giá về quản lí sử dụng vốn cho vay và đầu tư. Cụ thể hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn, do đó yêu cầu về quản lí khả năng sinh lời của sử dụng nguồn vốn nhằm bù đắp chi phí và tăng lợi nhuận hoạt động. Việc quản lí về lãi suất của tài sản snh lời rất phức tạp. Dựa trên các hình thức huy động vốn ngắn, trung và dài hạn mà có những chính sách quản lí về lãi suất cho vay đảm bảo bù đắp chi phí và có lợi nhuận.
Nếu Ngân Hàng cho rằng, các nguồn ngắn hạn, trước hết dùng để tài trợ cho các tài sản ngắn hạn, thì chi phí nguồn bình quân của các tài sản ngắn hạn chính là chi phí trả lãi ngắn hạn. Tuy nhiên, phần lớn nguồn ngắn hạn phải chịu dự trữ bắt buộc, nên Ngân Hàng có thể phân bố dự trữ bắt buộc cho các khoản vay khác nhau. Hay trường hợp Ngân Hàng nắm giữ chứng khoán thanh khoản (sinh lời thấp) lãi suất các khoản vay ngắn hạn phải tính phần bù cho chứng khoán ngắn hạn (để hạn chế rủi ro thanh khoản). Nhưng đối với các khoản vay trung và dài hạn, lãi suất nguồn vốn tài sản nợ chính là lãi suất hỗn hợp giữa lãi suất trung, dài hạn với lãi suất ngắn hạn. Ngân Hàng có thể không phân bố chi phí nguồn (dành cho các khoản mục dự trữ), các khoản tín dụng trung và dài hạn, song chi phí quản lí trực tiếp gắn liền với việc thẩm định dự án, theo dõi dự án, chi quỹ phòng rủi ro gắn liền với tín dụng trung và dài hạn đều cao hơn ngắn hạn. Đó là yếu tố làm cho lãi suất tín dụng trung và dài hạn cao hơn ngắn hạn.
Trong trường hợp kì hạn định giá huy động và cho vay không bằng nhau thường kì hạn định lại giá của huy động ngắn hơn cho vay, thì việc cho vay dựa trên lãi suất huy động bình quân sẽ không đảm bảo yêu cầu sinh lời. Để thích ứng với lãi suất biên khi huy động, Ngân Hàng thường tăng lãi suất huy động để cho vay với kì hạn dài hơn. Thường là huy động để cho vay trung và dài hạn, hoặc cho vay với lãi suất thả nổi.
Một mặt làm tăng tỉ lệ sinh lời đó là quản lí về lãi suất huy động. Việc này đã được trình bày trong phần lãi suất chi trả. Nó có vai trong quản thiểu chi phí, tăng nguồn huy động từ đó làm cơ sở cho vay với lãi suất hợp lí, khối lượng lớn. Đây tạo nên ưu thế cạnh tranh của các Ngân Hàng và tăng khoản mục lãi chênh lệch thu về.
B. Phần II. Thực trạng hoạt động quản lí nguồn vốn trong Ngân Hàng thương mại Việt Nam.
B.I. Tình hình hoạt động chung của Ngân Hàng thương mại Việt Nam.
Trên cơ sở các thành tựu đạt được từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay, đặc biệt là những kết quả đạt được trong 5 năm gần đây, chúng ta đã có những định hướng rất cụ thể trong những năm tới về mọi lĩnh vực, mọi ngành thông qua các chỉ tiêu kinh tế từ vĩ mô đến vi mô. Dự kiến trong 5 năm tới (2001-2005), tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7,2%, vốn huy động cho đầu tư phát triển tương đương 50-60 tỉ USD chiếm khoảng 30% GDP (hệ số ICOR dự kiến là: 4,2) trong đó nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 60%, vốn nước ngoài chiếm 40%, vốn trung và dài hạn khoảng 40-50% vốn đầu tư. Nguồn vốn ODA giải ngân khoản 10 tỷ USD, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10 tỷ USD. Tổng tín dụng đạt 40-50% GDP, tỉ lệ tiết kiệm khoảng 26% GDP, tổng ngân sách đạt 20% GDP, giảm tỉ lệ đói nghèo xuống khoảng 5%. Trước những mục tiêu lớn đó, ngành Ngân Hàng cũng đã định hướng nhiều giải pháp quan trọng: Xây dựng và thực thi một chính sách tiền tệ và công cụ chính sách tiền tệ có hiệu qủa phù hợp với cơ chế thị trường thông qua công cụ thị trường mở, lãi suất, tỉ giá….
Hiện nay hệ thống Ngân Hàng thương mại Viêt Nam hiện có các loại hình như sau: Ngân Hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) và Ngân Hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) chi nhánh Ngân Hàng nước ngoài và Ngân Hàng liên doanh (CNNHNN và NHLD). Trong các loại hình Ngân Hàng thương mại, thông qua thị phần dịch vụ Ngân Hàng nói chung và thị phần tín dụng nói riêng cho thấy loại hình Ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn nắm vai trò chủ đạo, chi phối và khống chế thị trường (khoảng trên 70%), tiếp đến loại hình chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và Ngân Hàng liên doanh (chiếm gần 15%). Hiện nay có 6 Ngân hàng thương mại quốc doanh sở hữu 100% vốn của nhà nước, song thực chất chỉ có 4 Ngân Hàng kinh doanh thương mai (Ngân Hàng công thương, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn) còn có 2 Ngân hàng hoạt động như Ngân hàng chính sách (Ngân Hàng người nghèo và Ngân hàng Đồng Bằng Sông Cửu Long). Mặc dù vậy, các Ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn nắm vai trò chủ đạo vì đây đều là những Ngân hàng có vốn lớn, có mạng luới rộng khắp trên toàn quốc (như Ngân hàng nông nghiệp có chi nhánh cấp 4 tới tận phường xã) Khách hàng hầu như là đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam và các tổng công ty lớn từ các thành phố lớn đến cả những vùng nông thôn miền núi. Ngoài các Ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên doanh cũng chiếm thị phần 15% toàn hệ thống. Đặc biệt vào giai đoạn tham gia hội nhập này thì Ngân hàng nước ngoài thường có vốn lớn và uy tín trên thế giới. Do đó mà sẽ có lợi thế trong cạnh tranh với các Ngân hàng trong nước. Do vậy tầm quan trọng là củng cố và lành mạnh hoạt động các Ngân hàng thương mại quốc doanh và quản lí có hiệu quả các hoạt động của nó có vai trò quan trọng mang tính chiến lược.
