Đề tài Nghiên cứu thị trường Nhật Bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu sang Nhật Bản

1. Lý thuyết: 1.1. Năng lực cạnh tranh 1.2. Các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh 2. Thực trạng xuất khẩu gỗ và năng lực cạnh tranh của đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản: 2.1. Thực trạng xuất khẩu gỗ sang thị trường Nhật Bản 2.1.1. Tổng quan xuất khẩu gỗ của Viêt Nam: ( Tình hình xuất khẩu đồ gỗ, và các đối tác của Việt Nam ) 2.1.2. Hoạt động xuất khẩu đồ gỗ sang thị trường Nhật Bản( giá trị, cơ cấu mặt hang) 2.2. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản 2.2.1. Các đối thủ cạnh tranh và thị phần đồ gỗ của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. 2.2.2. Điểm mạnh, điểm yếu của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam (đánh giá ưu nhược điểm về đồ gỗ nội thất của Việt Nam) 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực canh tranh của hàng đồ gỗ Việt Nam 2.3.1. Các yếu tố bên trong quốc gia 2.3.1.1. Các nguồn lực ( nguồn nguyên liệu đầu vào, nhân công, vốn, công nghệ) 2.3.1.2. Các chính sách phát triển chế biến đồ gỗ của Việt Nam 2.3.1.3. Các thuận lợi do mối quan hệ tốt đẹp của hai nước đem lại ( các cam kết song phương, hợp tác, ưu đãi cho hàng đồ gỗ Việt Nam) 2.3.2. Các yếu tố xuất phát từ phía thị trường Nhật Bản. qui mô thị trường thị hiếu người tiêu dung tiêu chuẩn môi trường, chất lượng đối với đồ gỗ hệ thống phân phối nhiều tầng 3. Các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng đồ gỗ Việt Nam 3.1. Triển vọng 3.2. Phương hướng 3.3. Các biện pháp chủ yếu

docx52 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1622 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu thị trường Nhật Bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu sang Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uy nhiên các sản phẩm của ASEAN trước khi nhập khẩu vào Nhật Bản vẫn phải trải qua các cuộc kiểm tra khắt khe. Trong những năm gần đây, hàng đồ gỗ nội thất xuất xứ từ Trung Quốc tăng đáng kể ở Nhật Bản. Từ năm 2000, Trung Quốc đứng đầu các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật. Nhập khẩu từ Thái Lan, Inđônêxia và các nước ASEAN khác cũng tăng. Gần đây, Đài Loan đã chuyển từ xuất khẩu đồ mây tre sang xuất khẩu đồ gỗ và đồ kim loại. Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ nội thất sang Nhật Bản. . Hệ thống phân phối hàng hoá ở Nhật Để đưa hàng hóa xâm nhập thành công thị trường Nhật Bản, việc hiểu rõ hệ thống phân phối hàng hóa của nước này sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều. Nhật Bản là nước tiêu thụ hàng hóa lớn thứ 2 trên thế giới với các kênh phân phối hàng hóa đặc trưng. Theo kết quả điều tra của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật Bản có nhiều cửa hàng bán lẻ với mật độ rất dày đặc nhưng quy mô nhỏ. Những cửa hàng bán lẻ này thường sử dụng trung bình từ 1-49 nhân viên và có mật độ khoảng 13 cửa hàng cho 1.000 dân cư, cao hơn so với tỷ lệ 8,7 cửa hàng/1.000 dân ở Pháp, 6,6 ở Đức, 6,5 ở Mỹ và 6,1 ở Anh. Nếu tính về số lượng các cửa hàng bán lẻ, Nhật có 1,6 triệu cửa hàng bán lẻ so với 1,5 triệu cửa hàng của Mỹ. Trong khi đó, Mỹ có số dân lớn gấp 2,1 lần và diện tích lớn gấp 25 lần của Nhật. Cửa hàng bán lẻ và hệ thống phân phối Các cửa hàng bán lẻ nhỏ trong hệ thống phân phối hàng hoá thường nằm ở các vùng đông dân cư và kinh doanh nhiều loại mặt hàng như: thực phẩm, may mặc và các loại hàng hoá tiêu dùng khác. Các cửa hàng này có đặc điểm tiện lợi và dịch vụ tốt. Trong hệ thống phân phối Nhật Bản còn có các cửa hàng bách hoá lớn và các siêu thị cũng làm nhiệm vụ kinh doanh bán lẻ. Tuy nhiên, hiệu quả kinh doanh của các cửa hàng siêu thị lớn ở Nhật Bản không cao do thiếu tính linh hoạt, nền kinh tế và chi tiêu tiêu dùng giảm sút. Gần đây, các cửa hàng bách hoá tổng hợp đang chuyển sang cung cấp nhiều loại dịch vụ, hoạt động giải trí khác nhau, đồng thời, cung cấp nhiều loại hàng hoá cao cấp đắt tiền, kể cả hàng nhập khẩu. Ở Nhật Bản, các nhà bán lẻ không có cửa hàng, chuyên kinh doanh bán hàng qua catalogue, điện thoại, internet, máy bán hàng và giao hàng tận nhà. Doanh số của loại bán hàng này không lớn lắm, nhưng đang tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây. Trong hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật, từ khi hàng được sản xuất ra đến khi giao đến các cửa hàng bán lẻ tồn tại nhiều cấp phân phối trung gian, nhiều hơn so với các nước công nghiệp phát triển khác. Hiện nay, Nhật có khoảng hơn 430 ngàn cơ sở bán buôn, cứ trung bình khoảng 34 cơ sở bán buôn cho 10.000 dân cư. Nếu tính quan hệ từ nhà sản xuất đến người bán lẻ, thì trung bình có 2,21 nhà bán buôn nằm giữa người bán lẻ và nhà sản xuất, cao gấp 2 lần so với con số 0,73 ở Pháp và 1 ở Mỹ. Do đó, một hàng hoá ở Nhật thường phải trải qua nhiều tầng nấc trung gian và phải đi một quãng đường dài hơn. Trong hệ thống phân phối, các nhà buôn rất quan trọng vì họ có quan hệ mật thiết với các nhà bán lẻ. Đặc điểm rất độc đáo trong hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật Bản là sự tồn tại của hệ thống duy trì giá bán lẻ của nhà sản xuất kiểm soát giá bán lẻ thông qua các chính sách chiết kh u hoa hồng và mua lại hàng hoá. Đối với chính sách mua lại hàng hoá, khác với châu Âu và Mỹ (người mua phải gánh chịu mọi rủi ro về sản phẩm trong phạm vi khu vực phân phối. Chỉ những hàng hoá bị khuyết tật mới được trả lại), tại Nhật Bản người tiêu dùng có thể trả lại các loại hàng hoá như may mặc, sách báo và dược phẩm. Tất nhiên, hàng hoá đó phải còn nguyên mác, dán tem. Đối với chính sách chiết khấu hoa hồng, Nhật Bản thực hiện nhiều loại chiết khấu và được chiết khấu thường xuyên, chứ không chỉ chiết khấu vào lúc thanh toán tiền hàng như ở châu Âu. Kết cấu chặt chẽ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối Hệ thống phân phối hàng hóa Nhật Bản có sự cấu kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối theo vòng khép kín và bài ngoại, nhất là những hệ thống cửa hàng chuyên môn hóa chỉ kinh doanh một loại hàng nhất định. Sự cấu kết này thể hiện như sau: các nhà sản xuất cung cấp vốn cho các nhà bán buôn và các nhà bán buôn lại cung cấp tài chính cho các nhà bán lẻ, thực hiện chế độ định giá bán lẻ, chiết khấu hoa hồng thường xuyên và rộng rãi, chế độ các nhà sản xuất sẵn sàng mua lại hàng hóa nếu không bán được và các nhà bán lẻ chỉ kinh doanh những mặt hàng đó do các nhà bán buôn và các nhà sản xuất giao. Điều này cũng có nghĩa là không khuyến khích các nhà bán lẻ bán các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, hoặc có nghĩa là hạn chế bán sản phẩm cho các khách hàng ở nước ngoài ở địa bàn đã định. Trong hệ thống phân phối của Nhật Bản