LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết
Trong những thập niên cuối thế kỷ 20, nhân loại đã được chứng kiến một sự phát triển thần kỳ và ngoạn mục của khoa học công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ. Lĩnh vực công nghệ thông tin đã đạt được rất nhiều thành tựu mang tính chất đột phá, những ứng dụng do nó mang lại rất to lớn và rất đáng ghi nhận. Trong lĩnh vực chứng khoánluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Chứng Khoán, hình thức giao dịch qua Internet từ chỗ tưởng như không thể đã trở thành hiện thực. Mục tiêu của nó là nhằm tăng cường tính cạnh tranh trên cơ sở mang lại cho các giao dịch mua, bán được thực hiện công bằng, hiệu quả, nhanh chóng, chính xác tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân tham gia đầu tưluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Đầu tư chứng khoán nhiều hơn nữa. Trong bối cảnh hội nhập kinh tếluận văn báo cáo chuyên ngành kinh tế đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở khắp tất cả các nước trên thế giới, việc liên kết giữa nền kinh tế của một nước với một nước khác hay với nhiều nước trở thành một tất yếu khách quan. 
Sự liên kết này diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế. Để thu hút thêm dòng vốn đầu tư phục vụ cho quá trình phát triển nền kinh tế, hầu hết các thị trường chứng khoán đều phải mở cửa thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Sử dụng công nghệ Internet vào thị trường chứng khoán là một xu thế phát triển mới trên thế giới. Với nhiều đặc tính ưu việt nổi trội, giao dịch Internet đã thu hút được nhiều nhà đầu tư và các định chế thị trường khác tham gia đông đảo. Sử dụng thị trường Internet nhằm nâng cao tính tiện ích cho thị trường, đảm bảo tính liên tục của thị trường, và do vậy, giúp cho mục tiêu toàn cầu hoá của một thị trường sử dụng mạng Internet. Đặc biệt, tại các nước có các thị trường chứng khoán đã phát triển như Mỹ, Anh, Hàn Quốc . Thị trường Internet đang ngày càng mở rộng quy mô, có nước quy mô thị trường đã có thể so sánh được với Sở giao dịch chứng khoán chính thức.
Với xu thế toàn cầu hoá và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta, việc đón đầu nghiên cứu về loại hình thị trường này là vô cùng quan trọng để 4
có thể đưa vào ứng dụng trong một tương lai không xa, hoặc để cơ quan quản lý có cơ sở xem xét các giải pháp xử lý thích hợp trong trường hợp có nhu cầu giao dịch chứng khoán Internet một cách tự phát
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu mô hình thị trường chứng khoán Internet ở một số quốc gia
- Nghiên cứu ứng dụng Internet vào giao dịch chứng khoán, phân tích điều kiện, đặc thù của ứng dụng này
- Nghiên cứu những điều kiện của giao dịch chứng khoán tại Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam và khả năng ứng dụng công nghệ Internet vào giao dịch
- Đưa ra kiến nghị về khung pháp lý, cơ sở hạ tầng thông tin và hệ thống giao dịch
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng hoạt động giao dịch qua internet một số nước, từ đó đưa ra một số gợi ý cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
4. Phương pháp tiến hành
- Thu thập, dịch và xử lý tài liệutài liệu trực tuyến, tài liệu điện tử, thư viện tài liệu
- Phân tích
- Tổng hợp và viết
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Sự phát triển mô hình thị trường chứng khoán Internet
Chương II: Một số mô hình giao dịch Internet. Điều kiện, đặc thù và kinh nghiệm ứng dụng giao dịch Internet vào giao dịch chứng khoãn
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
63 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu những điều kiện cần thiết để ứng dụng công nghệ Internet vào giao dịch chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 điều chỉnh đối với tất 
cả các bên tham gia vào hoạt động giao dịch qua mạng. Vấn đề đặt ra cho các 
nhà hoạch định chính sách về hoạt động giao dịch qua mạng là liệu khung 
pháp lý có thực sự đảm bảo cho hoạt động giao dịch theo hình thức này chưa, 
có khả năng bảo vệ tài sản và lợi ích hợp pháp của khách hàng tham gia giao 
dịch qua mạng, có phù hợp với các loại chứng khoán phi vật chất và chuyển 
giao chứng khoán và tiền mặt dưới hình thức chứng từ điện tử... 
3.2.1.2. Xây dựng và ban hành Luật thương mại điện tử 
Sự phát triển của Thương mại điện tử trên thế giới đã làm thay đổi cách 
thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã 
hội. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng phải thừa nhận rằng những rủi ro gặp phải 
trong quá trình giao dịch, kinh doanh trên mạng là hiện thực và việc này đòi 
hỏi phải có các giải pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn cần phải hình 
thành được một cơ sở pháp lý đầy đủ. Kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho 
thấy để thúc đẩy thương mại điện tử phát triển thì vai trò của Nhà nước phải 
được thể hiện rõ nét trên hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng 
một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ 
thương mại điện tử. Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc 
cho thương mại điện tử hoạt động thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ 
rất lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ 
quan Nhà nước cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát được các hoạt động kinh 
doanh thương mại điện tử. 
 36
Hơn thế nữa thương mại điện tử là một lĩnh vực mới mẻ cho nên tạo 
được niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ thương mại điện tử là 
một việc làm có tính cấp thiết mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra được 
một sân chơi chung với những quy tắc được thống nhất một cách chặt chẽ. 
Trong tiến trình hội nhập với thế giới, với tư cách là thành viên của 
APEC, Việt nam đang tích cực tham gia và ủng hộ "Chương trình hành động 
chung" mà khối này đã đưa ra về thực hiện "Thương mại phi giấy tờ" vào năm 
2005 đối với các nước phát triển và năm 2010 đối với các nước đang phát 
triển. Việt nam cũng tích cực tham gia vào lộ trình tự do hoá của Hiệp định 
khung e-ASEAN và thực hiện theo "Các nguyên tắc chỉ đạo Thương mại điện 
tử" mà các nước trong khối đã thông qua. Chính vì thế những đòi hỏi của pháp 
lý quốc tế chúng ta phải đáp ứng để có thể hoà nhập và theo kịp các nước 
trong khu vực và trên thế giới. 
3.2.1.2.1. Yêu cầu pháp lý cho việc phát triển giao dịch điện tử 
3.2.1.2.1.1. Giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện tử 
Hiện nay theo các quy định của pháp luật Việt nam, hình thức văn bản 
được sử dụng như là một trong những hình thức chủ yếu trong các giao dịch 
dân sự, thương mại và đặc biệt là trong các hợp đồng kinh tế nó là một yếu tố 
bắt buộc. Chính vì vậy, chúng ta vẫn chưa có một khái niệm cụ thể và rõ ràng 
rằng thế nào là "văn bản". Theo quan niệm lâu nay của những người làm công 
tác pháp lý thì họ vẫn hiểu trong một nền thương mại truyền thống thì văn bản 
được đồng nghĩa với giấy tờ (dưới hình thức viết). Như vậy, nếu các hình thức 
thông tin điện tử không được ghi nhận về mặt pháp lý là một trong những hình 
thức của văn bản, thì các giao dịch chứng khoán được giao kết trên mạng máy 
tính giữa các chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu theo pháp luật của Việt nam, do 
không đáp ứng được các yêu cầu về mặt pháp lý cho hoạt động giao dịch 
chứng khoán qua mạng. Nếu đòi hỏi các giao dịch chứng khoán phải được thể 
hiện dưới hình thức viết và chữ ký tay thì những ưu thế của giao dịch chứng 
khoán qua mạng sẽ không được tận dụng và phát huy. Chính vì vậy việc xoá 
bỏ rào cản đầu tiên ảnh hưởng đến sự phát triển của giao dịch chứng khoán 
qua Internet là về phía Nhà nước cần phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý đối 
với giá trị của chứng từ và kết quả giao dịch chứng khoán thông qua phương 
tiện điện tử. 
 37
Việc chúng ta ghi nhận giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện 
tử có thể được thực hiện bằng hai cách chính như sau: 
Thứ nhất: Nên đưa ra khái niệm chứng từ giao dịch chứng khoán điện 
tử và có những quy định riêng đối với loại chứng từ này. 
Thứ hai: Phải coi các hình thức thông tin điện tử về hoạt động giao dịch 
chứng khoán như là các văn bản có giá trị tương đương với văn bản viết nếu 
như chúng đảm bảo được các yếu tố 
- Khả năng chứa thông tin, các thông tin có thể được lưu giữ và tham 
chiếu lại khi cần thiết. 
