MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ CON NGƯỜI VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ CỦA CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI 3
1. Quan niệm của Nho giáo về con người 3
1.1. Nguyên nhân làm cho Nho giáo chú trọng đến con người 3
a. Nguyên nhân thời đại: 3
b. Nguyên nhân truyền thống: 4
c. Nguyên nhân học thuật : 5
1.2. Nho giáo quan niệm về bản chất con người 7
2. Quan miệm về các mối quan hệ của con người trong xã hội 9
2.1. Quan niệm của nho giáo về các mối quan hệ của con người trong xã hội 9
2.2. Tính chất và vai trò của quan niệm trên 16
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO CON NGƯỜI CỦA NHO GIÁO 17
1. Đối tượng đào tạo 17
2. Mục tiêu đào tạo con người của Nho giáo 18
2.1. Kẻ sĩ 18
2.2. Kẻ đại trượng phu 19
2.3. Người quân tử 20
3. Nội dung và phương thức đào tạo con người của Nho giáo. 22
3.1. Nội dung đào tạo con người của Nho giáo. 22
3.2. Phương thức đào tạo con người của Nho giáo. 23
KẾT LUẬN 25
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1757 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu quan niệm về con người và đào tạo con người của Nho giáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm trước đây, nội dung đào tạo lý luận trong các trường đại học hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ môn khoa học Mac-Lênin ,chưa coi trọng việc nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp nhận những thành tựu khoa học của thế giới.Hậu quả là phần lớn sinh viên thiếu sự hiểu biết rông rãi về kho tàng tri thức của loài người dẫn đến phát triển về nhận thức bị hạn chế chỉ biết nhận thưc về chủ nhĩa Mac-Lênin một cách cứng nhắc không biết kết hợp với những tri thức của nhân loại nhăm vận dụng linh hoạt trong thực tế.
Vì thế trong những năm gần đây công tác nghiên cứu và giảng dạy môn triết hoc đang co những sự đổi mới.
Nho giáo là một học thuyết triết họcvà chính trị-xã hội lơn nhất tron glịch sử triết học Trung Hoa cổ đại .Mặc dù ra đời rất sớm nhưng học thuyết Nho giáo đã sớm phát hiện ra vấn đề con người, bàn nhiều về con người , đặc biệt đề cập khá sâu đén quan niện về con người và đào tạo con người . Đây là một trong những nội dung chủ yếu của học thuyết Nho giáo.
Nho giáo dã du nhập và tồn tại ở Việt Nam gần 2000 năm , đã có tắc dụng to lớn đối với xã hội và con người nước ta trong lich sử, đồng thời cũng để lại những ảnh hưởng khá sâu đạm đen xã hội và con người Việt Nam hiện nay.Vì vậy nghiên cứu quan niệm về con người và đào tạo con người của Nho giáo có ý nghĩa cấp thiết trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người trong giai đoạn hiện nay.
Tình hình nghiên cứu đề tài:
Xung quanh vấn đề con người và đào tạo con người trong Nho giáo đã đươc trình bày trong một số cuốn sách như:”Lịch sử tư tưởng Trung Quốc”,’L ịch sử triết học Trung Quốc”,”Lịch sử tư tưởng Viẹt Nam”,” Đại cương triết học Trung Quốc-Nho giáo”,”Nho giáo xưa và nay”, “Nho gáo Việt Nam”…
Tuy nhiên trong các tài liệu trên các tác giả chủ yếu có tính giới thiệu những quan niệm chung về Nho giáo ít có tài liệu đi sâu về con người và đào tạo con người và đánh giá một cách đầy đủ và khách quan về những ảnh hưởng tích cực cũng như hạn chế của chúng với Việt Nam.
CHƯƠNG I: QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ CON NGƯỜI VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ CỦA CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI
1. Quan niệm của Nho giáo về con người
1.1. Nguyên nhân làm cho Nho giáo chú trọng đến con người
Sở dĩ Nho giáo chú trọng dến con người là donhững nguyên nhân sau:
a. Nguyên nhân thời đại:
Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại Xuan Thu và chiến quốc là hai giai đoạn của một thời kỳ lịch sử lâu dài bắt đầu từ sự suy tàn của nhà Chu từ năm 781 đén năm 221 trước công nguyên. Đây cũng là thời kỳ suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Hoa cổ đại.
Từ khi nhà Chu suy tàn ,ngôi Thiên tử không còn vững bền ,chỉ là hình thức ,các nước chư hầu tranh giành nhau quyền lợi,chiến tranh sảy ra liên miên giữa các nước chư hầu kéo dài suốt thời kì Xuan Thu và chiến quốc.Có thể nói trong lịch sử Trung hoa chua có thời kì nào chiến tranh sảy ra liên miên kéo dài như thời kỳ này.Thời kỳ “vương đạo suy đồi”,”bá đạo nổi lên”khắp nơi;nớưc lớn đánh nước nhỏ nước mạnh đánh nước yếu,nước nào cũng muốn ngoi lên giữ địa vị thiên tử.
Theo ghi chép đê lại từ thời Xuân Thu,quy mô các cuộc chiến tranh ngày càng mở rộng,số cuộc chiến tranh ngày càng tăng lên.Chiến tranh Tần –Tấn sảy ra 18 lần,Tấn -Sở 3 lần đại chiến ,Nô-Sở đánh lẫn nhau 23 lần,Tề-Lỗ 34 lần ,Tống-Trịnh giao tranh 39 lần số lượng chiến tranh thật là khủng khiếp.
Các cuộc chiến tranh kéo dài gần năm thế kỷ ấy đã gây bao thảm cảnh lầm than đói khổ,cảnh chém giết chia ly , đau thương cho mọi nhà ,mọi người ;làm cho kỷ cương phép nước không còn ,lòng người ly tấn.
Chính nguyên nhân thời đại đó đã làm cho nhiều nhà tư tưởng xuất hiện.Ai nấy đèu muốn đưa ra được đ,học đường lối học thuyết của mình nhằm cứu vãn tình hình xã hội.Trong nước xuất hiện nhữnh trung tâm như “Tắc hạ” của nước Tề,những tụ điểm tập hợp nhiều kẻ sĩ như nhà “Mạnh Thường Quân”.Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “bách gia chu tử”(trăm nhà trăm thầy),”bách gia tranh minh”(trăm nhà tranh tiếng).
Chính trong quá trình tranh minh đó đã sản sinh ra những nhà tư tưởng vĩ đại hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh như: Mặc gia,Pháp gia , Đạo gia,Nho gia...
Trong đó nổi bật là Nho gia một phái tập chung giải quyết nhiều vấn đề về con người.
b. Nguyên nhân truyền thống:
Nếu như triết học phương Tây tập chung giải quyết vấn đề cơ bản của triết học,vấn đè thế giớ quan thì triết học Trung Hoa cổ đại từ trước thời Xuân Thu,chiến quốc dã chú ý đến vấn đề con người và đào tạo con người;nhiều tác phẩm tiêu biểu củathời kỳ này đã đề cập đến .Nó trở thành truyền thống trong triết học Tung Hoa cổ đại.
