Mục lục
Trang
Lời mở đầu 2
I. Giới thiệu chung 3
1. Khái quát lịch sử của liên minh Châu Âu EU 3
2. Sự ra đời của đồng Euro 4
3. Chức năng của đồng Euro 6
4. Ký hiệu tiền tệ, tiền đồng và tiền giấy của Euro 6
II. Các nước tham gia sử dụng đồng Euro 7
1. Các thành viên tham gia sử dụng đồng Euro 8
1.1 Các thành viên chính thức 8
1.2 Thành viên không chính thức 9
2. Những thuận tiện và khó khăn trong việc sử dụng đồng Euro ở các nước 10
2.1 Sự thuận tiện 10
2.2 Sự khó khăn 10
III. Tỷ giá Đồng Euro 12
1. Tỷ giá hối đoái 12
2. Tỷ giá của đồng USD so với đồng Euro 14
2.1 Giai đoạn từ năm 1999 – 2002 15
2.2 Giai đoạn từ năm 2003 – 2004 16
2.3 Giai đoạn từ năm 2005 – 2006 16
2.4 Giai đoạn từ năm 2006 – 2010 17
3. Tỷ giá đồng Euro hiện nay 18
IV. Tác động đối với kinh tế các nước EU và Thế giới 20
1. Đối với Thế Giới 20
2. Đối với các nước EU 23
V. Tác động của Euro đến nền kinh tế Việt Nam 25
1. Euro tại thị trường Việt Nam 25
2. Tác động của việc biến động tỷ giá Euro đến thị trường Việt Nam 28
2.1 Khi Euro tăng giá 28
2.2 Khi đồng Euro giảm giá 29
3. Rủi ro của đồng Euro tại thị trường Việt Nam 30
4. Một số giải pháp nhằm xử lý tác động của đồng Euro đối với Việt Nam 31
VI. Tổng kết 33
Lời mở đầu
Khi đề cập đến vấn đề chức năng của tiền tệ, các nhà kinh tế học đã cho rằng tiền tệ có ba chức năng thước đo giá trị, trung gian trao đổi và bảo toàn giá trị. Tuy nhiên, cũng có một số nhà kinh tế học thêm vào chức năng thứ tư: làm phương tiện thanh toán hoàn hiệu. Trải qua quá trình phát triển, khoa học tiền tệ không ngừng phát triển, trong nền kinh tế hiện đại các chức năng ban đầu của tiền tệ vẫn có nghĩa nhất định.
Trước đây đã từng tồn tại một cơ chế tiền tệ quốc tế được thành lập từ Hiệp định Bretton-Wood năm 1944. Qua gần bốn thập kỷ thăng trầm cơ chế Bretton-Wood, cơ chế độc tôn của USD đã bộc lộ những điểm yếu và đã bị sụp đổ vào tháng 8 năm 1971.
Hiện nay, tình hình đã đổi khác trước xu hướng hội nhập quốc tế sâu sắc , chủ nghĩa khu vực nổi lên như một hiện tượng của nền kinh tế thế giới . Liên minh Châu Âu với 11 nước là: Đức, Pháp, Italia, Ai-len, Áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Lúc-xăm-bua, Phần Lan, Tây Ban Nha dã cho ra đời một đồng tiền quốc tế khác.Đó là đồng EURO.
Một trong những tham vọng chính trị mà Châu Âu không hề giấu giếm từ khi xây dựng dự án thống nhất tiền tệ, đó là: thông qua vận hành EMU và duy trì đồng EURO mạnh, ổn định để, củng cố và tăng cường vị thế của Châu Âu trên trường quốc tế, dùng EURO để cạnh tranh quốc tế với đồng đôla Mỹ, từ dó phân chia quyền lực về tiền tệ trên phạm vi thế giới một cách có lợi cho Châu Âu.
Việt Nam là nước có quan hệ truyền thống với EU chắc chắn sẽ chịu ảnh hưởng từ sự ra đời và biến động của Euro. Vì vậy nghiên cứu tình hình biến động của Euro và những ảnh hưởng của nó để có thể đưa ra giải pháp thích hợp cần thiết với quốc gia.
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1930 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu tình hình biến động của Euro và những ảnh hưởng của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng.Lỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng1.936,27
01998-12-31 31 tháng 12 năm 1998
2002
Franc Luxembourg
LUF
&0000000000000040.33990040,3399
01998-12-31 31 tháng 12 năm 1998
2002
Escudo Bồ Đào Nha
PTE
&0000000000000200.482000200,482
01998-12-31 31 tháng 12 năm 1998
2002
Peseta Tây Ban Nha
ESP
&0000000000000166.386000166,386
01998-12-31 31 tháng 12 năm 1998
2002
Drachma Hy Lạp
GRD
&0000000000000340.750000340,750
02000-06-19 19 tháng 6 năm 2000
2002
Tolar Slovenia
SIT
&0000000000000239.640000239,640
02006-07-11 11 tháng 7 năm 2006
2007
Pound Síp
CYP
&0000000000000000.5852740,585274
02007-07-10 10 tháng 7 năm 2007
2008
lira Malta
MTL
&0000000000000000.4293000,429300
02007-07-10 10 tháng 7 năm 2007
2008
Koruna Slovak
SKK
&0000000000000030.12600030,1260
02008-07-08 8 tháng 7 năm 2008
2009
Tỷ giá của đồng USD so với đồng EURO
Biểu đồ biểu thị tỷ giá EUR/USD (1999 – 2008)
USD/EUR1999–2010
Năm
Thấp nhất ↓
Cao nhất ↑
Ngày
Tỷ giá
Ngày
Tỷ giá
1999
03/12
$1.0015
05/01
$1.1790
2000
26/10
$0.8252
06/01
$1.0388
2001
06/07
$0.8384
05/01
$0.9545
2002
28/01
$0.8578
31/12
$1.0487
2003
08/01
$1.0377
31/12
$1.2630
2004
14/05
$1.1802
28/12
$1.3633
2005
15/11
$1.1667
03/01
$1.3507
2006
02/01
$1.1826
05/12
$1.3331
2007
12/01
$1.2893
27/11
$1.4874
2008
27/10
$1.2460
15/07
$1.5990
2009
04/03
$1.2555
03/12
$1.5120
2010
05/05
$1.2924
13/01
$1.4563
Nguồn: Euro exchange rates in USD, ECB
Có nhiều ý kiến khác nhau về tầm quan trọng kinh tế của một đồng Euro mạnh. Một mặt các nguyên liệu đa phần vẫn tiếp tục được mua bán bằng đồng Đô la Mỹ, vì thế mà một đồng Euro mạnh có tác dụng làm giảm giá các nguyên liệu. Mặt khác, giá đồng Euro cao sẽ làm cho xuất khẩu từ vùng Euro trở nên đắt và vì thế một đồng Euro có giá cao sẽ làm cho tăng trưởng kinh tế yếu đi trong một chừng mực nhất định. Vì vùng Euro rộng lớn nên tỷ giá hối đoái và các rủi ro về tỷ giá hối đoái do các tiền tệ dao động gây nên không còn có tầm quan trọng như trong thời kỳ còn các tiền tệ quốc gia nữa.