còn tồn tại song song hệ thống nhập khẩu. Theo đó, bất cứ một công ty nào cũng có thể nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào từ nước ngoài song song với các tổng đại lý nhập khẩu. Tuy nhiên, dịch vụ chăm sóc khách hàng, bảo dưỡng, bảo hành của hệ thống nhập khẩu song song không tốt vì các tổng đại lý nhập khẩu từ chối chăm sóc các sản phẩm được nhập khẩu theo hệ thống nhập khẩu song song. Mặc dù hệ thống phân phối hàng hóa của Nhật Bản đã góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, tạo mối quan hệ kinh doanh lâu dài và ổn định giữa các nhà sản xuất và tiêu thụ. Tuy nhiên, theo nhận định của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, hệ thống này cũng bộc lộ một số nhược điểm như: hệ thống phân phối hàng hóa khép kín qua nhiều tầng nấc làm cho giá hàng hóa tăng giá khi tới tay người tiêu dùng. Giá bán lẻ của Nhật Bản trung bình cao hơn ở Mỹ là 48%, ở Anh là 55%; không kích thích các cửa hàng bán lẻ nỗ lực cải tiến nâng cao hiệu quả kinh doanh, hạ giá sản phẩm; duy trì số lượng cửa hàng bán lẻ đông đảo không hiệu quả; không minh bạch về định giá sản phẩm; hạn chế sự thâm nhập thị trường Nhật Bản của các công ty nước ngoài. Cơ quan này cũng cho biết, hiện nay, Nhật Bản đang đối đầu với 2 luồng quan điểm nới lỏng quy định về phân phối hàng hóa và bảo vệ duy trì hệ thống cũ. Một mặt, Nhật Bản đang phải chịu sức ép của nước ngoài, không cho hàng hóa của họ thâm nhập thị trường Nhật Bản. Mặt khác, các quan chức Nhật Bản đang cần sự ủng hộ chính trị của các nhà bán lẻ thì lên tiếng ủng hộ duy trì hệ thống phân phối cũ vì hệ thống này đã được hình thành trong một thời gian dài, đã kết hợp được các khía cạnh về văn hóa, kinh tế, xã hội của người Nhật Bản vì với mật độ dân cư đông đúc, các cửa hàng bán lẻ sẽ là điểm mua sắm ưa thích, không phải lái xe đến các vùng ngoại ô xa xôi, nơi có các siêu thị lớn. Ngoài ra, với diện tích sinh hoạt của người Nhật Bản rất hạn chế, không có nhiều chỗ để dự trữ nên họ đi chợ mua sắm các loại tạp phẩm và thực phẩm thường xuyên hơn. Thị trường đồ gỗ Nhật Bản (trích trong tài liệu của trung tâm xúc tiến thương mại của Việt Nam) 1. Quy mô thị trường Nhật Bản là một thị trường mở qui mô lớn với số dân 127 triệu người có mức sống khá cao (GDP theo đầu người năm 2001 là 32.585 USD) và GDP năm 2001 là 4,143 tỷ USD. Nhật Bản là một trong những nước có nền công nghiệp phát triển mạnh và đứng hàng đầu thế giới. Nhưng do đặc điểm về địa lý, Nhật Bản là một trong số những nước rất hiếm về tài nguyên thiên nhiên, ngoại trừ nguồn hải sản, do đó hầu hết các sản phẩm gia dụng, trang trí nội ngoại thất đều phải nhập khẩu. Xu hướng tiêu dùng và sính đồ ngoại của người Nhật Bản ngày càng gia tăng và sức tiêu thụ của thị trường này rất lớn, vào khoảng 3,000 tỷ Yên, bao gồm cả hàng gia dụng, trong đó đồ gỗ nhập khẩu chiếm 37% thị phần tại thị trường Nhật. Nhật Bản là thị trường tiêu thụ sản phẩm gỗ lớn nhất trên thế giới, đặc biệt trong xã hội công nghiệp với mức độ rất cao như hiện này, người Nhật ngày càng có nhu cầu sử dụng đồ vật bằng chất liệu gỗ thay thế các vật liệu sắt, nhôm… Nhập khẩu các mặt hàng đồ gỗ nội thất có xu hướng tăng trưởng khá nhanh ở Nhật còn do qúa trình chuyển sản xuất các đồ gỗ giá rẻ sang khu vực Đông Nam Á là nơi có nhân công rẻ, nguồn nguyên liệu dồi dào, chi phí nhập khẩu thấp và đặc biệt là nỗ lực của các nhà nhập khẩu Nhật Bản giảm chi phí trong khâu phân phối đã cho phép giảm giá bán đồ gỗ nhập khẩu. Bảng 1: Nhu cầu nhập khẩu đồ gỗ nội thất của Nhật Bản trong những năm gần đây            Đơn vị: Tấn, triệu yên 1999 2000 Lượng Giá trị Lượng Giá trị 383.486 134.862 506.532 161.680 2001 2002 Lượng Giá trị Lượng Giá trị 586.071 186.574 626.435 185.720 Nguồn: Hải quan Nhật Về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, mặt hàng ghế gỗ chiếm 28,6% tổng giá trị đồ gỗ nhập khẩu, đồ gỗ sử dụng trong văn phòng, đồ gỗ sử dụng trong nhà bếp, đồ gỗ sử dụng trong phòng ngủ và cho mục đích khác chiếm 71,4% (năm 2002). Trong các loại ghế gỗ, các loại ghế nệm khung gỗ bọc da, ghế nệm khung gỗ bọc vải chiếm tỷ trọng 94%. 2. Nguồn nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản Đồ gỗ nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản chủ yếu bao gồm đồ gỗ cao cấp nhập từ Châu Âu (Italia, Đức, Áo, Đan Mạch), Mỹ và một khối lượng từ các nước ASEAN. Đồ nội thất của Mỹ và Châu Âu (đặc biệt là Italia và Đức) thu hút người tiêu dùng Nhật Bản do kiểu cách đẹp, chất lượng tốt và uy tín nhãn hiệu hàng hoá cao. Nhiều sản phẩm nhập từ châu Á là sản phẩm sản xuất dưới dạng OEM (còn gọi là "mặt hàng nhập khẩu phát triển") từ các cơ sở của Nhật đóng gói tại nước ngoài. Các sản phẩm này thay đổi ít nhiều về thiết kế so với các sản phẩm sản xuất tại Nhật. Trong những năm gần đây hàng đồ gỗ xuất xứ Trung Quốc và Mỹ tăng đáng kể ở Nhật Bản. Đài Loan chuyển từ việc xuất khẩu đồ mây tre sang xuất khẩu đồ gỗ và đồ kim loại. Philipine đã thay đổi việc xuất khẩu mây tre sang Nhật bằng các hàng nội thất đắt tiền có chất lượng cao do nguồn mây tre trong nước giảm. Thái Lan chủ yếu cung cấp hàng đồ gỗ cao su. Các nước ASEAN đã có tiến bộ rất nhiều về chất lượng và kiểu dáng, tuy nhiên các sản phẩm của các nước ASEAN trước khi nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản vẫn phải trải qua các cuộc kiểm tra khắt khe. Nói chung, đồ gỗ giá rẻ được nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan và các nước ASEAN, trong khi đó đồ gỗ cao cấp được nhập từ Châu Âu, Mỹ. Nhập khẩu từ Trung Quốc tăng mạnh trong những năm gần đây. Bắt đầu từ năm 2000, Trung Quốc đứng đầu các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật. Nhập khẩu từ Thái Lan, Indonesia và các nước ASEAN khác cũng tăng. Trong số các nước, lãnh thổ xuất khẩu hàng đầu đồ gỗ vào Nhật Bản, chỉ có Đài Loan xuất khẩu giảm đáng kể về trị giá (trung bình 15,7%/năm trong khoảng 5 năm gần đây). Điều này phản ánh thực tế rằng các nhà xuất khẩu gỗ Đài Loan cũng đang chuyển dần các cơ sở sản xuất sang Trung Quốc để xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Trong số các nước Châu Á xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật, Trung Quốc chiếm 28,7%, Thái Lan 20,3%, Malaysia 13,8% và Indonesia 11,8%. 3. Xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Nhật Bản Nhật Bản là một thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu về hàng thủ công mỹ nghệ và đồ gỗ gia dụng. Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ vào Nhật đạt 110,9 triệu USD (bằng 7,3% tổng kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ của Nhật). Nhật Bản đang khuyến khích nhập khẩu đồ gỗ với mức thuế hầu hết bằng 0%. Tuy nhiên thị phần đồ gỗ của Việt Nam tại đây mới đạt 7,3%, còn thấp so với các nước Châu Á khác. Theo thống kê của hải quan Nhật Bản, kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ từ Việt Nam tăng mạnh trong vòng 5 năm qua. Năm 1998 kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ từ Việt Nam mới chỉ đạt  5,054 tỷ yên, chiếm 3,6% thị phần nhập khẩu thì đến năm 2002 là 13,592 tỷ yên, tăng hơn 2,6 lần về kim ngạch, chiếm 7,3% thị phần nhập khẩu, tăng gấp đôi về thị phần. Bảng 2: Cơ cấu mặt hàng đồ gỗ Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản năm 2002 Mã HS Mặt hàng Kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam  (triệu Yên) Thị phần hàng Việt Nam Tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật              (triệu Yên) 9401.61 Ghế khung gỗ nhồi đệm 414 1% 42.365 9401.69 Ghế khung gỗ loại khác 979 10,4% 9.412 9401.30 Đồ gỗ sử dụng trong văn phòng 19 1,5% 1.343 9403.40 Đồ gỗ sử dụng trong nhà bếp 674 9,4% 7.196 9403.50 Đồ gỗ sử dụng trong phòng ngủ 1.727 11,7% 14.729 9403.60 Đồ gỗ nội thất khác 9.777 8,8% 110.673 Nguồn: Hải quan Nhật Bản Thị phần của hàng Việt Nam còn rất nhỏ ở mặt hàng ghế khung gỗ nhồi đệm (xấp xỉ 1%) hay đồ gỗ văn phòng (khoảng 1,5%). Đối với mặt hàng có thị phần cao nhất là đồ gỗ sử dụng trong phòng ngủ cũng chỉ ở mức 11,7%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. II. Những  định chế và đòi hỏi của thị trường 1. Các quy định pháp luật và thủ tục khi nhập khẩu Tại thời điểm nhập khẩu không có quy định gì đặc biệt trừ những đồ đạc sử dụng những nguyên liệu bằng da của một số loại động vật quý hiếm có thể bị hạn chế nhập theo các điều khoản của hiệp ước Washington (hiệp ước quốc tế về buôn bán động thực vật, thực vật quý hiếm). 2. Các quy định pháp luật khi kinh doanh đồ gỗ Một số sản phẩm đồ gỗ muốn được kinh doanh trên thị trường Nhật Bản phải đáp ứng được yêu cầu của “Luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hóa” và “Luật an toàn sản phẩm”. Mã số HS Hàng hóa Các quy định liên quan                        9403 Bàn và ghế Luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hóa 9403 Ghế, Sofa Luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hóa 9403 Tủ Luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hóa 9403 Giường hai tầng Luật an toàn sản phẩm 9403 Tủ bếp Luật an toàn sản phẩm 9403 Tủ trẻ em Luật an toàn sản phẩm 9403 Củi trẻ em Luật an toàn sản phẩm 9403 Ghế trẻ em Luật an toàn sản phẩm Luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hoá yêu cầu nhà nhập khẩu phải đảm bảo nhãn hiệu của sản phẩm (như bàn, ghế, chạn bát...) phải có đầy đủ các thông tin cho người tiêu dùng. Chẳng hạn mẫu nhãn hiệu hàng hóa cho mặt hàng ghế tựa như sau:            Kích thước Hình dáng bên ngoài                                            rộng x sâu x cao Chiều cao của ghế Bộ phận kết cấu Xử lý bề mặt Vật liệu bề mặt Vật liệu đệm Chú ý khi sử dụng Tên của nhà cung cấp nhãn hiệu Để biết thêm chi tiết, xin tham khảo cuốn sách”Hỏi đáp về các quy định nhãn mác hàng hoá tại Nhật Bản” do Cục Xúc tiến Thương mại biên tập từ cuốn nguyên bản của JETRO (Tổ chức Xúc tiến Thương mại của Nhật Bản). Luật an toàn sản phẩm : Một số sản phẩm tiêu dùng mà kết cấu, vật liệu hoặc cách sử dụng đặt ra vấn đề an toàn đặc biệt được coi là "sản phẩm đặc biệt" có quy định tiêu chuẩn cho từng sản phẩm đặc biệt. Luật quy định giường cho trẻ em là sản phẩm đặc biệt loại 1. Giường phải đảm bảo các tiêu chuẩn này và phải có nhãn hiệu S đồng thời sẽ được tiến hành kiểm tra xác nhận bởi các cơ quan chuyên trách của chính phủ dựa trên các tiêu chí chất lượng do luật đã đề ra. Nhà sản xuất đã đăng ký có trách nhiệm tuân thủ các quy định về an toàn theo luật định, yêu cầu các cơ quan nhà nước kiểm tra, giữ kết quả kiểm tra và chịu trách nhiệm bồi thường cho ngưòi tiêu dùng nếu hàng hóa bị hư hỏng. Từ 1/7/2003, các quy định mới về việc thải các chất hoá học dễ bay hơi, về tiêu chuẩn nhà của Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông được ban hành và có hiệu lực tác động mạnh tới đồ gỗ nhập khẩu. Đồ gỗ nhập khẩu bắt buộc phải được kiểm tra formaldehyde theo luật JAS (quy định về sản phẩm gỗ), luật JIS (quy định về chất liệu công nghiệp) và luật BSL (đối với các sản phẩm không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật JAS và luật JIS). Quy định mới này được ban hành do mối lo ngại của người Nhật về chứng "nhà bệnh tật", là hội chứng rối loạn sức khoẻ mà người mua phàn nàn là do đồ gỗ thải ra quá nhiều hoá chất dễ bay hơi. Nội dung chủ yếu của quy định mới này là: ·          Quy định quản lý mới về chất chlorpyrifos và formaldehyde trong sản phẩm (trong tương lai danh sách các chất có thể được mở rộng). ·          Cấm tuyệt đối việc sử dụng chất chlorpyrifos. ·          Những hạn chế đối với việc sử dụng formandehyde về mức độ dẫn tới khả năng gây ô nhiễm và các yêu cầu đối với kiểm định quy định cho cơ quan kiểm nghiệm. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể truy cập website của Trung tâm Xây dựng Nhật Bản http:www.bcj.or.jp/sickhouseissue/introduction.html để tìm hiểu thông tin liên quan đến các quy định này. Tiêu chuẩn công nghiệp tự nguyện - Nhãn hiệu căn cứ vào Luật An toàn hàng hóa: Hiệp hội sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng được thành lập theo Luật an toàn hàng hóa đã đề ra các tiêu chuẩn để đảm bảo tính an toàn của sản phẩm hàng hóa. Đến nay, một số sản phẩm đồ gỗ như giường tầng, tủ đựng cốc chén, chạn đựng bát đĩa, ghế tựa phải tuân theo tiêu chuẩn hàng hoá an toàn (nhãn hiệu SG). Sản phẩm mang nhãn hiệu SG có lỗi gây thương tích cho người tiêu dùng thì phải trả một khoản tiền bồi thường là 100 triệu yên cho một đầu người. Nhãn hiệu theo tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản JIS : Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản JIS là một trong những tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi ở Nhật. Tiêu chuẩn này dựa trên "Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp" được ban hành vào tháng 6 năm 1949 và thường được biết tới dưới cái tên "dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản" hay JIS. Hệ thống JIS đã góp phần vào việc mở rộng tiêu chuẩn hoá trên phạm vi toànbộ nền công nghiệp Nhật Bản.   Theo quy định của điều 26 trong Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp, tất cả các cơ quan của Chính phủ phải ưu tiên đối với sản phẩm được đóng dấu chất lượng JIS khi mua hàng hoá để phục vụ cho hoạt động.  