“Hồng phạm cửu trù “là học thuyết triết học ra đời sớn nhất của tiết học Trung Hoa cổ đại,khoảng trên 2200 năm trước công nguyên .Nó nói lên đương lối trị nước an dân của một đáng quân vương trong đó nhóm trù nhân sinh nêu lên vai trò quân trọng của nhà vua và mối quanhệ vua-dân.Nêu lên tính cách của người đúng đầu đất nước,vua phải kiểm điểm công việc mình làm trước trời đất và trước dân.
Đặc biệt trù thứ 8 nêu lên những công việc vua cần làm trong đó có việc tổ chức giáo dục trông coi vấn đề trồng người.
Một học thuyết ra đời sớm như vậy mà đã nêu lên sự cần thiết phải tổ chức một bộ máy chăm lo đến việc giáo dục đào tạo con người cho xã hội ,chứng tỏ nó rất quan tâm đến vấn đề con người và xã hội.
”Kinh dịch” cũng là một tác phẩm ra đời từ rất sớm nêu lên mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh.Kinh dịch đặt căn bản ở tượng và số .Ngay con số chẳng những chỉ nhằm vào hiện tượng tự nhiên mà nhằm cả vào vận mạng con người,của hậu duệ con người.Những biến cố quan trọng trong lịch sử và cả vận mang của quốc gia cũng dược nó đề cập đến.
Tác phẩm kinh dịch cho thấy con người vận dụng bát quái vào việc xét đoán lành dữ đối với con người đối với mỗi triều đại.Nguyên lý bát quái đã sớm được vận dụng trong các lĩnh vực liên quan đến đời sống của con người như y học, giáo dục con người quân sự ,hôn nhân gia đình ,pháp luật.Chẳng hạn trong thẩm vấn , để khỏi oan người tốt bỏ qua kẻ xấu có câu:”kẻ có tội ,lời nói và hành động sẽ trái với thực tế,kẻ nói sai sự thật thường sợ người khác vạch trần.Cho nên khi nói năng lời chúng tỏ ra lo lắng .Ngược lại người nói thật thì lương thiện ít lời”người lành lời ít”.,cách xét đoán người qua bề ngoài qua ngôn ngữ này rất có giá trị.Như vậy Kinh Dịch cũngbàn đén con người
c. Nguyên nhân học thuật :
Trong thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc các học thuyết triết học đều đề cập đến vấn đề con người và đào tạo con người.Mỗi trường phái đều có cách lý giải của mình và đưa ra những chủ trương nhằm giáo dục con người , đưa lại sự ổn định cho xã hội.
Phái Mặc gia mà đại biểu là Mặc Định thì cho rằng mọi hành vi của conngười mọi biến hoá của thế giớ tự nhiên đều do sự chi phối của ý trời. Ý trời muốn người ta cùng thương yêu nhau ,làm hại nhauvà trời đem cái ý muốn “pháp độ “ấy giao cho thánh nhân trị thiên hạ gọi là Thượng đồng (trên dưới như nhau) hoặc gọi là cái nghĩa đồng nhất của thiên hạ Đây là cơ sở cho thuyết “kiêm ái “của ông.
Một phái của đạo gia mà Dương Chu là tiêu biểu thì bàn nhiều đến lợi ích cá nhân và làm thế nào để đạt tới lợi ích cá nhân tạo nên chủ trương “vị ngã”.Dương Chunêu lên thuyết “Toàn sinh”(bảo toàn sinh mạng là quan trọng nhất).Muốn vậy phải hạn chế dục vọng ,coi thường lợi ích của ngoại giới ,giữa người với người phải giữ hoà khílàm sao “Ngươi không phạm đến ta và ta không phạm đến ngươi”.
Trang Tử lại cho rằng lợi ích tối cao của con người khong phải sống lâu hay không sống lâu mà là thoả mãn dục vọng,do vậy họ chủ trương tiêu dao hưởng thụ .
Lão Tử cho rằng con người phải lam theo quy luậtcủa tự nhiên và xã hội thì theo “nhân đạo “và “thiên đạo”. Ông phủ nhận chế độ phân chia trên dưới ,sang hèn,trơ lại xã hội trước khi xuất hiện nhà nước mơ ươc “nước nhỏ dân ít” mọi người vui vẻ ăn ngon mặc đẹp,conngười trở lại trạng thái chất phác tự nhiên,”vô danh”.
Phái pháp gia có nguồn gốc từ Tuân Tử cho rằng con người ai cũng có dục vọng.Hamlợi và dục vọng là nguồn gốc gây nên tội ác cho nên xã hội phải được tổ chức thành khuôn mẫu và dùng cái chuẩn mực pháp lý để giáo hoá con người , đưa con người về với cái thiện.
So với các học thuyết đương thời Nho giáo có vị trí lớn hơn cả.Nho giáo là học thuyết do Khổng Tử đề xướng ,sau dố được Mạnh Tử và các nhà nho tiêu biểu kế thừa và phát triển.Là học thuyết bàn đến vấn đề con người và đào tạo con người nhiều nhất rộng nhất và có ảnh hưởng sâu sắc nhất trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại.
Trước những cảnh ngộ của con người trong xã hội mà các nhà tưởng Nho giáo trước hết là Khổng Tửmuốn chủ trương lập lại pháp chế ,kỷ cương của nhà Chu với nội dung mới cho phù hợp. Ông lập ra học thuyết, mở trường dạy học đi chu du khắp nơi tring nước tranh luận với các phái khác để tuyên truyền tư tưởng của mình . Ông xây dựng một học thuyết có hệ thống về nhân, nghĩa ,lễ, tín, trí mà dạy con người lấy cương thường mà hạn chế nhân dục đẻ giữ trật tự trong xã hội .
Theo Khổng Tử và Mạnh tử sở dĩ có cảnh tranh giành ,kiện tụng chiến tranh chém giết lẫn nhau là do không ai chịu yên phận yên mệnh của mình nên cứu đời tốt nhất theo ý họ lẫn xác định phận vị,làm cho mỗi người biết phận vị của mình biết nhường nhịn nhau phải “chính danh “ như thế sẽ hoà mục “sẽ có trật tự ổn định.
Khổng Tử ,Mạnh Tử và nhiều nhà nho tiêu biểu khác đã cố xây dưng hình mẫu người lý tưởng có đủ nhân đức nhằm ổn định xã hội.
Tất cả nguyên nhân xã hội ở trên đều do con người gây nên,vì vậy khi bàn đế côn người các nhà nho dã bàn đến bản chất của con người.
1.2. Nho giáo quan niệm về bản chất con người
Khi nghiên cứu đến con người các nhà nho không thể không đề câp đến bẩ chất của con người.Về vấn đề này các nhà Nho có nhiều ý kiến khác nhau,có khi trao đổi tranh luân một cách gay gắt vói nhau.
Khổng Tử cho rằng bản tính phú bản của con người là có khác nhau .Sự khác nhau của bản tính con người một phần là do thiên phú bẩm một phần lớn là do hoàn cảnh xã hội ,do phong tục tập quán quy định .Con người tốt hay xấu thiện hay ác là do sống trong xã hội mà nênchinh vì vậy mà tính con người dối với ông : ở mọi người lúc dầu vốn gần giống nhau về sau mới xa nhau. Ông cho rằng “tính tương cận dã ,tập tương viễn dã”tức là bản tính thì gần nhau do tập tục đi đến xa nhau.