Giai đoạn từ năm 1999 – 2002
Nhìn vào biểu đồ trên, ta nhận thấy:
+ Từ khi đồng EURO được đưa vào lưu thông năm 1999, đến năm 2000, đồng EURO xuống giá, cho đến năm 2002, tăng nhẹ, nhưng vẫn được xem là ở mức giá thấp (1 EUR chỉ đổi được 0.85 USD)
+ Việc đồng Euro liên tục bị xuống giá cho đến năm 2002 có thể là do đồng Euro không tồn tại trên thực tế như là tiền mặt, vì thế mà trong thời gian đầu đồng Euro đã bị đánh giá thấp hơn giá trị thực dựa trên những số liệu cơ bản. Các vấn đề về kinh tế trong Cộng đồng châu Âu đã đẩy mạnh thêm xu hướng này và làm cho việc đầu tư trong châu Âu không còn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài nữa. Thật ra thì các triển vọng về kinh tế của châu Âu đã không tốt đẹp hơn từ thời điểm đó. Nhưng ngay sau khi tiền mặt được đưa vào lưu hành, thì đồng Euro bắt đầu được đánh giá cao hơn.
àNguyên nhân của việc đồng EURO xuống giá so với đồng USD năm 2002:
Thâm hụt cán cân thương mại và ngân sách quốc gia và kèm theo đó là tăng nợ của Mỹ.
Chuyển đổi trong dự trữ ngoại tệ của các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Nga và các quốc gia khác.
Các nước xuất khẩu dầu mà trước tiên là Nga ngày càng sẵn sàng chấp nhận đồng Euro như là phương tiện thanh toán cho dầu mỏ.
Giai đoạn 2003 – 2004
Năm 2003, giá đồng EURO đã được vực dậy một cách đáng kể, tăng 20% so với USD. Lúc này, 1 EUR đổi được 1 USD.
Nguyên nhân đồng EURO vực dậy ngang bằng so với đồng USD, và đã biến năm 2003 là cột mốc quan trọng đánh dấu vị thế ngày càng lớn của đồng EURO trong giao dịch trên thị trường:
+ Đây là giai đoạn Mỹ đương đầu với khủng bố sau thảm họa 11/9/2001, đã khiến cho nền kinh tế Mỹ đi xuống, khi Mỹ nâng mức báo động nguy cơ khủng bố lên cấp 2.
+ Thâm hụt cán cân thương mại Mỹ vượt 400 tỷ USD, rất khó có khả năng đồng USD tăng giá trở lại vì bản thân Mỹ cũng muốn cải thiện xuất khẩu bằng một đồng nội tệ thấp giá.
+ Báo động khả năng bị khủng bố của Mỹ, đã khiến cho nhà đầu tư xa rời đồng USD, chọn đồng EURO để có sự an toàn về vốn.
Năm 2004, giá đồng EURO tiếp tục tăng từ 10 – 15% so với đồng USD.
Giai đoạn 2005 – 2006
Năm 2005, giá đồng EURO giảm 0.8% so với năm 2004 ( 1 EUR = 1.1667 USD ).
Nguyên nhân đồng EURO lại giảm nhẹ là do:
+ Nền kinh tế Mỹ có xu hướng hồi phục một cách khả quan, nên đồng USD của Mỹ bắt đầu tăng giá trở lại. Đây cũng là cơ sở kỳ vọng của nhiều nhà đầu tư, quỹ đầu tư nhất là khi so với nền kinh tế khu vực Eurozone.
+ Theo Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB), tỷ lệ thấp nghiệp còn cao, lạm phát vượt quá mục tiêu, ổn định giá cả đang là khó khăn lớn của Eurozone. ECB đã buộc phải giảm dự báo tăng trưởng khu vực này từ 1,8% xuống còn 1,6% trong năm 2005, giảm từ 2,1% xuống 2% trong năm 2006.
+ Theo Bộ trưởng Tài chính Anh, ông Gordon Brown, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Eurozone chỉ bằng một nửa so với Mỹ.
Giai đoạn 2006 – 2010
Nhìn vào biểu đồ biểu thị tỷ giá EUR/USD giai đoạn 2006 – 2010, ta nhận thấy:
+ 2/1/2006: giá đồng EURO bắt đầu tăng nhẹ trở lại (1 EUR = 1.1821 USD)
+ Sau khi tăng khá đều đặn trong hơn hai năm 2007 và 2008, đồng Euro đạt mức đỉnh gần: 1 Euro đổi được 1,60 USD vào tháng 7/2008. Tuy nhiên, khi khủng hoảng tài chính nổ ra, đồng Euro và phần lớn các đồng tiền chủ chốt khác đã đồng loạt trải qua sự biến động chóng mặt về tỷ giá.
+ Tháng 11/2008, tỷ giá Euro/USD chỉ còn 1 Euro tương đương hơn 1,20 USD, rồi sau đó tiếp tục biến động và leo lên mức 1 Euro đổi được hơn 1,50 USD vào tháng 12/2009.
+ Và cho đến năm 2010 vừa qua, tỷ giá EUR/USD trượt dốc từ mức 1 Euro đổi được 1,50 USD hồi tháng 12/2009 xuống mức 1 Euro chỉ tương đương 1,37 USD.
Nguyên nhân của tình trạng trượt dốc đồng EURO năm 2010 vừa qua không phải do đồng USD mạnh lên, mà do bản thân đồng EURO đang yếu đi (theo nhận xét tổng quan của ông Ulf Scheneider, Giám đốc điều hành của Fresenius, một doanh nghiệp thiết bị y tế của Đức). Có 2 nguyên nhân chính:
+ Cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp.