- Ðảm bảo được tính xác thực của thông tin 
- Ðảm bảo được tính toàn vẹn của thông tin 
Hiện nay tại Việt nam vấn đề này chúng ta đã có đề cập đến và đã được 
giải quyết tuy còn ở một góc độ rất hạn chế. Trong luật Thương mại Việt nam 
đã có quy định Hợp đồng mua bán hàng hoá thông qua điện báo, telex, fax, 
thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức 
văn bản. Tuy nhiên ở các hợp đồng kinh tế, dân sự, thương mại khác thì vấn 
đề này chưa đuợc thừa nhận một cách rõ ràng và cụ thể. Chính vì vậy để hoàn 
thiện và có một cách hiểu thống nhất chúng ta cần phải có những điều chỉnh 
kịp thời trong thời gian tới. 
3.2.1.2.1.2. Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử 
Từ trước đến nay, chữ ký là phương thức phổ biến để ghi nhận tính xác 
thực của thông tin được chứa đựng trong văn bản. Có một số đặc trưng cơ bản 
của chữ ký là: 
- Chữ ký nhằm xác định tác giả của văn bản 
- Chữ ký thể hiện sự chấp nhận của tác giả với nội dung thông tin chứa 
đựng trong văn bản. 
Trong giao dịch thương mại thông qua các phương tiện điện tử, các yêu 
cầu về đặc trưng của chữ ký tay có thể đáp ứng bằng hình thức chữ ký điện tử. 
Chữ ký điện tử trở thành một thành tố quan trọng trong văn bản điện tử. Một 
trong những vấn đề cấp thiết đặt ra là về mặt công nghệ và pháp lý thì chữ ký 
 38
điện tử phải đáp ứng được sự an toàn và thể hiện ý chí rõ ràng của các bên về 
thông tin chứa đựng trong văn bản điện tử. Hiện nay trên thế giới đã có rất 
nhiều công trình nghiên cứu và đã được ứng dụng rộng rãi nhằm nhận dạng và 
chứng thực cá nhân. Những công nghệ này bao gồm công nghệ số và mật lệnh 
nhận dạng, dấu hiệu hoặc thẻ thông minh, sinh trắc học, dữ liệu điện tử đơn 
giản, chữ ký kỹ thuật số và các kết hợp của những công nghệ này. Luật pháp 
điều chỉnh lĩnh vực này sẽ tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng 
chữ ký điện tử cho phép các bên không liên quan hoặc có ít thông tin về nhau 
có thể xác định được chính xác chữ ký điện tử của các bên đối tác. Và trong 
trường hợp này để xác định được độ tin cậy của chữ ký điện tử người ta trù 
liệu hình thành một cơ quan trung gian nhằm chứng thực tính xác thực và đảm 
bảo độ tin cậy của chữ ký điện tử. Cơ quan này hình thành nhằm cung cấp một 
dịch vụ mang nhiều ý nghĩa về mặt pháp lý hơn là về mặt công nghệ. 
Ðối với Việt nam vấn đề chữ ký điện tử vẫn còn là một vấn đề mà 
chúng ta mới có những bước đi đầu tiên. Tháng 3/2002 Chính phủ đã có quyết 
định số 44/2002/QÐ-TTg về chấp nhận chữ ký điện tử trong thanh toán liên 
ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt nam đề nghị. Có thể coi đây là văn 
bản pháp lý cao nhất quy định về chữ ký điện tử hiện đang được áp dụng tại 
Việt nam. Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm để hoàn thiện và nhân rộng để 
chữ ký điện tử trở thành phổ biến trong các giao dịch thương mại điện tử. 
3.2.1.2.1.3. Vấn đề bản gốc 
Vấn đề "bản gốc" có liên quan chặt chẽ đến vấn đề "chữ ký" và "văn 
bản" trong môi truờng kinh doanh điện tử. Bản gốc thể hiện sự toàn vẹn của 
thông tin chứa đựng trong văn bản. Trong môi trường giao dịch qua mạng thì 
vấn đề bản gốc được đặt gắn liền với việc sử dụng chữ ký điện tử. Do đó chữ 
ký điện tử không những chỉ xác định người ký mà còn nhằm xác minh cho tính 
toàn vẹn của nội dung thông tin chứa trong văn bản. Việc sử dụng chữ ký điện 
tử đồng nghĩa với việc mã hoá tài liệu được ký kết. Về mặt nguyên tắc thì văn 
bản điện tử và văn bản truyền thống có giá trị ngang nhau về mặt pháp lý. Vấn 
đề này được làm rõ sẽ là cơ sở cho việc xác định giá trị chứng cứ của văn bản 
điện tử. Việc công nhận giá trị chứng cứ của văn bản điện tử đóng một vai trò 
quan trọng trong sự phát triển của thương mại điện tử. Chỉ khi giá trị của văn 
bản điện tử được đặt ngang hàng với văn bản viết truyền thống thì các chủ thể 
 39
trong giao dịch thương mại điện tử mới sử dụng một cách thường xuyên văn 
bản điện tử thay cho văn bản viết truyền thống. Tuy vậy giá trị của văn bản 
điện tử cũng chỉ được xác nhận khi nó đảm bảo được các thành tố mà đã được 
nêu ở phần trên. 
Có thể khẳng định vấn đề xây dựng khung pháp lý làm cơ sở cho 
thương mại điện tử phát triển là một việc làm mang tính cấp thiết. Mặc dù còn 
nhiều vấn đề mà chúng ta phải bàn về nó, song một thực tế là thương mại điện 
tử nói chung và giao dịch chứng khoán qua mạng nói riêng không thể phát 
triển mạnh và hoàn thiện nếu như không có môi trường pháp lý đầy đủ cho nó 
hoạt động. Theo kế hoạch tới cuối năm 2005 hoặc đầu năm 2006, Bộ Thương 
mại sẽ trình Chính phủ Pháp lệnh về Thương mại điện tử. Ðây là sẽ một tin vui 
cho tất cả những ai đã, đang và sẽ triển khai, quan tâm đến thương mại điện 
tử. 
3.2.1.2.2. Giao dịch chứng khoán qua internet với luật thương mại điện tử 
Để khẳng định được mang tính nhận thức chiến lược ấy mới quyết định 
thiết lập môi trường kinh tế, pháp lý, và xã hội về mặt pháp lý chúng ta phải 
đặt ra những vấn đề rõ ràng như sau: 
- Phải thừa nhận tính pháp lý của giao dịch qua mạng Internet, phải thừa 
nhận tính pháp lý về chữ ký điện tử (electronic signature), tức là chữ ký 
đặt dưới dạng số thông điệp dữ liệu (data message), và chữ ký số hoá 
(digital signature). Phải xây dựng các thiết chế pháp lý, các cơ quan 
pháp lý thích hợp cho việc xác thực/chứng thực chữ ký điện tử và chữ 
ký số hoá. 
- Bảo vệ pháp lý của các hoạt động giao dịch chứng khoán qua mạng 
- Quy định pháp lý đối với dữ liệu xuất xứ của nhà nước 
- Bảo vệ pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ 
- Bảo vệ bí mật riêng tư của nhà đầu tư một cách thích đáng 
- Bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin 
 40
3.2.1.3. Xây dựng và ban hành Luật chứng khoán 
Thực tế cho thấy văn bản luật điều chỉnh hoạt động của thị trường 
chứng khoán không chỉ có Luật chứng khoán là đủ, ngoài ra, nó còn chịu sự 
điều chỉnh và chịu ảnh hưởng của nhiều luật khác như: luật hình sự, luật tố 
tụng, luật phá sản, luật ngân hàng, luật thương mại, luật cổ phần hoá… Chính 
vì vậy, đòi hỏi người làm luật phải gắn kết giữa các luật liên quan tới đặc biệt 
khi triển khai hoạt động giao dịch qua Internet. Theo đó, cần quan tâm một số 
vấn đề sau: 
- Các văn bản pháp luật về quy định giao dịch qua mạng đòi hỏi chặt chẽ 
và có tính ổn định, có giá trị pháp lý cao đặc biệt trong năm gần đây 
Nhà nước đã quan tâm tới lĩnh vực về luật Thương mại điện tử. Đặc 
biệt nhất là giao dịch qua mạng do đó nghị định 144/2003 NĐ-CP vẫn 
còn bị hạn chế rất lớn về vấn đề này 
- Quy trình xây dựng đòi hỏi có sự đóng góp ý kiến của các ngành, các 
Bộ, các tổ chức liên quan đến môi trường hoạt động tới thị trường 
chứng khoán điều này sẽ khiến luật chứng khoán ngày càng được hoàn 
thiện và phong phú đa dạng hơn. Chính ý kiến đó đã tạo cho luật TTCK 
ngày càng có giá trị cao khi áp dụng nó 
- Do khung pháp lý về thị trường chứng khoán bị chịu ảnh hưởng bởi 
nhiều bộ luật khác như luật phá sản, luật tố tục, luật doanh nghiệp, luật 
ngân hàng, luật công nghệ thông tin (Thương mại điện tử)… nên 
thường hay xung đột giữa các quy định nhất là sau với mô hình hoạt 
động giao dịch qua mạng. Đòi hỏi luật chứng khoán ban hành có giá trị 
cao trong tính pháp lý cũng như cách giải quyết triệt để mọi mâu thuẫn 
khi xảy ra xung đột đối với các nhà đầu tư khi tham gia trên thị trường. 