Như vậy Khổng Tử cho rằng bản tính con người vốn gần giống nhau nhưng do điều kiện hoàn cảnh ,lối sống tập quán khác nhau mà di dén khác nhau. Điều đó có một điểm nào đó giống với triết học Mác-Lênin sau này là đời sống xã hội ,tồn tại xã hội quyết định ý thức tư tưởng của con người . Khổng Tử nói chữ tính ở đây không phỉ là tính nết tốt,xấu mà tính ở đây là phần thiên lý trời phú cho có đủ nhân ,nghĩa, lễ ,trí ,thiện ,đức trong con người.
Tuy nhiên ơ chỗ khác Khổng Tử lại mắc phải sai lầm hạn chế do ông xuất thân trong gia đình ở tầng lớp quý tộc cho dù chỉ là quý tộc nhỏ bị sa sút nên ông đứng trên lập trường của giai cấp quý tộc. Ông cho rằng người thượng trí ỏ trong hoàn cảnh xấu nào cũng không thay đổi nhân tính như cùng chung chạ với bọn ác ,bọn người xấu ,còn kẻ hạ ngu thì ở trong môi trường tốt lành cũng khó thay đổi tính cách truỵ lạc dẫu gần người hiền đức cũng chẳng được cải hoá.
Sau Khổng Tử nhiều nhà nho cũng bàn đến bản tính con người. Trong đó Mạnh Tử là nhà nho bàn nhiều đến bản tính con người . Ông nêu lên thuyết tính thiện-Bản tính con ngưòi là thiện. Ông nhấn mạnh bản chất con người là thiện,tính thiện vốn có ở con người , đã là con người đêu mang tính thiện. Mạnh Tử nhận định sở dĩ con người mất di tính thiện cố hữu mà bị cuốn vào con đường ác là do”vật đục “che lấp ,cái vật đục là tính vốn không có chỉ là do hoàn cảnh bên ngoài tác động vào.
Mạnh Tử quan niệm tính thiện là lương tâm tiên thiên mà con người phải tồn dưỡng thì mới thành người được.Bởi vây ông rất chú trọng đến việc giáo hoá coi giáo dục là bộ phận trọng yếu của chính trị . Ông cho rằng nếu để tính thiện bị mai một sẽ gần với cầm thú.
Nếu Mạnh Tử đưa ra thuyết tính thiện thì Tuân Tử một nhà nho cuối thời chiến quốc lại chủ trương thuyết” tính ác”. Ông cho rằng tình và dục là tự nhiên ai cũng có không thể bớt đi bỏ đi hay làm hại được,con người ai chăng muốn ăn ngon thấy cái đẹp,muốn ngửi hương thơm,nghe những âm thanh hay. Ông cho rằng con người ai cũng có lòng ham lợi ,ai cũng có dục vọng .Ham lợi và dục vọng là nguồn gốc gây nên tội ác.
Từ chỗ cho tính nười là ác ,Tuân Tử nêu lên cái chủ đích sự giáo dục cần phải uốn nắn cái tính lại cho trở về bản tính thiện . Ông nói :”Tính là cái ta không thể làm ra được ,nhưng có thể hoá đi được.Tính không phải tự nhiên ta có được ,nhưng có thể làm cho có được.Chú ý làm lụng tập thành thói quen dể hoá cai tính”
Ông thấy rằng cần thiết phải giáo dục ,uốn nắn con người hạn chế tính ác để đi đến tính thiện.Như vậy Tuân Tử cho tính người là ác và ông chủ trương phải có lễ nghĩa ,khuôn phép hình phạt để giáo huấn ngăn ngừa.
Bàn về tính của con người ,Cáo Tử nhà tư tưởng cùng thời với Mạnh Tử cho rằng bản tính con người chẳng phải thiện ác ,cũng có thể làm điều thiện, cũng có thể làm điều ác.Cáo Tử cho răng miếng ngon ai cũng muốn ,gái đẹp ai cũng thích . Đó là cái tính của con người .Ngoài những bản năng tự nhiên đó ra cò có hành vi:Nhân là thứ ở bên trong mình ,nghĩa là thứ ở bên ngoài ,không thể lẫn lộn nhau .
Cáo Tử coi nhân tính như tờ giấy trắng muốn viết đen thì đen viết đỏ thì đỏ. Ông nói đén bản chất xã hội của con người.Con người sống trong xã hội chịu tác động của hoàn cảnh xã hội.Chính hoàn cảnh xã hội là môi trường đểcon người trở thành tốt xấu về sau.
Như vậy khi bàn đến con người các nhà nho đã đưa ra những quan niệm khác nhau về tính người.Tuy nêu lên bản tính con người khác nhau nhưng các nhà nho đều có điểm thống nhất chung cân phải giáo dục con người dến tính thiện.
Để hiểu rõ con gười trong xã hội ta cần xem các nhà nho giải quyết các mối quan hệ của con người trong xã hội như thế nào.
2. Quan miệm về các mối quan hệ của con người trong xã hội
2.1. Quan niệm của nho giáo về các mối quan hệ của con người trong xã hội
Nói về không thể không nói dến các mối quan hệ của con người trong xã hội. Các nhà nho là nhưng người sớm nhất bàn nhiều các mối quan hệ của con người trong xã hội.con người ta sống trong xã hội vốn có rất nhiều mối quan hệ song nhà nho chỉ chú ý đến quan hệ chính trị, đạo đức.Sở dĩ các nhà nho chỉ chú ý tới quan hệ chính trị, đạo đức bởi vì xã hội thời Xuân Thu chiến quốc là xã hội loạn lạc chiến tranh kéo dài liên miên gây bao cảnh chia ly đau thương lầm than đói khổ,trật tự của nhà Chu không còn như trước đạo đức bị suy vì.Khổng Tử phải than rằng;”vua không phải đạo vua,tôi không phải đạo tôi,cha không phải đạo cha ,con không phải đạo con”. Ông muốn xây dựng một xã hội “vua ra vua,bề tôi ra bề tôi,cha ra cha ,con ra con”Vì vậy khi xem xét mỗi quan hệ giữa người với người trong xã hội Nhogiáo chỉ chỉ chú ý đến các mối quan hệ chính trị đạo đức mà không chú ý đến các mối quan hệ khác như quan hệ sản xuất quan hệ nghề nghiệp.
Những nội dung ,kiến thức mà Nho giáo truyền đạt cũng chỉ tập chung vào chính trị và đạo đức.Còn những kiến thức khác thuộc về các ngành khoa học tự nhiên như Toán học ,Thiên văn, Địa lý …ít được đề cập.Khổng Tử nói:”Chỉ có kẻ tiểu nhân mới quan tâm đến việc làm ruộng ,làm vườn”.
Vì vậy của Khổng Mạnh là học thuyết chính trị xã hộiNội dungcơ bản đường lối Khổng Mạnh là “đức trị” “lấy dân làm gốc”.