+ Sự bất lực của Eurozone trong việc đảm bảo các quốc gia thành viên tuân thủ chặt chẽ các quy định về chính sách tài khóa.
¬ Sự suy yếu của đồng EURO trong năm 2010 đã ảnh hưởng như thế nào?
Ø Ảnh hưởng tích cực:
+ Hàng hóa xuất khẩu của châu Âu, từ xe hơi, máy móc, tới rượu bia trở nên rẻ hơn khi được tiêu thụ ở nước ngoài, đặc biệt là tại Mỹ và cả những quốc gia neo tỷ giá đồng nội tệ vào USD.
+ Đây là điều Hy Lạp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đang cần, vì họ đang đương đầu với thâm hụt thương mại khổng lồ và chật vật để tăng sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Ø Ảnh hưởng tiêu cực:
+ Giá dầu lửa và các loại nguyên vật liệu thô được định giá bằng đồng USD đang leo thang.
+ Giá tiêu dùng cũng có thể chịu áp lực tăng do hàng hóa nhập khẩu từ thị trường bên ngoài vào Eurozone có thể trở nên đắt đỏ hơn đối với người dân ở khu vực này.
Tỷ giá đồng EURO hiện nay
Đồng tiền chung châu Âu giảm xuống còn 1,4113 USD lúc 8:40 sáng 23/5/2011 tại Tokyo, còn 1,4161 USD tại New York ngày 20/5/2011. Trước đó, đồng tiền này chạm mức 1,4096 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 16/5/2011 và giảm xuống 1,2381 franc, mức thấp nhất mọi thời đại trước khi giao dịch tại 1,2389 franc. Đồng tiền này còn giảm xuống 115,23 yên từ 115,69 yên.
Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này được lí giải như sau:
3.1 Khủng hoảng tài chính
- Năm 2010 khi chưa khắc phục xong hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu, châu Âu lại phải đương đầu với những khó khăn tài chính nghiêm trọng của Hy Lạp và Ailen. Khủng hoảng tài chính của Hy Lạp và Ailen tuy có một vài khác biệt, do đặc thù của từng nước, nhưng có những sai lầm chung khá rõ nét. Đó là chính quyền hai nước này quá dễ dãi trong chi tiêu ngân sách, trong khi các chính sách thuế khóa, lương bổng và ngân hàng quá lỏng lẻo. Kết quả là trong khi nhiều nước thành viên đã hoặc đang vượt qua được khó khăn do khủng hoảng tài chính - kinh tế thế giới gây ra, thì hai nước này lại rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Khủng hoảng Hy Lạp với khoản nợ công khổng lồi làm đồng euro liên tục giảm giá, đang tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán châu Âu và thị trường tài chính toàn cầu.
- Người ta đang lo ngại rằng trong thời gian tới, Bồ Đào Nha, Bỉ và Tây Ban Nha có thể rơi vào khủng hoảng giống như Hy Lạp và Ailen, vì các nước này đang bị thiếu hụt ngân sách rất lớn, kinh tế suy trầm và thất nghiệp cao. Đáng lo ngại nhất là Tây Ban Nha, một nước lớn và khá đông dân trong khu vực đồng euro.
3.2 Thiếu một chính sách thuế chung
Việc thiếu vắng một chính phủ kinh tế trung ương được diễn đạt như "lỗi cấu trúc" của toàn bộ vấn đề. Không đồng nhất về chính sách tài khóa, ngân sách hay thuế má, mỗi chính phủ có thể lựa chọn giải pháp riêng, mà không lường đến kết quả cuối cùng phản ánh lên sức khỏe đồng tiền chung. Ngược lại, một thống nhất chung về tiền tệ cũng hạn chế lựa chọn mỗi quốc gia trong quá trình quyết sách.
Như Hy Lạp năm 2009, nếu euro không tồn tại, nước này có thể phá giá nội tệ thúc đẩy xuất khẩu, cân bằng cán cân thanh toán. Nhưng khi khu vực đồng euro hình thành, cánh cửa này đóng lại, bởi 16 nước tham gia thống nhất một đơn vị tiền tệ chung. Giải pháp của Hy Lạp chỉ còn là một: tiết kiệm, tiết kiệm và tiết kiệm. Kế hoạch "thắt lưng, buộc bụng" chủ yếu vào hầu bao ngân sách Nhà nước, bao gồm cả lương hưu, tiền lương, và tăng thuế.
3.3 Mất cân bằng giữa các quốc gia
- Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra về tính bất hợp lý trên bình diện cấu trúc của khu vực euro khi cố gắng kết hợp nhiều nền kinh tế chênh lệch về lượng, và khác nhau về chất thành một khối. Theo Hiệp ước Maastricht quy định điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1-1-2001, mặc dù vẫn chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền chung với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ. Tuy nhiên, đến nay, các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp. Bội chi ngân sách và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng tăng.
3.4 Tâm lý của nhà đầu tư
Các nhà đầu tư tiếp tục lo ngại về cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp, và sợ rằng các nước khác sẽ bị lây. Các nhà đầu tư nêu ra Tây Ban Nha, cùng Bồ Đào Nha, Ireland và Ý là những nền kinh tế dùng đồng euro có nhiều nợ đáng lo ngại nhất, sau Hy Lạp. Chi phí cho khoản vay của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trên thị trường trái phiếu liên tục tăng trong nam 2010, cho thấy giới đầu tư lo hai nước này hết khả năng chi trả. Trường hợp của Tây Ban Nha là đặc biệt đáng ngại vì mức độ của thâm thủng ngân sách năm 2010 cao hơn 11% GDP, và sự yếu kém của nền kinh tế. Tây Ban Nha hiện có mức thất nghiệp cao nhất trong khu vực đồng euro, trên 20% và nền kinh tế dự tính còn sụt giảm 0,6% năm 2010. Vòng xoáy khủng hoảng đã khiến niềm tin của giới đầu tư vào đồng Euro ngày càng thêm suy sụp, trong khi các đồng tiền có mức lãi suất thấp như USD và Yên Nhật đang được xem là có độ an toàn cao hơn.
Gần đây, Tổng giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế IMF bị bắt cũng gây biến động thị trường, Việc ông này bị bắt đã khiến tâm lý chán ghét rủi ro thị trường vốn chịu nhiều tác động từ nỗi lo nợ công châu Âu thêm giảm nhiệt, nhà đầu tư khi đó đã kéo tỷ giá EUR/USD xuống mức thấp 1,4050 trong phiên giao dịch ngày 15/5/2011.