Đặc biệt trong lĩnh vực xử phạt hành chính do lỗi vi phạm giao dịch tại 
NĐ 144/2003/NĐ-CP vẫn còn bị hạn chế về vấn đề này 
- Như chúng ta đã biết lĩnh vực chứng khoán là vấn đề rất phức tạp đa 
dạng và ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư trên thị trường. Do 
 41
đó, đòi hỏi phải có văn bản pháp luật cũng như quy chế hoạt động phải 
có hiệu lực cao đặc biệt khi giao dịch qua mạng nhiều yếu tố rủi ro, 
thường xảy ra đối với nhà đầu tư, do đó nó phải thể hiện được mọi phát 
sinh trên thị trường trong từng mỗi trường hợp. Mục đích luật chứng 
khoán là bảo vệ các nhà đầu tư cũng như tạo ra một môi trường hoạt 
động có tính thanh khoản cao, năng động, minh bạch và hiệu quả cao. 
- Bên cạnh đó chúng ta sớm triển khai kế hoạch hợp tác, liên kết giữa 
các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực TTCK nhằm tìm ra giải pháp 
và hướng đi để luật TTCK của Việt Nam ngang tầm với quốc tế cũng 
như điều phù hợp với lộ trình khi Việt Nam tham gia WTO, do đó nhu 
cầu và cơ hội cho việc hội nhập TTCK Việt Nam ngày càng được phát 
triển. 
- Xây dựng các chính sách về quy trình giao dịch qua mạng, chống các 
tội phạm tài chính xâm nhập trái phép nhằm sao chép các dữ liệu, 
truyền vi rút phá hoại tới hệ thống... nên đưa vào khuôn khổ của bộ luật 
hình sự để sự phạt nghiêm minh đồng thời mang tính dăn đe các đối 
tượng phá hoại... làm được như vậy, sẽ tạo cơ sở pháp lý TTCK Việt 
Nam phát triển ổn định, an toàn lành mạnh và có hiệu quả, nâng cao 
năng lực quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực hoạt động TT chứng 
khoán, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân, phù hợp 
với chuẩn mực quốc tế trong tiến trình hội nhập toàn cầu hoá xây dựng 
một hệ thống luật TTCK đòi hỏi là sự cần thiết. 
Để thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả, phát huy đúng vai trò 
chức năng vốn có của nó trong nền kinh tế thì việc sớm ban hành Luật chứng 
khoán có một ý nghĩa chiến lược lâu dài. Hiện tại, văn bản pháp lý điều chỉnh 
về chứng khoán và thị trường chứng khoán cao nhất của Việt Nam hiện nay là 
Nghị định 144 và các thông tư hướng dẫn thực hiện. 
Việc sớm ban hành Luật chứng khoán với mục tiêu tạo ra một khuôn 
khổ pháp lý toàn diện và đầy đủ nhằm quản lý một cách có hiệu quả, toàn diện 
 42
và thống nhất về hoạt động của thị trường vốn nói chung và thị trường chứng 
khoán nói riêng trong đó có vấn đề giao dịch qua mạng Internet. Nó sẽ giúp 
nâng cao tính minh bạch trong công tác quản lý, cung cấp cơ hội công bằng 
cho những người tham gia thị trường như các nhà đầu tư, các tổ chức phát 
hành hoặc các tổ chức trung gian như công ty chứng khoán. 
3.2.2. Cơ sở hạ tầng thông tin 
3.2.2.1. Yêu cầu chung 
Giao dịch chứng khoán qua mạng là một tổng thể gồm nhiều vấn đề 
phức tạp đan xen nhau trong một mối quan hệ hữu cơ, trong phạm vi nghiên 
cứu của đề tài này, chúng tôi xin đề cập tới hạ tầng cơ sở thông tin. 
- Hạ tầng cơ sở nhân lực: 
• Để áp dụng thành công trong lĩnh vực giao dịch chứng khoán qua 
mạng đòi hỏi mọi người đều có khả năng thao tác thành thạo các 
hoạt động trên mạng 
• Có một đội ngũ chuyên gia về tin học, thường xuyên bắt kịp các 
công nghệ thông tin mới phát triển để phục vụ cho giao dịch 
chứng khoán nói riêng và các hoạt động khác nói chung 
• Ngoài ra chúng ta có thêm một đội ngũ giỏi về chuyên môn trong 
lĩnh vực chứng khoán hướng dẫn các nhà đầu tư cho mọi người 
khi tham gia giao dịch chứng khoán. 
- Hệ thống bảo mật: 
• Giao dịch qua mạng tính bảo mất đòi hỏi rất cao cũng như bảo 
mật về dữ liệu đặc biệt trong thời đại hiện nay tính năng bảo mật 
vẫn còn non trẻ đặc biệt là các con virút hacker đã từng tấn công 
vào hệ thống dữ liệu hậu quả của gây ra rất nhiều tổn thất tới hoạt 
động kinh tế.... 
• Để giảm thiểu rủi ro chúng ta nên có chiến lược phòng thủ bằng 
cách kỹ thuật mã hoá với công nghệ SSL (Secure Sockets Layer) 
 43
cũng như sử dụng các hệ thống chữ ký điện tử, là chữ ký biểu 
diễn bằng các Bit điện tử.. 
• Có chiến lược về mã hoá, kèm theo các chương trình bảo để an 
toàn thông tin của chính chúng ta đang trở thành một vấn đề lớn 
đối với ngành khác nói chung và ngành chứng khoán nói riêng 
3.2.2.2. Yêu cầu đối với phần cứng 
Do chúng ta chưa từng áp dụng giao dịch qua Internet sẽ rất khó khăn 
trong việc đưa ra một đề xuất cụ thể về phần cứng trong thời điểm hiện tại. 
Tốc độ phát triển công nghệ tin học như vũ bão đã phần nào giải thích cho 
chúng ta rõ vì sao chúng tôi không đưa ra đề xuất cụ thể. Thực tế cho thấy 
rằng có những vấn đề hiện tại chúng ta nghĩ là không thể làm được hay chưa 
có giải pháp nào khả thi, nhưng ngày mai có thể những nhìn nhận của chúng 
ta đã bị lỗi thời. Chính vì vậy, chúng tôi xin đưa ra một số nguyên tắc chung 
mang tính chất bắt buộc đối với hệ thống phần cứng khi triển khai hoạt động 
giao dịch qua Internet tại Việt Nam. 
• Các thiết bị phải có cấu hình mạnh 
• Các thiết bị phải có khả năng thay thế nóng 
• Các thiết bị máy chủ phải có khả năng chạy các chương trình ứng 
dụng, tương thích với hệ thống khác, đảm bảo các chương trình 
phần mềm và luồng trao đổi dữ liệu được thông suốt 
• Có khả năng cảnh báo lỗi 
3.2.2.3. Yêu cầu đối với phần mềm 
Đối với giao dịch qua Internet, nội dung của các phần mềm triển khai 
phải đạt được mục đích điện toán hoá các hoạt động trên thị trường. Ngoài ra, 
các khâu tự động hoá của ngành chứng khoán có thể được phân ra thành khu 
vực: 
3.2.2.3.1. Công ty chứng khoán 
- Quản lý tài khoản của khách hàng: thông tin cơ bản về tài khoản của 
khách hàng có thể bao gồm số hiệu tài khoản, tên số chứng minh, mã số 
 44
phân loại nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài, cá nhân hay tổ chức… 
Thông tin về số tiền ký quỹ, việc rút và gửi tiền và chứng khoán, tính 
toán hiệu quả đầu tư, thông tin về hoạt động giao dịch của nhà đầu tư… 
- Thông tin phục vụ cho việc ra quyết định đầu tư: 
• Dịch vụ thông tin thị trường: cung cấp các dịch vụ thông tin liên 
quan tới diễn biến hoạt động của thị trường, chúng bao gổm 
những thông tin về diễn biến giao dịch; thông tin về hoạt động 
của tổ chức niêm yết... 
