Đề tài Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Hiệp Hoà - Tỉnh Bắc Giang

Thuế GTGT là một trong những loại thuế gián thu điều tiết một phần vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Mọi tổ chức, cá nhân thông qua việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ thực hiện nghĩa vụ thuế với ngân sách Nhà nước. Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào ngân sách Nhà nước theo mức độ tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. 1.2.1.2. Đặc điểm của thuế GTGT: Thuế GTGT ở Việt Nam có những đặc điểm nổi bật sau: - Thuế GTGT là loại thuế có tính chất gián thu: đối tượng nộp thuế GTGT là người bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ, còn người chịu thuế là người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, bởi vì thuế GTGT ẩn trong giá bán ra của hàng hoá, dịch vụ. Nói cách khác Nhà nước gián tiếp thu khoản thuế này của người tiêu dùng thông qua người bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ.

doc75 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Hiệp Hoà - Tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Luật thuế GTGT. Việc kê khai các dữ liệu trên các mẫu biểu cơ bản là đúng thuế suất, đúng nội dung, song vẫn còn một số doanh nghiệp khi kê khai doanh số bán lẻ chưa kê khai mẫu 06/GTGT, hay hoá đơn dịch vụ mua vào (hoá đơn thông thường), chưa kê khai mẫu 05/GTGT, một số doanh nghiệp mới đăng ký thuế chưa nắm rõ thời gian phải nộp tờ khai thuế, do vậy khi cán bộ quản lý đôn đốc mới nộp. * Chất lượng tờ khai thuế GTGT: Các doanh nghiệp NQD trên địa bàn huyện Hiệp Hoà đã kê khai số thuế phải nộp theo hoá đơn đúng quy định nhưng chưa sát với tình hình thực tế kinh doanh, chủ yếu là các doanh nghiệp xăng dầu, sắt thép, dịch vụ ăn uống đã được cán bộ quản lý đôn đốc, nhắc nhở, nhưng việc kê khai doanh số bán cho người mua không ghi hoá đơn vẫn còn tồn tại, chưa chuyển biến nhiều. Ví dụ: Trong quý 4 năm 2005, Công ty TNHH cơ khí Hà Thơ, có trụ sở kinh doanh tại khu 2 Thị Trấn Thắng- Hiệp Hoà - Bắc Giang, kinh doanh 01 tháng nhưng có doanh số lớn. Đội thuế đã kiểm tra chế độ kế toán và xác minh hoá đơn đầu vào, đã phát hiện đơn vị có dấu hiệu lập hóa đơn chồng chéo và có quan hệ mua bán hoá đơn với các doanh nghiệp đã bỏ trốn, đội thuế đã đề nghị tạm dừng bán hoá đơn cho công ty và xác minh lại toàn bộ hoá đơn hàng hoá, dịch vụ mua vào của công ty. Các doanh nghiệp xây dựng chưa nộp báo cáo của các hợp đồng xây dựng để tiện theo dõi trong công tác quản lý, vì vậy trong lĩnh vực xây dựng chưa theo dõi, quản lý kịp thời, dẫn đến chất lượng kê khai của ngành xây dựng chưa sát với tình hình kinh doanh thực tế. Các doanh nghiệp bán hàng hoá, dịch vụ, đại lý kê khai chưa đúng với tờ khai, dẫn đến số thuế phải nộp và số thuế được khấu trừ chưa đúng với thực tế. Ví dụ: Doanh nghiệp bán đồ điện dân dụng Việt Đức chưa kê khai doanh số bán lẻ cho các đối tượng không lấy hoá đơn, do vậy việc kê khai doanh số bán ra thấp hơn so với tình hình sản xuất kinh doanh thực tế của doanh nghiệp. Công tác quản lý tờ khai thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD của chi cục thuế Hiệp Hoà tháng 12/2004 và tháng 12/2005 như sau: ( biểu 5). Tờ khai thuế GTGT tháng 12/2004 và tháng 12/2005 Loại hình DN Số đơn vị phải nộp Số đã nộp Số phát sinh giảm (-) Số phát sinh phát sinh tăng (+) 2004 2005 2004 2005 2004 2005 2004 2005 Cty cổ phần 3 3 - 3 - 2 - 1 Cty TNHH 22 23 19 17 11 12 3 5 DN tư nhân 3 3 1 2 - 1 - 1 HTX 2 2 2 1 - - 2 - Xí nghiệp - 1 - 1 - 1 - - Tổng 30 32 22 24 11 16 5 7 Nguồn: chi cục thuế Hiệp Hoà. Qua bảng số liệu trên có thể thấy: Số lượng doanh nghiệp nộp tờ khai thuế GTGT tháng 12/2005 cao hơn so với cùng kỳ năm 2004, đảm bảo thời gian nộp cũng tốt hơn, tuy nhiên về chất lượng lại không tốt, biểu hiện: Số tờ khai phát sinh âm (-) của năm 2005 tăng so với năm 2004 là rất đáng kể, trong khi đó số phát sinh dương (+) có tăng nhưng số tăng là không nhiều. Nguyên nhân lớn nhất của vấn đề chất lượng tờ khai, nguyên nhân quan trọng nhất là trình độ thiếu hiểu biết, thiếu ý thức chấp hành luật thuế GTGT của các ĐTNT; cố tình kê khai hoặc để ngoài những khoản thu nhập làm tăng doanh số kê khai với mục đích nhằm làm giảm số thuế GTGT đầu ra, tăng số thuế GTGT đầu vào; thêm vào đó là tình trạng nền kinh tế nước ta chưa đủ phát triển để khách hàng khi mua hàng hoá đều có ý thức lấy hoá đơn, chứng từ; phần nữa, như đã nêu ở trên, với số lượng cán bộ quản lý là rất ít so với số doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn, trình độ nghiệp vụ chưa thật sự cao, còn ngại đấu tranh với doanh nghiệp để nâng cao chất lượng tờ khai thuế. Việc chuyển sang quy trình tự tính thuế, tự khai và tự nộp đã đề cao được sự chủ động cũng như sự tự chịu trách nhiệm của ĐTNT trong việc kê khai, tính thuế. Tuy nhiên, về phía ĐTNT, phải nắm vững các quy định về thuế suất, cách xác định số thuế phải nộp, các hồ sơ, chứng từ cần thiết làm cơ sở để xác định nghĩa vụ thuế như các điều kiện miễn, giảm thuế, hoàn thuế... Lợi ích của việc áp dụng quy trình mới đã thể hiện rõ: Khối lượng công việc của các cán bộ thuế có phần giảm bớt, ĐTNT tự giác hơn, chủ động hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình và điều quan trọng nhất là thiết lập được niềm tin giữa ĐTNT đối với cơ quan thuế trong quản lý thuế. Đối tượng nộp thuế phải kê khai mọi chỉ tiêu, nội dung về thuế GTGT có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh phát sinh như: thuế GTGT đầu vào, thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, số thuế GTGT được hoàn trả, thuế GTGT kỳ trước chuyển sang... Đây là những đòi hỏi khách quan, tuy nhiên là thách thức không nhỏ đối với người kê khai thuế và cán bộ thuế khi nhận tờ khai để kiểm tra. Kết luận: Năm 2005 là năm thứ 2 Chi cục thuế Hiệp Hoà thực hiện quản lý thuế theo quy trình mới, bãi bỏ thông báo thuế, thay vào đó là cơ chế ĐTNT tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Thời gian đầu thực hiện, cũng như ở các địa phương khác, ĐTNT còn rất lúng túng, song, nhờ sự nhắc nhở, đôn đốc và xử phạt nghiêm minh của cơ quan thuế nên thái độ và tính tự giác kê khai nộp thuế của đại bộ phận các doanh nghiệp đã có nhiều tiến bộ, số lượng tờ khai không mắc sai phạm ngày càng tăng cao. 2.2.3. Quản lý việc thu nộp thuế GTGT: * Công tác thu nộp thuế: Công tác thu nộp thuế GTGT trên địa bàn huyện Hiệp Hoà trong những năm gần đây đã có nhiều cố gắng đáng được ghi nhận. Cụ thể: Trong năm 2005, được sự quan tâm chỉ đạo của Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Hiệp Hoà, sự chỉ đạo trực tiếp của cục thuế Bắc Giang và sự nỗ lực phấn đấu của các cán bộ trong chi cục, Chi cục thuế Hiệp Hoà đã hoàn thành suất sắc kế hoạch được giao, kết quả thực hiện từ năm 2001 đến năm 2005, năm nào chi cục cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch, năm sau cao hơn năm trước. Số thu năm 2005 tính đến ngày 20/12/2005 chi cục thuế Hiệp Hoà đã thu được 15.769 triệu đồng, dự toán giao là 14.102 triệu đồng - đạt 112% dự toán năm và bằng 106% so với cùng kỳ năm 2004. Số liệu chi tiết được thể hiện qua biểu sau: Bảng báo cáo tổng kết công tác thu thuế, phí, lệ phí năm 2005: (biểu 6). (Đơn vị: triệu đồng) Số TT Chỉ tiêu Dự toán năm 2005 Thực hiện năm 2005 Tỷ lệ hoàn thành (%) Tỷ lệ hoàn thành so với cùng kỳ năm 2004 Tổng Thu 14.102 15.769 112 106 1 Thuế CTN (NQD) 3.023 3.332 110 104 2 Phí trước bạ 130 254 195 100 3 Thuế SDĐNN 106 120 113 100 4 Thuế nhà đất 480 399 83 85 5 Thuế CQSDĐ 350 355 101 106 6 Thu cấp QSDĐ 7.000 8.646 124 118 7 Thu tiền thuê đất 3 3 100 60 8 Phí, lệ phí 650 660 102 106 9 Thu khác NS 2.360 2.000 85 102 Nguồn: chi cục thuế Hiệp Hoà. Trong nhiệm vụ được giao, chi cục thuế Hiệp Hoà luôn coi công tác quản lý thu thuế khu vực NQD là trọng tâm và xác định đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn, nặng nề. Nhìn vào bảng báo cáo trên ta thấy: Số thu năm 2005 của khu vực NQD là 3.332 triệu đồng, đạt 110% dự toán năm và bằng 104% so với cùng kỳ năm 2004. Để hoàn thành vượt mức kế hoạch như trên không chỉ nhờ sự nỗ lực phấn đấu của các cán bộ ngành thuế mà còn có sự góp mặt của các ĐTNT, mà ở đây chính là các doanh nghiệp NQD hoạt động trên địa bàn huyện Hiệp Hoà thuộc sự quản lý của Chi cục thuế Hiệp Hoà. Với ý thức thực hiện nghĩa vụ nộp đúng, nộp đủ và nộp kịp thời số thuế vào kho bạc Nhà nước, các doanh nghiệp này đã rất đáng được khích lệ. Thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD: Trên cơ sở tờ khai thuế GTGT của các doanh nghiệp, tổ XLDL sẽ kiểm tra tính đầy đủ, đúng đắn của tờ khai theo đúng mẫu quy định, kê khai đầy đủ các chỉ tiêu có xác nhận của doanh nghiệp. Sau khi nhận tờ khai thuế GTGT vào chương trình quản lý, chương trình sẽ xác định số thuế phải nộp theo tờ khai để theo dõi việc nộp thuế của doanh nghiệp vào kho bạc, đồng thời phát hiện ra những sai sót liên quan đến thủ tục tờ khai của các doanh nghiệp và ra thông báo đề nghị điều chỉnh tờ khai thuế GTGT. Trường hợp, nếu doanh nghiệp không nộp tờ khai thuế GTGT, cơ quan thuế sẽ thực hiện phạt vi phạm hành chính thuế đối với doanh nghiệp đó và thực hiện ấn định thuế đối với các doanh nghiệp không sửa lỗi tờ khai; doanh nghiệp có nghĩa vụ phải nộp thuế GTGT vào kho bạc mà không cần có thông báo thuế, chỉ cần thông báo ấn định thuế. Bảng báo cáo quản lý thuế GTGT theo ngành: (biểu 7). (Đơn vị: đồng) Ngành Số thực thu Chênh lệch Năm 2004 Năm 2005 Số tiền Tỷ lệ (%) Sản xuất 400.294.000 405.280.000 4.986.000 101,25 Xây dựng 107.879.000 148.680.000 40.801.000 137,82 Thương nghiệp 710.136.000 1.064.641.000 354.505.000 149,92 Vận tải 80.415.000 71.976.000 -8.439.000 89,51 Phục vụ 106.299.000 213.751.000 107.452.000 201,08 Cộng 1.405.023.000 1.904.328.000 499.305.000 135,54 Nguồn: chi cục thuế Hiệp Hoà. Qua bảng số liệu trên cho thấy: Tổng số thu các ngành của thuế GTGT năm 2005 tăng rất cao so với năm 2004: Số thực thu năm 2005 là 1.904.328.000đ, tăng 499.305.000đ so với năm 2004, tỷ lệ tăng so với năm 2004 là 35,54%. Trong đó, ngành có số thu tăng cao nhất là ngành phục vụ, tăng 107.452.000đ so với năm 2004 và tỷ lệ tăng là 101,08%. Bên cạnh đó còn có một số ngành có số thu thấp hơn so với năm 2004, tiêu biểu là ngành vân tải, với số thực thu năm 2005 là 71.976.000đ, giảm 8.439.000đ so với năm 2004, tỷ lệ giảm tương ứng là (-10,49%). Để đạt được kết quả cao, ban lãnh đạo Chi cục thuế Hiệp Hòa đã chỉ đạo đội quản lý doanh nghiệp hàng tháng phải rà soát, đánh giá lại tờ khai thuế GTGT, có báo cáo "thẩm định tờ khai thuế hàng tháng” của đội quản lý doanh nghiệp. Tổ chức công tác duyệt bộ riêng đối với ghi thu tập thể, có sự tham gia của tổ thanh tra- kiểm tra, tổ xử lý dữ liệu và tổ nghiệp vụ hỗ trợ để đánh giá thẩm định tờ khai thuế GTGT của các doanh nghiệp, từ đó phát hiện các doanh nghiệp kê khai chưa sát với tình hình kinh doanh thực tế, kiểm tra các sổ sách kế toán của những đơn vị có dấu hiệu nghi vấn. * Công tác thu hồi nợ đọng: Tính đến 31/12/2005, tổng số đơn vị kinh doanh có số nợ đọng thuộc quản lý của Chi cục thuế Hiệp Hoà là 16 đơn vị, tổng số tiền nợ đọng là 281.883.000đ. Trong đó, theo sự phân tích của đội QLDN: - Dây dưa: 06 cơ sở, số tiền là 84.278.000đ. - Tạm nghỉ: 02 cơ sở, số tiền là 26.990.000đ. - Có khả năng thu: 08 cơ sở, số tiền là 170.615.000đ; tính đến 13/01/2006, nợ có khả năng thu đã thu được của 06 đơn vị, số tiền thu được là 71.435.000đ. Sau khi phân tích và ra thông báo nợ tiền thuế, ngày 06/12/2005 tổ xử lý dữ liệu áp dụng quy trình đã ra thông báo phạt nộp chậm tiền thuế 09 đơn vị, còn nợ tổng số thuế là 60.220.000đ (trong đó tiền phạt nộp chậm là 1.754.000đ). 2.2.4. Quản lý quyết toán thuế: Quyết toán thuế GTGT là một khâu quan ttrọng trong quy trình quản lý thu thuế GTGT, nó không chỉ là căn cứ cho biết tình hình thu nộp thuế GTGT của doanh nghiệp mà còn là một tài liệu quan trọng cho công tác thanh tra, kiểm tra khi cần thiết. Theo quy định của Luật thuế GTGT hiện hành, cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế hàng năm với cơ quan thuế do đặc thù của quản lý quy trình quyết toán thuế là 3 tháng đầu năm sau sẽ nhận và xử lý quyết toán thuế của năm trước. * Công tác thu nộp tờ quyết toán thuế của chi cục thuế Hiệp Hòa được thể hiện cụ thể qua bảng sau: (biểu 8). Năm Số ĐV phải nộp QT Số ĐV đã nộp QT Số ĐV nộp chậm Số ĐV đã xử phạt HC Số tiền phạt (đ) Số ĐV chưa nộp QT 2003 24 20 2 2 1.000.000 4 2004 32 27 2 0 - 5 2005 30 28 5 0 - 2 Nguồn: chi cục thuế Hiệp Hoà Qua bảng sô liệu trên ta thấy: - Năm 2003: Số đơn vị phải nộp quyết toán thuế cho năm tài chính 2002 là 24 đơn vị, số đơn vị đã nộp là 20 (trong đó có 02 đơn vị nộp chậm và chi cục thuế Hiệp Hoà đã quyết định xử phạt hành chính 02 đơn vị này, số tiền phạt là 1.000.000đ), còn lại 04 đơn vị chưa nộp. - Năm 2004: Tổng số đơn vị phải nộp quyết toán thuế cho năm tài chính 2003 là 32 đơn vị, số đơn vị đã nộp là 27 đơn vị, (trong đó 02 đơn vị nộp chậm), còn lại 05 đơn vị chưa nộp và không có đơn vị nào bị xử phạt hành chính. - Năm 2005: Tổng số đơn vị phải nộp quyết toán thuế cho năm tài chính 2004 là 30 đơn vị, số đơn vị đã nộp là 28 đơn vị (trong đó có 05 đơn vị nộp chậm), số đơn vị chưa nộp là 02 đơn vị và chi cục thuế Hiệp Hoà cũng không thực hiện xử phạt hành chính đối với các đơn vị nộp chậm và chưa nộp quyết toán thuế của năm này. * Công tác kiểm tra quyết toán thuế: Kết quả công tác kiểm tra hồ sơ quyết toán thuế năm 2003 và năm 2004 của chi cục thuế Hiệp Hoà đối với các doanh nghiệp NQD trên địa bàn: - Năm 2003: Toàn bộ hồ sơ kiểm tra quyết toán thuế của các doanh nghiệp đều không có báo cáo tài chính; không có bảng cân đối số phát sinh; báo cáo xuất, nhập, tồn không kèm theo tờ khai, bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bảng kê hàng hoá, dịch vụ bán ra. - Năm 2004: Phần lớn các hồ sơ quyết toán đã có báo cáo tài chính nhưng vẫn chưa kèm theo tờ khai và bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào; bảng kê hàng hoá, dịch vụ bán ra, do đó việc kiểm tra hoá đơn, chứng từ hàng hoá, dịch vụ mua vào còn hạn chế . Năm 2003: Chi cục không gửi xác minh hoá đơn; năm 2004, chi cục có kiểm tra nhưng không phát hiện hoá đơn đầu vào của các doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh, đặc biệt là không xác minh được các hoá đơn đầu vào của các doanh nghiệp thuộc quản lý của chi cục thuế Hiệp Hoà. Có thể nói, chi cục thuế Hiệp Hoà chưa thực hiện được tinh thần mà điểm 3 của công văn số 4793/ TCT- NC6 ngày 18/ 12/ 2002 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế đã quán triệt. Sang năm 2005, xác định công tác kiểm tra quyết toán thuế là mục tiêu hết sức quan trọng, chi cục thuế Hiệp Hoà đã thực hiện kiểm tra bước một với 14 doanh nghiệp, làm tăng số thu thuế GTGT là 11.681.000đ, trong đó: Công ty cổ phần tăng 2.670.000đ; Công ty TNHH tăng 7.604.000đ; HTX tăng 393.000đ; DNTN tăng 1.014.000đ. Sau khi thực hiện xong kiểm tra bước một, tổ thanh tra- kiểm tra đã phối hợp với đội quản lý doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kiểm tra, lập danh sách những đối tượng cần phải kiểm tra và báo cáo về Cục thuế Bắc Giang (các doanh nghiệp phải kiểm tra chủ yếu tập trung vào những doanh nghiệp nhiều năm liền chưa kiểm tra quyết toán thuế, những đối tượng có thể khai thác được số thu lớn và những đối tượng có dấu hiệu vi phạm), và chuẩn bị tiến hành công tác kiểm tra quyết toán thuế bước 2. Công tác kiểm tra quyết toán thuế bước 2 tại doanh nghiệp: Sau khi yêu cầu doanh nghiệp xuất trình những tài liệu có liên quan đến việc tính toán các số liệu tổng hợp phản ánh trong báo cáo quyết toán để xác định số liệu chi tiết trên sổ kế toán có phù hợp với số liệu tổng hợp hay không, rồi đối chiếu với các tài khoản liên quan để phát hiện các mâu thuẫn và kiểm tra chứng từ kế toán. Kết quả kiểm tra quyết toán thuế bước 2 ở 5 đơn vị, số thu thuế GTGT tăng là 9.448.000đ, trong đó: số thu tăng của công ty cổ phần là 965.000đ; công ty TNHH là 6.312.000đ; HTX là 748.000đ; DNTN là 1.423.000đ. Năm 2003: Chi cục đã ra 14 quyết định kiểm tra quyết toán thuế năm 2002; kết quả: xử phạt, truy thu và phạt 14 đơn vị với số tiền là 17.110.000đ. Năm 2004: Chi cục đã ra 18 quyết định kiểm tra quyết toán thuế năm 2003; kết quả: xử lý truy thu và phạt 16 đơn vị với số tiền là 18.879.000đ, còn 2 đơn vị chưa kết thúc. Năm 2005: Toàn chi cục đã ra 82 quyết định kiểm tra, tính đến hết năm đã kết luận 67 đơn vị, số thuế truy thu và xử phạt là 116.182.000đ, trong đó: - Kiểm tra quyết toán đối với các DNTN, công ty TNHH và công ty cổ phần là 14 đơn vị, với số thuế truy thu và xử phạt là 93.672.000đ. - Kiểm tra quyết toán đối với các hộ kê khai và hộ khấu trừ là 53 hộ, số thuế truy thu và xử phạt là 22.510.000đ, còn 05 quyết toán, kiểm tra chưa có kết luận (trong đó có 02 quyết định đối với doanh nghiệp và 03 quyết toán đối với hộ cá thể). Như vậy có thể thấy, công tác quản lý quyết toán thuế năm 2005 đã đạt kết quả cao hơn rất nhiều so với những năm trước, mặc dù ý thức chấp hành công tác quyết toán thuế của các doanh nghiệp chưa tốt, song, bằng sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ quản lý, sự phối hợp của các tổ, đội trong Chi cục và sự kiên quyết đấu tranh của cơ quan thuế đã làm giảm đáng kể số thuế thất thu. 2.2.5. Công tác thanh tra và kiểm tra: Việc củng cố và tăng cường tổ chức bộ máy cán bộ cũng như chỉ đạo mọi hoạt động thanh tra- kiểm tra là vấn đề quan tâm hàng đầu của lãnh đạo chi cục thuế Hiệp Hoà. Từ sau cải cách thuế lần 2, với sự có mặt của 2 loại thuế là thuế GTGT và thuế TNDN thì công tác thanh tra- kiểm tra đã được triển khai và tăng cường hơn lúc nào hết nhằm phát huy tính hiệu quả trong công tác quản lý thu thuế GTGT. Xác định công tác thanh tra- kiểm tra là một trong những biện pháp quan trọng trong việc chống gian lận, chống thất thu thuế góp phần nâng cao ý thức thực hiện pháp luật thuế của các doanh nghiệp, nên trong năm qua chi cục thuế Hiệp Hoà đã tiến hành nhiều hoạt động thanh tra- kiểm tra, đưa những cán bộ có đủ năng lực vào đảm nhiệm các vị trí quan trọng nhằm phát huy hết vai trò và năng lực của toàn cán bộ, nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Việc thanh tra- kiểm tra cũng được tiến hành thường xuyên đối với các doanh nghiệp NQD như: tình hình hoạt động, việc thực hiện chế độ kế toán, việc sử dụng hoá đơn, chứng từ... Nói chung, tình hình tiến hành công tác thanh tra- kiểm tra đối với các doanh nghiệp NQD của chi cục thuế Hiệp Hoà được thực hiện tương đối chặt chẽ. 2.3. Đánh giá chung về công tác quản lý thu thuế GTGT của chi cục thuế Hiệp Hoà đối với doanh nghiệp NQD trên địa bàn huyện Hiệp Hoà-Bắc Giang. 