à Đồng EURO có xu hướng tiếp tục giảm.
IV. Tác động đối với kinh tế các nước EU và thế giới
Khi đưa đồng Euro vào lưu hành người ta hy vọng là thương mại và cộng tác kinh tế giữa các thành viên trong vùng Euro sẽ vững mạnh thêm vì các rủi ro về tỷ giá hối đoái và kèm theo đó là việc bảo hộ tiền tệ (currency hedging) của các doanh nghiệp châu Âu sẽ không còn tồn tại nữa. Người ta cũng đoán rằng việc này sẽ mang lại lợi thế cho người dân trong vùng Euro vì trong quá khứ thương mại là một trong những nguồn chính của tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó người ta cũng tin rằng giá cả của sản phẩm và dịch vụ sẽ không còn chênh lệch nhau nhiều nữa. Điều này dẫn đến cạnh tranh mạnh hơn giữa các doanh nghiệp và vì thế sẽ làm giảm lạm phát và tăng sức mua của người tiêu thụ.
Một số nhà kinh tế học bày tỏ lo ngại về những nguy hiểm của một đồng tiền tệ chung cho một vùng kinh tế không đồng nhất và rộng lớn như vùng Euro. Đặc biệt là khi các nền kinh tế phát triển không đồng bộ sẽ tạo khó khăn cho một chính sách tiền tệ thích ứng. Về mặt chính trị vẫn còn câu hỏi là liệu Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ủy ban châu Âu có khả năng kiềm chế các nước thành viên giữ kỷ luật trong ngân sách quốc gia hay không. Trên thực tế, thời gian vừa qua dường như đã xác thực nổi lo ngại này, ít nhất là trong trường hợp của nước Đức: Từ khi đưa đồng Euro vào lưu hành nước Đức chưa có năm nào đạt được điều kiện về thâm hụt ngân sách quốc gia (không được vượt quá 3% tổng sản phẩm quốc nội). Cho tới nay, các biện pháp trừng phạt thật ra là đã được quy định trước trong Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng đã không được Hội đồng các bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu áp dụng.
Đối với thế giới :
- Tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD giữ vai trò khống chế trong suốt nửa thế kỷ qua sẽ bị thay thế bởi hệ thống tiền tệ với hai đồng tiền quan trọng nhất là đồng USD và đồng EURO chi phối. Với một nền kinh tế phát triển của 11 nước châu Âu có 290 triệu dân, tổng sản phẩm quốc dân chiếm tới 19,6% của thế giới và 18,6% thương mại toàn cầu, đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền ngoại tệ lớn và là đối thủ đáng gờm đối với đồng USD. Các nước EU có 370 triệu dân với GDP 7.900 tỷ USD, chiếm 20% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Trong khi đó Mỹ có 268 triệu dân với GDP là 8.000 tỷ USD lại chỉ chiếm 15% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Nếu đồng EURO giữ được ổn định thì sẽ có sức cạnh tranh mạnh và vị trí truyền thống của đồng USD sẽ ngày càng bị suy giảm mạnh. Sự thách thức của đồng EURO đối với đồng USD thể hiện trên các lĩnh vực dự trữ ngoại tệ, trao đổi ngoại thương và giá trị cổ phiếu trên các thị trường chứng khoán. Về dự trữ ngoại tệ : Khi EURO ra đời, ngoại thương của các nước tham gia sẽ trở thành nội thương, nợ giữa các nước thành viên sẽ trở thành nợ bên trong, vì vậy nhu cầu về dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ giảm mạnh. Do đó, nhiều khả năng Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ bán đi một số lượng lớn USD. Mặt khác khi đồng EURO trở thành đồng tiền chung của một khối kinh tế mạnh thì nhiều nước trên thế giới (nhất là Nhật do hầu hết dự trữ ngoại tệ là USD) sẽ giảm bớt một phần dự trữ bằng đồng USD để mua thêm đồng EURO (mức độ ít nhiều còn tuỳ thuộc vào khả năng ổn định của đồng EURO). Đây có thể là một nhân tố gây tác động làm giảm giá đồng đô la Mỹ. Thêm vào đó nhu cầu dự trữ về vàng cũng sẽ giảm vì trước đây các nước chủ yếu dự trữ bằng vàng và USD, nay lại có thêm một đồng tiền mạnh và ổn định có thể được sử dụng để dự trữ, do vậy trong tương lai vàng sẽ bị bán ra nhiều nên giá vàng cũng sẽ bị giảm. Đây là điều mà chúng ta phải tính đến trong cơ cấu dự trữ của ta sau này.
Về ngoại thương: trao đổi trong nội bộ khối trước đây (chiếm khoảng 60% xuất khẩu) dùng nhiều USD (ngay cả những nước như Pháp và Hà Lan vốn rất gắn chặt với đồng mác Đức cũng có xu hướng thanh toán với nhau bằng USD hơn là bằng mác Đức) nay chuyển sang thanh toán bằng đồng EURO sẽ làm cho kim ngạch thanh toán bằng đồng đô la Mỹ bị giảm sút đáng kể. Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu của EU thì phần tính bằng USD chiếm 48%, bằng tiền của các nước EU chiếm 33%. Xét tổng thể, nền kinh tế các nước EU gần tương đương Mỹ, nhưng tổng giá trị ngoại thương lại vượt hẳn Mỹ. Theo các nhà phân tích kinh tế, sau khi ra đời, đồng EURO có thể chiếm khoảng 35-40% các khoản giao dịch và buôn bán quốc tế. Trong buôn bán với Mỹ, các nước EU cũng sẽ buộc Mỹ phải sử dụng đồng EURO, nên Mỹ cũng sẽ phải dự trữ cả EURO. Đối với thương mại thế giới khi đồng EURO ra đời và được thừa nhận là đồng tiền mạnh và ổn định thì sẽ có xu hướng các nước cũng sẽ sử dụng EURO thay thế USD trong thanh toán một số giao dịch ngoại thương với nhau và trong buôn bán giữa EU với các nước khác, do đó sẽ làm giảm nhu cầu sử dụng USD trong thương mại thế giới. Dung lượng và khả năng thị trường tài chính của EU và Mỹ là gần tương đương nhau... Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng đô la Mỹ chiếm 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên Nhật chiếm 12%. Theo dự đoán của một số chuyên gia tài chính, có khả năng sau năm 2002 có khoảng 3000 tỷ đô la vốn đầu tư quốc tế sẽ chuyển sang đồng EURO, trong đó có từ 700 đến 1000 tỷ là từ đồng đô la Mỹ. Do đó, khi EURO xuất hiện trên thị trường tài chính thế giới thì trong các giao dịch tại thị trường chứng khoán và trong việc phát hành công trái, các nước trước hết là các nước EU sẽ dùng EURO, do vậy nhu cầu về USD trên thị trường tài chính sẽ giảm một cách đáng kể.