• Dịch vụ thông tin thống kê phân tích: là những thông tin đã qua 
xử lý theo các mục đích sử dụng khác nhau. Chúng là sản phẩm 
của việc tổng hợp, phân tích tình hình hoạt động của thị trường. 
Đây chính là thông tin phục vụ cho việc ra quyết định của nhà 
đầu tư. Chúng bao gồm những thông tin về phân tích đầu tư tài 
chính theo từng loại cổ phiếu; thông tin về chỉ số thị trường; 
thông tin khác... 
3.2.2.3.2. Sở giao dịch chứng khoán 
Đối với hệ thống giao dịch: hoạt động giao dịch qua hệ thống mạng 
Internet dựa trên cơ sở tự động hoá hoàn toàn. Chính vì vậy, đòi hỏi phải đầu 
tư công nghệ tiên tiến và hiện đại, nó quyết định tới sự thành công hay thất bại 
của mô hình giao dịch qua Internet. Chúng bao gồm 
• Chống truy cập trái phép từ bên ngoài vào hệ thống mạng 
• Chống truy cập trái phép từ bên trong hệ thống mạng 
• Kiểm soát hoạt động truy cập khai thác dữ liệu của các đối tượng 
truy cập 
• Dữ liệu trên đường truyền phải được mã hoá 
• Dữ liệu lưu trữ phải được mã hoá, bảo mật 
• Phải kiểm tra tính đúng đắn của thông tin, người sử dụng 
 45
• Bảo vệ tính chuẩn xác của chương trình và các tham số quan 
trọng khác của hệ thống 
• Giám sát hoạt động của hệ thống nhằm không ngừng tăng cường 
khả năng bảo mật cho hệ thống 
• Phải đầu tư xây dựng hệ thống an toàn bảo mật đúng đắn phù hợp 
với yêu cầu đặt ra 
3.2.2.4. Giải pháp mạng 
Để có thể ứng dụng giao dịch qua mạng đòi hỏi phải có hạ tầng cơ sở 
Internet tốt, với đường truyền có tốc độ cao có khả năng phục vụ cho người 
đầu tư truy cập vào các trang Web của các công ty chứng khoán một cách 
nhanh chóng, thuận lợi. Xây dựng hệ thống mạng trong phạm vi toàn quốc là 
công việc quan trọng nhất của công tác phát triển hạ tầng giao dịch trực tuyến. 
Giúp cho các công ty chứng khoán trên cả nước có thể nhập các lệnh mua/bán 
chứng khoán cùng một lúc, và các nhà đầu tư có thể tiếp cận thông tin thị 
trường trên cơ sở thời gian thực thông qua các máy điện toán cung cấp dịch vụ 
thông tin trên mạng. 
Đầu tư xây dựng mạng chuyên dùng cho hoạt động giao dịch chứng 
khoán Stock – net, tạo nên xa lộ thông tin cho tấtc cả các công ty chứng khoán 
trên cả nước và kết nối thông tin với hệ thống của các tổ chức. Xây dựng 
mạng thông tin hai chiều để tăng cường độ tin cậy và phát triển hệ thống giám 
sát mạng thống nhất cho việc theo dõi và quản lý tự động của hệ thống mạng. 
Muốn làm được như vậy, đòi hỏi chúng ta cần xây dựng một hệ thống trao đổi 
thông tin trên cơ sở các máy chủ có đường truyền tải tốc độ cao, cho phép 
nhiều máy trạm truy cập cùng một lúc. Ngoài ra, hệ thống quản lý mạng phải 
phát hiện kịp thời lỗi của hệ thống và kiểm soát toàn bộ hệ thống mạng và hệ 
thống mạng Stock – net phải có khả năng giao tiếp tốt với các hệ thống mạng 
khác, như mạng thanh toán bù trừ (Trung tâm Lưu ký) và các mạng chuyên 
dùng khác. 
 46
Hệ thống mạng nội bộ trong từng công ty chứng khoán và các Sở giao 
dịch chứng khoán phải được thiết lập và có độ bảo mật và an toàn cao. Mỗi 
một công ty chứng khoán phải đầu tư xây dựng và duy trì một đường truyền 
trực tiếp tới Sở giao dịch. Đường truyền này phải có tốc độ cao, có độ an toàn 
và bảo mật tốt nhằm giảm thiểu được tối đa các sự cố trên đường truyền. 
3.2.2.5. Giải pháp về an toàn bảo mật 
An toàn bảo mật cho một hệ thống giao dịch qua Internet là một khái 
niệm bao hàm nhiều vấn đề lớn trong đó gồm cả an toàn bảo mật cho phần 
cứng và phần mềm hệ thống. Vấn đề càng đặc biệt quan trọng khi những tài 
nguyên của một hệ thống lưu trữ và xử lý một khối lượng thông tin vô cùng 
phong phú và đa dạng về chứng khoán, tác động tới nhiều mặt của đời sống xã 
hội. Để làm tốt vấn đề này, cần lưu ý: 
- Thứ nhất, đảm bảo việc phân phối tài nguyên phục vụ cho người sử 
dụng, đảm bảo tính xác thực cũng như ngăn chặn tấn công vào từng hệ 
thống thông tin có thể giải quyết bằng cách kiểm soát việc truy cập và 
xây dựng bức tường lửa với những quy định về an toàn bảo mật chặt 
chẽ… 
- Thứ hai, đảm bảo không mất dữ liệu khi số lượng người truy cập rất lớn. 
Trong quá trình truy cập, dữ liệu có thể bị đánh cắp, phá huỷ hoặc có 
thể bị sửa đổi do vô tình hay cố tình từ chính những người truy cập gây 
ra 
- Thứ ba, đảm bảo cho dữ liệu trên đường truyền được thông suốt từ phía 
người cung cấp tới người nhận, từ người đầu tư tới hệ thống nhận lệnh 
giao dịch tự động. 
3.2.3. Hệ thống giao dịch chứng khoán 
3.2.3.1. Mô hình tổ chức giao dịch qua internet 
Để đảm bảo tính thống nhất và thực thi việc quản lý một cách an toàn 
và hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán, trước mắt, Sở và Trung 
 47
tâm GDCK sẽ chịu trách nhiệm tổ chức và quản lý vận hành hoạt động giao 
dịch chứng khoán qua internet. 
3.2.3.1.1. Tổ chức nhận và truyền lệnh giao dịch 
Sở và Trung tâm GDCK sẽ xây dựng và quản lý hệ thống truyền dẫn 
lệnh tự động qua mạng. Các công ty chứng khoán có trách nhiệm phối hợp với 
Sở và Trung tâm giao dịch trong việc quản lý và vận hành hệ thống này. Tức 
là, các công ty chứng khoán sẽ được trang bị phần mềm quản lý việc nhận 
lệnh. Tại đây, các công ty chứng khoán sẽ thực hiện đối chiếu số dư tiền và 
chứng khoán của khách hàng. Nếu tất cả các điều kiện thanh toán đều thoả 
mãn, hệ thống này sẽ tự động gán mã số và ký hiệu lệnh để truyền vào hệ 
thống nhận lệnh tự động. 
3.2.3.1.2. Xác nhận kết quả giao dịch 
Sau khi hệ thống truyền dẫn lệnh tự động được kích hoạt, nó sẽ tiến 
hành so sánh và đánh dấu các lệnh giao dịch dưới dạng khớp tạm thời, hệ 
thống sẽ gửi trả kết quả về các công ty chứng khoán và công bố trên website 
của Sở hoặc Trung tâm GDCK. Đề đảm bảo tính khách quan và công bằng, hệ 
thống này sẽ chuyển trả ngay cho các nhà đầu tư những thông tin liên quan tới 
lệnh của họ dưới dạng massage: 
- Nếu được chấp thuận: hệ thống sẽ tự động chuyển thông báo tới khách 
hàng rằng lệnh đã được chấp thuận. 
- Nếu không được chấp thuận: hệ thống sẽ thông báo kết quả không chấp 
thuận bên cạnh lý do bị từ chối. 
- Xác nhận tình trạng lệnh: 
• Trường hợp hệ thống tìm kiếm được lệnh đối ứng để khớp, hệ thống sẽ 
tự động gửi kết quả tới nhà đầu tư với các thông tin cụ thể: giá, khối 
lượng tạm khớp kèm theo 
• Trường hợp cho đến khi thời gian hiệu lực của hệ thống truyền dẫn lệnh 
tự động bị ngừng, những lệnh chưa tìm được cặp lệnh đối ứng để khớp, 
hệ thống sẽ thông báo cho nhà đầu tư về tình trạng lệnh của họ đồng 
 48
thời tự động chuyển chúng vào hệ thống giao dịch để tiếp tục khớp 
trong giờ giao dịch chính thức khi thị trường mở cửa. 
3.2.3.2. Nhà đầu tư 
Nhà đầu tư tham gia giao dịch qua internet đều phải đăng ký với các 
công ty chứng khoán, nơi họ mở tài khoản giao dịch. Khi hoàn tất thủ tục 
đăng ký, họ được cấp tên và mật khẩu truy cập vào hệ thống. Ngoài việc tham 
gia đặt lệnh giao dịch, nhà đầu tư có quyền được tra cứu rất nhiều thông tin 
liên quan tới hoạt động giao dịch trên thị trường. Giữa nhà đầu tư và công ty 
chứng khoán sẽ có thoả thuận về mức phí sử dụng thông tin, thông thường có 
hai loại thông tin: một loại miễn phí, và loại còn lại phải mất phí. 
Hàng tháng, họ phải thanh toán cho công ty chứng khoán một khoản phí 
giao dịch, thực chất đó là phí sử dụng hệ thống. Việc tính toán mức phí phải 
trả cũng sẽ được hệ thống tự động tính toán dựa trên các tham số đã được thiết 
lập trước (có thể thay đổi các tham số này cho phù hợp với tại thời điểm khác 
nhau). 
3.2.3.3. Hệ thống giao dịch 
3.2.3.3.1. Hệ thống truyền dẫn lệnh tự động 
Hệ thống truyền dẫn lệnh tự động được thiết kế nhằm thực hiện việc 
nhận và truyền dẫn các lệnh giao dịch do nhà đầu tư đặt thông qua các công ty 
chứng khoán. 
- Hệ thống này có nhiệm vụ nhận lệnh qua mạng 
- Thực hiện so khớp và xác định các cặp lệnh mua và bán của các nhà 
đầu tư có cùng mức giá (xác nhận kết quả tạm thời) 
- Thực hiện việc phân chia và truyền dẫn lệnh tới các hệ thống giao dịch 
của các sở trên cơ sở xác định mã chứng khoán giao dịch đó thuộc thị 
trường nào thì hệ thống sẽ đẩy lệnh tới hệ thống giao dịch của thị 
trường đó. 
Việc so khớp và xác nhận kết quả cho các cặp lệnh chỉ mang tính tạm 
thời, kết quả giao dịch phải do hệ thống giao dịch chính thức xác nhận. 
 49
Nhà đầu 
tư A 
Hệ thống
truyền dẫn
lệnh tự động
- Nhận và
so khớp các
lệnh 
- Xác nhận
và chuyển
trả kết quả
giao dịch 
- Chuyển 
tất các lệnh
đã đánh dấu
và các lệnh
còn lại vào
hệ thống
giao dịch
khi thị
trường mở
cửa 
Nhà đầu 
tư B 
Sở GDCK 
TP.Hồ Chí 
Minh 
Trung tâm 
GDCK Hà
Nội 
Công ty 
chứng 
khoán A 
Công ty 
chứng 
khoán B 
Sở GDCK 
Khác 
(trong 
nước và 
quốc tế) 
Công ty 
chứng 
khoán C 
Nhà đầu 
tư C 
3.2.3.3.2. Xác nhận kết quả dịch 
Việc xác nhận kết quả do hệ thống này tạo ra chỉ mang tính chất tạm 
thời, không chính thức vì kết quả này phải được hệ thống giao dịch xác nhận 
thì mới có hiệu lực thanh toán. Tuy nhiên, việc phải chờ hệ thống giao dịch 
chính thức xác nhận kết quả chỉ mang tính hình thức, thực chất kết quả do hệ 
thống nhận lệnh tự động xác nhận đã đủ cơ sở để thông báo với nhà đầu tư về 
kết quả giao dịch. 
- Đối với những lệnh đã được xác nhận kết quả, hệ thống sẽ tự động 
chuyển trả kết quả tới công ty chứng khoán. 
- Đối với những lệnh còn lại chưa xác định được lệnh đối ứng thì sẽ được 
tiếp tục chuyển vào phiên giao dịch chính thức để tiến hành giao dịch 
như các lệnh đặt thông thường. Trạng thái của các lệnh này sẽ được hệ 
thống ghi nhận là lệnh chờ khớp. 
3.2.3.3.3. Loại lệnh áp dụng 
Thời gian đầu, cho phép nhà đầu tư và các công ty chứng khoán thành 
viên sử dụng lệnh giới hạn và lệnh thị trường. 
 50
3.2.3.3.3.1. Lệnh giới hạn 
Là lệnh mua hay bán có đặt giới hạn cho giá tại đó lệnh được khớp. Một 
lệnh giới hạn mua hàm ý rằng nhà đầu tư chỉ muốn mua chứng khoán tại mức 
giá bằng hoặc thấp hơn mức giá giới hạn. Một lệnh giới hạn bán hàm ý rằng 
nhà đầu tư chỉ muốn bán chứng khoán tại mức giá bằng hoặc cao hơn mức giá 
giới hạn. 
3.2.3.3.3.2. Lệnh thị trường 
Là lệnh mà nhà đầu tư sẵn sàng mua hoặc bán chứng khoán tại mức giá 
khớp lệnh hiện có trên thị trường. Đây là mức giá tốt nhất hiện được xác định 
trên thị trường do là mức giá cao nhất mà người bán có thể bán được chứng 
khoán và mức giá thấp nhất mà người mua có thể mua được chứng khoán. 
Như vậy, lệnh thị trường sẽ không biết trước được mức giá sẽ được khớp nhất 
là khi thị trường khớp lệnh liên tục, nhưng bù lại khả năng thực hiện của lệnh 
thị trường sẽ cao hơn rất nhiều so với các lệnh khác khi mà nhà đầu tư giao 
dịch. 
3.2.3.3.4. Các nguyên tắc xử lý lệnh 
Quá trình khớp lệnh phải tuân thủ một số nguyên tắc ưu tiên như sau: 
- Nguyên tắc ưu tiên về giá 
- Nguyên tắc ưu tiên về thời gian 
Nhìn chung, mỗi thị trường đều có những quy định riêng về các nguyên 
tắc ưu tiên. Tuy nhiên, hai nguyên tắc cơ bản vẫn là giá và thời gian. 
Nguyên tắc so khớp đầu tiên và cơ bản nhất là ưu tiên giá, theo đó các 
lệnh đặt giá tốt nhất- lệnh mua với giá cao nhất, lệnh bán với giá thấp nhất- sẽ 
được so khớp và đánh dấu trước. Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với mục 
tiêu công bằng và hiệu quả kinh tế. 
Ưu tiên về thời gian thường được dùng phổ biến là nguyên tắc khớp 
lệnh thứ hai. Nguyên tắc này cho phép với cùng mức giá đặt lệnh, lệnh nào 
 51
được đặt trước sẽ được ưu tiên thực hiện trước và như vậy khuyến khích nhà 
đầu tư cân nhắc đặt lệnh sớm hơn cũng như người môi giới truyền lệnh nhanh 
chóng hơn đến hệ thống khớp lệnh. Hơn nữa, nguyên tắc này cũng hàm ý rằng 
việc đặt lệnh sớm đồng nghĩa với một cơ hội được khớp lệnh cao hơn. Kết quả 
tất yếu là thu hẹp khoảng chênh lệch giá, tăng độ tập trung của thị trường và 
giảm sự dao động của thị trường. 
3.2.3.3.5. Phương thức so khớp và đánh dấu lệnh 
Hệ thống giao dịch sẽ thực hiện việc tìm kiếm và đánh dấu những cặp 
lệnh trùng nhau về mức giá đặt và thời gian (nếu giá đặt trùng nhau), trên cơ 
sở so sánh và đánh dấu theo từng cặp lệnh. Việc đánh dấu được thực hiện liên 
tục thông qua việc so sánh và đối chiếu các lệnh tồn tại sẵn trên hệ thống hoặc 
liên tục tìm kiếm ngay sau khi hệ thống nhận được lệnh mới đưa vào. 