2.3.1.Những thành tích đã đạt được. Nhìn một cách tổng thể thì công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD trên địa bàn huyện Hiệp Hoà đã đạt được những yêu cầu đặt ra cả về số thu vào ngân sách và về công tác ổn định Luật thuế GTGT. Trong các nhiệm vụ được giao, chi cục thuế Hiệp Hoà luôn coi công tác quản lý thu thuế khu vực NQD là công tác trọng tâm mà đặc biệt là công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD. Chi cục thuế Hiệp Hoà đã có nhiều cố gắng, phân công cán bộ các xã một cách hợp lý, cải tiến công tác thu, gắn số thu với lương và tiền công tác phí, xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm của cán bộ thuế. Nhờ những cố gắng đó công tác thu, thanh toán được diễn ra nhanh gọn, đầy đủ và kịp thời vào ngân sách; hiện tượng chậm nộp tiền thuế và dây dưa thuế cũng giảm rõ rệt. Nhờ công tác tuyên truyền chính sách thuế ngày càng sâu rộng nên nhận thức và ý thức trách nhiệm của ĐTNT ngày càng tốt hơn. Với số thu thuế vượt mức đứng thứ 05 trong toàn Cục thuế Bắc Giang, chi cục thuế Hiệp Hoà rất đáng được khích lệ. Số thu thuế NQD: dự toán năm 2005 là 3.023 triệu đồng; thực hiện được 3.332 triệu đồng; tỷ lệ hoàn thành đạt 110%; tỷ lệ hoàn thành so với cùng kỳ năm 2004 đạt 104%. Chi cục thuế Hiệp Hoà là 1 trong 7 chi cục hoàn thành dự toán năm 2005 đối với chỉ tiêu NQD. Với tinh thần trách nhiệm, bám sát quy trình quản lý, đội QLDN luôn theo dõi được tình hình quản lý các doanh nghiệp trên địa bàn, không để sót, chậm quản lý đối với các doanh nghiệp mới thành lập; các doanh nghiệp mới phát sinh đều được hướng dẫn, đôn đốc kê khai, nộp thuế kịp thời. Chi cục đã thực hiện tốt Chỉ thị của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế “coi các doanh nghiệp nộp thuế như khách hàng”; đội thuế đã tập trung hướng dẫn, giải đáp các thắc mắc từ phía các doanh nghiệp, 100% các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động kinh doanh đều được hướng dẫn thực hiện công tác đăng ký, kê khai nộp thuế. Để đạt được những kết quả trên một phần là nhờ công tác thanh tra- kiểm tra được tiến hành thường xuyên, liên tục, nên đã kịp thời phát hiện các hiện tượng vi phạm trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT. Tóm lại, công cuộc cải cách hệ thống thuế đã góp phần tích cực vào việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Thu ngân sách ngày càng tăng lên, phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường và thực hiện đúng lộ trình hội nhập quốc tế. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân. * Những hạn chế cần khắc phục. Mặc dù số thu trên địa bàn đạt tỷ lệ cao, song vẫn còn thất thu ở một số lĩnh vực thuế NQD. Nhìn chung, trình độ hiểu biết về thuế, ý thức chấp hành các luật, pháp lệnh thuế của đại bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Nhà nước còn nhiều hạn chế, chưa tạo được dư luận rộng rãi lên án mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian lận về thuế, thậm chí còn khá nhiều trường hợp thờ ơ, khuyến khích, đồng tình. Một số cán bộ quản lý thuế trình độ hiểu biết và thực thi về chính sách thuế còn hạn chế; thái độ và phong cách ứng xử còn một số trường hợp chưa thật tận tuỵ, công tâm, khách quan giữa quyền lợi của Nhà nước với quyền lợi của ĐTNT; chưa trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy của các đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện luật thuế. Tình trạng trốn lậu thuế, gian lận thuế, nợ đọng thuế còn diễn ra ở nhiều đơn vị kinh doanh, gây thất thu cho ngân sách. Một số doanh nghiệp cố ý tìm mọi thủ đoạn, dưới mọi hình thức gian lận các khoản tiền thuế phải nộp như: kê khai khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT từ ngân sách Nhà nước; một số khác các doanh nghiệp có đơn xin nghỉ kinh doanh, nhưng thực tế vẫn hoạt động, gây thất thoát tiền thuế của Nhà nước (đơn xin nghỉ kinh doanh trong trường hợp này thực chất chỉ là hình thức trốn lậu thuế). Tình hình sử dụng biên lai thu phí ở một số đơn vị còn vi phạm nguyên tắc tài chính như: Viết biên lai còn lỗi nhiều, không ghi rõ họ tên, địa chỉ người nộp tiền dẫn đến việc khó xác minh khi cần thiết; xoá bỏ biên lai không có lý do chính đáng, không đúng quy định; chữa biên lai, chữa ngày tháng, chữa số tiền... Chất lượng công tác thanh tra- kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan thuế còn hạn chế, chưa phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi gian lận trong việc tính thuế, kê khai thuế, gian lận trong hoàn thuế, miễn giảm thuế. Chức năng và quyền hạn của thanh tra- kiểm tra thuế còn bị bó hẹp, chưa trở thành công cụ có hiệu lực để chống thất thu ngân sách và răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm về thuế. Công tác rà soát tờ khai thuế GTGT và đánh giá quyết toán thuế bước một còn hạn chế, do việc theo dõi tình hình thu nộp thuế chưa khoa học, nghiệp vụ kế toán còn nhiều hạn chế và chưa phát huy được tinh thần tự chủ, sáng tạo để nắm bắt tình hình kinh doanh thực tế của các doanh nghiệp, chưa chủ động tham mưu đề xuất biện pháp quản lý để ngăn chặn các hiện tượng trốn lậu thuế. Sự kết hợp giữa các tổ, đội thuế chưa thật sự đồng bộ, còn có hiện tượng việc ai nấy làm, chưa thường xuyên kết hợp với các đội thuế xã để kiểm tra, khảo sát tình hình kinh doanh thực tế của doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa các tổ, đội còn hạn chế, đặc biệt là tổ thanh tra- kiểm tra trong việc kiểm tra xử lý các đơn vị kinh doanh trốn thuế, vi phạm pháp luật thuế. Nhiều khi cán bộ thuế còn ngại khó, ngại va chạm với các doanh nghiệp, làm việc một cách thụ động, chỉ quan tâm tới các đơn vị đã hoạt động từ trước còn những cơ sở mới phát sinh lại thờ ơ hoặc có làm nhưng chỉ qua loa. Để xảy ra tình hình trên một phần là do cơ quan thuế, mà ở đây là Chi cục thuế Hiệp Hoà chưa chủ động; mặt khác là do các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân chưa nhận thức rõ, đầy đủ vai trò và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ thu ngân sách. * Những nguyên nhân chủ yếu: Thuế thực chất là một phần thu nhập mà ĐTNT trích nộp vào NSNN, do đó khi Nhà nước đánh thuế tức là động chạm đến lợi ích của người nộp thuế, họ sẽ phản ứng bằng nhiều cách khác nhau với mục đích nộp thuế càng ít càng tốt, họ không thấy được lợi ích của việc nộp thuế, cho nên những tồn tại trong công tác quản lý thu thuế của cơ quan thuế luôn là yếu tố khách quan. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại này là: Thứ nhất: Là do ý thức của các doanh nghiệp chưa tốt, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ còn hạn chế. Hơn nữa, với nền kinh tế tiền mặt, các hoạt động mua bán, chi trả giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa các doanh nghiệp với khách hàng chủ yếu là bằng tiền mặt; việc thanh toán thông qua ngân hàng vẫn đang là hình thức mang tính chất động viên, khuyến khích, chưa bắt buộc nên những hành vi mua, bán không có hoá đơn, chứng từ, bỏ ngoài sổ sách kế toán vẫn thường xuyên diễn ra. Thứ hai: Phải kể đến là sự hạn chế về số lượng và trình độ nghiệp vụ của cán bộ thuế, cán bộ thuế một phần là do chuyển ngành, chưa được đào tạo chính quy để thực hiện công tác thuế, một phần chỉ học qua các lớp tại chức, chưa được đào tạo lại. Sự thiếu kiên quyết khi xử phạt hành chính đối với những hành vi vi phạm đã tạo ra tâm lý coi thường pháp luật của các ĐTNT. Thứ ba: Là do mức thu nhập của cán bộ quản