Nho giáo đã tồn tại ở nước ta hơn 2000 năm và đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến chính trị và đời sống xã hội của nước ta . Đó là một nền tảng vững chắc cho xã hội phong kiến Việt Nam trong suốt thời gian dài . Chính vì thế , ngày nay với sự tiếp thu hệ tư tưởng mới – hệ tư tưởng Mac-Lênin với tính đúng đắn khoa học và sự tiến bộ vượt bậc của nó nhưng những tàn dư của hệ tư tưởng cũ vẫn chưa mất đi hoàn toàn . Nó vẫn còn tồn tại dai dẳng , và còn có nhiều yếu tố làm cản trở sự phát triển của xã hội . Những tư tưởng cũ bao giờ cũng có tính bảo thủ . Nó tồn tại ngay cả khi cơ sở xã hội của nó đã bị thủ tiêu , chính vì thế mà ngày nay tư tưởng Nho giáo còn gây trở ngại không ít cho sự nghiệp của chúng ta trong giai đoạn mới . Ngày nay , để xây dựng chủ nghĩa xã hội mau chóng thắng lợi cần phải quét sạch những tư tưởng không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay như tư tưởng đức trị , nhân trị gây trở ngại cho đường lối pháp trị xã hội chủ nghĩa . Chủ nghĩa gia đình , chủ nghĩa đồng tộc gây trở ngại cho sự động viên tài năng , tư tưởng trọng quan khinh dân .Tuy mhiên , Nho giáo vẫn cần thiết được kế thừa có chọn lọc , chẳng hạn tinh thần củng cố gia đình và liên gia đình , giữ gìn hiếu đễ , lễ nghĩa ,kỉ cương trong gia đình và trong xã hội , giữ gìn sự cân bằng hài hoà trong quan hệ giữa người với người , sống và làm việc có cộng đồng và đăc biệt phát huy tinh thần hiếu học , ý thức trách nhiệm .là rất cần thiết . Kế thừa tinh hoa chọn lọc không có nghĩa là quay trở lại với Nho học . Chúng ta nghiên cứu Nho giáo nhằm cải tạo hiện tại và xây dựng tương lai . Chúng ta nghiên cứu Nho giáo khi Nho giáo đã tồn tại hơn 2000 năm , luôn được cải biến bổ sung và mang các bộ mặt khác nhau qua các thời kì . Khi chúng ta nghiên cứu về Nho giáo , không thể bỏ qua ý kiến của những người đi trước , nhưng phải đặt lại toàn bộ dưới áng sáng khách quan khoa học ,gạt bỏ những sai lầm mà người trước đã sa vào . Chúng ta phải mạnh dạn gạt bỏ những sai lầm của Nho giáo để tạo điều kiện cho sự thay phát triển của hệ tư tưởng tiến bộ hơn hệ tư tưởng Mac-Lênin .
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2245 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nêu những giá trị hạn chế của nho giáo và ảnh hưởng của nho giáo đến Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong xã hội phong kiến . Nho giáo đã giữ một vị trí đặc biệt và có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta qua các giai đoạn lịch sử . Và cho đến ngày nay , nó cũng để lại những tàn dư dai dẳng . Chính vì thế việc nghiên cứu về Nho giáo , về những ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam là điều hết sức quan trọng và cần thiết . Khi đó chúng ta có thể hiểu được những ưu điểm và những mặt hạn chế của Nho giáo để bài trừ những hủ tục , những tư tưởng phản động và gạn lọc lấy những mặt tích cực trong thời kì quá độ ngày nay .
NÊU NHỮNG GIÁ TRỊ HẠN CHẾ CỦA NHO GIÁO
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN VIỆT NAM HIỆN NAY
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO .
1. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo .
Khi nói đến Khổng giáo thì ta cũng hiểu đó là Nho giáo .Sở dĩ như vậy là vì Khổng tử là người đã sáng lập ra Nho giáo và khi người ta gọi tên thì cũng gắn học thuyết này với tên tuổi người đã sáng lập ra nó . Tuy nhiên những tư tưởng Nho giáo không phải chỉ đến thời Khổng tử mới có mà nó đã có từ những thế kỉ trước . Trước thời Xuân Thu các nhà nho được gọi là “sỹ” chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị vì đất nước . Đến đời mìmh , Khổng Tử đã hệ thống những tư tưởng và học thuyết trước đây thành học thuyết , gọi là Nho gia hay Nho học .
Ngay từ nhỏ , Khổng tử đã nổi tiếng là người thông minh , học giỏi siêng năng và thích chơi trò cúng tế . Sau này ông làm quan cho nước Tề lên đến chức Nhiếp tướng bộ coi việc hình án , ấn định luật lệ , phép tắc trong nước . Trong bốn năm nhậm chức , Khổng tử đã thẳng tay trừng trị bọn loạn quan , nịnh quan trong triều , đem lại trong nước Lỗ cảnh “ ban đêm ngủ không phải đóng cửa , ban ngày ra đường không ai nhặt của rơi , luân thường đạo lí được coi trọng ”
Song vua nước Lỗ đam mê tửu sắc ,đàn hát ca múa xa hoa , bỏ bê việc triều đình nên Khổng Tử chán ngán , bỏ qua nước Vệ . Không được trọng dụng ở Vệ , ông qua Trần , về Vệ , sang Tống lại qua Trần ,về Vệ . Mười bốn năm ông cùng học trò bôn ba mong gặp người sử dụng học thuyết của mình , song ý nguyện của ông đã không thành . Đến đời Hán vũ đế , năm 130 trước công nguyên thì đạo nho được phục hưng và từ đó nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội phong kiến . Nho giáo có mặt trong tất cả các triều đại phong kiến Trung Hoa , nó để lại dấu ấn của mình không chỉ trong sách vở mà trong cả cuộc sống thực của nhiều thế hệ . Và nó cũng đã ảnh hưởng rất nhiều đến các triều đại phong kiến , đến phong tục , tập quán của các nước phương Đông .
2. Một số tư tưởng chính trong hệ tư tưởng Nho giáo .
Khổng Tử san định sách Dịch , Thi ,Thư , Lễ , Nhạc của đời trước để lại , viết sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình . Nhiều quan điểm khác của ông được thể hiện qua các cuộc đàm đạo mà nội dung của nó sau này được trìng bày trong Luận ngữ , do học trò của ông chép lại .Đời Hán Vũ đế năm 130 trước công nguyên sách nhạc chỉ còn một thiên , được đem nhập vào bộ lễ kí gọi là Thiên nhạc kí . Những sách khác được người đời sưu tầm , bổ sung tạo thành năm kinh là Kinh Dịch , Kinh Thi , Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu .
Kinh Dịch : giải thích sự vân hành cũa vũ trụ , dùng để bói điềm lành , dữ trong dời sống của con người . Theo người Trung Hoa thượng cổ , trời đất có âm , dương tương tác với nhau tạo thành sinh hoá . Song do quỷ thần can thiệp vào nên âm dương lúc ẩn , lúc hiện . Kinh Thư : là bộ sách từ đời Nghiêu đến đời Tần Mục Công . Bộ sách trình bày tỉ mỉ hoạt động ,đường lối , tư tưởng của người cổ về tiếp nhân , xử thế , đề cao phương pháp trị vì thiên hạ bằng đạo lí , thuận thiên thời , thuận thuỷ thổ , thuận nhân tâm , thuận lòng dân mà các thánh vương ngày xưa đã sử dụng .
Kinh Thi : là bộ sách chép lại những bài ca , bài dao của người Trung Hoa cổ dại . KhổngTử san định Kinh Thi để mong người đời hiểu điều hiểu trung , biết thương , biết ghét và mở mang tri thức .
Kinh Lễ : gồm ba bộ ; Chu Lễ , Nghi Lễ và Lễ Kí . Trong đó Chu Lễ nói về cách tổ chức hành chính , chính trị xã hội trong thời Chu , Nghi Lễ quy định thể thức lễ nghi trong cuộc sống , còn Lễ Kí là phần do các môn đệ của Khổng Tử bình về các phong tục .Kinh lễ là sự vận dụng các quan diểm về vũ trụ vào cuộc sống để quy định mọi cử chỉ , hành vi , bổn phận của con người từ tấm bé cho đến khi nhắm mắt tắt hơi .