Từ đó cần phải có những đánh giá tổng hợp về tình hình hoạt động về vốn, về khả năng huy động vốn, sử dụng và quản lý nguồn vốn của ngân hàng thương mại.Tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại quốc doanh cho đến nay mặc dù đã được chính phủ cấp bổ sung vốn điều lệ song vẫn còn nhiều vấn đề.Tình trạng nợ nần dây dưa quá hạn còn phổ biến, số lượng nhiều, môi trường kinh doanh còn nhiều rủi ro, tỷ lệ rủi rỏ trong hoạt động ở các ngân hàng này còn cao (hệ số an toàn Cook bình quân chỉ vào khoảng 5% trong khi thông thường thì tỷ lệ này tối thiểu phải là 8%).Việc củng cố các Ngân hàng thương mại quốc doanh cần phải nâng cao khả năng quản lý chặt chẽ hơn.
Nhưng thực tế để đánh giá một cách chính xác kết quả hoạt động tài chính của Ngân hàng rất khó khăn. Vì nghiệp vụ kế toán còn có nhiều điều khác với các tiêu chuẩn quốc tế.Thông tin hiện có về hoạt động ngân hàng còn thiếu, tản mạn và không đầy đủ. Khó tính được lợi nhuận Ngân hàng vì ít được biết về thực tế dự phòng của Ngân hàng. Những số liệu sẵn có duy nhất làm rõ được hiệu năng và chất lượng của vốn đầu tư chứng khoán của Ngân hàng đó là số liệu liên quan đến các khoản dịch vụ thanh toán nợ quá hạn. Nó cũng chính là một trong những chỉ tiêu đánh giá công tác quản lý nguồn vốn ở Việt Nam.
B.2. Đánh giá về cơ cấu nguồn vốn và quản lý nguồn vốn trong Ngân hàng thương mại hiện nay.
Hiện nay về quản lý cơ cấu nguồn vốn trở nên cần thiết đối với các Ngân hàng thương mại. Bởi thực trạng mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản. Đầu tư vốn tín dụng trung và dài hạn là yêu cầu mang tính khách quan của nền kinh tế trong thời kì công nghiệp hoá. ở nước ta, các ngành kinh tế quốc dân đều có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư dài hạn để tạo lập cơ sơ vật chất ban đầu, đổi mới công nghệ hay mở rộng quy mô sản xuất. Do đó mà vai trò vốn tín dụng chiếm vị trí quan trọng trong tổng số vốn đầu tư và đứng trước yêu cầu cấp thiết để phát triển các ngành kinh tế quốc dân. Thế nhưng hiện nay, nhiều Ngân hàng và các tổ chức tín dụng chỉ dành một phần nhỏ trong tổng số vốn của mình để đầu tư tín dung trung và dài hạn, so với nhu cầu rất cao của các ngành kinh tế, thậm chí ngay cả trong các thời kì không tìm được đầu ra cho tín dụng ngắn hạn. Qua tìm hiêủ ta thấy rằng vấn đề khó khăn là tỷ lệ quy định cho vay dài hạn trong tổng huy động vốn quá thấp, hơn nữa việc sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn sẽ gặp khó khăn về vấn đề thanh toán. Trong trường hợp này đặt ra về xác định tỷ lệ cơ cấu nguồn vốn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn.
Từ thực trạng đặt ra trên thì cần có hướng giải pháp tạo ra nguồn huy động trung và dài hạn để có thể thực hiện tín dụng dài hạn. Từ thực tiễn ở Ngân hàng thương mại hiện nay chúng ta rút ra một số tác động và hướng về huy động. Theo các nhà nghiên cứu cho rằng để huy động nguồn vốn trung và dài hạn không đâu xa mà khai thác nguồn từ số dư cáctài khoản tiền gửi ngắn hạn mà các Ngân hàng tập trung được. Ta có thể nói cơ cấu huy động có ảnh hưởng rất lớn đến xác định cơ cấu cho vay.Do đó số dư trên tài khoản tiền gửi tương đối vững chắc làm tiền đề tạo vốn . Việc vững chắc của số dư là do các Ngân hàng tạo được tổng số dư các tài khoản huy động vốn ổn định trong một thời gian dài , thì đó chính là nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn . ở đây , đó là một tập hợp số có vốn huy động , không phân biệt ngắn hạn hay dài hạn, cho dù huy động ngắn hạn là chủ yếu đi chăng nữa .
Do đó đặt ra tiêu chí cố định là việc huy động vốn ngắn hạn là nguồn để cho vay ngắn hạn , và đồng thời không phải là không huy động vốn dài hạn thì sẽ không có nguồn để cho vay dài hạn . Việc huy động vốn trung và dài hạn giữ vay trò làm tăng tính vững chắc của số dư vốn huy động. Trong phạm vi từng Ngân hàng thương mại , nếu có tỷ trọng vốn trung và dài hạn cao thì có thể chủ động hơn về các kỳ hạn cho vay (và chủ động chi trả tiền gửi cho khách hàng) chứ không hoàn toàn giữ vai trò chủ yếu trong việc tạo nguồn cho vay trung và dài hạn cũng không thể nói huy động ngắn hạn giữ vài trò thiết yếu.