lý chưa cao, so với tốc độ tăng trưởng, với mức tăng của giá cả thì khả năng thu nhập đó rất khó khăn trong việc đảm bảo đời sống, đó chính là lý do làm cho một phần tinh thần nhiệt huyết của các cán bộ quản lý bị giảm sút, với tư tưởng thu được thuế nhiều hay ít, kể cả không hoàn thành thì vẫn mức thu nhập được hưởng là như nhau. Ngoài ra còn tạo ra sự ảnh hưởng của đồng tiền, làm cho một số cán bộ thuế có những hành vi trái pháp luật như: bao che, móc ngoặc với ĐTNT để thực hiện mục đích cá nhân, ĐTNT thì có cơ hội trốn được thuế còn cán bộ quản lý thì lại có thêm thu nhập. Thứ tư: Là do chính sách thuế còn nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội lách luật. Hệ thống chính sách thuế còn nhiều mức thuế suất, chưa thực sự đảm bảo bình đẳng, công bằng về nghĩa vụ nộp thuế, dễ phát sinh tiêu cực làm phức tạp công tác quản lý thuế. Thứ năm: Là những quy định xử phạt thực sự chưa đồng bộ, chưa phát huy được hiệu lực như: Trong quá trình quản lý, cán bộ quản lý thuế có thẩm quyền kiểm tra sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ nhưng lại không có thẩm quyền xử phạt; hay khi phát hiện những đối tượng có dấu hiệu gian lận, muốn thanh tra- kiểm tra lại phải đợi quyết định của cấp trên, như vậy công tác quản lý dẫ bị gián đoạn, đó là cơ hội cho đối tượng thực hiện hành vi gian lận. Trên đây là một số những hạn chế và nguyên nhân chính đang tồn tại trong công tác quản lý thu thuế của chi cục thuế Hiệp Hoà, cần phải đưa ra những giải pháp cụ thể để sớm khắc phục được tình trạng trên nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD trên địa bàn. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HIỆP HOÀ- TỈNH BẮC GIANG Thuế là một phạm trù lịch sử, nó không thể bất biến, cố định mà đòi hỏi phải thường xuyên được sửa đổi, bổ sung tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, góp phần tích cực vào việc thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược kinh tế- chính trị- xã hội do Nhà nước đặt ra cho mỗi thời kỳ. Đối với ngành thuế nói chung và chi cục thuế Hiệp Hoà nói riêng, yêu cầu đặt ra là phải bằng mọi biện pháp có thể để tập trung được đủ số thu được giao vào NSNN trong thời gian sớm nhất, đảm bảo các nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Đứng trước yêu cầu đó, chi cục thuế Hiệp Hoà một mặt tiếp tục cố gắng triển khai, tăng cường các nghiệp vụ quản lý thu thuế đối với toàn bộ các nguồn thu phát sinh trên địa bàn theo phương hướng, kế hoạch đã thống nhất, mặt khác ra sức phối hợp với các cơ quan hữu quan, đưa ra các biện pháp chung nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT và nhanh chóng hoàn thiện, ổn định Luật thuế GTGT, tuy nhiên việc áp dụng và thực hiện Luật thuế GTGT không thể ổn định ngay theo ý muốn chủ quan bởi vì như ta đã biết, chỉ trong vòng gần 8 năm thực hiện Luật thuế này đã có rất nhiều những tồn tại khách quan đựơc sửa đổi bổ sung. Do vậy, để đạt được mục đích nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT trong thời gian tới thì ngành thuế cần phải đưa ra những phương hướng hoạt động, biện pháp, chiến lược cụ thể hơn. Qua thời gian thực tập tại chi cục thuế Hiệp Hoà cùng với những kiến thức đã học, qua những thành tích đã đạt được cũng như những hạn chế tồn tại trong công tác quản lý thu thuế GTGT của chi cục thuế Hiệp Hoà mà tôi đã phân tích ở phần trên, tôi xin mạnh dạn đưa ra các định hướng, mục tiêu và các giải pháp cụ thể nhằm góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT trên địa bàn huyện Hiệp Hoà. 3.1. Định hướng hoàn thiện công tác quản lý thu thế GTGT trong thời gian tới. Công tác thuế là một ngành kinh tế tổng hợp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng, đòi hỏi các cấp uỷ, chính quyền phải thực sự quan tâm chỉ đạo; phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan và chính quyền các cấp thì công tác quản lý thu thuế mới tốt được. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho mọi tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, giáo dục ý thức trách nhiệm, tinh thần tự giác chấp hành pháp luật về thuế, coi việc thực hiện tốt nghiĩa vụ nộp thuế là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân, đồng thời biểu dương các tổ chức, cá nhân thực hiện tôt nghĩa vụ thuế và phê phán, đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Đồng thời với việc đưa ra các định hướng cần có sự quan tâm xem xét của các cơ quan Nhà nước, sớm nghiên cứu đề nghị Nhà nước sửa đổi, bổ sung các luật liên quan để cơ quan thuế được thực hiện quyền điều tra các vụ vi phạm về thuế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế. Để những định hướng trên đây trở nên có hiệu quả trong thời gian tới, ngành thuế nói chung và chi cục thuế Hiệp Hoà nói riêng cần xem xét nghiên cứu áp dụng Luật thuế GTGT một cách triệt để để công tác quản lý thuế GTGT thực sự hiệu quả. 3.2.Mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý thuế GTGT trong thời gian tới. 3.2.1.Mục tiêu tổng quát. Quản lý thu thuế GTGT một cách chặt chẽ đối với toàn bộ các nguồn thu phát sinh trên địa bàn, đặc biệt là các nguồn thu thuộc khu vực kinh tế NQD nhằm hạn chế thất thu thuế ở mức thấp nhất và góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội. Muốn vậy, phải xây dựng được hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời với hiện đại hoá công tác quản lý thuế. 3.2.2.Mục tiêu cụ thể: Một là: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế. Hai là: Triển khai thí điểm và mở rộng cơ chế quản lý “ tự kê khai, tự nộp thuế.” Ba là: Tăng cường tuyên truyền và hỗ trợ đối với ĐTNT. Bốn là: Đẩy mạnh công tác thanh tra- kiểm tra, xử lý vi phạm về thuế, thu hồi nợ đọng thuế. Năm là: Cải cách bộ máy quản lý thuế theo mô hình chức năng, nâng cao năng lực cán bộ thuế, khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững mạnh. Sáu là: Áp dụng công nghệ tin học hiện đại vào công tác quản lý thuế. Bẩy là: Từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, kỹ thuật của cơ quan thuế. 3.3. Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế GTGT đối với doanh nghiệp NQD trên địa bàn huyện Hiệp Hoà- Bắc Giang. 3.3.