Kinh Xuân Thu : Xuân Thu là bộ sách Khổng tử viết về nước Lỗ , từ đời Lỗ Ân Công đến đời Lỗ Ai Công , là chuyện về nhà Chu cùng các chư hầu khác .Có thể coi đây là bộ biên niên sử mà KhổngTtử trong khi tránh đụng chạm đến các thế lực đang cầm quyền đã dùng nó để vạch ra nguyên nhân loạn lạc của xã hội đương thời .
II. NHỮNG MẶT HẠN CHẾ VÀ GIÁ TRỊ TRONG HỌC THUYẾT NHO GIÁO CỦA KHÔNG TỬ .
1. Quan niệm về thế giới .
1.1. Những mặt tích cưc.
Trong quan điểm về thế giới của Khổng Tử mang tính duy vật chất phác , tuy nhiên như thế đã là rất tiến bộ và đã góp phần chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng khởi nguyên của thế giới là ý thức . Khổng tử cho rằng khởi nguyên của thế giới là vật chất và cái vật chất ấy lúc đâù là cõi hỗn mang mờ mịt. Trong cái hỗn mang ấy có cái “lý” gọi là “thái cực” vô hình huyền diệu chứa đựng hai mặt tiềm ẩn , đối lập liên hệ với nhau là âm dương điều hoà giữa âm dương , trời đất sẽ sinh ra vạn vật . Những quan điểm về trời đất của ông cũng là những quan điểm tiến bộ . Ông cho rằng thế giới luôn vận động và biến đổi không ngừng , vận động không chỉ là sự chuyển đổi vị trí mà còn là sự chuyển hóa lẫn nhau .Ông cho rằng Thái cực có bản thể và động thể . Vì nó là vô hình nên không nhận biết được bản thể của nó , song có thể nhận biết được động thể của nó biểu hiện qua sự tương tác chuyển hoá lẫn nhau giữa âm , dương . Ông dạy học trò của mình “Cũng như dòng nước chảy , mọi vật đều trôi đi , không có vật gì ngừng nghỉ ” hoặc “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành , vạn vật cứ sing hoá mãi ” .
1.2. Những hạn chế
Trong quan điểm của Khổng Tử có những quan điểm duy vật nhưng cũng có những quan điểm duy tâm . Khổng Tử rất tin ở trời , với ông trời như một quan toà công minh cầm cân , nảy mực phán xét mọi sự vật . Trời quyết định sự thành , bại trong cuộc sống của con người . Khổng Tử đặt hết niềm tin và ý chí vào trời . Ông khuyên mọi người phục tùng ý chí đó và coi việc hiểu biết mệnh trời như một điều kiện để trở thành một con người hoàn thiện “ không hiểu mệnh trời không phải là người quân tử ”( Luận Ngữ , Nghiêu viết ,3) Quan điểm của Khổng Tử về trời đất như vậy tất yếu dẫn đến thuyết “sống chết có mạng , giàu sang tại trời ” ( Luận ngữ , Nhan Uyên ) . Sở dĩ quyền lực và sức mạnh của trời là sự thần thánh hoá quyền lực và sức mạnh của thế lực cầm quyền trên mặt đất . Với quan điểm triết học cơ bản là duy tâm , muốn ru ngủ quần chúng bằng niềm tin vào mệnh trời và số phận , Không Tử đã thể hiện rõ thái độ của mình trong việc ủng hộ giai cấp chủ nô khi chế độ chiếm hữu nô lệ đã bước vào thời kì suy tàn và khởi nghĩa vũ trang của nhân dân đang nổ ra khắp nơi .
Những hạn chế trong quan điểm về thế giới của ông còn thể hiện ngay cả trong những quan điển duy vật . Những quan điểm mà ông đã rút ra chỉ là từ những suy luận của chính mình , chỉ là sự hình dung trong đầu óc mà không đưa ra bất cứ cơ sở khoa học nào để chứng minh .Như nhà triết học phương tây Franxi Bêcơn ví đó như phương pháp “con nhện” . Đó là “chỉ biết ngồi rút ra sự thông thái của mình từ chính bản thân mình , muốn thay thế việc nghiên cứu giới tự nhiên và những quy luật của nó bằng những luận điểm trừu tượng , bằng việc rút ra những kết quả bằng những kết luận chung, không tính đến sự tồn tại thực tế của chúng.”( ( Trích Giáo trình triết học Mac-Lênin , NxB chính trị Quốc Gia )
)
2. Quan niệm về chính trị và đường lối cai trị đất nước .
Khi sáng tạo ra học thuyết Nho giáo , Khổng Tử đã đứng trên lập trường của giai cấp thống trị mà ở vào thời của ông là giai cấp chủ nô . Chính vì thế mà học thuyết do ông sáng tạo ra cũng là để bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị cho giai cấp mình .Để trị vì đất nước , khôi phục trật tự xã hội , Khổng Tử chủ trương thực hiện truyết chính danh .
2.1. Những giá trị .
Trước hết ta xác định những giá trị trong quan điểm về chính trị của Khổng Tử thì trước đây dưới chế đọ cũ không thực hiên được nhưng trong điều kiên xã hội ngày nay ta có thể tiếp thu những gía trị ấy . Không tử hằng mơ ước một xã hội lí tưởng trong đó người già được nuôi dưỡng , trẻ em được chăm sóc , người lớn có công ăn việc làm , nhân dân được ấm no hạng phúc , không có trộm cướp, chiến tranh , của rơi ngoài đường không ai nhặt . Khổng tử răn dạy các bậc vua chúa : vua phải là những người có đạo đức cao cả , có tài năng lỗi lạc , phải là bậc thánh có thể cảm hoá nhân dân , quan phải là những tôi hiền , tướng giỏi có đủ tài để giúp vua an dân trị nước đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân , xứng đáng là cha mẹ của dân .Không tử đề ra khẩu hiệu “ý dân là ý trời , ý dân với ý trời là một , vua phải làm theo ý dân tức ý trời ” .Khổng tử chủ trương dùng lễ nhạc để giáo hoá nhân dân , bần cùng bất đắc dĩ mới phải dùng đến biện pháp hành chính , đến pháp luật .Không chủ trương dùng luật pháp mà dùng đạo đức làm công cụ để ổn định trật tự xã hội , Khổng tử đã nhìn thấy sức mạnh của đạo đức trong cuộc sống . Đạo đức và luật pháp đều là những nguyên tắc , những chuẩn mực điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ giữa người với người , giữa cá nhân với xã hội . Song , nếu luật pháp là những yêu cầu tối thiểu thì đạo đức là những yêu cầu tối đa về việc thực hiện những quan hệ này . Nếu luật pháp được thực hiện do sự cưỡng chế từ bên ngoài thì những nguyên tắc , những chuẩn mực đạo đức được thực hiện từ bên trong do tính tự giác của mỗi người quy định , khi bản thân người ấy đã nhận thức được quan hệ của mình với những người xung quanh . Pháp luật trừng trị những hành động phạm pháp căn cứ vào hậu quả của nó nhưng không thể trừng trị sự vi phạm còn nằm trong ý đồ nào đó của các thành viên trong xã hội . Đạo đức thì khác hẳn , ý thức đạo dức của mỗi người sẽ tự trừng trị mình ngay từ khi người đó nghĩ đến hành động gây hậu quả . Chính vì vậy khi vai trò của đạo đức được nâng cao đến một mức độ nhất định và khi sự trừng giới bên trong mỗi người được củng cố vững mạnh đến một mức độ nhất định thì sự thi hành trừng giới bên ngoài – sự thi hành pháp luật sẽ trở thành thừa .
2.2.Những hạn chế .