Mặt khác quan điểm tạo vốn hiện nay theo cơ chế thị trường hiện nay mang tính quảng đại về một tập hợp nguồn tiền vào quỹ Ngân hàng, mà không nặng nề về chi tiết, nói cách khác nó phụ thuộc vào chính sách thể lệ hấp dẫn của các thể lệ tiền gửi. Cụ thể là vốn để cho vay trung và dài hạn không hoàn toàn phụ thuộc vào việc các thể lệ tiền gửi có hấp dẫn không? thời gian ra sao? lãi suất cao hay thấp? mà ở chỗ ở NHTM có tạo ra được cơ hội tốt nhất, khơi ra được các cơ hội tốt nhất, khơi ra được các dòng chảy tự nhiên . Để hầu hết mọi khoản tiền đều chảy qua và đọng lại quỹ NH một con số đáng kể hay không. Do đó đòi hỏi công tác quản lý làm rõ một số vấn đề như:
Tổng nguồn vốn huy động có tỷ trọng tiền gửi ngắn hạn cao thì giá cả đầu vào của tín dụng sẽ hạ thấp tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại hạ giá đầu ra. Có được điều này là một ưu thế lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, một khi tỉ suất lợi nhuận bình quân đã chi phối hầu hết các doanh nghiệp, họ đòi hỏi lãi suất cho vay của Ngân hàng phải giảm thấp. Các Ngân hàng hiện nay đã có xu hướng giảm lãi suất sàn và trần của tín dụng gần với lãi suất chung của các nền kinh tế thị trường phát triển. Việc hạ thấp lãi suất chính là kích thích đầu tư, những người gửi tiền vào Ngân hàng không hoàn toàn coi đó là một cách đầu tư đơn giản để kiếm lãi suất, do sự hấp dẫn của lãi suất như trong thời kỳ lạm phát. Dần dần người gửi tiền không còn cân nhắc lựa chọn nhiều về các thể lệ có lãi suất cao (tương đương với kỳ hạn dài) vì chênh lệch lãi suất cao (tương đương với các kỳ hạn dài). Vì chênh lệch lãi suất rất nhỏ, lại bất tiện hơn vì bị ràng buộc bởi các kỳ hạn của thể lệ tiền gửi. Khi đó, điều quan tâm nhất của họ là tính an toàn hay uy tín của Ngân hàng về mức độ tiện ích của thể lệ gửi tiền và các công cụ thanh toán, cùng với chất lượng phục vụ của Ngân hàng. Khi trên thị trường đã phổ biến rộng rãi các công cụ thanh toán như séc, thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động, các dịch vụ của Ngân hàng tốt hơn như gửi một nơi, rút ở các nơi khác, chuyển tiền nhanh chóng an toàn …thì chính các tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi hoạt ký khác, mặc dù với lãi suất thấp, vẫn sẽ chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số dư các tài khoản tiền gửi tại các Ngân . Vì thế , việc huy động vốn của Ngân hàng sẽ dễ dàng hơn, việc kinh doanh có hiệu quả hơn.
Trong thực tế , việc tăng khả năng huy động đó cũng dựa trên uy tín của Ngân hàng trong lĩnh vực hoạt động .Ngân hàng thương mại mà phục vụ tốt ( ví như các Ngân hàng thương mại cổ phần ) các khoản tiền gửi hoạt ký ngắn ngày được gọi là tiền ký thác , không những không phải trả lãi cho người gửi mà còn thu được những khoản tiền có tên gọi phí dịch vụ đáng kể . Như vậy, khi kinh tế thị trường phát triển, chưa hẳn các thể lệ huy động vốn có kỳ hạn dài, lãi suất cao được coi là ưu thế tạo vốn của Ngân hàng .
Hiện nay, do chất lượng phục vụ chưa cao, nên hầu hết các Ngân hàng thương mại lấy các thể lệ huy động có định kỳ dài hạn với lãi suất cao hơn làm cộng cụ chính để tạo vốn. Việc các loại tiền gửi này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn, chính là một bất lợi trong kinh doanh. Trước hết, lãi suất cao là một gắng nặng cho người vay ( gồm cả chính Ngân hàng và người vay NH ) . Do đó việc huy động quá nhiều tiền gửi định kỳ có lãi suất cao không phải là cách của các Ngân hàng) tiên tiến. Và những kế hoạch cho vay dài hạn được lập ra ăn khớp với kỳ hạn của vốn huy động dài hạn là một việc làm manh mún trong kinh doanh. Cách hiểu như thế chỉ phù hợp trong phạm vi cục bộ từng Ngân hàng , chỉ áp dụng trong từng thời điểm và bị giới hạn bởi không gian hẹp , dễ bế tác khi có trục trặc ở một công đoạn đầu vào, đầu ra nào đó. Với xu hướng giảm thấp và ổn định lãi suất, thì các Ngân hàng khôn ngoan và ngay cả các Quỹ tín dụng nhân dân quy mô vừa và nhỏ cũng không muốn huy động tiền gửi kỳ hạn dài trên 3 tháng để luôn có cơ hội giảm thấp “đầu vào” của Tín dụng.
Việc huy động để cho vay dài hạn khi đã tạo được một tổng nguồn vốn vững chắc theo các trên đây, thì tự nó sẽ loại bỏ những khó khăn về việc dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn , có thể gây khó khăn cho việc thanh toán, chi trả tiền gửi. ở đây sự hoạt ký của nguồn tiền gửi không gây mất chủ động cho các ngân hàng, bởi nguồn vốn của các Ngân hàng đến mức độ nhất định , là tập hợp của vô số khoản tiền gửi hoạt ký. Đó là một tập hợp bền vững và ổn định nếu như đa số lượng tiền mặt trong lưu thông đều có cơ hội cấn và đủ để đi qua quỹ Ngân hàng .Và hoạt động huy động vốn cần có sự liên kết chặt chẽ với nhau, có sự chỉ đạo và điều hành theo nguyên tắc “ bình thông nhau” , việc xác định tỷ lệ vốn để cho vay dài hạn so với huy động vốn ngắn hạn của từng Ngân hàng thương mại là vô nghĩa. Tỷ lệ này chỉ cần ở tầm Vĩ mô, còn từng Ngân hàng thương mại có thể cao thấp khác nhau, không phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn của mình.
B.3. Vấn đề bức xúc cần nghiên cứu đối với công tác quản lý nguồn vốn là xử lý nợ tồn động và cơ cấu quản lý hợp lý giữa vay và cho vay vốn ngắn hạn , trung hạn và dài hạn.
Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đều có lãi đóng góp vào NSNN và bảo đảm đời sống cho công nhân viên. Nhưng từ năm 1997 đến nay, số lãi giảm nhiều so với những năm trước năm 2000, lợi nhuận ròng của các Ngân hàng thương mại Quốc doanh chỉ đạt 417 tỉ đồng, bằng 62% so với năm 1995. trong khi số tài sản có và số lao động tăng nhanh. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, nhưng rõ ràng đây đang có chiều hướng xấu đi. Theo tôi vấn đề về thu lại nợ, và những khoản nợ khó đòi và xóa nợ đã có ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng thương mại .
Xét về tính chất hoạt động của Ngân hàng thì hoạt động tính dụng là hoạt động chủ yếu. Về bản chất tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn (khả năng trả của người vay) là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng nguyên tắc tín dụng quan trọng nhất của Ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Tiền thực tế phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, có khả năng mất vốn có nghĩa là tính an toàn thấp.
Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động kinh doanh là khách quan, do đó nợ quá hạn của Ngân hàng thương mại là tất yếu, không thể tránh khỏi. Song, nếu một Ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ khó đòi, nợ quá hạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Nó sẽ có nguy cơ mất vốn mà đây là điều tệ hại dễ dẫn đến mất khả năng thanh toán và giảm thu nhập. Ngân hàng thương mại nào có tỉ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp .Do đó , để đảm bảo hoạt động có hiệu quả liên tục và sinh lời , thì vai trò quản lý nguồn vốn về xử lý nợ khó đòi là rất khó khăn và phức tạp . Do vậy cần đi tìm hiểu những nguyên nhân có thể dẫn đến tỷ lệ nợ khó đòi cao hoặc là tỷ lệ nợ quá hạn cao .Lý do :
3.1 Vốn tín dụng Ngân hàng bao cấp cho Doanh nghiệp :
Nhiều Doanh nghiệp hoạt động bằng vốn vay NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động. Chúng ta biết rằng vốn tín dụng của Ngân hàng thương mại ,bản thân nó mang nội dung ứng trước cho doanh nghiệp hoạt động liên tục và chỉ mang tính bổ sung vốn. Nhưng việc tính trước, tính trực tiếp, số tiền cho vay càng lớn thì rủi ro càng cao, vốn cho vay càng nhiều. Có thể nói, hầu như các chi phí sản xuất hoặc dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp đều là vốn vay Ngân hàng. Nếu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của daong nghiệp không tiêu thụ được, Ngân hàng thương mại cho vay vốn sẽ không thu hồi được nợ. Vốn ngân hàng bị ứ đọng, thế rồi phải dãn nợ, miễn giảm lãi suất,…. Ngân hàng nhà nước phải cấp bù phần miễn giảm, Ngân hàng thương mại phải trích lập phòng ngừa rủi ro, vừa giảm thu nhập cho cán bộ ngân hàng thương mại , giảm phần nộp thuế cho ngân sách nhà nước..
3. 2. Ngân hàng thương mại sử dụng vốn huy động ngắn hạn không hợp lý:
Nhiều Ngân hàng thương mại, nhất là Ngân hàng thương mại Quốc doanh dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Cuối năm 2000, ở nước ta dư nợ cho vay trung và dài hạn của các Ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng khoảng 30% tổng dư nợ. NHNN & PTNT Việt Nam, tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn còn cao hơn nhiều (gần 40% tổng dư nợ cho vay). Hiện nay nhiều ngân hàng thương mại cho vay trung và dài hạn đối với tất cả các thành phần kinh tế, từ kinh tế tư nhân đến doanh nghiệp nhà nước, bằng nguồn vốn huy động ngắn hạn. Nhiều Ngân hàng thương mại còn cho vay trung và dài hạn bằng ngoại tệ. Doanh nghiệp sử dụng khoản vay này để nhập khẩu máy móc, thiết bị…có giá thành cao. Do đó sảm phẩm sản xuất ra với giá cao, không tiêu thụ được. Nhiều Doanh nghiệp không có khả năng trả nợ trung và dài hạn cho Ngân hàng thương mại. Tất nhiên Ngân hàng thương mại phải xử lý tình huống này. Với các biện pháp gia hạn thêm thời hạn trả nợ, trong khi đó có một tỷ lệ nhất định là nguồn huy động ngắn hạn. Do đó tiềm ẩn về khả năng thanh khoản cho Tổ chức tín dụng .
3.3 Ngân hàng thương mại cho vay nhận tài sản thế chấp là bất động sản .
Hầu hết các Ngân hàng thương mại cho vay, nhận tài sản thế chấp chủ yếu là bất động sản , đó là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Thời gian qua, giá đất luôn gắn với sự biến động của thị trường và bị ảnh hưởng lớn bởi chủ trương của nhà nước, việc phát mại gặp phải một loạt vướng mắc về pháp lý và thủ tục hành chính, khiến việc thu nợ vay của Ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn. Khi ngân hàng cho vay, nhận tài sản thế chấp là bất động sản thường là ở thởi điểm giá bất động sản cao, Ngân hàng thương mại sẽ không thu hồi được nợ khi đến hạn, bởi vì thường là khi đó giá bất động sản khó bán. Ngân hàng công thương Việt Nam đạt tỷ lệ thu hồi được nợ rất thấp đối với vụ án Epco_ Minh Phụng là một dẫn điển hình. Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh định giá đất, nhà theo giá nhà nước. Mặt khác việc phát mại khoản nợ của Ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn và giá bán thường thấp hơn so với giá khi nhận thế chấp.
Ngân hàng thương mại nhận lại tài sản thế chấp là bất động sản thì không có khả năng kinh doanh. Nếu nhận lại tài sản thế chấp là bất động sản, Ngân hàng thương mại không có nguồn vốn để hạch toán mua tài sản thì nợ quá hạn không hề giảm, vì không thể hạch toán kế toán nội bảng được. Ngân hàng thương mại cho vay bằng tiền thì phải thu lại bằng tiền. Hiện nay, NHNo&PTNT Việt Nam cho hộ nông dân vay, nhận tài sản thế chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ bìa đỏ) rất ít có ý nghĩa.
3 .4 . Cho vay theo giá trị vật tư tương đương .