- So sánh và khớp tạm thời các lệnh (đánh dấu các cặp lệnh): với hệ 
thống này hoàn toàn tự động so sánh và đánh dấu theo nguyên tắc trùng 
nhau về giá hoặc thời gian (nếu trùng nhau về giá). Sau đó hệ thống tự 
động xác nhận kết quả giao dịch. 
- Các thông tin về các lệnh được đánh dấu sẽ được chuyển tải qua hệ 
thống mạng đã được mã hoá bằng thiết bị kỹ thuật số dựa trên các phần 
mềm có tính năng bảo mất tốt nhất và những thuật toán lập trình logic 
rất chặt chẽ tới nhà đầu tư. 
3.2.3.3.6. Thời gian giao dịch 
Theo thông lệ quốc tế, việc giao dịch qua internet sẽ được tiến hành sau 
giờ giao dịch chính thức của các sở giao dịch. Hiện tại, tại Việt Nam, do quy 
mô thị trường còn nhỏ bé, bên cạnh một số yếu tố khác dẫn tới chúng ta thời 
gian giao dịch chỉ thực hiện trong một buổi sáng, từ 9 giờ tới 11 giờ. Tuy 
nhiên, trong một tương lai không xa, việc chúng ta thay đổi thời gian giao 
dịch sẽ là tất yếu khi mà quy mô hoạt động của thị trường đạt được những 
 52
thay đổi theo chiều hướng tăng lên. Trong phần nghiên cứu này, chúng tôi xin 
đề xuất một số phương án về thời gian giao dịch sau giờ như sau: 
- Nếu thời gian giao dịch chính thức kết thúc lúc 11 giờ sáng : 
• Thời gian kích hoạt hệ thống nhận lệnh qua internet sẽ bắt đầu từ 
11 giờ 30 phút tới 16 giờ 30 phút (tính theo giờ giao dịch), hoặc 
• Thời gian kích hoạt hệ thống truyền dẫn lệnh tự động sẽ được bắt 
đầu từ 16 giờ 30 phút tới 8 giờ 30 phút sáng ngày kế tiếp (tính 
theo giờ kết thúc công việc của Sở giao dịch hoặc Trung tâm 
GDCK) 
- Nếu thời gian giao dịch chính thức kết thúc vào lúc 15 giờ chiều: 
• Thời gian kích hoạt hệ thống nhận lệnh qua internet sẽ bắt đầu từ 
16 giờ 30 phút và kết thúc vào lúc 8 giờ 30 phút ngày kế tiếp 
Lưu ý: Giai đoạn đầu, không tiến hành nhận lệnh giao dịch qua internet 
trong ngày thứ 6 
3.2.3.3.7. Đơn vị yết giá và đơn vị giao dịch: 
3.2.3.3.7.1. Đơn vị yết giá 
Đơn vị yết giá là mức biến động giá tối thiểu của một loại chứng khoán. 
Nhà đầu tư giao dịch chứng khoán theo bội số của đơn vị yết giá. Hay nói 
cách khác, đơn vị yết giá là đơn vị tiền tệ tối thiểu mà khi đặt lệnh nhà đầu tư 
phải cộng thêm hay trừ bớt đi vào giá tham chiếu bội số của nó để tìm được 
mức giá mong muốn. 
Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại hai hệ thống yết giá cổ phiếu, đó là 
hệ thống yết giá phân số và hệ thống yết giá thập phân. Việc yết giá trái phiếu 
được thực hiện theo hai hình thức là yết theo lợi suất và yết theo giá. Để áp 
dụng cho thị trường giao dịch qua internet, chúng ta sẽ sử dụng đơn vị yết giá 
giống với đơn vị yết giá thông thường áp dụng cho hoạt động giao dịch 
thường nhật. 
 53
3.2.3.3.7.2. Đơn vị giao dịch 
Đơn vị giao dịch tối thiểu thường được quy định bằng số chứng khoán 
tối thiểu phải mua cho lệnh bán và số tiền tối thiểu phải có cho lệnh mua. Độ 
lớn của đơn vị giao dịch tối thiểu có thể khuyến khích hoặc không khuyến 
khích sự tham gia của các nhà đầu tư nhỏ, cá thể. Đơn vị giao dịch tối thiểu 
càng lớn các nhà đầu tư nhỏ càng không có cơ hội tham gia thị trường. Ngược 
lại, nếu đơn vị giao dịch tối thiểu quá nhỏ sẽ làm mất nhiều thời gian để khớp 
lệnh và sẽ tạo gánh nặng cho các công ty chứng khoán khi phải nhận quá 
nhiều lệnh nhỏ và không đạt được tính hiệu quả kinh tế theo quy mô. Mặc dù 
không có một quy tắc chuẩn để áp dụng, đơn vị giao dịch tối thiểu được xác 
định trên cơ sở mệnh giá của chứng khoán và mức thu nhập trung bình của 
dân cư. 
3.2.3.4. Hệ thống thông tin thị trường 
3.2.3.4.1. Yêu cầu về hoạt động công bố thông tin 
Sở giao dịch là đầu nối cung cấp thông tin về tình hình thị trường nhằm 
đáp ứng sự quan tâm của đông đảo công chúng đầu tư cũng như bảo vệ quyền 
lợi và lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư tham gia đầu tư trên thị trường này. 
Với loại hình giao dịch OTC, mô hình giao dịch cũng như các yêu cầu 
về dịch vụ cung cấp thông tin tương đối đa dạng và phúc tạp. Do đó, thông tin 
mà không có sự quản lý theo mức độ phân cấp thì độ rủi ro trong quá trình 
giao dịch lại càng phát sinh rất lớn. Vì vậy, hệ thống thông tin phải đảm bảo 
các yêu cầu sau: 
- Thông tin công bố phải chính xác, trung thực đầy đủ. Nếu thông tin 
công bố không chính xác thì giá chứng khoán sẽ bị sai lệch 
- Thông tin phải mang tính kịp thời và liên tục, thông tin công bố phải 
đơn giản và dễ hiểu 
- Thông tin công bố phải được chuyển tới công chúng đầu tư một cách 
bình đẳng và công khai. 
 54
3.2.3.4.2. Hệ thống thông tin thị trường 
Ngay sau khi, bắt đầu ngày giao dịch chính thức, hệ thống thông tin thị 
trường phải cập nhật và chuyển kết quả giao dịch, gồm các thông tin: giá, khối 
lượng giao dịch, giá trị giao dịch, thông tin về lệnh giao dịch trên thị trường 
của từng loại chứng khoán và toàn thị trường giao dịch qua internet tới công 
ty chứng khoán và công bố trên trang Web của Sở hoặc Trung tâm GDCK. 
Ngoài ra, hệ thống thông tin phải tiến hành công bố trên các phương 
tiện khác như bảng điện tử, các ấn phẩm, báo cáo tình hình giao dịch qua đêm 
(Bản tin thị trường), các thiết bị đầu cuối tại sàn thông qua đầu nối thiết bị 
máy tính mạng diện rộng liên kết tới các nhà tham gia gia thị trường, màn 
hình điện tử theo dõi các thông tin đặt tại sàn giao dịch của các công ty chứng 
khoán. 
3.2.3.5. Hệ thống giám sát 
Hệ thống giám sát khi thiết kế và xây dựng phải có khả năng xác định 
điều tra, tham chiếu các giao dịch bất thường đồng thời xác định các dấu hiệu 
về vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin, phát hiện giao dịch nội gián, các hành 
vi thao túng trên thị trường. Hệ thống này phải có khả năng cảnh báo phát 
hiện ra những giao dịch bất thường, qua đó, điều tra những tin đồn làm ảnh 
hưởng tới thị trường. Đặc biệt hệ thống còn có chức năng đánh giá sự phát 
triển thị trường. Căn cứ vào hoạt động của công tác thanh tra giám sát có 
nhiệm vụ sau: 
- Chỉ ra số lượng chứng khoán phát hành 
- Chỉ ra chỉ số giá, khối lượng giao dịch đối với chứng khoán nghi vấn 
- Xác định nguyên nhân thay đổi giá cả hàng ngày và khối lượng. Dựa 
trên các tiêu chí đó phòng giám sát phối hợp với các phòng ban như 
phòng điều tra, phòng thành viên, phòng niêm yết, phòng thông tin thị 
trường xác định kết quả để cần thiết để trước khi trình lên Ban giám đốc 
để có phương án giải quyết 
 55
3.2.3.6. Hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ 
Theo kinh nghiệm của một số nước cho thấy, việc thanh toán bù trừ 
chứng khoán đều được thực hiện thông qua Trung tâm lưu ký chứng khoán 
độc lập. Trung tâm Lưu ký này sẽ kết nối với các Sở giao dịch nhằm thực hiện 
việc thanh toán bù trừ, lưu ký đăng ký chứng khoán. Với hệ thống quản lý 
kiểu đó sẽ tạo ra được sự thống nhất cũng như tính linh hoạt về cấp quản lý 
trên thị trường chứng khoán. 