Vấn đề đạo đức là vấn đề cơ bản,vấn đề trung tâm xuyên suốt học thuyết nho giáo.Khổng Tử không tách rời dậo đức và chính trịQua tác phẩm Luân ngữ cho thây Khổng Tử và các nhà nho đương thời là học trò ông luôn lấy đạo đức là gốc cuả mọi quan hệ chính trị .Khổng Tử cho răng nếu ông vua có đức biết đem cái đức của mình toả sáng trong thiên hạ thì với đức độ ấy người dân lại hướng về ông vua.khi bàn về đường lối trị nước Khổng tử cũng thiên về đường lối “đức trị”luôn nhấn mạnh dùng đức trị nước. Ông nói:”Nếu nhà cầm quyền chuyên quyền dùng pháp chế,cấm lệnh mà dắt dẫn dân chúng ; chuyên dùng hình phạt mà trị dânthì dân sợ mà chẳng phạm phép đó thôi chứ họ chẳng biết hổ người.Vậy nmuốn dắt dẫn dân chúng nhà câm quyền phải dùng lễ tiết ,thì chẳng những dân biêt hổ người ,họ lại còn cảm hoá mà trở nên tốt lành”.
Trong quan hệ với dân,trong việc trị dân ,Khổng Tử mong nhà cầm quyền không nên dùng Pháp luật,hình phạt ép dân làm cho dân sợ mà tự nhà càm quyền phải thỉ ân bổ đức mà đem đức hạnh mà chỉ bảo cho dân ,tự nhà cầm quyền phải giữ gìn lễ nghĩa đem đến lễ nghi mà giảng giải cho dan.Tự nhiên dân biết hổ thẹn ,biết cảm mến hướng về đường phải.
Mạnh Tử kế tục tư tưởng của Khổng Tử và nêu lên “ngũ luân”. Ông con người hải có nhân.Người có nhân là người biết ăn ở theo nhân luân(tức ngũ luân). Đólà năm mối quan hêax hội cơ bảngiữa người với người trong xã hội.Năm mối quan hệ đó là :Vua-tôi,cha-con,vợ chồng,anh-em,bạn bè.Về năm mối quan hệ các nhà nho cho rằng :”Quân thần hữu nghĩa,phụ tử hữu thân ,phu phụ hữu biệt,trưởng ấu hữu tự ,bằng hữu hữu tín”tức là Vua tôi phải sống theo nghĩa ,cha con phải có tình thân ái ruột thịt,vợ chồng phải có sự khác biệt,anh em phải có thứ tự trên dưới,bạn bè phải có tín”.
Mối quan hệ trong ngũ luân thời Khổng Mạnh là mối quan hệ có tính chất hai chiều,bề trên có trách nhiệm với bề dưới ,bề dưới có nghĩa vụ với bề trên.Mọi người đều cố trách nhiệm và nghĩa vụ lẫn nhau, đó là mối quan hệ đẹp mà các nhà nho đã dày công xây dựng.Ngoài năm mối quan hệ này các nhà nho còn bàn đến các mối quan hệ khác như quan hệ quân dân, thầy trò ,nam nữ…Nhưng ta chỉ đivào năm mối quan hệ chính để tìm hiểu xem các nhà nho thông qua các mối quan hệ đó đã giáo dục và xây dựng con người trong xã hội như thế nào.
Trước hết mối quanhệ vua tôi là mối quan hệ quan trọng nhất,nó gắn với vân mệnh đất nước , được các nhà nho chú ý bàn nhiều nhất.Thời kỳ Khổng Mạnh quan hệ vua-tôi là quan hệ có đi có lạivì sự nghiệp chung trị nước an dân.Khổng Tử đặt ra vấn đề “vua ra vua” ” tôi ra tôi”.
Vua là người trụ cột của đất nước phải xứng đáng đạo làm vua.Vua phải lấy nhân nghĩa đối xử với bề tôi.bbề tôi với vua phải trung.”Vua nhân tôi trung” “Vua lấy lễ mà sai khiến tôi,tôi đem lòng trung mà phụng sự vua”.Vua là tấm gương sáng để bề tôi và người dân noi theo.Mạnh Tử cũng cho rằng thánh nhân phải là người mẫu mực để người đời ăn ở theo nhân luân.
Về phận bề tôi các nhà nho yêu cầu bề tôi đối với vua phải hết lòng trung thành đem nhân nghĩa hết lòng thờ vua giúp nước.Bề tôi phải lam cho vua tin dùng nếu vua không tin dùng thì lui vểơ ẩn để giữ trọn khí tiết và lòng trung của mình.Bề tôi có trách nhiệm khuyên can để nhà vua sửa tính sửa nết ,bề tôi nói phải vua nghe theo.Khổng Tử nói:”Làm quan trung với bậc quốc trưởng ,muốn đem hết lòng giúp nước há khong đem ý kiến sáng suốt của mình mà bày tỏ với bậc quốc trưởng ,há không can gián người sao”.
Mạnh Tử đặt điều kiện có đi có lại trong mối quan hệ vua tôi.Nếu vua yêu quý bề tôi thì bề tôicũng yêu quý vua nếu vua coi thường bề tôi thì bề tôi cũng không tôn trọng vua .
Như vậy quan hệ vua tôi thời Khổng Mạnh thật là đầy đặn ,có đi có lại, có nghĩa có tình,mối quan hệ hai chiều làm nền tảng cho các mối quan hệ khác trong xã hội .Sau mối quan hệ vua tôi là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Đây là mmối quanhệ máu mủ ruột thịt gần gũi nhất trong gia đình.
Về phía cha,cha(mẹ) sinh ra con cái phải hết lòng yêu thương nuôi dạy con cái,cha mẹ săn sóc cho con cái , cho con cái đi học để khi con cái trưởng thành có thể giúp ích cho đời.Cha mẹ có trách nhiệm dựng vợ gả chồng cho con cái .
Còn Mạnh Tử cũng dẫn trong kinh lễ dạy rằng:” Đàn ông khi làm lễ đội mũ thì cha dạy cho;con gái khi làm lễ gả chồng thì mẹ gả cho,mẹ đưa con gái ra cửa răn con gái rằng:”Mày đi về nhà chồng mày phải kính ,phải răn ,chớ trái miệng chồng”Xêm lời mẹ dặn con gái thấy cho thấy bổn phận của cha mẹ với con cái ngay cả dến lúc trưởng thành.
Về phía con cái ,các nhà nho cho rằng con cái với cha mẹ phải giũ trò đạo hiếu.Khi bàn về đạo hiếu Khổng Tử mới dề cập đén con cái phải lễ phép với cha mẹ đi theo chí hướng của cha.Mạnh Tử và Tăng Tử đã phất triển tư tưởng của Khổng Tử và bàn về đạo hiếu đầy đủ hơn sâu sắc hơn.
Mạnh Tử nói :” Đạo hiếu là suốt đời thờ cha mẹ “ “ cỉ có phung dững cha mẹ là quan trọng nhất.Tăng Tử và một số nhà nho khác quy nội dung của hiếu về 3 điều:
_Tôn kính cha mẹ ,vâng lời cha mẹ ,nghe theo lờo cha mẹ ,theo chí hướng của cha mẹ.
_Phụng dwngx cha mẹ suốt đời .
_khi cha mẹ qua đời phải chôn cất chu đáo,thờ cúng cha mẹ cho có lễ.