Các Ngân hàng thương mại cho vay còn lấy giá trị vật tư, tài sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản bảo đảm tiền vay .Đây là một trong những nguyên nhân nợ khó đòi cho Ngân hàng thương mại , vì giá cả luôn luôn có xu hướng biến động giảm do cạnh tranh về mẫu mã và tính năng của hàng hoá luôn luôn được nâng cao.
Ngoài ra còn cho vay, nhận tài sản thế chấp mà pháp luật cấm. Ví như vụ xét chi nhành uỷ ban thành phố Hồ Chí Minh cho Tamexco vay, đã xiết nợ là khách sạn Đồi sao và một số nhà là tài sản của ban tài chính quản trị thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp quản lý. Bởi vậy, toà phúc thẩm toà ản nhân dân tối cao tại Tp HCM đã bác bỏ việc chi nhánh VCB Tp HCM xiết nợ tài sản đó.
3.5. Nước ta chưa có Ngân hàng chính sách đúng với ý nghĩa của nó
NHNo&PTNT Việt Nam đang làm dịch vụ , thực chất là làm nhiệm vụ của NH phục vụ người nghèo về : Cho vay, thu nợ, mở sổ sách kế toán. Ngân hàng công thương Việt Nam được giao nhiệm vụ cho sinh viên vay tiền học tập. Đến nay, một số sinh viên đã ra trường nhưng Ngân hàng công thương Việt Nam không biết họ cư trú nơi nào để thu nợ. Mà nguồn tài trợ này lại phải gánh thiệt hại do quá trình cho vay ưu đãi thì không thu được vốn . Hiện tượng xoá nợ, gây ra thiệt hại cho Ngân hàng.
Theo tình hình hiện nay, thì để xử lý nợ quá hạn đã trở thành một vấn đề trung tâm cho các nhà quản trị Ngân hàng thương mại. Khi đề cập đến vấn đề này, có nhiều ý kiến cho rằng biện pháp tối ưu la rút ngắn, hoàn thiện các thủ tục khởi kiện, đấu giá tài sản thế chấp. Nhưng thời gian chờ đợi việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý đó thì các khoản nợ quá hạn vẫn tiếp tục gia tăng. Vậy cần có những giải pháp giải quyết vấn đề này. Ngân hàng thương mại ngày nay có xu hướng chuyển từ phòng thủ bị động sang tích cực, chủ động với nhiều biện pháp đa dạng phong phú. Một biện pháp được trở thành khẩu hiệu của các Ngân hàng thương mại đó là “Nâng cao chất lượng tín dụng” thông qua thẩm định dự án vay, bảo đảm tín dụng , cho vay có hiệu quả . Nhưng thực tế cho thấy chưa có một Ngân hàng thương mại sử dụng triệt để điều 54 khoản 1 luật các TCTD “TCTD có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiên khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng” Điều này xuất phát từ tâm lý cho rằng, đây là một biên pháp quá mạnh để làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của một Doanh nghiệp, từ đó tác động xấu đến nền kinh tế. Để có thể áp dụng lý luận vào thực tiễn ta cần xem xét vấn đề trên nhiều góc độ cụ thể như trên góc đọ về đạo lý, góc độ luật pháp, góc độ triết lý. Nhưng để có thể bảo đảm lợi ích người cho vay và người đi vay khi một Doanh nghiệp, một dự án đã trở nên không còn tính khả thi, khách hàng không trung thực, sự cân nhắc quá kĩ lưỡng của Ngân hàng sẽ vô tình đẩy khách hàng lún sâu vào vũng lầy thua lỗ, gây hậu quả nghiêm trọng thêm cho họ khi phải đối diện trước phấp luật. Về phía khách hàng nên tỏ ra trung thực, giải bày khó khăn để cùng ngân hàng đưa ra những biện pháp giải quyết. Mặt khác có một số nguyên nhân dẫn đến sự xử lý nợ của các Ngân hàng thương mại còn bất cập so với thực tế chưa đồng bộ, nhất quán. Cho nên, trong quá trình xử lý nợ quá hạn, các Ngân hàng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và sự thiếu hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời của các bộ, ngành có liên quan. Cụ thể có hai nguyên nhân chính sau đây dẫn đến việc xử lý nợ tồn đọng của Ngân hàng thương mại còn chậm. Công tác thi hành án còn chậm ,hay dù thủ tục thi hành án được tổ chức có hiệu lực của toà án và giao cho Ngân hàng tự xử lý để thu hồi nợ. Nhưng các Ngân hàng không thể xử lý được những tài sản đó vì hồ sơ pháp lý của tài sản chưa đầy đủ. Để hoàn thiện được hổ sơ pháp lý thì Ngân hàng phải mất nhiều công sức và tiền bạc mà còn gặp nhiều rắc rối phiền toái. Thực tế đến nay, giấy phép chứng nhận sử dụng đất còn rất ít (khoảng 15% trên dân số cả nước). Do đó, được giao tài sàn này, ngân hàng không thể xử lý để thu hồi vốn theo quy định của pháp luật được. Vì vậy, việc xử lý nợ tồn đọng của các Ngân hàng cần có sự quan tâm thích đáng của chính phủ và sự hỗ trợ của các cơ quan có liên quan.