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ thuế theo hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế tiên tiến, hiện đại; tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức, thái độ phục vụ tận tuỵ, công tâm khách quan, phong cách làm việc khoa học cho cán bộ thuế. Trong tình hình phát triển hiện nay, đòi hỏi người cán bộ quản lý phải thường xuyên học hỏi, tu dưỡng trình độ chuyên môn sâu rộng để kịp thời thích ứng với những đổi mới mang tính tiên tiến, hiện đại. Do đó lãnh đạo Chi cục thuế nên thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ trong chi cục mình nhằm tăng cường hiểu biết cho đội ngũ cán bộ để họ có thể tuyên truyền, hướng dẫn một cách chi tiết cho các ĐTNT khi cần thiết, cố gắng rút ngắn khoảng cách giữa cán bộ thuế và ĐTNT để họ trở thành những người bạn đồng hành đáng tin cậy trong việc thực hiện các luật thuế. 3.3.2. Quản lý đối tượng nộp thuế. Chi cục thuế bằng nhiều hình thức, biện pháp phải phối hợp thường xuyên hơn nữa, chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan chức năng, với chính quyền các xã, thị trấn soát xét tất cả các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh để đưa vào diện quản lý thuế, tránh tình trạng bỏ sót. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục, cơ quan quản lý thu và dưới nhiều hình thức phong phú để tuyên truyền, giáo dục các ĐTNT, giúp họ hiểu biết đầy đủ các chính sách thuế, trách nhiệm pháp luật để nâng cao ý thức tự giác, chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN theo quy định của pháp luật. Hướng dẫn kịp thời, đầy đủ các thủ tục kê khai, tính thuế, lập hồ sơ miễn giảm thuế, quyết toán thuế và nộp thuế vào NSNN để các ĐTNT tự giác thực hiện tốt các nghĩa vụ thuế với Nhà nước, giảm thiểu các sai sót do không hiểu biết gây ra. Hướng dẫn ĐTNT thực hiện tốt công tác kế toán, quản lý chặt chẽ hoá đơn chứng từ để hạch toán đúng kết quả kinh doanh và xác định đúng nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước. Đẩy mạnh triển khai công nghệ tin học vào tất cả các khâu quản lý thuế và đặc biệt là quản lý ĐTNT. 3.3.3. Quản lý doanh thu: Doanh thu là một trong những căn cứ quan trọng để xác định số thuế phải nộp của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh. Một thực tế mà từ trước đến nay chúng ta vẫn thường gặp đó là doanh thu chịu thuế phần lớn không sát với tình hình sản xuất kinh doanh, thậm chí các ĐTNT đã làm mọi cách để giảm doanh thu tính thuế. Theo ý kiến chủ quan của cá nhân tôi, để quản lý thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD thực sự có hiệu quả thì chi cục thuế Hiệp Hoà nên phân loại các doanh nghiệp NQD để dễ dàng quản lý và quản lý chặt chẽ hơn theo chiều sâu, bởi vì công tác kiểm tra đối với mỗi doanh nghiệp là khác nhau, có doanh nghiệp phải dựa vào đặc điểm kỹ thuật, có doanh nghiệp lại dựa vào tính chất hoạt động... Cụ thể đối với một số hình thức kinh doanh như sau: - Đối với hoạt động xây lắp: Quản lý các hợp đồng kinh tế của loại hình này gắn liền với giải trình của đơn vị về tiến độ thực hiện hợp đồng, biên bản nghiệm thu khối lượng công trình hoặc hạng mục công trình hoàn thành bàn giao, biên bản thanh lý hợp đồng, yêu cầu đơn vị viết đầy đủ hoá đơn bán hàng đối với khối lượng hoàn thành bàn giao để theo dõi quản lý chặt chẽ doanh thu và tính thuế GTGT đúng thời điểm. - Đối với ngành XDCB trong dân cư: Qua nghiên cứu báo cáo năm 2004-2005 của chi cục thuế Hiệp Hoà cho thấy việc quản lý thuế GTGT khu vực NQD đối với ngành XDCB đang trong tình trạng thất thu lớn: Theo số liệu thống kê trên địa bàn huyện (phòng thống kê Hiệp Hoà cung cấp), năm 2004 toàn huyện có 142 hộ và năm 2005 có 186 hộ trong dân cư xây dựng nhà cao tầng (từ 3 đến 4 tầng), giá trị công trình bình quân từ 100 triệu đồng đến 150 triệu đồng/ 1 nhà xây dựng. Với mức thuế suất thuế GTGT áp cho ngành XDCB là 10% thì chỉ trong 2 năm qua chi cục thuế Hiệp Hoà đã để thất thu 3.280 triệu đồng, đây là một nguồn thu lớn. Như vậy, nếu chi cục thuế Hiệp Hoà quản lý tốt lĩnh vực này thì hàng năm số thu ngân sách huyện cũng tăng đáng kể. - Đối với ngành kinh doanh xăng dầu: Kiểm tra số lượng tiêu thụ mà cơ sở kê khai với cơ quan thuế và đồng hồ lưu lượng, đồng thời kiểm tra trong sổ sách giao ca với hoá đơn bán hàng... để xác định lượng hàng tiêu thụ. Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo hình thức mua bán giao tay ba để đối chiếu với hợp đồng mua bán của doanh nghiệp, kiểm tra việc thanh quyết toán cước phí vận chuyển và tiền thưởng chiết khấu đơn vị thu được để xác định lượng hàng tiêu thụ mà doanh nghiệp giao tay ba không qua kho. - Đối với doanh nghiệp thương mại và bán hàng đại lý: Tăng cường công tác kiểm tra tờ khai đối chiếu với tổng giá trị hàng bán; so sánh giá bán và giá mua; kết hợp kiểm tra đối chiếu nơi doanh nghiệp khai thác nguồn hàng so với số liệu kê khai của doanh nghiệp; phối kết hợp với cơ quan quản lý thị trường ấn định giá bán thống nhất cho từng loại mặt hàng được trao đổi trên địa bàn huyện. - Đối với ngành hoạt động kinh doanh vận tải NQD: Các doanh nghiệp, HTX kinh doanh vận tải phải tiến hành đăng ký số phương tiện tham gia kinh doanh (được phản ánh trong danh mục tài sản cố định của đơn vị để trích khấu hao); kiểm tra việc gắn doanh số kinh doanh của doanh nghiệp với các chi phí kê đầu vào tập trung vào chi phí xăng dầu, chi phí sửa chữa thông qua chứng từ và bảng kê để xác định đúng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. 3.3.4. Quản lý công tác thu nộp thuế: Để làm tốt công tác quản lý thu nộp thuế đòi hỏi chính sách, chế độ và các biện pháp quản lý thuế phải đơn giản, minh bạch, công khai, dân chủ để nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong xã hội nhằm tuân thủ tự giác các nghĩa vụ về thuế. Doanh nghiệp có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế theo đúng thời gian quy định, Chi cục thuế mà trực tiếp là các cán bộ quản lý phải có trách nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Chứng từ nộp thuế sẽ được chuyển về Chi cục thuế, căn cứ vào chứng từ đó sẽ biết được doanh nghiệp nào đã nộp, doanh nghiệp nào chưa nộp, nộp chậm hay nộp thiếu để đưa ra những biện pháp thích hợp trong quản lý. Chi cục thuế phải tạo các mối quan hệ rộng rãi, phối hợp với các cấp uỷ Đảng, chính quyền, mà cụ thể ở đây là kho bạc Nhà nước. Chi cục thuế và kho bạc luôn luôn phải phối hợp với nhau để đôn đốc hoặc phát hành thông báo chậm nộp thuế của các đối tượng. Trường hợp đã đôn đốc mà vẫn trây ỳ, cố tình dây dưa không nộp hoặc nộp chậm thì phải có những biện pháp cao hơn như kiên quyết tạm dừng bán hoá đơn, cưỡng chế thuế hoặc phối hợp với đài phát thanh của địa phương thông báo danh sách những tổ chức, cá nhân chưa thực hiện nghĩa vụ thuế, những trường hợp nợ thuế quá lớn, nếu vẫn tiếp tục tái phạm thì chuyển hồ sơ sang cơ quan pháp luật đề nghị khởi tố. 3.3.5.Một