Các nhà nho còn nêu lên những diều bất hiếu.Mạnh Tử nói :Bất hiếu có năm tình huống sau;lười biếng chẳng muốn lam điều gì ,không đoái hoài dến cuụoc sống của cha mẹ.Ham thích cờ bạc không đoái hoài đến cha mẹ.Ham muốn tiền hoặc quá yêu quý vợ con ,quên chăm sóc cha mẹ.Ham thích hưởng lạc nhục dục để cha mẹ tủi nhục ,hổ thẹn.Quá ham mê võ lực đánh nhau tàn bạo chém giết người thiện lương khiến cha mẹ nguy khốn.
Mạnh Tử nêu lên tội bất hiếu : một là cha mẹ lam điều bất nghĩa mà mình không biết can vgăn, để cha mẹ măc phải tiếng xấu .Hai là nhà nghèo mà mình chẳng chịu ra với đời kiếm chút lộc nuôi cha mẹ.Ba là chẳng chịu lấy vợ đẻ đén nỗi không có conlàm tuyệt mất sự tế tự vói tổ tiên.
Các nhà nho giáo rất chú trọng giáo dục về đạo hiếu mong muốn con cái trở thành những người conhiếu thảo trong gia đình làm tất cả những gì để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹlam cho cha mẹ yên vui với tuổi già hãnh diện với bà con hàng xóm với xã hội.
Tuy trong nội dung giáo dục lòng hiếu thảo còn những điều thái quá rườm rà nhưngviêc giáo dục lòng hiếu thảo của con cái vói cha mẹvà mối quan hệ cha con nói chung của Nho giáo đã khá thành công vì nó dễ đi vào lòng người dễ được xã hội chấp nhận.Nó là mối quan hệ hai chiều có đi có lai,trách nhiệm di liền với nghĩa vụ phù hợp với tình người đạo lý làm người.Nó có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trách nhiệm cũng như nghĩa vụ trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Ở Việt Nam ảnh hưởng của mối quan hệ ấy trong từng gia đình ,ngoài xã hộicũng khá sâu sắc nó góp phẫnây dựngtruyền thống đạo đức của con người trong xã hội. Ông cha ta có câu:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Ở mối quan hệ vợ chồng ta thấy các nhà nho cho rằng trong gia đình người chồng giữ vai trò chủ yếu cò người vợ là thứ yếu phụ thuộc hoàn tòn vào chồng.từ sau đời Đổng Trọng Thưmối quan hệ bất bình đăng giữa vợ chồng càng tăng,mối quan hệ vợ chồng chỉ cò một chiều.Vợ hoàn toàn phụ thuộc vào chồng.Người vợ còn chịu sự ràng buộc bởi tam tòng tứ đức:” Ở nhà theo cha ,lấy chồng theo chồng ,chồng chết theo con”.Tứ đức là “công ,dung,ngôn hạnh”Tức là người phụ nữ phải giỏi việc nội chợ ,phải có nhan sắc ,lời nói dịu dàng lễ phép,biết giữ gìn đức hạnh trinh tiết.
Về mối quan hệ anh em các nhà nho dều yêu cầu anh em trong một nhà phải cư xử với nhau có trên có dưới trước sau hoà thuận ,tô trọng quyền anh trưởng trong gia đình.Anh em trong nhà phải có thứ tự trên dưới .Anh nói em nghe, anh có quyền thay thế cha điều hành mọi công viêc trong gia đình khi cha mấtcò em phải vâng lời anh nghe theo anh chỉ bảocó như vậy gia dình anh em mới hoà thuận vui vẻ.
Trong khi xây dựng các mối quan hệ khác trong ngũ luân các nhà nho cũng chú ý xây dựng mối quan hệ bạn bè(bằng hữu).Mối quan hệ này lấy chữ tín lam trọng:”Bằng hữu hữu tín”.chữ tín làm bạn bèvượt qua khó khăn thơưng yêu giúp đỡ lẫn nhau.chũ tín làm chotìng bạn mãi bền vững .Khi nói về kẻ sĩ Khổng Tử nói:”Phải cư sử với người thiết tha hết tình và giữ niềm hoà duyệt”.Tình bạn với quan niệm của nhà nho được xây dựng không dụa trên tiền tài danh vọng,giàu sang phú quý mà là nghĩa là tình.Họ kết bạn với nhau, động viên nhau giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn hoạ nạn.
Ngoài quan hệ ngũ luân các nhà nho cò đề cập đến quan hệ quân dân .Qua đó cho các bậc vua chúa thấy được tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân.Nên vua phải biétchăm lo đến dân ăn ở cho được lòng dân.
Trên đây là các mối quan hệ cơ bản giữa người với người mà các nhà nho dày công xây dựng.các mối quan hệ ấy đều liên quan ràng buộc tác đọng ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.các nhà nho giáo nhằm giáo dục con người có đức nhân,mọi người đều thấm nhuần và làm theo những điều nhân nghĩa .Các mối quan hệ này ở thòi Khổng Mạnh là mối quan hệ đầy đặn cò có ính chất hai chiều có đi có lạimang tính nhân bản sâu sắc ,có tác dụng tích cực trong viêc giáo dục và dào tạo nhân cách của con ngườ trong xã hội.
Đến Đổng Trọng Thư thời hán đã cải tạo khái quát hoá các quan niệm của tiên nho thành ra “tam cương””ngũ thường”là những quy tắc khắt khe cứng nhắc có tính chất duy tâm.Các mối quan hệ giờ đây chỉ có tính chất một chiều,bề dưới phải có trách nhiệm với bề trên và không có điều ngược lại.Nó phục vụ đắc lực cho chế độ phong kiến trung ương tập quyền.Chính vì vậy mà từ nhà Hán trở đi nó trở thành tư tưởng thống trị xã hội Trung Hoa về sau.Nó cũng ảnh hưởng sâu rông đến Việt Nam dưới 2000 năm lịch sử:
“Trai thi trung hiếu làm đầu
Gái thì tiết hạnh là câu răn mình”
“Hai chữ cương thường giằng cả nước
Một câu trung hiếu dựng nên nhà”
(Nguyễn Đình Chiểu)
2.2. Tính chất và vai trò của quan niệm trên
Quan niệm trên phục vụ cho chế độ phong kiến tôn pháp.
Từ đời vua nhà Chu chế độ lập thái tử đã dựoc áp dung trong hoàmg gia ,trong các gia đình quan lại và cả trong thứ dân.Trong gia đình người dân luôn luôn con trưởng được hưởng gia tài ,giữ nhiệm vụ hương khoi , địa vị cao nhất trong nhà nhưng trách nhiệm cũng lớn nhất.
Những quan niệm của Nho giáo về các mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội nhằm phục vụ cho chế độ phong kiến tôn pháp.
Những quan niệm trên có tính chất tích cực trong giai đoan đầu trong lúc xã hội rối ren , đạo đức trật tự kỉ cương xã hội bị đảo lộn thì những quan niệm của Nho giáo về luân thường đạo lý ..có tác dụng tích cực với xã hội. Đăc biệt từ những tư tưởng và quan niệm trên các nhà nho đã giáo dục xây dựng lứp người kẻ sĩ đông đảo .Tuy còn có những mặt khiếm khuyết han chế song là những mẫu người lý tưởng có đủ nhân nghĩa hiếu trung...