Lý do thứ hai là quy định về trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro còn bất cập. Do hoạt động của Doanh nghiệp đã đến tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và không còn hoạt động kinh doanh nữa. Nhưng Ngân hàng vẫn không thể được sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro trong trường hợp đó. Bởi vì, khi sử dụng quỹ đó là khi khách hàng vay tuyên bố giải thể hay phá sản. Mặt khác, nếu căn cứ vào luật phá sản hiện hành, thì các doanh nghiệp vay vốn nói trên đã đủ điều kiện để toà án tuyên bố phá sản. Do đó thực chất là các doanh nghiệp đang tình trạng phá sản nhưng trên giấy tờ vẫn là hoạt động. Điều này buộc Ngân hàng phải tiếp tục tính lãi, không được khoanh nợ, xoá nợ không được sử dụng quỹ dự phòng để quản lý rủi ro. Hậu quả là nợ quá hạn của các Ngân hàng ngày càng cao, trong khi thực tế Doanh nghiệp vay đã “chết” và không bao giờ có khả năng trả được nợ cho Ngân hàng nữa . Do đó, Ngân hàng phải tự mình xây dựng đề án xử lý nợ tồn đọng phù hợp với quyết định số 149 của Thủ tướng CP (Quyết định số 149/2001/QĐ- TTg phê duyệt đè án xử lý nợ tồn đọng của các Ngân hàng thương mại. Theo đó Thủ tướng chính phủ cho phép các Ngân hàng thương mại xử lý nợ tồn đọng còn dư nợ đến thời điểm 31/12/2000. Các Ngân hàng thương mại, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của Ngân hàng thương mại được chủ động xử lý tài sản bảo đảm nợ vay) về đặc điểm, hồ sơ pháp lý hiện có của từng tài sản bảo đảm nợ vay để xử lý cho thích hợp. Hiện nay, chính sách và cơ sở pháp lý để xử lý nợ tồn đọng đã có sẵn với nhiều điểm cởi mở và thông thoáng hớn trước đây, nên việc ngân hàng xử lý nợ tồn đọng nhanh hay chậm, hiệu quả hay kém hiệu quả phụ thuộc vào công tác tổ chức thực hiện đề án xử lý nợ tồn đọng của từng Ngân hàng thương mại đã được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt.
Ngoài ra để giảm nợ đọng vốn cho vay, theo tôi Ngân hàng thương mại nên thực hiện một số biện pháp sau đây.
Hạn chế việc dùng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn. Đầu tư vào tài sản cố định chủ yếu phải là vốn của doanh nghiệp trước đây, thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã quy định tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn, tối đa không quá 25% tổng dư nợ của Ngân hàng thương mại, đến nay hầu như không nhắc đến.
Ngân hàng thương mại nên chuyển từ hình thức cho vay chi phí sản xuất, luân chuyển hàng hoá sang hình thức chiết khấu thương phiếu. Khi doanh nghiệp bán chịu hàng hoá (tín dụng thương mại), khi ấy vốn tín dụng của Ngân hàng thương mại mới xuất hiện, với thời hạn cho vay ngắn. Nói khác đi, vốn sản xuất hàng hoá là vốn của Doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại cho vay, nhận tài sản thế chấp là giấy tờ có giá, dễ chuyển ra tiền khi bị rủi ro.
Chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt Nam nên khẩn trướng thành lập Ngân hàng chính sách trên cơ sở phục vụ người nghèo và hoạt động Tín Dụng chính sách của các Ngân hàng thương mại khác. Ngân hàng phục vụ người nghèo hiện nay là mô hình hoàn toàn không hoàn chỉnh, khó chấp nhận. Đồng thời Ngân hàng nhà nước nên kết hợp với các bộ, ngành có liên quan sơ kết thực hiện thông tin liên bộ số 03.
Phần III: Một số ý kiến về hướng giải quyết chung
Dựa trên tình hình hoạt động của các ngân hàng hiện nay, và cụ thể là vấn đề làm thế nào để nâng cao hiệu quả công tác quản lý. Theo tôi cần có các hoạt động tiến hành nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và huy động vốn tốt. Nhưng vai trò không kém phần quan trọng đó là thực hiện quản lý nó phải hợp lý. Thông qua các hướng giải quyết sau đây:
III.1 Thực hiện cơ cấu lãi Ngân hàng thương mại dưới góc độ về quy mô huy động nguồn vố và xử lý nợ:
Giải quyết được điều này sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh, tính an toàn, ổn định làm trong sạch bảng cân đối của các Ngân hàng thương mại hay làm từng mức độ uy tín. Vấn đề đặt ra gồm:
III.1.1 Tăng vốn nhưng hệ số an toàn chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế:
Nó rất quan trọng, không chỉ là cơ sở để xác định số lượng vốn có thể sử dụng để cho vay trung - dài hạn, mà còn để đánh giá sức mạnh của một ngân hàng, khả năng rút vốn hàng loạt của khách hàng khi có dấu hiệu mất khả năng thanh toán, hay giảm sút uy tín. Từ đó nhận ra quy mô vốn điều lệ của các Ngân hàng thương mại Quốc Doanh không tương xứng với tốc độ tăng quy mô huy động vốn và tín dụng đối với nền kinh tế. Nhờ quá trình vốn hoá với năm 1998 mà tỉ lên an toàn của các ngân hàng tăng lên. Hiện nay Ngân hàng thương mại Quốc Doanh còn yếu ở cả hai mặt đó là quy mô vốn nhỏ và tỷ lệ an toàn thấp. Do quy mô vốn nhỏ gây khó khăn không ít cho Ngân hàng thương mại , do để mở rộng hoạt động của Ngân hàng thì sử dụng triệt để chức năng “Đi vay để cho vay”. Quy mô khác biệt để tạo ra lợi thế khác biệt giữa các Ngân hàng trong cạnh tranh. Để tăng cường tỉ lệ an toàn vốn và tính ổn định, bền vững của Ngân hàng thương mại thì việc bổ sung vốn điều lệ là cần thiết. Và tăng cường vốn cho Ngân hàng thương mại cổ phần dưới hình thức từ cổ phần và lợi nhuận giữ lại. Tuy nhiên, cả hai cách này đều khó, bởi hoạt động tín dụng cạnh tranh cao trong khi huy động vốn của các Ngân hàng luôn phải đặt mức lãi suất cao hơn các Ngân hàng có quy mô vốn lớn. Do đó, thu hẹp khoảng cách lãi suất giữa các hình thức cho vay, lãi suất cho vay và huy động.
Để nâng cao tỷ lệ an toàn, tăng cương vốn điều lệ, Ngân hàng nên tăng tỷ lệ trích lợi nhuận sang quỹ bổ sung vốn điều lệ, chuyển nợ khó đòi thành vốn thông qua hình thức bảo đảm bằng trái phiếu chính phủ hoặc NSNN cấp bù, giả tỷ lệ thu sử dụng vốn và thuế thu nhập.