Tóm lại, sau khi đồng EURO ra đời hệ thống tài chính thế giới bị thay đổi cơ bản. Những thay đổi này sẽ bắt đầu từ việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc tế, kể cả các giao dịch thị trường chứng khoán, sau đó đến việc giải toả dự trữ ngoại tệ ở các quốc gia. Hơn nữa, bên cạnh việc sử dụng USD như trước đây, trên thị trường sẽ xuất hiện thêm EURO, do đó trong tương lai không xa, nhu cầu sử dụng USD giảm bắt buộc sẽ dẫn đến việc giảm giá của USD, và như vậy việc ra đời của EURO không chỉ tác động đến lĩnh vực tiền tệ mà sẽ tác động cả đến lĩnh vực kinh tế và chính sách kinh tế của các quốc gia.
- Sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng EURO có thể sẽ gây ra một số rạn nứt trong quan hệ giữa Mỹ và EU và thúc đẩy xu thế đa cực, đa trung tâm trong quan hệ quốc tế phát triển.
Chính phủ Mỹ tuy bên ngoài đã có những tuyên bố hoan nghênh sự ra đời của đồng EURO và EMU, nhưng thực tế bên trong hết sức lo ngại. Trước hết như đã phân tích, đồng EURO ra đời sẽ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với đồng USD và từng bước làm giảm vị trí truyền thống của đồng USD. Để đảm bảo cho đồng EURO ổn định và vững mạnh, các chính phủ các nước tham gia EMU cũng như Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ cần phải có những chính sách bảo vệ và khuyến khích sử dụng đồng EURO, điều này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho vị trí của đồng USD ở châu Âu và do đó sẽ gây một số thiệt hại về lợi ích cho Mỹ ở châu lục này. Cuộc đấu tranh vì lợi ích và ảnh hưởng kinh tế ở châu Âu giữa Mỹ và Liên minh Châu Âu sẽ trở nên quyết liệt hơn. - Sau khi EURO ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình độ phát triển cao và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài của các nước EU sẽ mạnh hơn trên các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn. Do đó có thể thấy trước được là một phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các nước EU sau khi đồng EURO ra đời. Trong mấy năm qua, các công ty lớn của Mỹ và Nhật đã có những biện pháp và chuẩn bị cho sự kiện này và họ đã ít nhiều thiết lập được chỗ đứng của mình thông qua các đối tác nội địa để tận dụng được lợi thế của việc sản xuất tại chỗ đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tránh được thuế nhập khẩu khi liên minh hình thành. - Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các nước thành viên EMU là tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với đồng EURO. Tuy đồng ECU đã tồn tại trong thanh toán quốc tế được một thời gian và quy định chuyển đổi ngang bằng với đồng EURO làm dễ dàng phần nào những giao dịch thương mại mới, nhưng những khoản nợ từ viện trợ, đầu tư... bằng đồng tiền quốc gia cần có hướng giải quyết thoả đáng. Vì tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng tiền quốc gia sang đồng EURO là cố định, nhưng lãi suất sẽ có sự khác nhau giữa các nước tham gia EMU. Cho nên điều quan trọng là các nước nợ phải có những trao đổi và thương lượng để đi đến thống nhất một tỷ lệ lãi suất thích hợp sao cho số nợ không bị gia tăng do việc ra đời của đồng EURO
Kể từ khi có mặt trên thị trường tiền tệ, đồng EURO đã trở thành đồng tiền quốc tế quan trọng thứ hai tại nhiều khu vực. Trong thương mại quốc tế, tỷ lệ sử dụng đồng EURO là đồng tiền để định giá, lập hoá đơn và thanh toán vượt quá 50% trong năm 2003 đối với xuất và nhập khẩu ở hầu hết các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu.
Hiện tại có khoảng 150 quốc gia đang duy trì cơ chế tỷ giá hối đoái tính theo một đồng tiền hoặc một giỏ các đồng tiền tham chiếu. Trong số đó có 40 quốc gia dùng đồng EURO của mình. Tính đến cuối năm 2003, dự trữ toàn cầu đạt 3.014 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2002. Trong đó, dự trữ ngoại hối toàn cầu bằng EURO đã tăng từ 19,3% lên 19,7%. Dự trữ bằng EURO của các nước đang phát triển tăng 1% và dự trữ ngoại hối bằng EURO của các nước phát triển hiện ở mức 20,9%. Các quốc gia sử dụng tỷ giá hối đoái cố định hay thả nổi có kiểm soát đều có sự can thiệp vào thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá phù hợp với cơ chế đã chọn.
Các quốc gia sử dụng tỷ giá hối đoái cố định hay thả nổi có kiểm soát đều có sự can thiệp vào thị trường ngoại hối đề duy trì tỷ giá phù hợp với cơ chế đã chọn. Khi đó, đồng EURO với vai trò là đồng tiền tham chiếu thường được sử dụng để can thiệp.
Đối với các nước EU
Việc 11 nước ban đầu tham gia EMU với 290 triệu dân sẽ hình thành một thị trường rộng lớn trên thế giới và nền kinh tế gần tương đương với Mỹ có trình độ phát triển kinh tế cao. Như vậy các nước EU sẽ trở thành một khối kinh tế vững mạnh hơn, liên kết chặt chẽ hơn, và do đó địa vị của EU sẽ được nâng cao, nhất là trong quan hệ kinh tế với Mỹ. EMU và đồng EURO ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước này, tạo điều kiện thực hiện liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu, tiến tới thống nhất châu Âu về kinh tế và chính trị. Đồng tiền chung ra đời sẽ góp phần hoàn thiện thị trường chung châu Âu, góp phần gỡ bỏ những hàng rào phi quan thuế còn lại, tác động tích cực đến hoạt động kinh tế, tài chính, đầu tư, tiết kiệm chi phí hành chính. Theo bản báo cáo năm 1988 và Uỷ ban châu Âu, việc thực hiện liên minh tiền tệ có thể đem lại lợi cho các nước EU khoảng 200 ty ECU và giúp làm tăng thêm 1% GDP của các nước thành viên.