Đó là những người tích cực tuyên truyền đạo lý phong kiến,bảo vệ chế độ phong kiến. Những quan niệm trên có tác dụng tích cực duy trì các mối quan hệ con người trong xã hội,bảo vệ lợi ích chế dộ phong kiến tô pháp nên nho giáo trở thành tư tưởng thống trịvà tồn tại trõngãhội Trung Hoa suốt hơn 2000 năm.
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO CON NGƯỜI CỦA NHO GIÁO
1. Đối tượng đào tạo
Học thuyết Nho giáo là học thuyết chính trị xã hội chỉ tâp chung giáo dục con ngưòi về đức nhân song đối tương dào tạo lại rất rộng. Đói tượng chung mà Nho giáo đào tạo là những người nào muốn học đều được dạy.Khổng Tử là người đàu tiên mở trường nhận dạy thanh niên mọi giới thành công. Ông tuyên bố :”Hữu giáo vô loai”tức là bất kẻ loại nào không phân biệt hạng người ,gia thế ai cũng dạy hết nghĩa dù là con quý tộc hay bình dânKhổng Tử cũng coi ngang hàng. Ông không phân biệt kẻ giàu người nghèo ,kẻ nào xin học muốn dâng lễ gì ông cũng nhận dù chỉ là mười cái nem..Khi nhận vào học ông không phân biệt người thiện kẻ ác .
Như vậy đối tượng đào tạo của Nho giáo rất rộng không phân biệt đẳng cấp giàu nghèo,người thiện kẻ ác,nếu muốn học thì đều được dạy.Việc mở rông đối tượng đaò tạo trước hết phục vụ yêu cầu giáo dục của các nhà nho là giáo dục “đức nhân”, giáo dục con người trong xã hội thành con người có đức nhân.
Khổng Tử là người đặt viên gạch dầu tiên cho việc bình dân hoá giáo dục,xoá bỏ đẳng cấp trong đào tạo giáo dục con người của xã hội Trung Hoa cổ đại.Tuy vây đối tượng chủ yếu Khổng Tử cũng như Nho giáo nói chung tập chung đó là:
_Con em thộc giai cấp thống trị để có người tiếp tục phục vụ sự nghiệp cuả cha anh họ.
_Con em tầng lớp khác nhưng có điều kiện hoc tập và nguyện trở thành người phục vụ cho giai cấp thống trị.
_Ngoài ra Nho giáo con dạy cho dân nhằm mục dích dễ sai khiến.
Sở dĩ các nhà nho tập chung đào tạo con em giai cấp thốnh trịvì trong lịch sử bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng phải đào tạo con em mình phục vụ cho giai cấp mình.Trong tình hình xã hội thời Xuân Thu luôn rối ren loan lạc việc này cang bức thiết.
Khổng Tử đề cao việc học tâp,có học tạp mới lam nổi cong việc mới có thể trị dân trị nước.Có học mới biết phán đoán khỏi sai lầm không bị “che láp”
Khổng Tử chú trọng việc giáo dân nhất trong số các triết gia thời tiên Tần, ông đã bỏ gần hết cuọc đời vào việc đó.Mặc Tử cũng chủ trương dạy dân đấy nhưng các Thượng thiên đồng , ông chỉ bảo mọi người dân đều học những gì thiêntử cho là thiện nhất là đạo kiếm ái ,yêu mọi người như chính mình lam lợi lẫn cho nhau để cái gì thiên tử khen dân cũng khen cái gì thiên tử chê dân cũng chê;nhờ vậy nước mới được trị..Mặc tử không công nhận công dụng giáo hoá của lễ nhạc.Pháp gia chỉ dạy dân biết pháp luật để không phạm pháp.Cò Lão Tử cho rằng giáo dục làm dân sinh ra tinh khôn ham muốn nhiêu hơn gây hại lớn.
Duy có Khổng Tử là cho nhiệm vụ dạy dân ngang với nuôi dân do:
_Dạy dân là một cách yên ân mình muốn tự lập phải thành lập cho người;mình muốn thành công phải giúp người thành công .
_Dân đươcgiáo hoá dễ sai khiến cai trị ,công việc chính hình sẽ nhẹ đi rất nhiều.
Mục đích của Nho giáo là dạy người cho đến bậc nhân nhưng trước hết phải giáo dục cho nhân dânnhững diều luân thường đạo lý.
2. Mục tiêu đào tạo con người của Nho giáo
Muc tiêu đào tạo con người của Nho giáo là xây dựng những mẫu người lý tưỏng của xã hội đó là kẻ sĩ ,kẻ trượng phu ,người quuan tử.
2.1. Kẻ sĩ
Người đi học nho là kẻ sĩ .Con dường vào đời của kẻ sỹ là phải học.Học giỏi thì đi thi, thi đậu thì lam quan không phải học chỉ đẻ biết.
Khổng Tử là người rất chú trọng đến việc học tập . Ônói rằng muốn xứng đáng là kẻ trị dân trước hết phải tu thân ,muốn tu thân thì phải học.
Con đường vào dời của kẻ sĩ trước hết phải học .Học ở đây là học đạo học cách lam người ,học để trở thành người nhân đức.Kẻ sĩ là người luônluôn trau dồiđức hạnh ,bỏ lợi mà làm điều nghĩa,dám sông pha trước nguy nan để cứu người.
Mạnh Tử cũng nói kẻ sĩ phải luôn giữ lấy nghĩa,lam tròn bổn phận của mình.Trong mọi cử chỉ hành đọng của mình phải biết sĩ hỗ đặng tránh những việc trái lễ nghĩa.Khi đi xứ đến các nước khác đùng làm nhụccái mạng lệnh nhà vua giao phó cho mìnhnhư vậy có thể gọi là kẻ sĩ.kẻ sĩ với bạn bè phải tha thiết hết tình ,vớianh em thì giũ miềm hoaf duyệt.
Nho giáo chia kẻ sĩ ra làm nhiều hạng .Khổng Tử chia làm bốn hạng là:
_Hạng thứ nhất :Trong mọi cử chỉ hành động của mình phải biết hổ thẹn trước những hành vi xấu của mình, đi khắp nơi đùng làm nhục cái mạng lệnh của vua.
_Hạng thứ hai:Họ hàng khắp xóm đều khen là lễ nghĩa
_Hạng thứ ba :Lời nói quả quyết ,hơi cố chấp hẹp hòi nhưng chấp nhận được
_Hạng thứ tư: Độ lượng nhỏ nhen không đáng nói tới
Còn Tuân Tử cho rằng kẻ sĩ có năm hạng:kẻ thông sĩ ,kẻ công sĩ ,kẻ trục sĩ,kẻ xác sĩ và kẻ tiểu nhân.
2.2. Kẻ đại trượng phu
Là những con người buất khuất ,cứng rắn ;là một trong những mục tiêuđào tạo con người thiết thực phục vụ cho giai cáp thống trị.Khổng Tử chưa bàn nhiều đến kẻ trượng phu song cung dã nêu len tính cách về con người này.Khổng Tử nói đến ngưòi dũng thì có đủ ,có sức lực,gan dạ đối phó với nghịch cảnh nên chẳng sợ bậy.