Có thể nói những hạn chế bắt nguồn từ ngay những ưu điểm . Những quan diểm như vua quan là cha là mẹ dân , rồi dùng lễ nhạc để giáo hoá nhân dân ...thực chất đều là những quan điểm tiến bộ của Khổng Tử nhưng những tư tưởng ấy đều bị giai cấp phong kiến xuyên tạc để ru ngủ nhân dân , để củng cố địa vị thống trị của giai cấp phong kiến . Trong thực tế , bọn vua chúa hầu hết lànhững người dâm ô , truỵ lạc , tàn bạo nhất đạo đức suy đồi nhất , đồng thời cũng là những người được hưởng lạc nhiều nhất trên đời . Còn bọn quan lại hầu hết là một lũ nịnh trên , đè dưới , đục khoét dân , làm những điều táng tận lương tâm , miễn là được vinh thân phi gia . Thoảng hoặc có một vài viên quan liêm chính , quan tâm đến quyền lợi quốc gia dân tộc , thì những viên quan đó bị bao vây cô lập , nhiều khi bị hãm hại nếu không mau chóng treo ấn từ quan . Nguyên nhân là vì từ vua chí quan đều mưu mô lợi ích cá nhân , lòng tham không đáy . Vì xung quanh đều tham ô , nịnh hót , một mình trung thực , liêm chính thì ai tha cho . Quyền hành của bọn vua chúa thì vô hạn . Bọn quan lại cũng dựa vào đó mà tha hồ áp bức bóc lột nhân dân . Như vậy làm sao có thể thực hiện được nhân chính .Khổng tử đề ra khẩu hiệu ý dân là ý trời thì có vẻ tôn tọng quyền làm chủ của dân lắm nhưng trong thực tế , đối với bọn vua chúa , chỉ một lời nói hay một cử chỉ vô ý phạm thượng thì đã bị tội chém đàu rồi làm sao có thể thực hiện được dân chủ . Khổng Tử chủ trương dùng lễ nhạc để giáo hoá nhân dân , cái ấy là điều tốt nhưng tư tưởng ấy chỉ có thể thành sự thực trong một xã hội văn minh nhất , ý thức con người đã phát triển đến trình độ cao . Còn với điều kiện thời bấy giờ và thậm chí cho tới cả ngày nay thì luật pháp vẫn cứ là một công cụ hữu hiệu để duy trì trật tự xã hội . Nó luôn gắn với đạo đức và có đủ sức mạnh để khẳng định hay phủ định một bộ luật đạo đức nào đó . Với tư cách là những đòi hỏi mang tính cưỡng chế , luật pháp giữ vai trò cực kì quan trọng trong việc hình thành ý thức đạo đức , hành vi dạo đức , thói quen đạo đức hay nói cách khác nó cũng chính là công cụ để rèn luyện cho con người sự tự ý thức . Và thực tiễn dã chứng minh , ngược lại với chủ trương của Khổng Tử , người ta dùng những hình phạt rất tàn khốc như roi vọt tra tấn nhục hình , gông cùm chem giết ... để trấn áp nhân dân gây ra biết bao oan khiên . Giai cấp phong kiến còn lợi dụng lễ nhạc để củng cố thêm tôn ti trật tự phong kíên . Từ đó đề ra những tư tưởng sang hèn , phân biệt người trên , kẻ dưới , tư tưởng độc đoán chuyên quyền hết sức nặng nề trước đây , mà ngày nay chưa được quét sạch hết .
Nói chung , những quan điểm của Khổng Tử trong chính trị và đường lối cai trị đất nước chủ yếu là để bảo vệ giai cấp thống trị mang nặng tư tưởng trọng quan khinh dân làm cho những người khi đã tham gia vào tầng lớp thống trị thì ngày càng trở nên xa rời quần chúng nhân dân . Thái độ của dân đối với vị vua thời bấy giờ là thái độ sợ hãi và tôn sùng một vị hoàng đế được thần thánh hoá và đối lập với quần chúng nhân dân . Vua được gọi là thiên tử nghĩa là con trời , đó là hình ảnh mà Nho giáo đã dựng lên cho vị vua thời bấy giờ . Tư tưởng đức trị nhân trị , phương pháp giáo dục nêu gương đã càng ngày càng làm cho xã hội phong kiến đã trở nên ngày càng thối nát , mục ruỗng , giai cấp thống trị ngày càng trở nên lộng hành . Tuy nhiên Nho giáo cũng góp phần ổn định trật tự xã hội và củng cố trật tự phong kiến đáp ứng đòi hỏi của chế độ trung ương tập quyền .
3. Quan điểm tam cương ngũ thường .
Trong các mối quan hệ xã hội , Nho giáo xác định 5 mối quan hệ cơ bản và thông thường của mỗi đời người trong thiên hệ được gọi là ngũ luân gồm 5 quam vua-tôi , cha-con , chồng-vợ , anh-em , bè bạn . Mỗi quan hệ lại có những tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng như cha hiền , con thảo , anh tốt , em ngoan , chồnh biết tình nghĩa , vợ nghe lẽ phải , bề trên từ hiéu bề dưới kính thuận , vua nhân từ , tôi trung thành . Trong ngũ luân có 3 mối quan hệ cơ bản nhất , Nho gia gọi là tam cương
3.1.Những giá trị .
Đối với quan hệ vua tôi , trước hết Khổng Tử chống nối ngôi vua theo kiểu cha truyền con nối . Ông lên án việc truyền chức tước theo huyết thống , dòng dõi . Khổng tử cho rằng người cần quyền phải có đức , có tài mà không càn tính đến đẳng cấp xuất thân của họ .Khổng Tử đẫ nêu ra những đòi hỏi đối với người đứng đầu quốc gia mà bao hàm người đó phải đạt được nhân đạo và thiên đạo -để trở thành một vị minh quân một bề trên chính trực .Về những yêu cầu cụ thể đối với vua , Khổng Tử chủ trương : vua phải đảm bảo cho dân được ấm no , phải xây dựng lực lượng quân sự hùng hậu và đặc biệt là phải chiếm được lòng tin của dân . Ngoài ra vua còn phải biết quý trọng người đức độ và có năng lực làm việc phải biết rộng lượng đối với những người cộng sự của mình . Ông dạy rằng : “nhà cầm quyền nên thi hành 3 việc này : 1) trước hết,nên phân phát công việc cho những quan chức dưới quyền của mình , họ làm xong thì mình xem xét lại . 2) những ai phạm lỗi nhỏ thì dung thứ cho họ ; 3) cử dùng những người hiền đức và tài cán “ .Còn dân đối với vua thì phải đặt chữ trung lên hàng đầu .
Trong quan hệ cha con , Khổng tử chủ yếu đề cập đến chữ hiếu . Khổng Tử nhấn mạnh đến cái tâm con cái dành cho cha mẹ ,không phải chỉ là phụng dưỡng người đã sinh ra mình mà trước hết phaỉ là lòng thàng kính .
3.2. Những hạn chế .
Trong ngũ luân nghĩa là có năm mối quan hệ đó là quan hệ vua-tôi , cho-con , anh-em , chồng-vợ , bè bạn thì quan hệ vua tôi đứng đầu .Ông cho rằng đã là quần thần thì phải tuyệt đối trung thành , tin tưởng và phục tùng nhà vua . Quan điểm của ông là “Quân xử thần tử , thần bất tử , bất trung . phụ xử tử vong ,tử bất vong , bất hiếu” hay “cha mẹ đặt đâu . con nằm đấy” . Điều ấy cho thấy Khổng tử đã chủ trương thực hiện ngu trung , ngu hiếu . Khổng Tử đòi hỏi một sự phục tùng tuyệt đối của con cháu đối với cha ông bởi thời nay không bằng thời xưa và cha ông bao giờ cũng là mẫu mực cho con cháu . Khổng tử đòi hỏi phải học theo người xưa và sau khi cha chết 3 năm không được đổi ý cha .
Trong quan hệ vợ chồng thì tư tưởng khinh rẻ phụ nữ là tư tưởng nổi bật trong Khổng giáo . Không Tử cho phụ nữ là người khó dạy (phụ nữ nhân nan hoá) ,nên ông buộc người phụ nữ phải theo tam tòng tứ đức . Địa vị người đàn ông được tôn trọng tuyệt đối .Ông quy đạo đức người phụ nữ vào 4 điểm công –dung – ngôn –hạnh . Đó là thứ đạo đức biến người đàn bà thành một công cụ cho người đàn ông . Người đàn ông khi chọn vợ thì quan trọng nhất là sắc đẹp . Đàn ông thì có quyền năm thê , bảy thiếp còn “gái chính chuyên thì lấy một chồng” . Trong xã hội những người đàn ông có nhiều vợ còn được xem là những người có địa vị cao trong xã hội . Công của người phụ nữ là tinh thần tận tuỵ lao động bếp núc ,vá may , phục vụ cho cuộc sống an nhàn của người đàn ông . Những người phụ nữ xưa kia đều phải nuôi chồng học hành đến khi đỗ đạt làm quan . Đó như là một nhiệm vụ của người phụ nữ thời bấy giờ . Giống như nhà thơ Tú Xương ngày xưa đã ví von người chồng như một đứa con thâm chí còn là gánh nặng hơn một đứa con . Ngôn là lời nói dịu dàng , biết gọi dạ bảo vâng , tuyệt đối lễ phép với chồng , bố chồng và mẹ chồng . Hạnh của người phụ nữ chỉ tập trung vào điểm giữ được trinh tiết mặc dầu người người chồng xấu xa , hèn mọn như thế nào .Hạnh ấy khuyên người phụ nữ không nên tái giá khi chồng đã chết . Trong xã hội cũ , những người phụ nữ như thế sẽ được triều đình phong kiến phong cho bốn chữ là “Tiết hạnh khả phong” . Pháp luật phong kiến cho phép người chồng đuổi vợ và cắt đứt hôn nhân trong trường hợp vợ hỗn với bố mẹ chồng , hoặc vợ tàn tật hoặc vợ không có con .Đạo đức phong kiến đòi hỏi ngươì vợ phải tiết liệt chứ không đòi hỏi người chồng phải tiết liệt .