Sự ra đời của đồng EURO sẽ giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép của việc phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia (sau này sẽ không còn tồn tại) cũng như việc các nhà đầu cơ tiền tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn khối.
Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) năm 1992 là một ví dụ. Để thu hút ngoại tệ trang trải cho những tốn kém trong việc khôi phục lại nền kinh tế bị phá sản của Đông Đức, nước Đức đã áp dụng chính sách giữ lãi suất rất cao làm cho các nhà tư bản quốc tế bị lợi nhuận quyến rũ đã đổ tiền vào Đức; trong khi đó, với mục tiêu chống lạm phát, Pháp muốn duy trì lãi suất thấp vừa phải. Nhưng do tất cả các đồng tiền trong EMS vốn liên quan mật thiết với nhau nên Pháp không thể đơn phương hạ lãi suất mà không làm cho đồng phrăng Pháp (FF) hạ giá so với đồng mác Đức (DM). Giới đầu cơ tính toán rằng đã đến lúc đồng FF sẽ phải phá giá và họ đã tập trung vào tấn công đồng FF. Hậu quả là đồng FF bị phá giá và làm cho cả EMS bị lung lay. Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) vào năm 1992-1993 đã làm cho hệ thống tiền tệ châu Âu cũng như nền kinh tế các nước thành viên bị chao đảo và chịu nhiều thiệt hại. Sự bất ổn định của tiền tệ châu Âu làm cho các nước thành viên EU bị mất 1,5triệu việc làm trong năm 1995. Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) - thay thế các ngân hàng trung ương các nước thành viên, với mục tiêu thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ sở cho kinh tế phát triển không còn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định một chính sách tài chính vĩ mô cho liên minh, là một bảo đảm giữ cho nền kinh tế ở khu vực này ổn định và phát triển hơn trước. Trước mắt, người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi nước thành viên sẽ bớt được một khoản chi phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế mà các nhà kinh tế cho rằng việc này sẽ tiết kiệm được một khoản tiền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1% GDP của các nước thành viên. Hơn nữa, khi đồng EURO được lưu hành trên thị trường, mọi hàng hoá bày bán trong các nước thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng EURO nên sẽ làm giảm sự chênh lệch giá hay phiền phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia. Người ta dự đoán là có thể sẽ xuất hiện một hiện tượng bùng nổ mua sắm và như vậy sẽ kích cầu rất mạnh và làm tăng trưởng kinh tế khu vực. Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến 60% ngoại thương của cả khối, nên việc sử dụng một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa các nước EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự giao động tỷ giá của đồng USD vì sẽ không còn tình trạng đồng tiền này mất giá so với USD trong khi đồng tiền khác lại lên giá. Tuy nhiên, việc ra đời EMU và duy trì đồng tiền chung ổn định và mạnh không chỉ có những mặt thuận mà sẽ còn gây không ít khó khăn cho những nước tham gia EMU.+ Trong việc phối hợp chính sách kinh tế tiền tệ; Việc ngân hàng Trung ương châu Âu đảm nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm cho các nước tham gia EMU mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế và sẽ rất khó khăn cho các nước này mỗi khi kinh tế gặp khủng hoảng.
+ Việc duy trì được một đồng EURO mạnh là một vấn đề khó khăn cho các nước tham gia vì các nước này có các nền kinh tế phát triển ở những mức độ khác nhau, mỗi nước đều có những khó khăn riêng. Việc dung hoà lợi ích của các nước là một cuộc đấu tranh gay go đòi hỏi phải có sự thoả hiệp lớn của mỗi nước. Mặt khác, để đảm bảo cho EMU vận hành tốt, các nước tham gia phải tiếp tục phấn đấu đảm bảo các chỉ tiêu EMU áp đặt, buộc chính phủ các nước này phải có những chính sách ngặt nghèo trong ngân sách chi tiêu, chính sách thuế... phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu cho phúc lợi xã hội. Điều này có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng, nhất là trong tầng lớp dân nghèo, trong ngành giáo dục, như đã từng diễn ra ở nhiều nước Tây Âu trong mấy năm gần đây, và sẽ gây khó khăn cho các chính phủ đương quyền mỗi khi các cuộc bầu cử đến gần.
Tác động của EURO đến nền kinh tế Việt Nam
Euro tại thị trường Việt Nam
Đến năm 2004, dù đã 6 năm lưu hành, nhưng nhiều tiềm lực của đồng EURO chưa được khai thác hết tại thị trường Việt Nam đồng EURO tại Việt Nam chưa đạt được vị thế tương xứng so với đồng USD.
EU không giấu giếm tham vọng rằng, trong tương lai gần, đồng USD thực sự có đối thủ trên thị trường tài chính Việt Nam. Đó là đồng tiền chung của Liên minh châu Âu.
Khối lượng đầu tư trực tiếp (FDI) cam kết từ các nước EU vào Việt Nam là 5 tỷ EURO, nhưng hiện mới thực hiện được 3,5 tỷ EURO. Tiền gửi tiết kiệm bằng EURO đã tăng nhanh trong năm 2004 nhưng hiện tỷ trọng tiết kiệm bằng đồng EURO trong tổng tiền gửi bằng ngoại tệ mới chiếm khoảng 4,8 - 10%. Con số này nhỏ hơn nhiều so với đồng USD.
Hiện, "Đồng EURO đã được chào đón khá nhanh chóng, đã thiết lập được vai trò khá vững chắc trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, vị trí của nó còn khá khiêm tốn so với quy mô về thương mại, đầu tư trực tiếp và du lịch của khu vực EU".Tỷ trọng các giao dịch thanh toán thương mại bằng EURO chiếm khoảng 13% tổng giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ tại Việt Nam. Một tỷ lệ lớn giao dịch thanh toán vẫn được thực hiện bằng USD.
Việc trao đổi, mua bán đồng EURO tại các ngân hàng và thị trường không chính thức vẫn đang khá phổ biến. Khách du lịch có thể đổi đồng EURO khá dễ dàng tại các quầy đổi tiền.