Hệ thống TTBT và lưu ký chứng khoán được tổ chức dưới dạng một 
Trung tâm lưu ký độc lập. Về cơ chế lưu ký vẫn dưới dạng 2 hình thức chứng 
chỉ vật chất và ghi sổ. Trong đó, loại chứng chỉ vật chất được đưa vào lưu ký, 
còn lại nhà đầu tư nắm giữ và quản lý. Dạng thứ hai là, dạng chứng chỉ ghi sổ, 
ghi danh loại này chủ yếu đưa vào lưu ký tập trung. 
Thành viên lưu ký đóng vai trò như là một tổ chức trung gian. Nhiệm vụ của 
thành viên lưu ký là cung cấp các dịch vụ lưu ký chứng khoán, nhận các 
chứng từ thanh toán do Trung tâm lưu ký cấp hoặc lưu ký chứng khoán, 
chuyển tiền. Thành viên lưu ký chủ yếu là các công ty chứng khoán, Ngân 
hàng chỉ định. 
3.3. Đề xuất lộ trình phát triển ứng dụng công nghệ Internet vào thị 
trường chứng khoán Việt Nam 
Giao dịch qua internet trên thị trường chứng khoán Việt Nam tuy chưa 
thể áp dụng ngay do các nhân tố như trình độ quản lý và thiếu cơ sở hạ tầng. 
Khi chúng ta hội đủ điều kiện thực hiện giao dịch chứng khoán qua internet 
thì khái niệm về một sàn giao dịch truyền thống sẽ thay đổi hoàn toàn. 
Các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư có thể thực hiện các giao dịch 
của mình hay tìm kiếm các thông tin cần thiết thông qua hệ thống mạng máy 
tính kết nối từ xa. Quan hệ giữa các công ty chứng khoán và sàn giao dịch 
hoàn toàn thông qua hệ thống mạng được liên kết chặt chẽ và hoạt động liên 
tục. Như vậy, với mô hình kết nối thông qua mạng, những cản trở về khoảng 
 56
cách địa lý coi như đã được giải quyết, mang lại cơ hội công bằng cho tất cả 
các thành viên tham gia hệ thống. 
Thông qua giao dịch qua internet, các nhà đầu tư cá nhân có thể tiếp cận 
nhanh chóng và dễ dàng các thông tin tài chính, tin tức, báo cáo nghiên cứu, 
và dữ liệu thị trường. Dịch vụ và các công cụ cấp bởi các nhà môi giới trực 
tuyến qua mạng tạo điều kiện cho người tham gia đầu tư trên thị trường có 
được thông tin một cách chính xác và kịp thời. Những thay đổi này sẽ tạo điều 
kiện cho các nhà đầu tư giam trực tiếp hơn nữa và thị trường chứng khoán. 
Ngoài ra, nó mang lại một số lợi ích sau: 
- Thứ nhất, tăng khối lượng giao dịch trên thị trường 
- Thứ hai, các nhà đầu tư có cơ hội tiếp cận dễ dàng hơn với các thông tin 
tài chính và tình hình giao dịch trên thị trường 
- Thứ ba, thu hút một số lượng lớn các nhà đầu tư tham gia thị trường, 
đặc biệt là những lớp người trẻ tuổi và năng động 
- Thứ tư, khoảng cách thông tin giữa nhà đầu tư tổ chức và cá nhân dần 
được thu hẹp lại đáng kể, qua đó, tăng cường vị trí của nhà đầu tư cá 
nhân. 
- Thứ năm, giao dịch qua internet tất yếu sẽ làm cho việc cạnh tranh ngày 
càng diễn ra khốc liệt hơn giữa các công ty chứng khoán, buộc các công 
ty chứng khoán phải chuẩn hoá các dịch vụ cung cấp và phát triển hệ 
thống các dịch vụ hỗ trợ đi kèm. Điều đó sẽ góp phần làm cho thị 
trường của Việt Nam sẽ có những bước tiến tới trong việc bắt kịp với 
trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới. 
3.3.1. Mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 
Theo Quyết định 163/2003/TTg-CP đã được Thủ tướng Chính phủ phê 
duyệt về việc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 với 
mô hình mở rộng của TTCK tập trung, cố gắng phấn đấu đưa tổng giá trị thị 
trường đến năm 2005 chiếm khoảng 2-3% GDP và đến 2010 chiếm khoảng 
10-15% GDP. Theo tiến trình mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán Việt 
 57
Nam thành mô hình giao dịch với quy mô hiện đại và nâng cao hiệu quả hoạt 
động thị trường chứng khoán để sớm trở thành một kênh huy động vốn trung 
và dài hạn có hiệu quả cao cho đầu tư phát triển, khuyến khích, tạo điều kiện 
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là các doanh nghiệp lớn của nhà nước 
hiện nay, để hoạt động có hiệu quả chuyển thành công ty cổ phần, phát cổ 
phiếu, trái phiếu, tham gia thị trường chứng khoán; tạo lập và phát triển đồng 
bộ các loại thị trường để đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng nền kinh tế từ nay đến 
năm 2010 trở thành một thị trường chứng khoán với quy mô hiện đại thành 
một thị trường OTC giao dịch không qua sàn, trong nước và ngoài khu vực. 
3.3.2. Đề xuất lộ trình phát triển ứng dụng giao dịch qua mạng Internet 
tại thị trường chứng khoán Việt Nam 
Hiện tại, thị trường chứng khoán của Việt Nam đang còn nhỏ về quy 
mô; cơ sở hạ tầng thông tin còn hạn chế; trình độ quản lý và điều hành hoạt 
động thị trường còn nhiều bất cập; hệ thống cơ sở pháp lý chưa đồng bộ, chưa 
có khả năng bao quát hết được mọi vấn đề có liên quan; trình độ của nhà đầu 
tư còn rất thấp. Muốn giải quyết được những tồn tại nêu trên cần phải có thời 
gian và ngay từ bây giờ chúng ta phải đưa ra lộ trình phát triển hợp lý với 
những bước đi rất cụ thể. Hơn thế, cần phải làm quyết liệt ngay từ bây giờ với 
những bước đi ngắn hạn trong lộ trình hướng tới một tương lai dài hạn hơn. 
3.3.2.1. Giai đoạn I (từ 2005 đến 2008) 
Thực tế cho thấy, với những điều kiện hiện có, chúng ta chưa sẵn sàng 
cho hoạt động giao dịch qua internet. Trong ngắn hạn, chúng ta cần tiếp tục 
củng cố và phát triển hoạt động của thị trường chứng khoán như hiện tại. Tiếp 
tục triển khai công tác hoàn thiện mô hình hoạt động của hai Trung tâm, xây 
dựng và cải tạo lại cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị để phục vụ cho 
TTGDCKHN để vận hành mô hình thị trường chứng khoán phi tập trung đối 
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi niêm yết trên TTGDCKHN mô hình chủ 
yếu cung cấp và dịch vụ tổ chức đấu thầu và giao dịch trái phiếu, tổ chức đấu 
giá cổ phiếu và các loại tài sản tài chính khác, giao dịch các loại cổ phiếu chưa 
 58
niêm yết tại TTGDCK TP.HCM. Chuẩn bị cơ sở vật chất và khung pháp lý 
hoàn chỉnh từng bước phát triển thành một thị trường chứng khoán OTC theo 
mục tiêu đến năm 2010. Hà nội sẽ trở thành một trung tâm tài chính của cả 
nước. 
Giai đoạn này, chúng ta, hai Trung tâm cần phố hợp các đơn vị thuộc 
UBCKNN đặc biệt với Trung tâm Tin học và Thống kê tiến hành nghiên cứu 
sâu về mô hình và cách thức tổ chức thực hiện hoạt động giao dịch qua 
internet, theo đó: 
- Ban Phát triển thị trường, Ban Quản lý kinh doanh, Ban Quản lý phát 
hành... phối hợp với hai trung tâm nghiên cứu cơ chế, mô hình và cách 
thức tổ chức vận hành hoạt động giao dịch qua internet qua đó đề xuất 
xây dựng cơ sở pháp lý cho việc giao dịch chứng khoán qua internet. 
Nếu kịp, chúng ta có thể đề xuất trong việc xây dựng luật chứng khoán. 