Tăng cường vốn điều lệ cho các NHTMQD đã có thì việc tăng vốn của các Ngân hàng thương mại Cổ Phần cũng là bài toán khó. Bởi vốn điều lệ của Ngân hàng này ban đầu nhỏ, tỷ lệ lợi nhuận thấp, nợ quá hạn lớn. Giải pháp thích hợp nhất là hợp nhất một số Ngân hàng có số vốn nhỏ, hoạt động yếu, thành Ngân hàng có quy mô đủ sức cạnh tranh, hoạt động uy tín và góp phần ổn định bền vững của hệ thống Ngân hàng.
III.1.2 Xử lý các khoản vay không hiệu quả:
Nợ xấu có tác động ngược đối với mỗi tổ chức tín dụng, đặc biệt là khi nợ xấu chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng dư nợ cho vốn đối với nền kinh tế. Nợ xấu không chỉ tính đến bị chiếm dụng vốn, mà còn tác động đến tính an toàn, ổn định của Ngân hàng. Do đó xử lý nợ xấu là một bài toán khó. Nợ xấu phát sinh một phần trong thời kỳ bao cấp và một phần còn lại phát sinh trong nền kinh tế thị trường bùng nổ từ đầu thập kỷ 90 cho đến nay. Ngân hàng đang trong qua trình cơ cấu lại đều đề cập tới là giải pháp thành lập công ty mua bán nợ hay công ty quản lý tài sản. Mặt khác chuyển khoản nợ khó đòi sang thành cổ phần, khoả nợ đó được bảo lãnh bởi trái phiếu chính phủ.
Mặt khác khó khăn trong việc lập một công ty dưới sự quản lý của nhà nước bao quát toàn bộ nợ của Ngân hàng thương mại . Việc xác định quá bán của các khoản nợ xấu cũng đang gây tranh cãi, bán với tỷlệ bao nhiêu so với giá trị ghi sổ, và vấn đề bất cập về quản lý và kinh doanh tài sản đó.
Việc giải quyết khoản nợ tồn đọng là cần thiết nhưng chỉ giải quyết được số nợ xấu đã phát sinh, ngăn chặn nợ xấu phát sinh trong tương lai là việc làm quan trọng hơn. Hiện nay, dựa trên nguyên tắc phân loại khoản vay trên cơ sở thời gian nợ quá hạn sẽ che đậy những khoản nợ tiềm ẩn. Nhưng nó sẽ gây cản trở cho việc tích dự phòng tự do. Khắc phục cách phân loại trên một hệ thống phân lại các khoản vay dựa trên cơ sở rủi ro được coi là hệ thống chuẩn quốc tế. Dựa trên cách phân loại này, khoản vay được chia thành nhiều cặp, theo nhiều thứ tự từ chất lượng tốt nhất đến nợ có khả năng thu hồi. Thông qua đây, Ngân hàng nâng cao hoạt động của mình thông qua việc đánh giá rõ ràng mức độ rủi ro của mỗi khoản tín dụng và mức rủi ro hợp lý cho mỗi doanh nghiệp đầu tư, có tỷ lệ trích dự phòng rủi ro hợp lý.
III.2 Thực hiện các phương pháp quản lý giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động, đồng thời nâng cao khả năng huy động và sử dụng nguồn vốn:
Một số biện pháp quản lý nguồn vốn rủi ro hiện nay, sẽ có vai trò tốt trong quá trình hoạt động có hiệu quả, và giúp thực hiện tốt công tác huy động vốn tốt hơn thông qua các biện pháp sau:
Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, nó sẽ nhằm phân loại khoản vay và đối tác vay vốn dựa vào mức độ rủi ro tín dụng của nó để quản lý.
Trích lập quỹ dự phòng rủi ro: nhằm bù đắp những rủi ro xảy ra.
Biện pháp phân tán rủi ro: Nắm giữ nhiều tài sản có rủi ro thay vì giữ một hay một số loại tài sản có rủi ro nhất định. Việc phân tán rủi ro tín dụng cho nhiều người vay sẽ giảm rủi ro tín dụng đối với toàn bộ tài sản.
Sử dụng thị trường nợ: Sau khi đầu tư hạch toán cho các doanh nghiệp vay, Tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư khác để chuyển đổi sở hữu khoản nợ nhằm quản lý và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Thông qua các biện pháp rủi ro, kết hợp với việc cơ cấu huy động vốn với chính sách lãi suất hợp lý sẽ tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại (đã trình bày ở phần trên).
III.3 Tóm lại thông qua các hương giải pháp về quản lý nguồn vốn và về sử dụng vốn ta có thể đưa ra các định hướng quản lý phù hợp đối với hoạt động Ngân hàng vừa bảo đảm hiệu quả ổn định và bảo đảm khả năng sinh lời.
III.3.1 Về nguồn vốn:
Ngân hàng nên phát triển việc nhận và trả tiền gửi tiết kiệm tại nhà theo yêu cầu của khách hàng thông qua điên thoại. Thể thức này đáp ứng yêu cầu của những khách hàng cao tuổi muốn tránh những rủi ro khi mang tiền trên đường đi.
áp dụng thể thức tiết kiệm lâu dài, trả lãi hàng tháng.
Để huy độngvốn dài hạn có kết quả, Ngân hàng cần nghiên cứu áp dụng rộng rãi lãi suất biến động theo quý, trên cơ sở lãi suất cơ bản cộng hoặc trừ chỉ số lạm phát trong quý.
III.3.2 Về sử dụng vốn:
Ngân hàng không nên sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn. Nhiều đạo luật Ngân hàng trên thế giới cấm làm việc này, bởi nó tiềm ẩn rủi ro lớn không lường trước được.
Tỷ lệ đầu tư vốn tín dụng vào các thành phần kinh tế nào là hợp lý. Sự đối xử công bằng của NH đối với tất cả các thành phần kinh tế cần giữ vững nguyên tắc vốn tín dụng là vốn bổ sung. Do đó mức cho vay vốn tuỳ thuộc vào khả năng nguồn vốn và tuỳ theo đơn vị vay vốn có đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn về khả năng trả nợ theo luật pháp quy định hay không.
Lãi suất cần sớm được xã hội hoá, tính trên cơ sở các yếu tố liên quan như tỷ suất lợi nhuận bình quân, tỷ lệ lạm phát và quan hệ cung cầu tiền gửi.