Mạnh Tử nêu lên người đại trượng phu với những tính cách cao thượng đó là làm theo điều nhân điều lễ điều nghĩa Đó là cỗ ở rộng nhất ,cỗ đáng đứng nhất con đường sáng nhất trong thiên hạ .Dù bất kì hoàn cảnh nào cũng tu thân,làm điều thiệh không lùi bước trước uy lực tiền tài nghèo khó.
Tuân Tử đề cao đức tháo của người trượng phu.Con người hiên ngang sống như thế,chết như thế vẫn giữ khí tiết giữ lòng trung trước quân thù.Nói về dũng Tuân Tử nêu lên ba loại dũng là thượng dungz ,trung dũng ,hạ dũng.
Nói về người trượng phu ,các nhà nho tuy có cách nói khác nhau song mục tiêu chung là xây dựng co người kiên cường bất khuất.
Mẫu người cao quý lý tưởng mà các nhà nhođều tập chung xây dựng đó là người quân tử.
2.3. Người quân tử
Có thể nói đạo của Khổng Tử là đạo của người quân tử.Mục tiêugiáo dục con người của Nho giáo là đào tạo con người có đức nhân mà người quân tử là mẫu người lý tưởngnhất ,cao quý nhất của xã hội phong kiến.Quân tử vố có hai nghĩa là “quân tủ cầm quyền “ và “nho quân tử”.Quân tử cầm quyền là người lam chính trị làm quan có địa vị tôn quýkhông lam việc nhỏ nhặt chỉ lam việc lớn.
Nho quân tử là người học rộng mà có khí tiết ,người học đạo thánh hiền mà ăn ở theo bậc thánh hiền.Người quân tử có thể làm quan hay không làm quan nhưng phải là người ham mê học tập,học rộng hiểu sâu đạo thánh hiền ,có phẩm chất tôn quý trong bất kỳ hoàn cảnh nào,trong bât kì tàng lớp giai cấp nào.
Người quân tử trước hết phải là người ham mê học đạo hơn cả sự sống của mình,có học đạo mới hiểu dược đạo thánh hiền mới trở thành người đức nhân. Đối với người quân tử học đạo quan trọng song quan trọng hơn hết là hành đạo tu thân sửa mình.
Như vậy người quuân tử là người hoan thiện hoan mỹ và chỉ có phẩm chất cao quý mới là người quân tử.Người quân tử trước hết phải có nhânlà người quân tủ trong ý nghĩ lời nói việc lảmtong bất kì đâu trong bất kì hoan cảnh nào cũng không xa rời điều nhân
Quân tử là người trọng nghĩa luônhành động theo đúng đạo lýlam người.Nghĩa làtiêu chuẩn quan trọng của người quân tửlà gốc của đạo làm người.
Quân tử là người trọng lễ thì giao tiếp và hành đạo mới đúng theo đạo được. Quân tử là người giàu trí
Trí là sự nhận thức hiểu biết sâu rộng. Có trí là không bị lầm lạc, không bị mê hoặc không bị nghi lầm. Người có trí mới có thể phân biệt đúng sai, điều hay lẽ phải mới có sự cư xử và hành động đúng theo đạo người quân tử.
Quân tử là người có đứng dũng
Quân tử là mẫu người cao quý nhất của xã hội. Người quân tử không chỉ là người có nhân, nghĩa, lễ, trí mà còn có cũng. Dúng là một phẩm chất không thể thiếu được của người quân tử.
Người có dũng là người có sức mạnh, gan dạ, quả cảm dám đương đầu với những khó khăn hiểm nghèo. Mục tiêu giáo dục đào tạo của Nho giáo là xây dựng thành những con người đức nhân. Muốn có đức nhân phải có trí, song chỉ có trí vẫn chưa đầy đủ mà phải có dũng. Có dũng mới có thể hành động để thành người có nhân có nghĩa.
Quân tử có đức tín cao
Đức tín là một phẩm chất của con người quân tử. Trong mối quan hệ con người với con người, tín được thể hiện trong việc giữ lời hứa, lời giao ước, trước sau như một. Lời nói với việc làm thống nhất với nhau, từ đấy gây được niềm tin cho con người. Đức tin là một phẩm chất rất quan trọng của con người. Con người có tiền tài, địa vị, danh vọng, có cuộc sống giàu sang phú quý song không giữ được chữ tín thì người đời khinh rẻ, coi thường. Ngược lại dù trong cuộc sống nghèo khó bần hàn, song giữ được chữ tín thì người đời lại rất coi trọng.
3. Nội dung và phương thức đào tạo con người của Nho giáo.
3.1. Nội dung đào tạo con người của Nho giáo.
Đối tượng đậôt của Nho giáo thì rộng nhưng nội dung đào tạo ở lĩnh vực chính trị, đạo đức mà tập trung ở “Tam Cương” và “Ngũ thường” (Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín).
Các lĩnh vực khác như các ngành khoa học tự nhiên, các kiến thức về sản xuất vật chất, kinh tế-xã hội, vui chơi giải trí đều không được chú ý.
Có làn ông Phàn Trì xin Khổng Tử dạy nghề làm ruộng, Khổng Tử đáp rằng: “Ta chẳng như lão nông phu rành việc cày cấy”. Ông Phàn Trì lại xin dạy cách trồng cây. Khổng Tử đáp rằng: “Ta chẳng như lão làm vườn quen nghề trồng trọt”. Khi Phàn Trì ra rồi Khổng Tử trách rằng: “Gã phàn Tu (Phàn Trì) chí khí nhỏ hẹp lắm thay”
Nội dung đào tạo hạn hẹp của Nho Giáo được thể hiện qua một số tác phẩm kinh điển chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị và đạo đức cụ thể với các sách sau:
Tứ thư gồm: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung Dung.
- Luận ngữ là cuốn sách của phái Tăng Tử cùng các môn đệ ghi lại các lời giảng của Khổng Tử cùng những lời đàm đạo của ông với học trò. Nội dung chủ yếu là bàn về đường lối chính trị “lấy nhân làm gốc”.
-Mạnh Tử là cuốn sách do học trò của ông ghi chép lại những lời dạy của ông đối với họ. Nội dung chủ yếu giáo dục về ngũ luân: Mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn. Về ngũ thường: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Trong đó tập trung giáo dục con người về đức nhân.
-Đại học: cuốn sách nhận thức luận bàn về mối quan hệ giữa sự học của người quân tử với thành ý (ý chí) chánh tam (lý tưởng), tu nhân (nhân cách) tề gia - trị quốc - bình thiên hạ (nhiệm vụ).
-Trung dung: cuốn sách dạy cách ứng xử của người quan tử sao cho thuận thiên, thuận địa, thuận nhân tâm.
Nguc kinh gồm có:
-Kinh dịch: là sách giải thích bản chất thế giới từ quan điểm ngũ hành, âm dương, bát quái.
-Kinh thư: Là bộ sử biên niên tử đời vua Nghiêu đến Tần Mục Công (2350-620 TCN) ghi chép những lời dạy bảo của vua chúa.
-Kinh thi: Là bộ sưu tập truyền thuyết, ca dao, dân ca (văn học) từ thời thượng cổ đến đời vua Bình Vương nhà Chu.
-Kinh lễ: Gồm có chu lễ, lễ nghi, lễ kỷ, trong đó đặc biệt là chu lễ mang tính chất triết học trình bày tổ chức hành chính, chính trị, trật tự xã hội nhà Chu.