• Ban Phát triển thị trường: nghiên cứu cơ chế, mô hình giao dịch và cách 
thức tổ chức vận hành Hệ thống truyền dẫn lệnh tự động. Đề xuất xây 
dựng cơ sở pháp lý cho mô hình giao dịch 
• Ban Quản lý kinh doanh chứng khoán: nghiên cứu và đề xuất những 
vấn đề liên quan tới việc quản lý các công ty chứng khoán; những vấn 
đề liên quan tới hoạt động thanh toán và đăng ký lưu ký... 
• Các ban khác tuỳ theo nhiệm vụ chức năng của mình, tiến hành nghiên 
cứu và đề xuất những vấn đề pháp lý có liên quan để vận hành hệ thống 
giao dịch chứng khoán qua internet 
- Trung tâm Tin học và Thống kê: phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức 
năng thuộc Uỷ ban nghiên cứu mô hình giao dịch, qua đó nghiên cứu và 
đề xuất những vấn đề liên quan tới lĩnh vực tin học, trong đó hệ thống 
phần mềm (xây dựng hệ thống truyền dẫn lệnh tự động) và đầu tư xây 
dựng phần cứng cho phù hợp với yêu cầu đặt ra. 
- Các Trung tâm GDCK nghiên cứu chỉnh sửa lại phần mềm giao dịch 
đang vận hành theo hướng cho phép tích hợp với hệ thống truyền dẫn 
 59
lệnh tự động trên cơ sở đảm bảo tồn tại cùng một lúc hai cách thức nhận 
lệnh: nhận lệnh thông thường và nhận lệnh qua internet. 
3.3.2.2. Giai đoạn II (từ 2008 đến 2010) 
Với lộ trình phát triển thị trường chứng khoán đã được Thủ tướng chính 
phủ phê duyệt, từ 2007 –2010 là giai đoạn vận hành đưa TTGDCK- Hà nội 
vào vận hành với hệ thống kết nối qua mạng Lan với quy mô hiện đại theo mô 
hình kết nối tại sàn giao dịch chứng khoán tập trung (Quyết định số 
163/2003/QĐ-TTg ngày 5/8/2003) 
- TTGDCK Hà Nội phát triển thành thị trường phi tập trung (OTC) cho 
các chứng khoán chưa niêm yết, trái phiếu các loại, chứng khoán phái 
sinh và các sản phẩm tài chính khác 
- Phát triển TTGDCK TP.HCM thành Sở giao dịch chứng khoán, với 
phương án giao dịch bỏ đại diện giao dịch tại sàn, áp dụng phương thức 
khớp lệnh liên tục. 
Có thể nói đây là giai đoạn đặc biệt quan trọng trong kế hoạch phát 
triển thị trường chứng khoán, bởi hoạt động giao dịch đã chuyển sang xu 
hướng bỏ đại diện giao dịch tại sàn, là tiền đề quan trọng cho việc hiện đại 
hoá hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngay từ bây 
giờ, hệ thống tin học của hai Trung tâm đã có những thay đổi rất đáng ghi 
nhận. Thời gian qua, UBCKNN đã quan tâm đầu tư nhiều cho lĩnh vực tin học 
của ngành theo chiều sâu nhằm nâng cao khả năng tin học hoá hoạt động giao 
dịch, tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá hệ thống giao dịch tại hai Trung tâm. 
Với tốc độ phát triển của internet như hiện nay, đến năm 2010, chắc 
chắn internet sẽ phổ biến ở mức độ rộng khắp hơn, công nghệ trong lĩnh vực 
này hứa hẹn sẽ có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Đây cũng là một 
trong những yếu tố vô cùng quan trọng cho việc phát triển hoạt động giao dịch 
qua internet. 
Các công ty chứng khoán trong khả năng của mình có thể nghiên cứu 
và áp dụng hình thức đặt lệnh qua internet. Đề làm được việc này đòi hỏi kinh 
 60
phí đầu tư sẽ rất tốn kém, ngoài ra cũng cần phải có chiến lược đào tạo con 
người hợp lý và phù hợp với điều kiện phát triển thị trường thực tế trong giai 
đoạn này. Các công ty chứng khoán cần chủ động phối hợp với các Trung tâm 
tiến hành nghiên cứu và khảo sát yêu cầu áp dụng hoạt động giao dịch qua 
internet. 
Nếu tất cả những vấn đề nêu trên được giải quyết triệt để và đồng bộ, 
việc chúng ta nhanh chóng đưa hoạt động giao dịch qua internet vào thực tiễn 
là hoàn toàn có cơ sở. 
 61
KẾT LUẬN 
Mặc dù, việc nghiên cứu và phát triển hoạt động giao dịch qua internet 
chưa thật sự là một đòi hỏi mang tính chất sống còn, quyết định tới sự tồn tại 
và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong một tương lai gần. 
Với tốc độ toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng như hiện nay thì 
việc nền kinh tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực chứng khoán và thị trường 
chứng khoán Việt Nam nói riêng phải chủ động chuẩn bị những điều kiện cần 
và đủ để tham gia vào quá trình hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế trong một 
tương lai không xa. Vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với Chính phủ 
Singapore thoả thuận về nguyên tắc sẽ thực hiện việc liên kết thị trường tài 
chính hai nước với nhau, đây là một tín hiệu cảnh báo sớm đối với chúng ta 
rằng lĩnh vực tài chính của Việt Nam cần phải nhanh chóng đẩy nhanh tốc độ 
hiện đại hoá, áp dụng những chuẩn mực trong phát triển mô hình và cách thức 
vận hành cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Nếu ngay từ bây giờ, chúng ta 
không có kế hoạch triển khai sớm và đồng bộ những vấn đề có liên quan từ cơ 
sở pháp lý tới hạ tầng cơ sở thông tin thì chắc chắn chúng ta sẽ phải gánh chịu 
những hậu quả không lường do quá trình liên kết kinh tế mang lại. 
Qua nghiên cứu mô hình tổ chức và phương thức giao dịch qua internet 
của một số nước trên thế giới đã giúp chúng ta có một cái nhìn tương đối rõ 
ràng về xu hướng phát triển của phương thức giao dịch này. Nó đã và đang 
mang lại một diện mạo mới và hiệu quả trong sự phát triển thị trường chứng 
khoán trên phạm vi toàn thế giới. Nhờ đó đã thu hút được một số lượng rất lớn 
nhà đầu tư tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán. Góp phần tự động 
hoá toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán; các đối 
tượng tham gia được liên kết với nhau thông qua một mạng máy tính kết nối 
duy nhất; nâng cao tính chuyên nghiệp hoá cho các đối tượng tham gia trên thị 
trường; giảm chi phí đầu tư chứng khoán; các công ty chứng khoán cạnh tranh 
một cách lành mạnh trong việc cung cấp các dịch gia tăng cho khách hàng của 
 62
mình. Có thể khẳng định rằng nhà đầu tư là người được hưởng lợi nhiều nhất 
từ phương thức giao dịch này, chi phí giao dịch giảm đáng kể, tăng cơ hội đầu 
tư trên thị trường bằng cách tối đa hoá thời gian nhận lệnh giao dịch. 
Tuy nhiên, giao dịch qua internet gần như hoàn toàn mới đối với chúng 
ta, đặc biệt nó lại được nghiên cứu trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt 
Nam đang bước những bước đi đầu tiên trong việc củng cố và hoàn thiện mô 
hình hoạt động, hoàn thiện cơ sở pháp lý... Chính vì vậy, những vấn đề đặt ra 
trong đề tài này chắc chắn không thể bao quát hết, sẽ còn những thiếu sót trên 
cả hai góc độ chủ quan và khách quan. 
Trên cơ sở tài liệu nghiên cứu không nhiều, nhóm triển khai đề tài này 
chủ yếu tập trung nghiên cứu về mô hình tổ chức và phương thức giao dịch 
qua internet ở hai nước là Mĩ và Hàn Quốc. Qua đó đưa đề xuất mô hình giao 
dịch và lộ trình áp dụng hoạt động giao dịch cho thị trường chứng khoán Việt 
Nam trong một tương lai không xa. 
Tuy nhiên, do thời gian và điều kiện nghiên cứu hạn chế cho nên kết 
quả này mới chỉ là bước đầu, chưa thật sự hoàn chỉnh, do đó cần phải tiếp tục 
được bổ sung và hoàn thiện thêm. Nhóm tác giả chúng tôi rất mong nhận được 
sự đóng góp xây dựng từ phía các đọc giả. 
Xin trân trọng cảm ơn. 
 63
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
46976.pdf