4. Về những chuẩn mực đạo dức .
Nội dung đạp đức của Khổng Tử quan trọng nhất là nhân , trí , dũng
4.1.Những giá trị
Trong quan điểm về phạm trù nhân , Khổng Tử cho rằng , đối với mình “người có nhân trước hết phải làm những việc khó , sau mới hưởng thành quả mới có thể gọi là nhân”, người nhân sẵn sàng vui vẻ sống trong bất cứ hoàn cảnh nào , dù đấy là vinh hoa hay đói nghèo , túng thiếu . người có nhân cái cao cả nhất là đức nhân của mình , có thể vì nhân mà sát thân chứ không vì thân mà hại nhân , vì có đức nhân con người sẽ tự kiềm chế được mình để tuân theo lễ tiết của xã hội . (Luận ngữ , Nhan Uyên ,1) để vững vàng trầm tư như núi trước mọi thử thách cuộc đời . Đối với người có nhân nguyên tắc suốt đời phải theo là “thương yêu người khác” ( Luận ngữ, Nhan Uyên ,21) . Giải thích điều này Khổng Tử dạy : “ người nhân muốn tự lập lấy một mình , thì phải lao lập cho người , muốn thành đạt cho mình thì cũng là thành đạt cho người . Người nhân ứng xử với mình như thế nào thì cũng ứng xử với người như thế ”. (Luận ngữ ,Ung giã , 28 ) . Nhân chung quy lại như Khổng Tử đã nói là : “người có đức nhân là người nghiêm trang , tề chỉnh , rộng lượng , khoan dung , đức tín , lòng thành , siêng năng , cần mẫn và biết thi ân bố đức ”(Luận ngữ , Dương Hoá ,6) . Về những điều này ông lí giải :” Nghiêm trang , tề chỉnh sẽ làm người khác không dám khinh nhờn , rộng lượng khoan dung sẽ làm người khác bị thu phục , đức tín , lòng thành sẽ làm người khác tin cậy , thi ân bố đức sẽ làm nguời khác bị sai khiến và cần mẫn , siêng năng sẽ đem lại nhiều điều bổ ích “ ( Luận ngữ , Dương hoá ,6) .
Như vậy , với những chuẩn mực được đưa ra cho đức nhân, Nho giáo của Khổng Tử đã góp phần giáo dục nhân dân , chú ý đến việc tự khẳng định mình của mỗi thành viên trong xã hội . Nó cũng cho thấy tính tích cực về vai trò của tự ý thức và tự giáo dục của chủ thể trong cuộc sống cộng đồng Đạo nhân đã thiết lập nên những mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong xã hội , nó là sợi dây liên kết các cá thể với nhau , với gia đình và với xã hội
Trong quan niệm về trí của Khổng Tử thì trí được hiểu là sự minh mẫn nói chung để phân biệt đánh giá con người và tình huống , qua đó tự xác định cho mình cách ứng xử cho phải đạo . Nói chung theo Khổng Tử phải có trí con nguời mới vươn tới được đức nhân , nên không thể là người nhân mà thiếu chí .
4.2.Những hạn chế .
Nếu giá trị của đức nhân là để giáo dục con người thì những hạn chế của nó cũng thể hiện ngay trong việc giáo dục con người . Đức nhân đòi hỏi con người phải quên mình . Ông cho rằng người nhân sẵn sàng sống trong bất kì hoàn cảnh nào dù đấy là vinh hoa hay đói nghèo . Ông khuyên mọi người nên an phận nghèo . Đối vơí một con người thì vật chất chỉ là giúp con người tồn tại , còn ngoài ra nó không phải là mục đích , là cái cần thiết cho con người . Ông ca ngợi một cuộc sống giản dị , trong sạch “ăn không cầu no” .Đó cũng là một điều tốt nhưng nếu như ai cũng an phận cũng chấp nhận đói nghèo mà tu thân để có được đức nhân thì chính nhân không đem lại một cuộc sống thái bình mà nó chỉ đem lại cho người dân sự nghèo đói , sự rằng buộc dưới ách thốnh trị của giai cấp cầm quyền . Hơn nữa tư tưởng an phận nghèo còn làm cho cuộc sống của ngươì dân ngày càng nghèo khổ , túng thiếu . Nó ngăn cản sự tiến bộ của loài người và đây cũng là nguyên hân làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế phong kiến đặc biệt là đối với những nước đã bị giam hãm quá lâu trong chế độ phong kiến hà khắc .
Trong quan niệm về trí Khổng Tử cho rằng mục đích cao nhất của người có trí là ra làm quan , nhậm chức triều đình , tham gia gánh vác công việc quốc gia và để biết kỉ cương của xã hội mà tuân theo . Do quan niệm hoc để làm quan nên Khổng Tử không dạy làm ruộng trồng trọt . Ông cho rằng đó là công việc của những người bậc dưới . Khi Phàn Trì học trò của ông xin ông học cách trồng cây thí ông đã trách ;”Gã Phàn Trì trí nhỏ hẹp lắm thay “ và ông cũng thường giận dữ khi có người muốn bàn đến chiến trận , binh đao. Như vậy ông đã phủ nhận tầm quan trọng của việc nghiên cứu thực tiễn, ông đã đem quá trình nhận thức của con người đóng trong một cái khung nhất thành bất biến và chân lí không còn là tri thức vể thế giới khách quan nữa , thực tiễn không còn là cơ sở động lực của quá trình nhận thức mà thay vào đấylà vai trò của sách vở và sự tự biện. (1 ( Trích Đại cương triết học Trung Quốc , NxB chính trị Quốc Gia , 1997 )
)
Nói chung , về đạo đức , Khổng Tử khá sâu sắc khi cụ thể hoá những nguyên tắc đạo đức thành những chuẩn mực đạo đức cho mẫu người lí tưởng . Ông cũng thể hiện quan điểm đúng đắn khi nhìn con người không chỉ thuần tuý dựa vào lời nói mà phải kết hợp giữa động cơ và kết quả , giữa lí trí và tình cảm trong việc đánh giá con người . Những quan điểm của ông cũng có những giá trị nhất định trong việc giáo dục đạo đức nói riêng và giáo dục nói chung .Tuy nhiên xét cho đến cùng , bộ luật đạo đức của Khổng Tử trọng danh hơn thực , trọng xưa hơn nay và đã gạt ra ngoài nhiều giá trị đạo đức mang tính nhân loại phổ biến .( ( Trích Đại cương triết học Trung Quốc , NxB chính trị Quốc Gia , 1997 )
)