-Kinh Xuân Thu: Là bộ biên niên sử. Tư tưởng của Khổng Tử trong đó thể hiện quan điểm của ông về đường lối chính trị của các triều đại lịch sử.
Tất cả các sách trên đều được các nhà nho đã vào giảng dạy trong các trường lớp của mình. Nội dung chủ yếu của các sách cũng chỉ đề cập đến chính trị, đạo đức. Việc dạy và học của Nho giáo bắt đầu từ lục nghệ (sáu ngành) từ lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (đánh xe ngựa), thư (viết), sổ (tính toán) đến đức hạnh chính trị, ngôn ngữ và văn học.
3.2. Phương thức đào tạo con người của Nho giáo.
Phương hướng giáo dục con người của Nho giáo là “hiếu cổ”.
Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, nhà chu là triều đại tồn tại dài nhất (900 năm từ 1222-221 TCN). Đây là triều đại phát triển rực rỡ nhất, trật tự kỷ cương tốt nhất trong lịch sử Trung Hoa cổ đại. Có thể nói nhà Chu là triều đại mẫu mực làm cho nhiều nhà tư tưởng thời kỳ cổ đại ngưỡng mộ.
Khổng Tử muốn theo Chu tức là muốn giữ chế độ của chu công, muốn làm được sự nghiệp của chu công, phục hồi lại cái “văn, vẻ tực rỡ của đầu đời nàh Chu. Ông theo đuổi mục đích đó suốt đời. Khổng Tử có cuốn sách chu lễ trình bày tổ chức - Hành chính - chính trị - trật tự xã hội, nghi lễ nhà Chu cũng chính là ca ngợi chế độ nhà Chu, ca ngợi đạo đức nhà Chu, do đó tinh thần giáo dục của nho giáo là “hiếu cố” cũng là mong muốn học tập làm theo nhnwgx gì tốt đẹp, mẫu mực của đời xưa, người xưa”. Khổng tử hướng về vua Nghiêu, vua Thuấn, Vũ Thang, Văn Vương, Võ Vương và Chu Công.
Phương pháp giáo dục của nho giáo là tuỳ đối tượng mà giáo dục.
Khổng Tử dạy mỗi người một khác, tuỳ tư cách, trí tuệ, từng người mà giảng “Người bậc trung trở lên thì mới đem những điều cao xa ra nói, người ở dưới bậc trung thì không nên”. Ông lại tìm sở đoản của mỗi môn sinh mà sửa chữa, sở trường mà bồi bổ cho.
Phương pháp đào tạo giáo dục của nho giáo còn ở chỗ học gắn với hành hàng ngày.
Học trong đạo của Khổng Tử có nghĩa là học đạo để sửa mình cho nên phần thực hành quan trọng nhất. Hiểu thế nào là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín mà không thực hành thì cái hiểu đó là hoàn toàn vô dụng. Trái lại nếu thực hành mỗi ngày mỗi tấn tới thì vui vô cùng.
Điều quan trọng trong phương pháp giáo dục của Nho giáo là nêu gương trong công tác giáo dục.
KẾT LUẬN
1. Đánh giá chung:
Thời kỳ Xuân Thu chiến quốc là thời kỳ Nhà Chu suy tàn, giai cấp thống trị tranh giành quyền lực chiến tranh lâu dài gây bao cảnh đau thương cho con người, trật tự, kỷ cương đạo đức xã hội bị đảo lộn. Trong bối cảnh ấy Nho giáo đã tìm đến vấn đề con người, đưa ra những giải pháp giáo dục con người nhằm thiết lập lại trật tự kỷ cương của xã hội.
Để có đường lối giáo dục con người, các nhà nho đã bàn đến bản tính con người, ý kiến của các nhà nho về bản tính con người là không giống nhau.
Song dù có những quan niệm khác nhau, nhưng các nhà nho đều thống nhất chung là cần phải giáo dục con người cho có tính thiện để thành người đức nhân.
2. Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực trong quan niệm về con người và đào tạo con người của nho giáo đối với Việt Nam.
Những quan niệm về con người và đào tạo con người của Nho giáo cũng đã có những ảnh hưởng lớn đối với Việt Nam.
Khi Nho giáo truyền bá vào Việt Nam, những nội dung giáo dục của Nho giáo cũng được truyền vào nổi bật là việc giáo dục đạo đức nhân cách: Về nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín v.v.. phù hợp với truyền thống con người Việt Nam và được xã hội chấp nhận. Nó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm truyền thống con người Việt Nam thể hiện tình thương yêu đùm bọc nhau “Lá lành đùm lá rách: “thương người như thể thương thân” “giúp người là giúp mình” v.v…
Việc kết hợp giáo dục đạo đức và pháp luật, việc tu thân tự sửa mình, gương mẫu làm điều nhân nghĩa v.v… có ý nghĩa to lớn trong giáo dục con người hiện nay.
3. Một vài ý kiến đề xuất.
Nho giáo đã ảnh hưởng lớn đối với nước ta, để kế thừa những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của nó, cũng cần có một số đổi mới trong công tac tuyên truyền giáo dục.
Hiện nay trong một số tài liệu, bài giảng lịch sử triết học phương Đông phần triết học Nho giáo chưa có mục ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam (giá trị tích cực và tiêu cực). Thiết nghĩ cần phải đưa mục đó vào để có thể giáo dục thế hệ tredr trong nhà trường.
Những nội dung giáo dục tư tưởng còn phù hợp như tư tưởng “dân vi bản” (lấy dan làm gốc) tư tưởng “chính danh” (làm theo chức trách, nhiệm vụ, chức danh), tư tưởng “nhân nghĩa”, “hiếu hảo” đã được chuyển tải, Việt Nam hoá phù hợp với truyền thống tư tưởng, đạo đức, văn hoá dân tộc thì cần phải kế thừa, khai thác triệt để.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đoàn Trung Còn, Dịch luận ngữ, - Nxb Trí Đức Tòng thơ - Sài gòn 1950.
Nguyễn Duy Cần dịch chi dịch huyền giải Nxb thành phố Hồ Chí Minh 1992.
Nho giáo tại Việt Nam - Nxb - KHXH Hà Nội 1994.
Hà Mạnh, dịch chu dịch với dự đoán học - Nxb Văn hoá Hà Nội 1995.
Trần Trọng Kim, Đại cương triết học ta - Nho giáo - Nxb TP Hồ Chí Minh 1992.
Vũ Khiêu (chủ biên), Nho giáo xưa và nay, Nxb - KHXH - Hà Nội, 1991.
Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử, Nxb Văn hoá - 1995.
Nguyễn Hiến Lê, Nhà giáo họ Khổng , Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
Nguyễn Hữu Tiến, và Nguyễn Đôn Phục, dịch Mạnh Tử- quyển Thượng, Nxb Trung Bắc Tân văn Hà Nội 1932.
Nguyễn Hữu Tiến, và Nguyễn Đon Phúc, dịch Mạnh Tử - quyển hạ, Nxb Trung bắc tân văn Hà Nội, 1932.
Nguyễn Đăng Thục, lịch sử triết học phương Đông, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- VHOA (66).DOC