Theo luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp, các tiêu chuẩn được đặt ra để đảm bảo chất lượng hàng công nghiệp. Các sản phẩm đạt được tiêu chuẩn JIS có thể được đóng dấu JIS. Trong hệ thống các mặt hàng nội thất, bàn sử dụng cho văn phòng sẽ được ký hiệu S1031-01, ghế văn phòng là S1032-01, tủ đựng hồ sơ văn phòng là S1033-01, giường thông dụng các sản phẩm nội thất S1102-01, bàn ghế cho trường học là S1021-01... Hơn nữa, khi được đóng dấu này, mỗi sản phẩm phải có các thông tin chi tiết đi kèm. III. Chính sách thuế quan Đối với đồ gỗ xuất sang Nhật Bản, hàng hoá của Việt Nam không gặp nhiều rào cản trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của Nhật Bản như những mặt hàng khác do Nhật Bản khuyến khích nhập khẩu đồ gỗ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ lớn trong nước. Thuế suất nhập khẩu đối với hầu hết các mặt hàng đồ gỗ đều bằng 0%. IV. Hệ thống phân phối Các nhà bán lẻ đồ gỗ chủ yếu bán đồ gỗ gia dụng.Vì thế các nhà xuất khẩu đồ gỗ gia dụng cần hướng tới các nhà bán lẻ của Nhật. Hình thức đặt hàng có thể qua thư hay điện thoại với những đơn hàng nhỏ. Hiện có khoảng trên 6.290 cửa hàng chuyên bán đồ gỗ ở Nhật, trong đó khoảng 6.000 cửa hàng là cửa hàng dạng vừa và nhỏ, với diện tích bán hàng nhỏ hơn 1.500 m2, 920 cửa hàng còn lại là các cửa hàng lớn có diện tích hơn 1500 m2. Đây là đối tượng mà các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm đồ gỗ cao cấp cần quan tâm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam cũng cần quan tâm tới các cửa hàng bách khoá tổng hợp cho các mặt hàng chất lượng vừa, hàng đại trà và kể cả hàng cao cấp. Họ có những khách hàng trung thành, có thu nhập cao và cả khách bình dân nên mặt hàng bày bán khá đa dạng. V. Xu hướng tiêu dùng và các nguyên tắc khi thâm nhập thị trường Nhật Bản 1. Một số đặc điểm về nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản Mặc dầu hầu hết người Nhật truyền thống đã quen với việc ngồi trực tiếp lên sàn nhà trải chiếu tatami (chiếu cói), việc sử dụng bàn ghế đã trở nên rất thông dụng do việc phổ biến nhà theo phong cách phương tây từ hơn 50 năm nay. Bàn và ghế gỗ bắt đầu được sử dụng trong các gia đình Nhật Bản từ những năm 1955 - 1960. Theo báo cáo của Cục Kế hoạch Kinh tế Nhật bản về xu hướng tiêu thụ đồ gỗ trong gia đình, năm 1961 bàn ghế được sử dụng trong 6,2% gia đình Nhật, trong khi bàn ghế phòng khách được sử dụng là 12% gia đình Nhật;  năm 1992, 69,7% gia đình Nhật có bàn ghế ăn; năm 1995, 36,3% gia đình Nhật có bàn ghế trong phòng khách. Tỷ lệ này không thay đổi trong những năm gần đây. Đặc điểm của người tiêu dùng Nhật Bản là tính đồng nhất, 90% người tiêu dùng cho rằng họ thuộc về tầng lớp trung lưu. Người Nhật thường có những đặc điểm chung sau:  Đòi hỏi cao về chất lượng: xét về mặt chất lượng, người tiêu dùng Nhật Bản có yêu cầu khắt khe nhất. Sống trong môi trường có mức sống cao nên người tiêu dùng Nhật Bản đặt ra những tiêu chuẩn đặc biệt chính xác về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn một chút cho những sản phẩm có chất lượng tốt. Yêu cầu này còn bao gồm các dịch vụ hậu mãi như sự phân phối kịp thời của nhà sản xuất khi một sản phẩm bị trục trặc, khả năng và thời gian sửa chữa các sản phẩm đó. Những lỗi nhỏ do sơ ý trong khi vận chuyển, hay khâu hoàn thiện sản phẩm ví dụ như những vết xước nhỏ, mẩu chỉ cắt còn sót lại trên mặt sản phẩm, bao bì xô lệch v.v. cũng có thể dẫn đến tác hại lớn là làm lô hàng khó bán, ảnh hưởng đến kế hoạch xuất khẩu lâu dài. Bởi vậy cần có sự quan tâm đúng mức tới khâu hoàn thiện, vệ sinh sản phẩm, bao gói và vận chuyển hàng.   Nhạy cảm với giá cả tiêu dùng hàng ngày: Người tiêu dùng Nhật Bản không chỉ yêu cầu hàng chất lượng cao, bao bì đảm bảo, dịch vụ bán hàng và dịch vụ sau bán hàng tốt mà còn muốn mua hàng với giá cả hợp lý. Khi có sự tăng giá của một sản phẩm đã tồn tại trên thị trường, cần phải có những lời giải thích đầy đủ, nếu không sẽ gây ra những sự hoài nghi dẫn đến giảm sức mua của người tiêu dùng. Thị hiếu về màu sắc: Có thời, người Nhật thích sắm những đồ đạc trong nhà giống như đồ của các thành viên khác trong gia đình, trường học, câu lạc bộ hay nơi làm việc. Nhưng gần đây mọi thứ  trở nên đa dạng hơn, xu hướng bây giờ là mua các hàng hoá khác nhau nhưng có cùng công dụng. Thị hiếu về màu sắc phụ thuộc rất nhiều vào lứa tuổi, giới thanh niên Nhật Bản ngày càng thiên về xu hướng căn cứ vào chất lượng và giá cả để mua hàng còn ở các gia đình truyền thống, người ta thích mầu nâu đất của nệm rơm và sàn nhà. Thị hiếu về màu sắc cũng có sự thay đổi theo mùa. Nhật Bản có 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông, mùa hè nóng và ẩm ướt, mùa đông lạnh và khô. Đặc điểm khí hậu ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu dùng và việc bao gói sản phẩm cũng phải đảm bảo bảo vệ được sản phẩm trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất. Người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm: Hàng hóa có mẫu mã đa dạng phong phú thu hút được người tiêu dùng Nhật Bản. Bởi vậy nhãn hiệu hàng có kèm theo những thông tin hướng dẫn tiêu dùng là rất quan trọng để đưa hàng của bạn tới người tiêu dùng. Tuy vậy, người Nhật lại thường chỉ mua sản phẩm với số lượng ít vì không gian chỗ ở của họ tương đối nhỏ và còn để tiện thay đổi cho phù hợp mẫu mã mới. Thường người Nhật giờ đây có sở thích rất đa dạng. Họ thích các kiểu đồ gỗ mở, tức là người sử dụng có thể tuỳ chọn bọc da hay bọc vải, có nệm hay không có nệm, kích cỡ có thể thay đổi to hay nhỏ... để phù hợp với sở thích cá nhân của mình, vì vậy các lô hàng nhập khẩu hiện nay qui mô có xu hướng nhỏ hơn nhưng chủng loại lại phải phong phú hơn.  Xu hướng về nhu cầu: Các doanh nghiệp cần lưu ý tới yếu tố ảnh hưởng tới thị trường đồ gỗ nhập khẩu Nhật Bản để có chiến lược phát triển phù hợp. Đó là: ·          Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế làm cắt giảm cả chi phí trong xây dựng của cả khu vực nhà nước và tư nhân dẫn đến xu hướng giảm xây dựng. ·          Tỷ lệ sinh giảm, dân số già hoá. ·          Nhu cầu đồ gỗ dùng cho đám cưới giảm do xu hướng sống độc thân tăng và độ tuổi kết hôn muộn. ·          Khuynh hướng tiêu dùng sản phẩm cao cấp giảm, giá sản phẩm cao cấp giảm, đặc biệt là giá các sản phẩm dùng trong gia đình. Khuynh hướng tiêu thụ sản phẩm chất lượng vừa, giá rẻ tăng. ·          Thị hiếu đối với các mẫu mã theo phong cách Châu Âu tăng. Sinh thái: Gần đây, mối quan tâm đến các vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng cao đã nâng cao ý thức sinh thái và bảo vệ môi trường của người tiêu dùng. Các sản phẩm đồ gỗ tái sinh cũng như đồ gỗ có nguồn gốc xuất xứ đang chiếm được thị phần lớn tại Nhật. Nên cung cấp thông tin về các chất liệu hoá chất xử lý gỗ để tăng độ tin cậy an tâm của khách hàng khi giao dịch. 2. Các nguyên tắc khi thâm nhập và phát triển thị trường Nhật Bản  2.1 Các nguyên tắc khi thâm nhập thị trường Nghiên cứu thị trường: “nhập gia tuỳ tục” là một nguyên tắc không thể thiếu khi tiếp cận bất cứ một thị trường nào. Thị trường Nhật Bản rất đa dạng và năng động, vì vậy các doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường Nhật nên có sự nghiên cứu, xem xét phong tục, tập quán, văn hoá tiêu dùng, sở thích, niềm tin và mức độ chi trả để đưa ra những quyết định nhạy cảm về hàng hoá xuất khẩu hay dịch vụ có thể phù hợp nhanh chóng được với xu hướng của người tiêu dùng.   