5. Về giáo dục .
5.1. Những giá trị .
Khổng Tử đã đề ra những phương pháp học rất đúng đắn mà cho đến ngày nay nó vẫn còn có giá trị đối với chúng ta . Đó là khởi học từ mức thấp đến mức cao , và phải biết nghe nhiều , học nhiều để qua đó tìm những điều hay để học , thấy những điều dở để tránh . Khổng Tử cũng rất coi trọng việc ứng dụng vào cuộc sống nhưng điều đã học .Về vai trò của giáo dục , ông cho rằng giáo dục có sức mạnh cảm hoá con người , hình thành nên nhân cách con người . Về phương pháp giáo dục , Khổng Tử rất coi trọng nguyên tắc làm gương . Bản thân ông là một tấm gương sáng ngời về học tập . ông thường với các môn đồ : “Ta học tập không chán , dạy người không biết mỏi ”. Khổng Tử học tập suốt đời : ta 15 tuổi đã có chí học đạo thánh hiền , 30 tổi thì vững vàng , 40 tổi thì không ngờ vực ,50 tổi biết mệnh trời ,60 tuổi thì ta nghe thông suốt mọi việc , 70 tuổi thì làm theo ý muốn , mà không sai khuôn phép”.Về phương pháp học tập , Khổng Tử khuyên các môn đồ :” Học cho rộng ,hòi cho sâu , suy nghĩ cho chín , trình bày rõ ràng , tích cực thi hành điều mình đã học tập được “ .Theo ông học tập chính là học đạo thành hiền , học tập đạo làm người . Khổng Tử đề ra thuyết tu thân là thuyết xây dựng con người bằng 5 bước : muốn tu thân trước tiên phải chính tâm , muốn chính tâm trước tiên phải thành ý , muốn thành ý trước tiên phải trỉ tri , trỉ tri là ở cách vật . Cách vật là trong mọi sự vật ta phài phân biệt đúng sai rồi lấy cái đúng , bỏ cái sai . Nói theo ngôn ngữ hiện đại trong những hiện tượng tự nhiên , xã hội vô cùng phức tạp ta phải đi vào nghiên cứu bản chất của nó chứ không chỉ dừng lại ở hiện tượng . Khi đó , ta có thể nắm được những quy luật vận động phát triển của tự nhiên và xã hội có nghĩa là chúng ta đã đạt được đến trỉ tri . Một khi đã đạt được đến trỉ tri chúng sẽ có nhân thức vững vàng gọi là thành ý . Một khi đã có những nhận thức vững vàng , thì chúng ta có lập trường quan điểm đúng , tức là chính tâm . Có lập trường quan điểm đúng là hoàn thành việc tu thân , việc xây dựng con người . Đây là quan điểm thể hiện tính duy vật tiến bộ của ông về lí luận nhận thức .
5.2. Những hạn chế .
Tất cả những gì Khổng Tử đã làm , xứng đáng để ông là một nhà giáo dục lớn của xã hội đương thời và kinh nghiệm giáo hoá của ông luôn là những bài học để mọi người quan tâm . Song quan điểm giáo duc của ông chủ yếu dừng lại ở giao tiếp lễ nghi chứ không hẳn mở mang dân trí nói chung . Khổng Tử cũng đã bứt tri thức khỏi lao động sản xuất – lĩnh vực quan trọng nhất của đới sống xã hội và nhất là mục đích giáo dục của ông đã bộc hoàn toàn quan điển của một ông thầy chủ nô quý tộc đang truyền đạo để củng cố điịa vị thống trị của giai cấp mình .
Nói chung , trong quan điểm của Khổng Tử thể hiện nhiều ưu điểm nhưng không phải là không có những khuyết điểm . Đôi khi , cùng nói về một sự việc nhưng Khổng Tử lại có những cách nói khác nhau thậm chí là trái ngược nhau . Quan điểm của ông có nhiều mâu thuẫn , điều đó thể hiện tâm trạng bị giằng xé của ông trước nhưng biến chuyển của xã hội . Lợi ích gia cấp và tính chất không nhất quán đã là cơ sở để thế hệ sau ông khai thác , xuyên tạc và phủ cho nó tấm áo choàng tôn giáo đầy bí ẩn .Chẳng han như , khi quan niệm về trời , một mặt ông truyền bá sức mạnh của trời , mặt khác ông lại nhấn mạnh hoạt động của con người , coi hoạt động của con người giữ địa vị quan trọng nhất trong cuộc sống của họ .Ông đặt con người sánh ngang với trời đất , con người có thể góp phần với trời đất để cải tạo vũ trụ . Mặt khác , ông lại cũng cho rằng trời có thể quyết định đến số phận con người . Khi đề cập đén trí , ông một mặt tin vào mệnh trời cho rằng tri thức là bẩm sinh , là do trời sinh ra , mặt khác ông lại đề cập đến một nguồn gốc khác của trí , đó là trí không phải ngẫu nhiên mà có , nó là kết quả của quá trình học hỏi trong đời sống . Trong quan điểm về giáo dục , một mặt Khổng tử chủ trương dạy cho tất cả mọi người , không phân biệt đẳng cấp , giàu nghèo , chủng tộc...nhưng ông lại chủ trương đối với dân việc gì cần thiết thì sai khiến chứ không nên giảng giải vì dân không có khả năng hiểu ý nghĩa công việc mình làm . Khi quan niệm về quân tử và tiểu nhân , theo ông chức tước giàu sang chưa chắc đứng ở hàng quân tử , giầy rơm , áo vải chưa chắc đứng ở hàng tiểu nhân . Trong khi dó ông lại gạt nhân dân lao động ra khỏi lớp người quân tử vì nhân dân lao động , sự đói rét , bệnh tật , thiếu thốn trong cuộc sống không cho phép nhân dân lao động không nghĩ đến cái ăn cái ở mà chỉ trọn bề theo đạo . Nó không thể tạo điều kiện cho họ thông thạo Thi , Thư , Lễ . Nhạc . Cho nên tuy không chỉ rõ nhưng ông đã xếp nhân dân lao động vào lớp người tiểu nhân
III. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Sự du nhập , hình thành và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam .
Nho giáo du nhập vào Việt Nam thời kì Bắc thuộc , đó là một quá trình lâu dài , bằng con đường xâm lược và giao lưu văn hoá , kinh tế Việt Nam và Trung Quốc , trước hết đó là công cụ của Hán Đường tiến hành đồng hoá . Nho giáo du nhập vào Việt Nam không còn là Nho giáo nguyên sơ mà đã được Hán nho trước nhất là Đổng Trọng Thư cải tạo cho thích hợp với chế độ phong hiến trung ương tập quyền . Cùng xâm nhập với Nho còn có Phật và Đạo . Cả ba học thuyết này đều có ảnh hưởng đến tư tưởng Việt Nam , vào các phong tục tập quán của người Việt cho đến nay .
Trên 1000 năm Bắc thuộc , bọn xâm lược ra sức truyền Nho, Phật , Đạo vào nước ta . Nhưng số người học Nho không nhiều lắm ; còn Phật và Đạo lại đi sâu vào dân gian hoà lẫn trong tín nguỡng bản địa
Sau khi giành độc lập , nhân dân ta đã sử dụng Nho , Phật và Đạo để bắt tay xây dựng đất nước , trước hết là để xây dựng một tổ chức Nhà nước độc lập để đủ sức chống lại sự uy hiếp và xâm lược từ phương Bắc . Sở dĩ Nho giáo và Phật giáo được chọn làm hệ tư tưởng chính trong xã hội Việt Nam là vì cả ha học thuyết này ít nhiều ảnh hưởng trong xã hội Việt Nam . Sự truyền bá và tiếp nhận tư tưởng này diễn ra khá thuận lợi và nhanh chóng . Chế độ phong kiến Việt Nam phát triển theo xu hướng tập quyền thống nhất nên có nhu cầu sử dụng Nho học . Nhà nước Đại Việt thời Lý đã đưa Nho giáo phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực ở Việt Nam . Năm 1070 , nhà Lý lập Văn Miếu và Quốc Tử Giám , năm 1075 nhà Lý mở khoa thi Nho học và năm 1195 mở khoa thi Tam giáo . Nho học du nhập vào nước ta đến đây trở thành cái bản dịa được nhà nước Đại Việt sử dụng và trân trọng .
Vào thời Trần , Nho học lại phát triển nhanh chóng hơn . Cũng vào thời kì này thi cử nho giáo đã vào quy củ , các khoa thi tiến sĩ cứ 7 năm được tổ chức một lần .
Tuy nhiên , ảnh hưởng của Nho giáo vào Việt Nam cho đến cuối dời Trần –Hồ vẫn chưa thật đậm nét . Có thể những bộ phận quan chức cao cấp phần nào còn áp dụng những lễ giáo kiểu phương Bắc , còn trong dân gian thì vẫn theo phong tục tập quán lâu đời .
Sang thời Hậu Lê , Nho giáo được đẩy lên cực thịnh . Lê Thánh Tông đưa Nho học vào tổ chức nhà nước ở cả ba mặt :
+ Giáo dục và khoa cử : Thời Lê sơ giáo dục và khoa cử Nho học đạt đến mức đỉnh thịnh . Một tầng lớp sĩ đông đảo có mặt ở khắp nông thôn và thành thị . Ơ Văn Miếu được lập bia Tiến sĩ , Nho sĩ được đề cao đến mức cao nhất . Qua giáo dục và khoa cử , Nho giáo thâm nhập vào xã hội ngày càng sâu sắc hơn .
Tổ chức chính quyền : có tham khảo các kiểu nhà nước TốngMinh
+ Pháp luật : luật Hồng Đức được xây dựng trên tinh thần Đại Việt nhưng cũng tham khảo nhiều pháp luật Đường Minh .