số giải pháp khác: 3.3.5.1. Tổ chức dịch vụ tư vấn hỗ trợ đối với ĐTNT. Thực tiễn cho thấy, công tác thanh tra- kiểm tra dù có cố gắng đến mấy cũng không thể thực hiện được đối với tất cả các ĐTNT, trong khi đó nếu thực hiện tốt công tác tuyên truyền hỗ trợ đối với ĐTNT chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ ĐTNT được tổ chức tốt sẽ tạo được lòng tin của doanh nghiệp đối với cơ quan thuế cũng như đối với Nhà nước, sự sai sót vô tình hay hữu ý sẽ giảm xuống, chi phí cho việc chấp hành luật thuế (bao gồm cả chi phí quản lý của cơ quan thuế) cũng giảm thiểu. Trước hết nên thay đổi quan niệm cũ, phải coi ĐTNT là khách hàng của cơ quan thuế, nên xoá bỏ quan niệm doanh nghiệp là đối tượng bị quản lý, còn cơ quan thuế là cơ quan cấp trên thực hiện nhiệm vụ quản lý các doanh nghiệp. Muốn vậy mỗi cán bộ quản lý phải đặt mình vào vị trí của các doanh nghiệp để tìm hiểu xem doanh nghiệp đang thiếu cái gì? vướng mắc chỗ nào?... Thứ hai: Có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các nước khác như Nhật Bản: thực hiện “tuần lễ tìm hiểu thuế”, mỗi năm có thể thực hiện một tuần lễ như vậy với những chủ đề khác nhau hoặc nhiều hoạt động xoay quanh một chủ đề được tiến hành như: diễn thuyết, toạ đàm trên tivi, báo chí hoặc qua việc trưng bày tại cơ quan thuế để ý nghĩa và vai trò của thuế được giải thích một cách dễ hiểu nhất. Thứ ba: Thực hiện các chương trình giáo dục về thuế trong nhà trường: cơ quan thuế cần phối hợp với nhà trường dạy cho trẻ hiểu về ý nghĩa và vai trò đúng đắn của thuế ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, giúp thế hệ trẻ của chúng ta sớm nhận thức được ý nghĩa và vai trò của thuế trong việc hỗ trợ nguồn thu cho Nhà nước, bằng cách phát hành các tài liệu về thuế, mở các lớp học về thuế, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật thuế và tuyển chọn các bài viết về thuế của học sinh trung học; chú trọng đến khuyến khích khen thưởng cho các học sinh và các trường có trương trình giáo dục thuế tốt, từ đó góp phần rất lớn trong việc chấp hành pháp luật thuế khi tham gia vào hoạt động kinh tế của đất nước, khi đã nhận thức đúng đắn về thuế thì việc nộp thuế sẽ được coi là hành động yêu nước, và cảm thấy tự hào khi được nộp thuế cho Nhà nước. Thứ tư: Thực hiện dịch vụ tư vấn thuế: không giống các hoạt động khác, dịch vụ tư vấn thuế là hoạt động hỗ trợ, phục vụ theo yêu cầu của ĐTNT, khách hàng của phòng tư vấn thuế là những người dân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những người thiếu kiến thức về thuế. Nội dung chính của hoạt động này là trả lời các thắc mắc về luật thuế, thủ tục kê khai nộp thuế và các thắc mắc khác của ĐTNT. Qua tư vấn thuế, cán bộ thuế có cơ hội tiếp xúc và gần gũi hơn đối với ĐTNT, tạo được niềm tin của các ĐTNT vào cơ quan thuế. Thực hiện tư vấn thuế có thể có nhiều cách như: “diễn đàn trao đổi về chính sách thuế”, trả lời trực tiếp qua điện thoại hoặc FAX, tóm tắt các câu hỏi thường gặp đưa lên trang Web để những người quan tâm có thể truy cập. Các hình thức này đã được thực hiện nhưng chưa phổ biến, chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn tham gia, còn đối với người dân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chưa thực sự hưởng ứng tích cực. 3.3.5.2. Quan tâm đến chế độ thi đua khen thưởng. Công tác thi đua khen thưởng không những phải được thực hiện đối với các cán bộ quản lý thuế có thành tích trong công tác thu thuế mà còn phải chú trọng đến các doanh nghiệp có đóng góp lớn số thuế hàng năm vào ngân sách. Tại chi cục thuế Hiệp Hoà, công tác này đã được thực hiện nhưng còn hạn chế, rất ít những cá nhân, tổ chức được khen thưởng, trong khi đó hàng năm đã có không ít những doanh nghiệp trên địa bàn hoạt động tốt và thực hiện nghĩa vụ thuế đầy đủ, góp phần không nhỏ vào số thu ngân sách hàng năm. Thiết nghĩ, các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước không phải vì mục đích khen thưởng nhưng tâm lý thì bất cứ ai cũng mong muốn mình được khen thưởng. Khen thưởng công khai thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, báo chí, đài truyền thanh...thông qua đó có thể nâng cao uy tín của các doanh nghiệp trên thị trường, cho thấy khả năng vững mạnh về tài chính trong việc tìm đối tác cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Đây cũng là một chính sách đòn bẩy kinh tế có lợi cho doanh nghiệp và Nhà nước. 3.3.5.3. Kiện toàn bộ máy tổ chức và cán bộ thuế. Một trong những nhân tố quyết định đến mọi thắng lợi phải kể đến nhân tố con người, trong công tác quản lý thuế thì đó là các cán bộ thuế. Cùng với công tác cải cách thuế, bộ máy tổ chức và cán bộ thuế phải được sắp xếp cho phù hợp với quy trình quản lý mới. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ theo hướng tập trung vào các khâu công việc chính, thực hiện tinh giảm biên chế, nâng cao hiệu quả đội ngũ cán bộ thuế ở tất cả các khâu trong quy trình quản lý. Đổi mới công tác quản lý cán bộ theo hướng quy định rõ trách nhiệm của từng cán bộ trên từng vị trí công tác: Tổng cục thuế đã có Quyết định số 1481/TCT- TCCB ngày 21/11/2003 quy định về chức năng, nhiệm vụ của các tổ, đội trực thuộc Chi cục thuế. Đánh giá cán bộ chủ yếu căn cứ vào kết quả công tác, về lượng và chất được giao, coi trọng phẩm chất đạo đức, chính trị, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, thực hiện tốt 10 điều kỷ luật ngành thuế. Tăng cường giáo dục nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ thuế. Cán bộ thuế phải được đào tạo lại chủ yếu các kiến thức về quản lý nhà nước, các chính sách thuế, nghiệp vụ quản lý thuế, nghiệp vụ kế toán, phát hiện những sai sót, gian lận trong công tác kế toán của doanh nghiệp; tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý thuế theo phương pháp hiện đại, nâng cao trình độ ứng dụng thành thạo công nghệ tin học...đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá công tác quản lý thuế. Nghiên cứu và tăng cường các biện pháp quản lý, thực hiện luân chuyển cán bộ và luôn phân công việc để chống các tiêu cực nảy sinh trong công tác quản lý thuế. Trong quá trình quản lý, cán bộ thuế phải chú ý lắng nghe các thắc mắc, kiến nghị về những bất hợp lý trong việc thực hiện Luật thuế GTGT của các doanh nghiệp, từ đó tập hợp các ý kiến trình lên lãnh đạo để có những phương hướng, giải pháp chỉ đạo kịp thời hoặc có những kiến nghị với các cấp có thẩm quyền nhằm sửa đổi, bổ sung để Luật thuế GTGT ngày càng hoàn thiện hơn. 3.4. Một số kiến nghị. Qua thời gian thực tập tại chi cục thuế Hiệp Hoà tôi thấy nội dung chính sách thuế đang thực hiện thể hiện ưu điểm là cơ bản, song quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ một số vấn đề theo tôi cần kiến nghị như sau: + Về trình độ chuyên môn của cán bộ thuế: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập với các nước trên thế giới ngày càng mở rộng, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ 2001- 2010 là đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, tăng trưởng kinh tế ở mức cao, xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hoá kinh tế ngày càng ở mức độ cao, quan trọng hơn nữa là tới đây Việt Nam sẽ gia nhập WTO, đây là một tổ chức thương mại lớn gồm 130 nước trên thế giới, nếu nước ta không tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém vươn lên để tồn tại, chiến thắng trong cạnh tranh, sẽ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy việc ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý thuế là vấn đề hết sức cần thiết. Trên thực tế, đội ngũ cán bộ chi cục thuế Hiệp Hoà còn hạn chế về trình độ hiểu biết và thực thi về chính sách thuế, cũng như trình độ tin học, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý hiện đại, đại bộ phận công việc quản lý thuế vẫn là thủ công cho nên năng suất, hiệu quả quản lý còn thấp; phần lớn cán bộ của Chi cục là bộ đội chuyển ngành, tuổi đã cao, ngoài ra số cán bộ có trình độ trung cấp cũng chiếm tỷ lệ lớn, vì vậy Chi cục thuế cần nâng cao trình độ cán bộ thuế về mọi mặt, có những kế hoạch đào tạo trước mắt cũng như kế hoạch lâu dài để tập hợp được đội ngũ cán bộ với trình độ đại học trở lên. + Đối với công tác thu thuế: Hàng năm trên địa bàn vẫn tồn tại tình trạng thất thu thuế, hiện tượng trốn thuế vẫn thường xuyên xảy ra gây thất thoát cho NSNN, nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là công tác thanh tra- kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp với thực trạng của nước ta là trình độ dân trí thấp, nhận thức pháp luật chưa cao; chất lượng kiểm tra còn hạn chế, chưa phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Yêu cầu đặt ra đối với ngành thuế nói chung và chi cục thuế Hiệp Hoà nói riêng là phải thường xuyên đẩy mạnh công tác thanh tra-kiểm tra về thuế nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm về thuế; áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý hoá đơn, kiểm tra đối chiếu hoá đơn để việc thanh tra- kiểm tra đạt hiệu quả cao; xây dựng và áp dụng các chế tài xử lý và cưỡng chế thuế đối với các hành vi gian lận, trây ì, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế... + Về phương tiện phục vụ công tác thuế: Mặc dù đã được trang bị nhưng với số lượng máy móc thiết bị ít, chất lượng không đảm bảo do đã được trang bị quá lâu, so với hiện tại thì số máy móc này đã quá lạc hậu, đây cũng là một phần nguyên nhân làm cho công tác quản lý thuế kém hiệu quả. Để đảm bảo cho công tác thuế mang lại hiệu quả cao, cơ quan thuế cần có kế hoạch bổ sung, thay thế những thiết bị máy móc cũ kỹ đã lạc hậu. + Theo cơ chế một cửa, cần phải cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho ĐTNT. Tại chi cục thuế Hiệp Hoà, điều này chưa được đáp ứng, thể hiện ở chỗ: khâu giải quyết đơn thư khiếu nại, bộ phận tiếp dân còn cồng kềnh, rườm rà, cán bộ tiếp dân chưa đáp ứng được yêu cầu, còn gây phiền hà cho đối tượng. Chi cục thuế Hiệp Hoà cần bố trí những cán bộ có trình độ về chuyên môn cũng như trình độ lý luận để có thể hướng dẫn các chính sách thuế và giải thích những thắc mắc của các đối tượng khi cần thiết. + Công tác thuế là công tác phức tạp liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau ở rải rác khắp nơi trên địa bàn, hoạt động của cán bộ thuế thì đơn lẻ nên rất dễ xảy ra sai phạm, vì vậy cơ quan thuế cần tăng cường kỷ cương, giám sát, kiểm tra một cách chặt chẽ đối với các cán bộ quản lý, đồng thời tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, phẩm chất, đạo đức cho cán bộ của mình. Trên đây là những đánh giá khách quan của cá nhân tôi, chỉ mong được góp một phần nhỏ bé vào quá trình nâng cao hiệu quả quản lý thuế của Chi cục. Tuy nhiên với trình độ lý luận cũng như khả năng thực tế còn hạn chế rất mong nhận được sự chỉ bảo của ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ trong chi cục ! Phần Kết Luận Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cũng như từng bước hội nhập vào tiến trình phát triển trong khu vực và trên thế giới. Việc áp dụng thuế GTGT không chỉ là kết quả của sự chọn lọc các thành tựu kinh tế ở những nước phát triển để áp dụng một cách phù hợp với nền kinh tế nước ta mà còn là một yêu cầu khách quan trong tình hình hiện nay của nước ta. Sau gần 8 năm áp dụng và thực hiện, luật thuế GTGT đã thể hiện được tính ưu việt thực sự của thuế GTGT đối với đặc điểm, tình hình kinh tế nước ta, nhưng qua đó cũng bộc lộ một số vấn đề bức xúc còn tồn tại. Vấn đề đặt ra là nhận biết được những tồn tại đó, tìm ra những giải pháp tích cực nhất để nhanh chóng hoàn thiện và dần đi đến ổn định để thuế GTGT phát huy tác dụng cũng như tính ưu việt một cách hiệu quả nhất đối với nền kinh tế. Qua quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học kinh tế Quốc dân cùng với thời gian thực tập tại Chi cục thuế Hiệp Hoà với những kiến thức đã được trang bị ở trường cộng với một số kiến thức thực tế nắm bắt được qua việc nghiên cứu, tìm hiểu ở chi cục thuế Hiệp Hoà, bản thân tôi đã nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết phải đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD trên địa bàn. Trong khi tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu tôi đã phân tích, đánh giá một cách rất khách quan những thành tích đã đạt được cũng như khách quan trong việc vạch ra những tồn tại trong công tác quản lý thu thuế GTGT của chi cục. Trên cơ sở đó, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị cụ thể cho những tồn tại đó. Tuy nhiên đó cũng chỉ là những ý kiến riêng của cá nhân tôi nên chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết, vì vậy tôi mong muốn nhận được sự chỉ bảo đóng góp ý kiến của các thầy cô, của đội ngũ cán bộ công nhân viên và của toàn thể các bạn để đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Đức Hiển, ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ chi cục thuế Hiệp Hoà đã hướng dẫn và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian qua ! Sinh viên thực hiện Hoàng Thị Tuyến MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5611.doc
Tài liệu liên quan