Lí do đồng Euro vẫn còn dè dặt trên thị trường Việt Nam chủ yếu là do EU thiếu thông tin về Việt Nam
Luồng vốn đầu tư gián tiếp bằng EURO chưa tương ứng với tiềm năng và mối quan hệ giữa EU và Việt Nam. Nguyên nhân:
Thứ nhất: do giới doanh nghiệp ở các nước EU chưa thực sự có đầy đủ thông tin về quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam.
Thứ hai, thị trường tài chính của Việt Nam chưa phát triển đủ mạnh. Đặc biệt, các công cụ vay nợ quốc tế chưa được định hình. Việt Nam chưa phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu đầu tư ra thị trường vốn quốc tế.
Thứ ba, các tổ chức trung gian tài chính trong nước chưa chủ động và có chiến lược thu hút vốn trên thị trường vốn quốc tế phục vụ cho đầu tư phát triển.
Sẽ rộng cửa hơn với Euro
Trong lộ trình tự do hoá thị trường tài chính, các tổ chức tài chính từ các nước EU sẽ được tham gia ngày càng sâu vào thị trường tài chính của Việt Nam, đi theo các thể chế đó vào Việt Nam là vốn bằng đồng EURO, lãi suất vay nợ bằng đồng EURO
Cùng với quá trình phát triển thương mại và đầu tư, quan hệ tỷ giá giữa VND với EURO thực sự tác động tới đời sống tài chính trong nước, như tác động tới tỷ giá giữa VND với các ngoại tệ khác, lãi suất ngoại tệ, hoạt động vay nợ, chính sách ngoại hối.
Việt Nam đã tiến hành nâng dần tỷ trọng đồng EURO trong dự trữ ngoại hối để đối phó với biến động tỷ giá giữa VND/ EURO có thể ảnh hưởng tới khả năng thanh toán và bảo toàn khối lượng dự trữ ngoại hối.
Theo tính toán của Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ở mức bình quân 8%/năm. Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển sẽ lên tới 83,6 tỷ USD (tương đương với 69,7 tỷ EURO), bằng 37% GDP. Trong đó, vốn huy động trong nước sẽ chiếm 70%, huy động nước ngoài là 25,1 tỷ USD (tương đương với 20,9 tỷ EURO).
Để đạt được khối lượng vốn đầu tư này, thị trường tài chính phải hết sức nỗ lực, đặc biệt là huy động tốt nhất các nguồn vốn từ nước ngoài, 20,9 tỷ EURO là một con số không phải nhỏ và không dễ thực hiện.
Dự kiến tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cần huy động trong giai đoạn 2006 - 2010 là 15,8 tỷ USD, tương đương trên 13 tỷ EURO, trong đó các doanh nghiệp EU là đối tác quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam.
Bản "Định hướng quản lý nợ nước ngoài đến năm 2010 của Việt Nam" xác định, Việt Nam đang chuẩn bị các bước đi cuối cùng để tiến hành phát hành trái phiếu quốc tế với một số loại ngoại tệ mạnh trên thế giới. Đồng thời, Chính phủ sẽ tạo cơ chế chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức tài chính, các tập đoàn kinh tế, chính quyền các địa phương phát hành chứng khoán vay nợ quốc tế bằng các ngoại tệ mạnh, trong đó thị trường tài chính châu Âu sẽ là tâm điểm của các công cụ vay nợ này. Ngoài ra, Việt Nam sẽ tiếp tục đàm phán các khoản vay nợ và viện trợ phát triển song phương với các nước thành viên EU.
Vấn đề an ninh tài chính sẽ luôn được quan tâm song song với tiến trình mở rộng quan hệ kinh tế - tài chính với EU nhằm đảm bảo cho thị trường tài chính Việt Nam hoạt động ổn định. Như vậy, tức là Việt Nam sẽ phải tăng dần tỷ trọng EURO trong tổng dự trữ ngoại hối và tổng vay nợ quốc tế của Việt Nam. Đồng thời, kiểm soát từ xa đối với hoạt động huy động và vay nợ bằng EURO của các tổ chức tài chính.
Trong thời gian gần đây, vị thế của đồng euro đã được nâng cao trên thị trường tài chính quốc tế. Nó được xem như là một đồng tiền tham chiếu trong tỷ giá hối đoái. Đồng thời cũng là đồng tiền dự trữ và can thiệp. Hiện tại có khoảng 150 quốc gia đang duy trì cơ chế tỷ giá hối đoái tính theo một đồng tiền hoặc một giỏ các đồng tiền tham chiếu. Trong số đó có 40 quốc gia dùng đồng EURO làm đồng tiền tham chiếu duy nhất hoặc có đồng EURO trong giỏ tiền tệ tham chiếu của mình.
Liên minh châu Âu đang là nguồn cung cấp đầu tư và viện trợ phát triển lớn nhất cho Việt Nam được xếp là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Và EU hiện đang dứng top 5 thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam và là thị trường tiềm năng của các ngành công nghhiệp dệt may, thực phẩm, thuỷ sản, vật liệu xây dựng.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU đang tăng nhanh. Nhập khẩu của Việt Nam từ EU cũng tăng qua các năm, chủ yếu là máy móc thiết bị phục vụ phát triển công nghiệp, tin học và tự động hoá.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của EU vào Việt Nam có tốc độ tăng tương đối tốt trong đó, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
à Người dân VN đã dần chấp nhận đồng EURO như một phương tiện để thanh toán, đầu tư và dự trữ. Việc trao đổi, mua bán đồng EURO tại các ngân hàng và các thị trường không chính thức cũng đã phổ biến hơn. Khách du lịch có thể đổi EURO Tuy nhiên, tỷ trọng các giao dịch thanh toán thương mại bằng EURO mới chỉ chiếm khoảng 10-13% tổng giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ. Nếu tính tỷ trọng tiết kiệm bằng đồng EURO trong tổng tiết kiệm thì tỷ lệ này chỉ vỏn vẹn 2,7%. Trong khi đó, chỉ 10-15% các thanh toán giữa doanh nghiệp VN và doanh nghiệp EU được sử dụng EURO. Những con số này cho thấy, tỷ lệ sử dụng EURO ở VN vẫn chưa đáng kể và chưa tương xứng với tiềm năng của đồng tiền này.
"VN chưa chủ động xác định được mối tương quan giữa VND với EURO trong mối tương quan về tiềm lực kinh tế giữa VN và khối này, dù tỷ trọng thương mại giữa EU và VN vẫn tiếp tục gia tăng kể từ năm 1999 tới nay
Nguyên nhân của thực trạng trên được lý giải là xuất phát từ thực tế chính sách tiền tệ quá phụ thuộc vào USD hiện nay của VN.