Ở các lĩnh vức khác như triết học , tôn giáo , nghệ thuật thì cả ba đạo Nho ,Phật , Lão đèu có ảnh hưởng , nhưng nặng nhẹ khác nhau . Phật , Dạo đi vào dân gian làng xã khá sâu sắc
Vào các thế kỉ XVI, XVII, XVIII , Nho học và Nho giáo Việt Nam đều đi xuống . Xu hướng tam giáo đồng tôn trong xã hội phát triển . Có thể nói , vào các thế kỉ XVII , XVIII kiểu Nho thuần tuý không còn đáng kể , một nền học thuật và tư tưởng đa thanh , đa sắc đã xuất hiện ngày càng nhiều , ngày càng sâu hơn . Nhà Nho các thế kỉ này đều trên cơ sở Nho kết hợp với Phật , Đạo . Có thể nói , đến thế kỉ XVIII , Nho học , Nho giáo không đáp ứng được yêu cầu của xã hội , dã bất lực trước công việc giải quyết khủng hoảng xã hội . Trong lĩnh vực chính , trị tư tưởng các nhà nước và các quan lại ãi phu vẫn lấy tam cương làm lý tưởng . Nhưng sự lên xuống của cuộc sống cá thể , của xã hội phải có Phật , Đạo bổ sung thành công cụ tinh thần phong phú , đa dạng . Tam giáo đồng tôn hay đồng hành đồng tẩm trên cơ sở Nho là một hướng giải quyết về lý thuyết tư tưởng và xã hội .
Đến đầu thế kỉ XIX ,nhà Nguyễn vẫn duy trì độc tôn Nho giáo trong khi các nước khác ngay cả Trung Quốc cũng đã bắt đầu có những phản kháng . Khoa thi Hương cuối cùng vào năm 1918 và thi hội cuối cùng vào năm 1919 . Tác phẩm “ Khổng học đăng” của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu là sự bùng lên cuối cùng của Nho giáo trước khi dập tắt .
Có thể nói , Nho giáo được duy trì lâu nhất ở Việt Nam . Có một học giả nước ngoài khi sang Việt Nam đã có nhận xét như sau : “ dường như Nho giáo Việt Nam từ thế kỉ XIX có vẻ nặng sâu hơn chính ở Trung Quốc . Nói như thế không phải là không có cơ sở . Một thực tế ở Việt Nam là , Nho giáo ở Việt Nam chưa một làn bị phê phán gay gắt như các học giả ở Trung Quốc hay Nhật Bản . Sự phê phán Nho giáo ở nước ta mới chỉ xuất hiện ểong các tác phẩm văn học hay trong dân gian . Vùng đồng bằng Bắc Bộ là vùng có lẽ chịu ảng hưởng sâu sắc nhất và lâu đời nhất ở Viẹt Nam .
2. Những ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam trong suốt quá trình lịch sử .
Nho giáo đã giữ một vị trí đặc biệt và có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta qua các giai đoạn lịh sử . Tư tưởng truyền tthống của dân tộc ta đã đấu tranh và tác động qua lại với Nho giáo trong suốt quá trình du nhập , phát triển , suy tàn của nó ở Việt Nam . Nho giáo quán triệt trong toàn bộ nôị dung kiến thức của tầng lớp sĩ phu . Nó thâm nhập vào đời sống nhân dân và ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lí dân tộc . Và nó cũng để lại những tàn dư dai dẳng ngay cả trong xã hội ngày nay .
Nho giáo bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc . Quân xâm lựơc phương Bắc đã đưa Nho giáo vào nước ta không phải để giao lưu văn hoá mà mục dích chính là để ru ngủ quần chúng nhân dân ta , để đồng hoá nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam ta , để từ đó biến đất nước ta thàng một bộ phận của chúng , để xoá tên của đất nước Việt Nam .Chúng lợi dụng những quan điểm của Nho giáo để từ dó cải biến đi cho phù hợp với mục đích đi xân lược của chúng . Những tư tưởng Nho giáo lúc bấy giờ không có nhũng tác dụng tích cực mà chỉ mang tính chất nô dịch và để quy hàng nhân dân ta . Tuy nhiên trong suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho giáo vẫn chưa có vai ủò gì đáng kể trong xã hội Việt Nam .Nó là cái bình phong để che giấu đậy sự ngu muội , thái độ đầu hàng và hoạt động bán nước của vua quan trước sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc . Thực dân Pháp xân lược nước ta và thiết lập nền thống trị của chúng .Nho giáo đã bị gạt bỏ với việc chấm dứt thi cử từ năm 1919 nhưng sau đó lại dược khôi phục nhằm ràng buộc nhân dân ta bằng trật tự và lễ giáo phong kiến .
Nếu như trong suốt hơn một ngàn năm , Nho giáo vẫn không ảnh hưởng nhiều đến xã hội Việt Nam thì sau khi nhân dân ta đánh đuổi được quân xâm lược , giành được độc lập dân tộc thì chỉ trong một thời gian ngắn Nho giáo đã trở nên phổ biến và sau này còn đứng ở vị trí độc tôn . Ngay sau khi giành được độc lập dân tộc , Nho giáo đã được sử dụng để thiết lập nên bộ máy nhà nước và cũng từ đó Nho giáo thâm nhập vào đời sống xã hội của dân tộc ta . Có thể nói Nho giáo đã ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực của dân tộc ta từ chính trị , xã hội ....cho đến văn hoá , giáo dục . Trong đó chính trị , giáo dục , gia đình là những lĩnh vực chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của Nho giáo . Ơ đây ta nghiên cứu một số lĩnh vực chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của Nho giáo .
2.1. Nho giáo ảnh hưởng đến chính trị và đường lối cai trị đất nước .
Như đã nói ở trên , ngay sau khi giành được độc lập , Nho giáo đã được sử dụng để xây dựng lại đất nước , truớc là xây dựng một tổ chức nhà nước độc lập để đủ sức chống lại sự uy hiếp và xâm lược từ phương Bắc . Do ảnh hưởng của Nho giáo mà chế dộ phong kiến Việt Nam đã phát triển theo hướng trung ương tập quyền thống nhất nghĩa là nhà nước chỉ có một người đứng đầu và có quyền lực tối cao , là nhà vua . Hình thức nối dõi cha truyền con nối cũng là do sự ảnh hưởng của Nho giáo . Nho giáo cũng ảnh hưởng nhiều đến đường lối cai trị đất nước của các triều đại phong kiến Việt Nam . Trước hết là trong giáo dục , các đời vua trong các triều đại đều áp dụng chế độ khoa cử Nho giáo . Hệ thống trường học đều là trường học Nho giáo , những người được đi học thì đựơc gọi là Nho gia . Hay trong việc ban hành các bộ luật mà bộ luật đầu tiên của Việt Nam là bộ luật Hồng Đức cũng được tham khảo từ các bộ luật của các triều dại phong kiến Trung Hoa . Về văn hoá Nho giáo cũng đựơc sử dụng rộng rãi trong các lĩng vực như triết học , văn học , nghệ thuật....Về đường lối đối ngoại , chúng ta thực hiên đường lối đối ngoại khép kín . Điều này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nước ta . Cùng với tư tưởng an phận làm , coi xã hôi đồng tiền là nhơ bẩn đã khiến cho các nhà Nho , một bộ phận trí thức ,nhân tài của quốc gia đã không chú ý đến việc phát triển kinh tế khiến cho đất nước ngày càng trở nên tụt hậu so với bên ngoài . Trong khi các nước phươngTây ngày càng giàu có và hiện đại , nó cũng để lại hậu quả cho đến ngày nay .