Hàng hoá vào thị trường Nhật Bản qua nhiều khâu phân phối lưu thông nên đến tay người tiêu dùng thường có giá cả rất cao so với giá nhập khẩu. Các nhà xuất khẩu phải chấp nhận thực tế này để chào hàng cạnh tranh. Tăng cường chủ động đi khảo sát thị trường, thăm các siêu thị của Nhật Bản để hiểu thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng của người Nhật là rất cần thiết.   Nắm chắc thông tin thị trường một cách thường xuyên, tranh thủ nguồn thông tin từ các tổ chức xúc tiến thương mại trong và ngoài nước như Cục Xúc tiến Thương mại, Tổ chức Xúc tiến  Thương mại Nhật Bản JETRO. Hiện nay JETRO có mẫu (form) hướng dẫn tìm bạn hàng bên Nhật, các doanh nghiệp có thể liên hệ nhờ giúp đỡ.   Đa dạng hoá sản phẩm, khai thác điểm mạnh, tính độc đáo của sản phẩm của mình: Do sở thích của người tiêu dùng là rất khác nhau, lại liên tục thay đổi, vì vậy việc đa dạng hoá các chủng loại sản phẩm và thường xuyên cải tiến mẫu mã là hết sức cần thiết để đảm bảo sự tồn tại trên một thị trường nơi mà có quá nhiều luồng hàng hoá khác nhau.  Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế giới thiệu hàng hoá sản phẩm của mình với các khách hàng Nhật: Để có thể thiết lập mối quan hệ kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế tại Nhật Bản hoặc mở văn phòng đại diện tại Nhật để giới thiệu sản phẩm.   Các hội trợ triển lãm, các hội thảo về thương mại cũng thường xuyên diễn ra tại Nhật Bản, không chỉ riêng ở Tokyo mà còn ở hầu hết các trung tâm thương mại, công nghiệp và các thành phố lớn của Nhật.  Tăng cường giới thiệu, quảng bá sản phẩm qua mạng Internet và các phương tiện thông tin khác: Từ sự khác biệt về môi trường văn hoá và công nghiệp nên có một số mặt hàng có thể chưa xuất hiện tại thị trường Nhật Bản. Vì thế, việc cung cấp thông tin về công dụng của sản phẩm, cách sử dụng, đặc trưng, chất lượng của sản phẩm trở nên rất quan trọng.   Tại Nhật, nhìn chung thông điệp bằng ngôn ngữ hay quảng cáo bằng hình ảnh trên các hệ thống phương tiện thông tin đại chúng như: báo ảnh, tuần báo, đặc san, hệ thống các kênh truyền hình cable v.v được đánh giá là có hiệu quả vì có thể nhằm vào đúng đối tượng khách hàng.   Sử dụng chuyên gia tư vấn Nhật Bản trong việc cải tiến mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Nhật, quản lý chất lượng, giảm giá thành: Hiện nay Nhật Bản đang có chương trình cử chuyên gia của tổ chức JODC (Japan Overseas Development Corporation) sang giúp các nước đang phát triển trong việc giảm giá thành sản xuất, tăng cường chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ và thiết bị, kinh nghiệm quản lý, nghiên cứu phát triển sản phẩm và thị trường, phát triển nguồn nhân lực (chương trình JESA-I) hoặc trong các lĩnh vực cải tiến kỹ thuật công nghệ, quản lý chất lượng, hiện đại hoá hệ thống kế toán, tư vấn phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp (Supporting Industries) bảo vệ môi trường... (JESA-II). Chương trình JESA-II giành cho các hiệp hội, tổ chức nhà nước và tư nhân với toàn bộ chi phí do phía Nhật chịu. JESA-I giành cho các doanh nghiệp với 75% chi phí do phía Nhật chịu. Thông tin về chương trình này có thể tìm hiểu qua Văn phòng đại diện JETRO. 2.2 Các nguyên tắc phát triển thị trường ở Nhật Bản Nắm bắt được thị hiếu:  ·          Tính đa dạng của thị trường (4 mùa, lứa tuổi, khu vực v.v..). ·          Sản xuất phải gắn kết với thị trường (Market-in). Điều quan trọng là phải có phản ứng nhanh nhậy với khuynh hướng của người tiêu dùng.  ·          Không phải là “có cầu mới có cung” mà phải chuyển sang cách nghĩ “cung tạo ra cầu”. ·          Chuẩn bị nhiều chủng loại sao cho phong phú cho dù chỉ một mặt hàng để người tiêu dùng có thể lựa chọn (Ví dụ: to nhỏ, nhiều chức năng, hình thái v.v..)   Định giá thành sản phẩm: Thị trường quyết định giá cả. Người tiêu dùng Nhật Bản có đặc điểm nếu họ thấy cần thiết thì dù đắt cũng mua. Ngược lại, những thứ mà thị trường không ưa thì giá dù rẻ cũng không thể bán được. Tuy nhiên, dù giá sản phẩm tại Việt Nam có rẻ đi chăng nữa, song nếu giá vận chuyển và thuế cao sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên và có thể cao hơn so với hàng hoá cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, việc định giá chào hàng không nên dựa vào giá bán lẻ tại thị trường Nhật Bản.   Bảo đảm thời gian giao hàng: Điều tối quan trọng là phải bảo đảm thời hạn mà bên mua yêu cầu. Nếu giao hàng chậm không bảo đảm được thời hạn giao hàng sẽ làm mất đi cơ hội bán hàng. Nếu mất uy tín, bên mua sẽ không đặt hàng đến lần thứ hai.  Duy trì chất lượng sản phẩm:  ·          Không nhất thiết mọi chủng loại hàng hoá đều phải có chất lượng cao, mà điều quan trọng là chất lượng hàng hoá phải ổn định.   ·          Không nên đưa ra những sản phẩm có chất lượng vượt quá yêu cầu sử dụng cần thiết. Vì nếu cố đầu tư để có chất lượng cao sẽ làm tăng giá thành sản phẩm và người tiêu dùng sẽ không muốn mua nữa.   3. Các lưu ý với các mặt hàng gỗ khi thâm nhập thị trường Nhật Bản Đối với vật liệu gỗ tự nhiên sử dụng làm đồ đạc, do ảnh hưởng của độ ẩm có thể nở ra hoặc co lại. Do sự chênh lệch về độ ẩm giữa Việt Nam và Nhật Bản khá lớn, sản phẩm của Việt Nam thường bị nứt hay cong vênh khi gặp môi trường khô và lạnh tại Nhật. Hơn nữa, hàng của Việt Nam còn gặp khó khăn trong khâu sử lý nguyên liệu để tránh mốc và chống mối mọt. Vì thế nguyên liệu gỗ cần được làm khô và xử lý thích hợp để chống mối mọt. Chất liệu sử lý cũng cần cũng cần lưu ý dùng những hoá chất không gât độc hại đến môi trường và con người theo quy định hiện hành của Nhật. Nên có những thông tin về chất liệu, hoá chất xử lý để tăng độ tin cậy, an tâm của khách hàng khi giao dịch. Không nên ngần ngại mua công nghệ của Nhật Bản vì chỉ có người Nhật mới nắm được các yếu tố môi trường ảnh hưởng tới sản phẩm tiêu dùng Nhật Bản. Nếu sản phẩm có cả các bộ phận bằng kim loại cũng cần lưu ý để chống rỉ, tạo độ bền chung cho toàn bộ sản phẩm. Về thiết kế mẫu mã, các nhà sản xuất Việt Nam cần phải lưu ý cho các sản phẩm phù hợp với căn buồng nhỏ của người Nhật Bản và với những sàn nhà bằng tatami (chiếu cói) và các yếu tố văn hoá truyền thống khác của Nhật, chú ý sở thích của người tiêu dùng Nhật Bản về màu sắc, kích thước, chức năng sản phẩm. Đồ đạc gia đình phần nhiều cũng là những sản phẩm mang tính thời vụ bởi vậy việc đảm bảo thời