Cung cấp nhều dịch vụ mới khi vào thị trường chứng khoán ra đời.
Kết luận:
Thông qua phần trình bày về đề tài “Một số vấn đề trong quản lý nguồn vốn của các Ngân hàng thương mại nước ta” Tôi đã trình bày về các nội dung có liên quan đến công tác quản lý. Mặt khác cũng xem xét tình hình hoạt động của Ngân hàng thương mại Việt Nam, đồng thời đi sâu vào đánh giá tình hình quản lý nguồn vốn ở Việt Nam. Thông qua chuyên đề này tôi đã hiểu thêm về phương thức hoạt động của NH, đồng thời hiểu được vài trò tầm quan trọng của công tác quản lý nguồn vốn. Đó là nội dung quan trọng đánh giá và là cơ sở để tăng hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Có thực hiện tốt công tác quản lý nguồn vốn mới có thể đảm bảo được 2 chỉ tiêu hoạt động của Ngân hàng đó là đả bảo khả năng thanh toán và khả năng sinh lời. Mặc dù, để thực hiện tốt ở khâu quản lý nguồn vốn đòi hỏi sự phối hợp của rất nhiều công tác quản lý khác,các nghiệp vụ và các phương tiện tính toán dự báo.Do đó , để nâng cao được công tác quản lý nguồn vốn tốt hơn ngoài những hướng giải pháp nêu trên cầu tạo môi trường pháp lý, sự phối hợp giữa các đơn vị với nhau để có thể thực hiện công tác huy động và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả nhất. Vấn đề trình bày trên có thể chưa hoàn chỉnh, chung cho tất cả các mặt nhưng nó góp một phần nâng cao hoạt động Ngân hàng. Vậy, em mong các thầy cô tạo điều kiện bổ sung, mở rộng thêm hướng nghiên cứu để em tiếp tục hoàn thiện đề tài này. Em xin cảm ơn !
Danh mục tham khảo:
Tiến sỹ Nguyễn Hữu Tài ( chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyết Tài chính- Tiền tệ, NXB Thông kê.
Frederic Smiskin Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính. .
Giáo trình ĐH KTQD Ngân hàng thương mại và quản trị nghiệp vụ
F. W Reed and E.K Gill Ngân hàng thương mại.
Peter Rose Quản trị ngân hàn thương mại.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế Số 2(285) – Tháng 2 /2002
Số 7(290) – Tháng 7 /2002
7 . Tạp chí Ngân hàng Tháng 12 / 1999
Số 5 / 1997
Số 3 / 1998
Số 17 /1998
8. Tạp chí Ngân hàng – Tài chính : Số 5,6, 11/2001
Số (1+2) , số 5, 7 ,9 /2002
Số 10 /2000
9. Tạp chí tài chính –Tiền tệ Số 9(455) , số 11(433)
10. Báo cáo thường niên của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
Mục lục
I. Phần mở đầu………………………………………………………………..1
II. Phần nội dung:
A.Phần I: Cở sở lý luận, thực tiễn của công tác quản lý
nguồn vốn của Ngân hàng thương mại ……………………………….2
A.1 . Đánh giá vai trò quản lý nguồn vốn trong
Ngân hàng thương mại ………………………………………………..2
A.2 . Mục tiêu đặt ra đối với công tác quản lý Nguồn vốn…………………...3
A.2.1 .Vấn đề đầu tiên quyết định hoạt động của Ngân hàng thương mại
đó là cơ cấu nguồn vốn…………………………………………………..4
A.2.2. Một số vấn đè quản lý nguồn vốn đặt ra đó là
quản lý về cơ cấu nguồn vốn……………………………………………5
A.3. Các nội dung chính của hoạt động quản lý nguồn vốn trong
Ngân hàng thương mại ………………………………………………….7
A.3.1 Quản lý về quy mô và cơ cấu nguồn vốn……………………………….7
A.3.2 Quản lý về lãi suất chi trả và kỳ hạn……………………………………8
A.3.3. Quản lý khả năng thanh toán………………………………………….11
A.3.4. Quản lý lãi suất bảo đảm về hệ số khả năng sinh lời
trên cơ sở nguồn vốn của NHTM……………………………………..11
B. Phần II: Thực trạng hoạt động quản lý nguồn vốn trong
Ngân hàng thương mại .
B.1. Tình trạng hoạt động chung của Ngân hàng thương mại Việt Nam……13
B.2. Đánh giá về cơ cấu nguồn vốn và quản lý nguồn vốn
trong Ngân hàng thương mại hiện nay…………………………………..15
B.3. Vấn đề bức xúc cần nghiên cứu đối với công tác quản lý nguồn
vốn là xử lý nợ tồn đọng và cơ cấu hợp lý giữa vay và cho vay
vốn ngắn hạn, trung và dài hạn………………………………………….19
3.1. Vốn tín dụng NH bao cấp cho Doanh Nghiệp…………………………19
3.2. Ngân hàng thương mại sử dụng vốn huy động ngắn hạn
không hợp lý……………………………………………………………19
3.3. Ngân hàng thương mại cho vay nhận tài sản thế cháp
là bất động sản ………………………………………………………….20
3.4. Cho vay theo giá trị vật tư tương đương……………………………….21
3.5. Nước ta chưa có ngân hàng chính sách đúng với ý nghĩa của nó……...22
C. Phần III: Một số ỳ kiền về hướng giải quyết.
III.1. Thực hiện cơ cấu lại Ngân hàng thương mại dưới góc độ
về quy mô huy động nguồn vốn và xử lý nợ…………………………...22
Tăng vốn nhưng hệ số an toàn chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế…………26
Xử lý các khoản vay không hiệu quả……………………………… 27
III.2. Thực hiện các phương pháp quản lý giảm thiểu rủi ro trong quản lý… 28
III.3. Tóm lại thông qua các hướng giải pháp về quản lý nguồn
vốn và sử dụng vốn.
3.1. Về nguồn vốn……………………………………………………….. 29
3.2. Về sử dụng vốn………………………………………………………..32
Kết luận.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0941.doc