2.2. Sự ảnh hương của Nho giáo trong gia dình Việt Nam .
Để hiểu được sâu sắc nhất sự ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam ta không thể không tìm hiểu sự ảnh hưởng của nho giáo đến gia đình Việt Nam . Gia đình là tế bào của xã hội , là hạt nhân của xã hội . Gia đình bao gồm các mối quan hệ xã hội và có liên quan mật thiết đến các lĩnh vực khác của xã hội . Nói đến gia đình Việt Nam ta không thể không nói đến chữ hiếu . Người Việt thường nói đến hiếu là một đạo , xa hơn là một tín ngưỡng , một điều luật mà mọi ngươì phải tuân theo . Phạm trù hiếu là một ếet đặc trưng trong quan điểm tam cương . ngũ thường của Khổng Tử , và đây cũng là nét ảnh hưởng sâu sắc nhất của nho giáo đối với gia đình Việt Nam . Trong các triều đại phong kiến xưa , chữ hiếu luôn được đề cao và đứng đầu trong quan hệ gia đình và đựơc pháp luật hoá trong các bộ luật . Trong công việc cai trị của các triều đại Lê –Nguyễn đặc biệt chú trọng đến vấn đề gia đình , đều đề cao quan niệm hiếu làm nguyên tắc trị nước . Hiéu vốn là nội dung đạo đức trong gia đình Việt Nam từ rất xưa trong phong tục tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên ...nhưng về sau được Nho giáo khẳng định thêm sâu sắc và được thể chế hoá thành luân lí xã hội . Trước hết các chính quyền thời Lê –Nguyễn đã đưa tư tưởng hiếu vào khoa cử , giáo dục , tuyển lược quan lại và hoạt động của quan trường . Trong giáo dục , ngoài Tứ Thư , Ngũ Kinh làm sách giáo khoa giảng dạy , các triều Lê-Nguyễn đều đề cao Hiếu Kinh . Trong hình án luật , những vi phạm trong gia dình cũng có tôị danh và đều bị xử phạt . Quy định của luật pháp nhà nguyễn quy định khi xử tội phạm thường xét đến hoàn cảnh gia đình , tình cảnh ông bà và bổn phận của con cháu .Các vua Minh Mệnh , Thiệu Trị , Tự Đức đều có những biện pháp giảm nhẹ tội hình để biểu dương gương hiếu thảo . Cụ thể như năm 1824 , Hoàng Văn Khuê xin thay cho cha là Hoàng Văn Kim bị tội đồ giam cùm 3 năm nhưng Vua Minh Mệnh chiếu cố cho tấm lònh hiếu thảo tha cho Khêu và giảm cho Kim một nửa thời gian tội . Các nhà nước Lê-Nguyễn đều có luật lệ trong việc coi giữ mồ mả và đặt ruộng hương hoả thờ cúng tổ tiên . Cha mẹ chết nếu có nhiều ruộng đất phải dành ít ra 1/20 làm ruộng hương hoả , luật nhà Lê còn quy điịnh việc bảo vệ ruộng mộ . Đối với người Việt , tang ma là chuyện rất quan trọng đựơc gọi gọi là việc hiếu . Luật nhà Nguyễn còn quy định quan lại phải thôi chức , nghỉ việc để chịu tang cha mẹ từ 12 tháng đến 27 tháng
Trải qua gần 500 năm bằng nhiều phương pháp khác nhau các nhà nước Lê Nguyễn đã liên tục đề cao hiếu , củng cố gia đình .
Như vậy , dưới tác động của Nho giáo mà cụ thể là quan điểm tam cương , ngũ thường chữ hiếu đã được nâng cao lên thành đạo hiếu . Nội dung chính của đạo hiếuthể hiện trước hết con cháu phải nuôi dưỡng ông bà , cha mẹ . Đây là yêu cầu tói thiểu của mỗi thành viên trong gia đình . Hiếu thể hiện nhân cách của con người , là giá trị xã hội cao quý . Kẻ bất hiếu được xem là xấu xa nhất , có tội danh trong luật pháp ; đạo hiếu của giáo huấn được triều đại nào cũng đề cao , cũng củng cố . Hiếu tồn tại và được duy trì như tín điều tôn giáo không thể chuyển dổi
Sự kết hợp gia đình , họ hàng với làng xã với nhà nứơc tạo ra một nét đặc thù , tạo ra một cơ chế xã hội , lấy huyết thống làm cơ sở , đây là một đặc điểm trong gia đình Việt Nam chịu ảnh hưởng của Nho giáo . Làng Việt Nam không phải là tổng số giản đơn các gia đình mà là một thực thể liên kết khá chặt chẽ qua phong tục tập quán và hương ước .Có nhiều hương ước làng quy định trong quan hệ nam nữ ngăn cấm các quan hệ được coi là vụng trộm , là bất chính . Con trai đã ưng lấy con gái nhà nào rồi thì không được đến nhà người ấy nữa . Làm đủ sáu lễ ròi thì mới được đến nhà con gái làm lễ cưới .
Làng xóm cũng góp sức xây dựng kỉ cương gia đình theo quan niệm hiếu . Trong hương ước của nhiều làng có ghi người làng phải lấy luân lí làm trọng , nghĩa là làm cha thì tính nết cho lành, làm con thì thờ cha mẹ cho có hiếu , làm anh thì ở với anh em cho hiền hoà , làm em thì ở với anh chị cho cung kính , chồng nói thì vợ phải nghe , làm người trong nhà nên cư xử như thế nếu không thì chẳng khác loài súc vật . Ai có lỗi không đợi người nhà trình làng , có người khác trình làng thì làng theo tội nặng nhẹ mà phạt . Hương ước làng cũng đề cao kẻ sĩ , đề cao giáo lí Nho giáo và đăc biệt hơn là có nhiều điều khoản củng cố gia đình truyền thống theo kiểu tam tòng tứ đức . Để giữ vững kỉ cương gia đình , hương ước nhiều làng còn có hình phạt kèm theo . Hương ước không hẳn là sản phẩm của Nho giáo nhưng bằng hương ước , làng xã truyền thống đã can thiệp sâu sắc vào từng gia đình theo khuyng hướng Nho giáo .( ( Trích Một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam , NxB chính trị Quốc Gia , 1998 )
)
Trong gia đình , đôi khi có những biến động lớn mà một cá thể con người không thể chống đỡ nổi phải dựa vào một cộng đồng lớn hơn nhà mình . Cộng đồng ấy trước hết là dòng họ( ( Trích Một số vấn đề nho giáo ở Vệt Nam , NxB chính trị Quốc Gia , 1998 )
). Sự liên kết giữa các gia đình trong dòng họ trước hết được duy trì trươc hết bằng tín ngưỡng thờ tổ tiên . Đã là người Việt thì từ xa xưa đến nay đều có tục thờ cúng tổ tiên . Nhưng Nho giáo đã làm cho nó sâu sắc hơn như một đạo .Vào thời Lê Nguyễn , tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thực hiện trên cơ sở vật chất là ruộng họ . Ruộng họ tồn tại khiến tổ tiên được củng cố . Tổ tiên được thần thành hoá là một trong những tín ngưỡng thiêng liêng nhất của người Việt theo tinh thần Nho giáo . Ngày cúng giỗ tổ tiên thực sự là một ngày lễ của gia đình và họ hàng gần xa . Tục thờ cúng tổ tiên góp phần gắn kết các gia đình trong dòng họ gần gũi nhau hơn và củng cố đạo hiếu trong gia đình .
Để củng cố thêm mối quan hệ giữa gia đình và dòng họ , người Viẹt còn tiếp tục viết gia phả . Gia phả không phải sáng tạo của Nho giáo nhưng Nho giáo tô đậm thêm .( (Trích Một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam , NxB chính trị Quốc Gia , 1998 )
)
Trong gia đình Việt Nam , người con gái về nhà chồng , không chỉ có trách nhiệm với chồng mà còn phải làm dâu . Thậm chí chức năng làm dâu không chỉ hạn hẹp trong phạm vi gia đình chồng mà thực tế còn mở rộng ra cả dòng họ , hơn nữa còn cả xóm làng nhà chồng nữa .
Cùng với Gia phả nhiều dòng họ còn có gia huấn . Các gia huấn chủ yếu xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của từng thân phận con người trong thang bậc gia đình . Thang bậc ẩong gia đình , gia tộc được phân chia trong mọi nơi moi lúc . Mỗi người trong gia đình truyền thống phải tự ý thức rõ ràng về vị trí của thân phận mình trong gia đình . Ơ Việt Nam , luân lí và đạo đức truyền thống đều hướng tới việc xây dựng gia đình bền vững , lâu dài , một trách nhiệm , một luân lí và đạo đức mà tình cảm cá nhân phải phụ thuộc vào đó . Con nguời mới sinh ra đã phải là con người có hiếu và thuận hoà , cả cuộc đời đều hiến thân cho gia đình . Nho giáo đã tạo ra một sự gắn kết giữa cá nhân với gia đình , giữa gia đình với dòng họ làm nên những dòng họ lớn trong gia đình Việt Nam . Với sự ảnh hưởng của học thuyết chính danh , Nho giáo góp phần giữ gìn tôn ti trật tự trong gia đình Việt Nam thời kì phong kiến .