gian giao hàng đồng thời cũng đảm bảo quan hệ giao dịch lâu dài, giữ được khách hàng. Trong tương lai ngày càng nhiều nhà buôn và bán lẻ không có cơ sở sản xuất riêng bắt đầu mua trực tiếp từ nước ngoài và nhập khẩu hàng bán sản phẩm. Vì thế các doanh nghiệp xuất khẩu vào Nhật cần áp dụng các biện pháp để phòng ngừa một số vấn đề có thể xảy ra, chẳng hạn liên quan đến vấn đề nhãn hiệu hàng hoá. Nếu có thể, các nhà xuất khẩu cần gửi mẫu hàng cho khách hàng xem trước. Một trong những cách làm hữu hiệu nhất là đem sản phẩm trưng bày tại hội chợ hàng tiêu dùng quốc tế Tokyo hoặc Hội chợ thương mại khác được tổ chức hàng năm tại Nhật Bản. VI. Những địa chỉ cần biết của một số tổ chức và các công ty nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản: International Development Association of the Furniture Industry of Japan Tel: 03 - 5261 - 9401                   Fax 03- 5261 - 9404 Federation of Japan Furniture Manufacturers Association Tel: 03 - 5566 - 9706                  / Fax: 03 - 5566 - 9709 Eishin Trading Co.,Ltd. 6 -5, Morishita 3 -chome, koto- ku, Tokyo 135-0004 Tel: 03 3635 6711                      / Fax: 03 3253 6580 E-mail: tclkanda@blue.ocn.ne.jp Ueno Corporation Shinsei Dai-ichi Bldg., 2 -2 -5, shibata, Kita-ku Osaka 530 - 0012 Tel: 06 6376 3081                      / Fax: 06 6376 3086 E-mail: comon@ueno-osk.jp Westhouse Sugiyama 335 Shunahara - cho, Nishi - Ku, Nagoya, Aichi 452-0811, japan Tel: 052 - 509 - 2020                  / Fax: 052 - 505 - 8677 E-mail: fat0889@westhouse.co.jp Federation of All Japan Furniture Wholesalers Association Tel: 03-3834-1581 / Fax: 03-3834-1583 CHƯƠNG III TRIỂN VỌNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH ĐỒ GỖ NỘI THẤT VÀO THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN. 3.1. Triển vọng xuất khẩu đồ gỗ nội thất v ào thị trường Nhật Bản. Theo Vụ châu Á – Thái Bình Dương, nhập khẩu đồ gỗ nội thất của Nhật Bản tăng trưởng khá nhanh trong những năm gần đây đã mở ra nhiều triển vọng cho xuất khẩu đồ gỗ Việt nam vào nước này. Đối với đồ gỗ xuất khẩu sang Nhật Bản, hàng hóa của Việt Nam không gặp rào cản trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của Nhật Bản như những mặt hàng khác, do Nhật Bản khuyến khích nhập khẩu đồ gỗ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ lớn trong nước. Thuế suất nhập khẩu đối với hầu hết các mặt hàng đồ gỗ đều bằng o%. 3.2. Phương hướng, mục tiêu Phấn đấu kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ ít nhất đạt bằng mức đề ra trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 (cụ thể như số liệu trong bảng 2) Mức cao là phấn đấu đạt mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ như Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm gỗ bình quân hàng năm giai đoạn 2006 - 2010 sẽ đạt 30% đưa kim ngạch xuất khẩu gỗ đạt 5,56 tỷ USD vào năm 2010. 8. Sản phẩm gổ: mặt hàng cuối cùng được đề cập đến trong phần này là sản phẩm gỗ. Người Nhật có nhu cầu sử dụng đồ gỗ khá lớn. Tuy ý thức về vấn đề môi trường đang ngày càng tăng nhưng chưa đến mức khắt khe và vô lý như Anh và một nước EU khác. Đây là mặt hàng mà ta có lợi thế nhất (như đã phân tích tại phần hàng hóa), lại không phải qua kiểm dịch và kiểm tra vệ sinh vv.vv.. nên cơ quan thương vụ tại Nhật cần hết sức quan tâm tìm hiểu thị trường và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp trong nước. Quan trọng nhất là những thông tin có liên quan đến chế độ thuế nhập khẩu, giá nhập khẩu mà phía Nhật chấp nhận, phương thức phân phối … . Sản phẩm gỗ nhập khẩu có thể được phân phối tại Nhật theo 03 kênh (a) nhà xuất khẩu-nhà nhập khẩu-nhà bán lẻ, (b) nhà xuất khẩu-nhà thiết kế và lắp ráp Nhật-nhà bán lẻ và (c) nhà xuất khẩu-nhà bán lẻ. Thường thì kênh (b) có lợi thế nhất bởi theo kênh này nhà thiết kế và lắp ráp của Nhật sẽ nhập các bộ phận rời từ nước ngoài về để lắp ráp và giao lại cho nhà bán lẻ nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển. 3.3.Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng đồ gỗ Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản Ngành chế biến gỗ đã trở thành một trong sáu ngành có giá trị xuất khẩu hàng đầu Việt Nam. Tiềm năng lớn nhưng sức ép cũng gia tăng, đặc biệt từ Trung Quốc, Đài Loan, và các nước trong khu vực như Inđônêxia, Malayxia…Chất lượng, mẫu mã sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa thật phong phú, còn phụ thuộc vào mẫu mã của nước ngoài nhiều. Mặc khác phần lớn doanh nghiệp chế biến gỗ của nước ta xuất phát từ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên vẫn tồn tại lối làm ăn nhỏ lẻ, manh mún thiếu thông tin về thị trường, giá cả; trình độ tay nghề, tác phong công nghiệp còn hạn chế vì không được đào tạo bài bản. Hiện nay, ở Việt Nam ngoài số thợ học theo lối truyền nghề, còn có 5 trường đào tạo công nhân kỹ thuật ở Hữu Lũng( Lạng Sơn), Phủ Lý ( Hà Nam), Quy Nhơn, Tây Nguyên và Thuận An( Bình Dương). Nhưng các trường này cũng chỉ đào tạo công nhân chế biến gỗ phổ thông vì không có trường nào có trang thiết bị hiện đại về cưa, sấy, sơn gỗ. Số kỹ sư kinh tế gỗ được đào tạo ở Xuân Mai ( Hà Tây), Tây Nguyên, Thủ Đức còn ít. Chỉ có kỹ sư ở Thủ Đức được tiếp cận thường xuyên với thị trường còn các trường kia hầu như là không, chủ yếu chỉ là lý thuyết nên ra trường vẫn phải học thêm, thực tập thêm. Những tồn tại trên khiến cho doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu, thị trường xuất khẩu đồ gỗ có nguy cơ bị thu hẹp. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam còn thấp hơn các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Đài Loan, Philipin…do chất lượng hàng hoá và khả năng tiếp cận thị trường thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng còn yếu. 3.3.1. Đảm bảo nguồn nguyên liệu Khó khăn Cả nước hiện có khoảng 1.000 cơ sở chế biến gỗ và lâm sản, sản xuất từ 2.5-3 triệu m3 gỗ/năm. Sự phát triển không ngừng của ngành chế biến gỗ với tốc độ tăng bình quân 70%/năm về kim ngạch trong 5 năm qua là minh chứng cho hy vọng tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm gỗ. Từ một nước xuất khẩu gỗ là chủ yếu Việt Nam đã vươn lên là nước xuất khẩu sản phẩm gỗ đứng thứ 15 trên thế giới. Tuy nhiên ngành gỗ đang phải đối mặt với khó khăn là nguồn nguyên liệu gỗ hạn chế. Hiện tại, để bảo vệ môi trường, Chính phủ chỉ cho phép khai thác khoảng 150.000 m3 gỗ từ nguồn rừng tự nhiên và 1.2 triệu m3 gỗ rừng trồng. Nhưng 1.2 triệu m3 gỗ rừng trồng đều chưa đủ đường kính và độ bền nên chỉ có thể dung làm nguyên liệu dăm giấy và ván nhân tạo. Con số này chỉ đáp ứng được khoảng 20% nguyên liệu cho sản xuất sản phẩm gỗ, còn lại phải nhập khẩu. Vì thế ngành gỗ phải nhập khẩu 600 triệu USD gỗ tròn, gỗ sẻ, ván nhân tạo, chủ yếu là gỗ tròn. Nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu từ nhiều quốc gia: Malaisia, Indonexia, Astralia, New Zealand, Tanania, Mozambique, Nam Phi, Brazil… Do các nước co chính sách bảo hộ, nên giá các nguyên liệu gỗ cũng cao hơn. Việc mua và bán diễn ra cũng không dễ dàng, vì cả bên mua và bên bán đều phải có những chứng chỉ rừng(FSC). Trong khi đó, ở Việt Nam vẫn chưa có rừng nào được chứng nhận FSC. Nhập từ nước ngoài về gỗ có chứng chỉ cũng hạn chế hoặc gỗ có những chứng nhận thì chất lượng thường không tốt. Nguyên liệu nhập từ xa nên bị động về thời gian sản xuất cho khách hang. Ngoài ra, với tình hình giá dầu tăng thì chi phí cho vận chuyển đường biển cũng tăng đáng kể, làm cho giá nguyên liệu tăng cao. Khó khăn lớn nhất là phía bán lại xuất khẩu theo lô hang lớn từ 5.000 m3 đến 7.000 m3 trở lên. Các nước giàu như Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan thì có lợi, nhưng đối với Việt Nam thì lại rất gay go. Bởi vì, các doanh nghiệp của chúng ta đều nhỏ, khó có doanh nghiệp nào có đủ 10 triệu USD để mua lô hang lớn như thế. Cho nên chúng ta phải nhập khẩu nhỏ lẻ rồi gom dần hàng, tăng thêm chi phí gom, gửi đồ. Ở Việt Nam cũng không có kho hải quan nào cho để gỗ lâu, cũng không có càng nào dành riêng cho để gỗ như ở Nhật Bản. Theo Bộ Công nghiệp Việt Nam, nguồn cung cấp gỗ nguyên liệu trên thị trường thế giới đang ngày càng thắt chặt, khiến kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng này quý I năm 2006 chỉ tăng 3%, đạt 127 triệu USD, trong khi đó quí I/2005 là 20%.Nguyên nhân là do hiện nay, một số nước xuất khẩu gỗ xẻ đã khiến nhiều doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguyên liệu đầu vào. Giải pháp: Để thực hiện mục tiêu xuất khẩu mặt hàng gỗ năm 2006 đạt 2 tỷ USD, trước tiên các doanh nghiệp ngành chế biến sản phẩm gỗ cần thực hiện các giải pháp để đảm bảo nguồn nguyên liệu. Thứ nhất: phải tính đến việc mở rộng những cơ sở được phép phân phối nguyên liệu gỗ nhập khẩu. Theo đó, không chỉ có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyên sản xuất đồ gỗ tại Việt Nam cũng được phép nhập khẩu nguyên liệu gỗ rồi bán lại cho doanh nghiệp khác. Nếu được áp dụng thì khó khăn trước mắt cho doanh nghiệp cũng sẽ được khắc phục. Đồng thời đây cũng là một bước đi phù hợp với yêu cầu mở cửa trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO). Thứ hai: là mở rộng thị trường nhập khẩu gỗ từ Nam Phi, Canada và một số thị trường mới có tiềm năng như Astralia, New Zealand và khu vực Bắc Âu. Hiện tại, các doanh nghiệp cung cấp gỗ nguyên liệu Bắc Mỹ đang quan tâm nhiều hơn đến thị trường Việt Nam vì tốc độ phát triển nhanh của ngành chế biến đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam trong những năm qua. Trung Quốc sử dụng khoảng 20-30% gỗ nguyên liệu cao cấp nhập từ Bắc Mỹ, trong khi đó, Việt Nam chỉ sử dụng khoàng 10%. Thứ 3: các doanh nghiệp chế biến gỗ thành viên của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vietforest) phải bắt tay liên kết hỗ trợ lẫn nhau. Hiện nay, các thành viên của hiệp hội đang xúc tiến thành lập ba đầu mối nhập khẩu gỗ nguyên liệu có qui mô lớn ở ba miền Bắc, Trung, Nam và theo hình thức mỗi đầu mối là một công ty cổ phần với nguồn vốn tối thiểu là 10 triệu USD, trung tâm giao dịch đặt gần cảng biển. Việc thành lập các đầu mối nhập khẩu gỗ nguyên liệu là để chủ động nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ đang tăng trưởng nóng trong nước, giúp hạ giá gỗ nguyên liệu đầu vào cho các nhà chế biến gỗ xuất khẩu nhờ nhập khẩu tập trung, thay vì nhập khẩu nhỏ lẻ như trước đây. Để thực hiện điều này rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ. Đó là sự hỗ trợ về mặt bằng để xây dựng bãi chứa gỗ, nguồn vốn ưu đãi trong chương trình tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ. Mỗi năm ngành gỗ cần trên 1.000 tỷ đồng vốn, đến năm 2010-2020 cần có 15.000-16.000 tỉ đồng. Ngành gỗ hiện vẫn phân tán, vì thế nhà nước nên cơ cấu lại ngành gỗ. Theo đó ngành dăm, ngành bột nên qui tụ gần cảng biển hơn, còn ngành đồ gỗ lại nên đặt ở thành thị, như hiện nay đã có một số cụm ở Phú Tài( Qui Nhơn), Đồng Nai, Bình Dương, vừa sản xuất gỗ thuận lợi vừa tận dụng đến 90% bìa, bắp gỗ. Hiện nay, sản lượng sản xuất của chúng ta là 100.000 tấn/ năm, cần có 200.000m3 nguyên liệu nên phải cần 6.000 ha rừng trồng. Từ năm 2006, mỗi năm nước ta sẽ thanh lý 10.000 ha cao su, cũng là một tiểm năng lớn cho sản xuất. 3.3.2. Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam phải hiểu rõ đặc điểm tiêu dùng, hệ thống phân phối của Nhật Bản và tính cách kinh doanh của người Nhật. Thị hiếu tiêu dùng của Nhật Bản rất đa dạng nhưng cũng rất đặc trưng và độc đáo. Người Nhật rất chú ý đến chất lượng, giá cả hàng hoá, kể cả vấn đề vệ sinh, hình thức và dịch vụ hậu mãi. Những vết xước hàng hoá trong quá trình vận chuyển cũng có thể ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiêu thụ cả lô hàng đó, làm suy giảm uy tín. Mặt khác, do Nhật Bản là nước có khí hậu rất khô nên đồ gỗ hay bị cong, biến dạng và nứt nếu xử lý không tốt. Để giải quyết vấn đề này cần phải có công nghệ, kỹ thuật riêng, nhập khẩu từ Nhật Bản là tốt nhất. Ngoài ra, chúng ta còn cần chú ý kích thước sản phẩm xuất sang Nhật nhỏ hơn các loại sản phẩm cùng loại xuất sang Mỹ, Châu Âu, do đặc điểm về mặt diện tích nhà ở, văn phòng của người Nhật nhìn chung là nhỏ nên đồ dùng trong nhà cũng phải nhỏ hơn. Mầu sắc của sản phẩm nên có gam màu trầm như nâu, đen vì người Nhật nói chung không thích gam màu sang chói. Hơn nữa để tạo sự phong phú hơn về mẫu mã nên sử dụng kết hợp với các chất liệu khác trên một sản phẩm. Người Nhật đặc biệt chú ý đến tính đa dạng của sản phẩm nên mối sản phẩm cần phải được thiết kế để có thể sử dụng vào nhiều mục đích sử dụng khác nhau vì diện tích sinh hoạt hẹp. Muốn vậy, chúng ta phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật giỏi, đội ngũ kỹ thuật, thiết kế chuyên nghiệp theo kịp thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản. Nhu cầu hiện nay là 120.000 công nhân kỹ thuật, nhưng thực tế mới chỉ có 20.000 công nhân. Hai Bộ Thương Mại và Bộ Lao động, Thương binh và xã hội đã quan tâm đào tạo, cấp thêm kinh phí chiêu sinh, nhưng qui mô mỗi trường khá nhỏ bé, chỉ có 100-200 mỗi năm. Nhà nước cũng đã cấp kinh phí 3 triệu đồng cho mỗi công nhân được đào tạo nhưng chỉ đáp ứng được một nửa yêu cầu. Theo công ty nghiên cứu thị trường TSN( taylor Safres Nelson) thì các doanh nghiệp Việt Nam ít nghiên cứu thị trường nhất thế giới. Tổng chi phí nghiên cứu thị trường tính trên đầu người chỉ đạt 0.12 USD; tổng chi phí quảng cáo trên đầu người đạt 0.24 USD thấp nhất trong số 60 quốc gia được điều tra. Trong khi đó, Nhật Bản dẫn đầu Châu Á và đứng thứ 7 trên thế giới. Vậy nếu các doanh nghiệp muốn thành công trên thị trường Nhật Bản thì trước hết phải học cách quảng cáo sản phẩm đề xâm nhập được vào thị trường Nhật Bản, nghiên cứu kỹ thị trường Nhật Bản, hệ thống phân phối hàng hoá cũng như tính cách kinh doanh của người Nhật Bản và lưu ý một số lưu ý sau: Luật lệ thủ tục của nhập khẩu của Nhật Bản rất rườm rà, phức tạp. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có chiến lược nhằm đáp ứng những yêu cầu trên, chủ động và vạch ra những chiến lược lâu dài trên thị trường này. Các doanh nhân Nhật rất trọng chữ tín, giờ hẹn, trao đổi thông tin, đàm phán rất lâu và kỹ. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam luôn phải tạo ấn tượng tốt trong buổi gặp mặt đầu tiên, coi trọng lời hứa dù là việc rất nhỏ. Mặt khác nên tạo cơ hội để các doanh nhân Nhật tận mắt chứng kiến tổ chức, năng lực sản xuất của bạn. Bởi khi giao dịch chính thức thì doanh nghiệp Nhật Bản lại nổi tiếng là trung thành và ổn định với bạn hàng. Các doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý đến việc chọn đối tác khi làm ăn ở Nhật và phải kiên trì với các hợp đồng có số lượng nhỏ, kéo dài rất lâu của doanh nhân Nhật. Nhu cầu của người Nhật thay đổi thường xuyên vì vậy các nhà nhập khẩu có khuynh hướng bắt đầu từ cái nhỏ, số lượng ít trước khi quyết định cái lớn hơn. Thực tế, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam từ chối các đơn hàng nhỏ lẻ hoặc không đủ kiên trì tiếp tục, không nhiệt tình trong giao tiếp kinh doanh dẫn đến mất khách hàng tiềm năng trong tương lai. Việc tham gia các hội chợ thương mại tại Nhật Bản là rất quan trọng, nó không chỉ giúp tìm kiếm bạn hàng mới mà còn giúp ta nắm bắt được tâm lý tiêu dùng của người Nhật Bản, ngoài ra còn khẳng định tính thường xuyên trong kinh doanh với khách hàng cũ. Tuy nhiên, việc tham gia hội chợ tại Nhật Bản thường rất tốn kém, chưa kể những mẫu mã hàng hoá chọn để trưng bày nên có sự trao đổi và thống nhất trước với những khách hàng truyền thống cỉa mình, tránh tình trạng vi phạm cam kết về mẫu mã trước đó. Hệ thống phân phối hàng hoá Nhật Bản có sự cấu kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối theo vòng khép kín và bài ngoại, hạn chế bán các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Trong hệ thống phân phối của Nhật Bản còn tồn tại song song hệ thống nhập khẩu. Theo đó, bất cứ một công ty nào cũng có thể nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào từ nước ngoài song song với các tổng đại lý nhập khẩu. Tuy nhiên, dịch vụ chăm sóc khách hàng, bảo dưỡng, bảo hành của hệ thống nhập khẩu song song không tốt vì các tổng đại lý cỏ thể từ chối chăm sóc sản phẩm được nhập khẩu theo hệ thống nhập khẩu song song. 3.3.3. Các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu cần đạt chứng chỉ FSC. Yếu tố quyết định để người tiêu dùng ở các nước chọn một sản phẩm gỗ chế biến không chỉ là chất lượng hay mẫu mã, mà còn là xuất xứ của nguồn nguyên liệu tạo ra sản phẩm đó. Đây là xu hướng chung của người tiêu dùng thế giới cũng như người tiêu dùng Nhật Bản, đối tượng chính của sản phẩm gỗ Việt Nam. FSC ( Forest Stewardship Council) tên của Hội đồng quản trị rừng quốc tế cũng là một loại chứng chỉ rừng do chính hội đồng này quản lý. FSC là chương trình toàn cầu kiểm định nguyên liệu đến thành phẩm. FSC trong ngành chế biến gỗ giống như chứng chỉ ISO, hệ thống quản lý chất lượng quốc tế áp dụng cho các ngành nghề như HACCP, tiêu chuẩn chất lượng của ngành thuỷ sản, GMP đối với ngành dược, hoặc SA 8000 tiêu chuẩn sử dụng lao động và trách nhiệm xã hội trong ngành giày da và dệt may… Chứng chỉ FSC ngày càng trở nên quan trọng với sản phẩm gỗ chế biến xuất khẩu của Việt Nam. Bởi nó đảm bảo cho người tiêu dùng những sản phẩm mà họ đang sử dụng là những sản phẩm thân thiện với môi trường. Theo số liệu thống kê của Hội đồng quản trị rừng quốc tế hiện có trên 3000 đơn vị, tổ chức có chứng chỉ FSC, bao gồm: các công ty chế biến, chủ rừng doanh nghiệp thương mại…Trong số hơn 1000 doanh nghiệp chế biến Việt Nam chỉ có 84 doanh nghiệp có chứng chỉ FSC. Qua khảo sát trên2000 công ty có chứng chỉ trên thế giới ta thấy, nhờ có chứng chỉ FSC mà doanh thu của các công ty gia tăng đáng kể 3.3.4. Các doanh nghiệp chế biến gỗ nội địa cần xây dựng thương hiệu cho đồ gỗ xuất khẩu. Trong 3-4 năm gần đây, đồ gỗ xuất khẩu luôn nằm trong 7 mặt hàng có doanh số tăng nhanh. Tuy nhiên, nếu so sánh với cường quốc xuất khẩu đồ gỗ ở Châu Á là Trung Quốc, thì đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam chỉ giới hạn ở mức khiêm tốn, với vài thị trường truyền thống như: Nhật Bản, Mỹ, EU… Nguyên nhân của tình trạng này là do hàng đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu, nguồn nguyên liệu sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu, trong khi các nước cung cấp nguyên liệu chính cho Việt Nam là Inđônêxia và Malaixia đang có chiều hướng hạn chế nguồn này. Mặt khác các hợp đồng xuất khẩu đã ký của doanh nghiệp Việt Nam với đối tác đều đi kèm với các mẫu mã thiết kế riêng của theo từng đơn đặt hàng. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu khắt khe của khách hàng, nhà sản xuất buộc phải đầu tư thêm phân xưởng gia công. Đây là khó khăn rất lớn cho ngành sản xuất đồ gỗ xuất khẩu trong nước, tạo nguy cơ cho nhiều doanh nghiệpsao chép kiểu dáng sản phẩm của nước ngoài mà không có sản phẩm thương hiệu Việt Nam. Để vượt qua khó khăn trên, không ít các doanh nghiệp Việt Nam đã vươn lên và hình thành tập đoàn chế biến gỗ xuất khẩu mạnh, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm trong nước và tăng cường nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng quốc tế trước khi quyết định sản xuất cả một dây chuyền hàng xuất khẩu. Đồng thời các doanh nghiệpđã biết liên kết với nhau để chia xẻ từng công đoạn sản xuất, khi nhận một đơn đặt hàng lớn của khách hàng nước ngoài vượt quá năng lực của doanh nghiệp mình. Nhờ vậy, mới có thể xây dựng thương hiệu cho sản phẩm gỗ chiếm lĩnh thị trường trong nước, từng bước vươn ra thị trường quốc tế. Nhận định về năng lực cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản ông Shigeru Takayama- chuyên gia tư vấn cao cấp của JETRO nhận định:“Chỉ có đồ gỗ Việt Nam mới có thể cạnh tranh được với đồ gỗ Trung Quốc trên thị trường Nhật Bản”. Điều này rất có khả năng trở thành hiện thực vì hàng Việt Nam có những điểm mạnh và cơ hội khác để thâm nhập thị trường Nhật Bản. Với tất cả những ưu thế, cùng một số giải pháp điều chỉnh, hi vọng rằng trong tương lai: đồ gỗ Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh và bền vững trên thị trường Nhật Bản.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKDQT2.docx
Tài liệu liên quan