Nho giáo đề cao gia đình hơn bất cứ một học thuyết nào khác . Nho giáo đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến gia đình Việt Nam . Gia đình chịu ảnh hưởng của Nho giáo rất chú trọng giáo dục trước hết là nhân cách rồi đến chữ nghĩa . Quan hệ gia đình Nho giáo đề cao tình thương và trách nhiệm với nhau từ mới đẻ cho tới khi quađời . Gia đình Nho giáo là kiểu gia đình gia trưởng đề cao nam quyền , coi thường phụ nữ , thậm chí coi phụ nữ là thấp hèn nhất . Trong gia đình ,đạo Nho quan tâm đến tái sản xuất xã hội ra con người . Hiếu là đạo đức nền tảng của gia đình Nho giáo . Nhogiáo đã góp phần làm ổn định trật tự gia đình và do đó tạo nên sự ổn định xã hội –một điều kiện quan trọng của sự phát triển .
2.3. Sự ảnh hưởng của Nho giáo đến giáo dục của Việt Nam .
Có thể nói , gioáo dục Việt Nam hầu như chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Nho giáo . Trong suốt thời kì các triều đại phong kiến Việt Nam đều duy trì hệ thống trường học Nho giáo . Chế độ khoa cử tuyển lựa nhân tài cũng chỉ dành cho các nho gia . Chính vì thể trong suôt thời kì ấy nền giáo dục của nước ta chủ yếu nghiên cứu về thơ phú chứ không hề nghiên cứu thực tế . Các nho sĩ là là nhữngngười chịu ảnh hưởng nhiều nhất của nền giáo dục nho giáo và do đó họ là tầng lớp thể hiện rõ nhất sự ảnh hưởng của Nho giáo . Nhà Nho là những người tiếp thu nhũng tư tưỏng chính thống của Nho giáo , ngày đêm học tập và tuân thủ những lời răn dạy của Nho giáo . Nho giáo đã tạo ra nhà nho như một kiểu người đặc thù của nó với những tư tưởng , những ý nghĩ , cử chỉ , thái độ , tác phong riêng biệt . Đó là kiểu người thích ứng với chế độ phong kiến quan liêu và trở thành nhà tư tưởng bảo vệ cho chế dộ ấy . Đó là bộ mặt tinh thần của chế độ phong kiến Việt Nam ( ( Trích Nho giao và văn học Việt Nam , Trung tân nghiên cứu triết học khoa học XH và NV – Đại học Quốc Gia )
). Giáo dục Nho giáo có nhiều nhược điểm như coi thường lợi ích vật chất , trọng nông khinh thương , coi nhẹ công nghiệp và kĩ thuật , đề cao nam quyền ....Những nhược điểm đó không phải là không ảnh hưởng đến Việt Nam tuy nhiên Nho học cũng góp phần làm quan trọng nâng cao văn hoá đặc biệt là văn học , sử học, triết học , góp phần giữ gìn đạo đức xã hội , ổn định trật tự xã hội .
Ngoài ra ta cũng cần đề cập đến sự ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của văn học Việt Nam . Nho giáo đã có những tác động rõ nét tới văm học , thể hiện ở nhiều mặt và nhiều tiêu chí văn học . Những biến chuyển của Nho học cũng kéo theo sự vận dộng của văn học . Vào thời kì phát triển cực thịnh của nho giáo , thơ văn chủ yếu mang tư tưởng tải đạo , nêu cao trung hiếu , nghĩa vua tôi . Vào thế kỉ XVI , Nguyễn Bỉnh Khiêm là tiêu biểu cho văn chương Nho giáo , phê phán xã hội đồng tiền , đề cao đạo lí nho gia ; tuy nhiên vào cuối đời ông cũng đã có tư tưởng tam giáo đòng tôn . nho học đề cao đức độ tài năng tạo ra mối quan tâm phổ biến đến vấn đề tài , có tiêu chí về tài . Do đó xuất hiện hình tượng nhân vật đa tài và người tài tử trong văn học như Cao Bá Quát , Nguyễn Công Trứ . Văn học nửa cuối thế kỷXIX là thời kì mà Nho giáo không còn giữ thế độc tôn nữa cũng đã quan tâm đến chủ đề phản ánh khát vịng về tình yêu , về hạnh phúc và các mặt của cuộc sống thế tục mang tính nhân đạo .
Nho học cũng góp phần nhất định thúc đẩy sự xuất hiện của nhiều loại thể loại mới của riêng dân tộc như truyện thơ nôm , hát nói , ngâm khúc . Từ thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ thứ XIX xã hội nảy sinh nhiều mâu thuẫn , nhiều xung đột và chiến tranh đã khiến cho hệ tư tưởng thêm phong phú nhưng rất phức tạp trong đó chủ yéu là kết hợp tam giáo , tuy nhiên Nho giáo vẫn giữ vị trí trụ cột triều Tây Sơn lên ngôi mà Nguyễn thiếp vẫn tổ chức Sùng chính viện , vẫn làm văn hành đạo .
KẾT LUẬN
Nho giáo đã tồn tại ở nước ta hơn 2000 năm và đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến chính trị và đời sống xã hội của nước ta . Đó là một nền tảng vững chắc cho xã hội phong kiến Việt Nam trong suốt thời gian dài . Chính vì thế , ngày nay với sự tiếp thu hệ tư tưởng mới – hệ tư tưởng Mac-Lênin với tính đúng đắn khoa học và sự tiến bộ vượt bậc của nó nhưng những tàn dư của hệ tư tưởng cũ vẫn chưa mất đi hoàn toàn . Nó vẫn còn tồn tại dai dẳng , và còn có nhiều yếu tố làm cản trở sự phát triển của xã hội . Những tư tưởng cũ bao giờ cũng có tính bảo thủ . Nó tồn tại ngay cả khi cơ sở xã hội của nó đã bị thủ tiêu , chính vì thế mà ngày nay tư tưởng Nho giáo còn gây trở ngại không ít cho sự nghiệp của chúng ta trong giai đoạn mới . Ngày nay , để xây dựng chủ nghĩa xã hội mau chóng thắng lợi cần phải quét sạch những tư tưởng không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay như tư tưởng đức trị , nhân trị gây trở ngại cho đường lối pháp trị xã hội chủ nghĩa . Chủ nghĩa gia đình , chủ nghĩa đồng tộc gây trở ngại cho sự động viên tài năng , tư tưởng trọng quan khinh dân .....Tuy mhiên , Nho giáo vẫn cần thiết được kế thừa có chọn lọc , chẳng hạn tinh thần củng cố gia đình và liên gia đình , giữ gìn hiếu đễ , lễ nghĩa ,kỉ cương trong gia đình và trong xã hội , giữ gìn sự cân bằng hài hoà trong quan hệ giữa người với người , sống và làm việc có cộng đồng và đăc biệt phát huy tinh thần hiếu học , ý thức trách nhiệm .....là rất cần thiết . Kế thừa tinh hoa chọn lọc không có nghĩa là quay trở lại với Nho học . Chúng ta nghiên cứu Nho giáo nhằm cải tạo hiện tại và xây dựng tương lai . Chúng ta nghiên cứu Nho giáo khi Nho giáo đã tồn tại hơn 2000 năm , luôn được cải biến bổ sung và mang các bộ mặt khác nhau qua các thời kì . Khi chúng ta nghiên cứu về Nho giáo , không thể bỏ qua ý kiến của những người đi trước , nhưng phải đặt lại toàn bộ dưới áng sáng khách quan khoa học ,gạt bỏ những sai lầm mà người trước đã sa vào . Chúng ta phải mạnh dạn gạt bỏ những sai lầm của Nho giáo để tạo điều kiện cho sự thay phát triển của hệ tư tưởng tiến bộ hơn hệ tư tưởng Mac-Lênin .
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Đại cương triết học Trung Quốc .
- PTS . Doãn Chính
- NxB Chính Trị Quốc Gia , 1997
2) Lịch sử triết học phương Đông .
- Nguyễn Đăng Thục
- NxB Thành Phố Hồ Chí Minh , 1991
3) Nho giáo
- Trần Trọng Kim
- NxB Văn Hoá Thông Tin
4) Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam
- Phan Đại Doãn
- NxB Chính Trị Quốc Gia , 1998
5) Nho giáo và văn học Việt Nam
- Trung tâm nghiên cứu triết học khoa học xã hội và nhân văn
6)Đại cương triết học Việt Nam
- Nguyễn Hùng Hậu
7) Giáo trình triết học Mac-Lênin
- Bộ giáo dục và đào tạo
- NxB Chính Trị Quốc Gia
MỤC LỤC
Trang
Tài liệu tham khảo 24
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35812.doc