Từ trước đến nay, chính sách tỷ giá của VN neo chủ yếu vào đồng USD, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng USD như là một công cụ thanh toán quốc tế chủ đạo.
Thêm vào đó, nhu cầu vay USD và nguồn tiền gửi bằng USD hiện cũng rất lớn, trong khi nhu cầu vay EURO rất thấp, chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng dư nợ cho vay bằng ngoại tệ của VN. Chính vì vậy, lãi suất ngoại tệ trên thị trường VN được thống kê, theo dõi chủ yếu là lãi suất của USD. Sự biến động lãi suất vẫn phụ thuộc chủ yếu vào biến động lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ và cung cầu ngoại tệ trên thị trường VN, ít chịu ảnh hưởng của lãi suất đồng EURO.
Tuy nhiên, với mối quan hệ kinh tế, thương mại đã có từ lâu, tương lai của đồng euro ở VN được các chuyên gia kinh tế đánh giá là rất khả quan.
Tỷ trọng ngoại thương của VN với EU càng cao thì ảnh hưởng của đồng EURO đối với xuất nhập khẩu của VN càng lớn. Ông Minh cho rằng, đối với các doanh nghiệp làm ăn với thị trường EU nếu sử dụng đồng EURO có thể sẽ giảm được chi phí giao dịch, và chi phí chuyển đổi ngoại tệ cũng như thời gian giao dịch.
Hiện, tỷ giá giữa VND với EURO chủ yếu được tính chéo với tỷ giá của VND với USD và EURO với USD. Do vậy, tỷ giá của VND với EURO biến động hoàn toàn gắn với sự biến động của tỷ giá giữa EURO và USD. Việc tính toán như vậy mất rất nhiều thời gian và công sức của doanh nghiệp. Nếu sử dụng EURO giá ngoại tệ, doanh nghiệp chỉ cần theo dõi tỷ giá EURO /VND và với một vài đồng tiền chủ chốt khác trên thế giới.
Cũng vì VND luôn được neo giá trực tiếp với USD nên khi đồng EURO lên giá khoảng 50% so với USD trong khoảng 3 năm trở lại đây thì cũng có nghĩa là EURO lên giá so với VND, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp VN tăng xuất khẩu vào thị trường EU.
Trong tương lai, đồng EURO sẽ có vị trí quan trọng thứ hai sau USD tại thị trường VN. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào quy mô, thế mạnh của nền kinh tế EU. Thời gian qua, đồng EURO đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và đã rớt giá "thảm hại" so với USD. Tỷ giá euro/USD đã giảm tới 11,5% so với thời điểm cuối tháng 12 năm 2004. Tình hình chính trị của khu vực EU vẫn chưa ổn định khi Pháp và Hà Lan "nói không" với Hiến pháp EU và Italy bày tỏ ý định không muốn sử dụng đồng tiền này vì lo sợ những rủi ro. Chính những bất ổn này cũng đã tác động đến tâm lý sử dụng đồng EURO của người dân VN.
Trong khi đó, hiện đồng USD vẫn tiếp tục duy trì vị trí là đồng tiền thống trị trong dự trữ ngoại hối chính thức của nhiều quốc gia, trong đó có VN. Đến nay, nền kinh tế Mỹ sau một thời gian ảm đảm đã dần lấy lại phong độ và đang trên đà phục hồi vững chắc. Các chỉ số về việc làm và lòng tin của người tiêu dùng đều tăng lên. Cùng với việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục tăng lãi suất, đồng tiền này đang ngày một hấp dẫn giới đầu tư.
Tác động của việc biến động tỷ giá EURO đến thị trường Việt Nam
Khi euro tăng giá
Lâu nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, có rất ít thông tin được cập nhật về giá euro và sự biến động của giá euro trên thị trường Việt Nam. Vì thế, số người biết và quan tâm đến giá euro và sự biến động của nó rất ít, có chăng chỉ có những người có euro trong tay và những doanh nghiệp có quan hệ buôn bán, vay trả với khu vực này vì quyền lợi thiết thực của họ.
Điều đó đặt ra vấn đề là không chỉ những đối tượng trên mà cả những nhà hoạch định chính sách vĩ mô cũng cần quan tâm và các cơ quan có trách nhiệm cần cung cấp thông tin rộng khắp và cập nhật hơn nữa thông tin về giá euro và sự biến động của nó.
Hẳn mọi người còn nhớ, khi mới ra đời, 1 đồng euro chỉ có giá tương đương với 1 đồng USD. Sau đó, đồng euro liên tục bị giảm giá, đã có lúc 1 euro chỉ đổi được 0,8 USD. Song từ sau sự kiện 11/9/2001 và tiếp theo 2 cuộc tấn công của Mỹ vào Afghanistan và Iraq, giá USD bị sút giảm mạnh so với nhiều đồng tiền chủ chốt trên thế giới. Cuối tháng 10/2004, 1 USD chỉ còn đổi được 0,78 euro, mức thấp nhất trong vài năm nay và cũng là mức thấp nhất tính từ lúc đồng euro ra đời. Ở Việt Nam, giá euro cũng biến động theo chiều hướng gần như thế. Nói “gần như thế” là vì đồng USD bị giảm giá trên thị trường thế giới, nhưng ở Việt Nam thì USD lại liên tục tăng giá so với VND, tuy tốc độ tăng có thấp xuống, trong khi tốc độ tăng tỷ giá euro/USD ở VN lại cùng chiều với thị trường thế giới. Cách đây vài năm, 1 euro chỉ đổi được khoảng trên dưới 15 ngàn VND, nhưng sang năm nay tỷ giá VND/euro đã tăng rất cao. Từ nhiều ngày nay, 1 euro đã đổi được trên 20,2 ngàn VND, cao nhất từ trước tới nay.
Việc euro lên giá mạnh so với USD và lên giá mạnh hơn so với VND đã tác động không nhỏ tới quan hệ xuất nhập khẩu với khu vực này. Cần nhớ rằng, tỷ trọng trong tổng kim ngạch của Việt Nam với EU về xuất khẩu là trên dưới 20% và về nhập khẩu là trên 9%. Quan hệ thanh toán với khu vực này chủ yếu đối với xuất khẩu tính bằng USD, đối với nhập khẩu lại tính bằng euro. Vì vậy, khi euro lên giá so với VND mạnh hơn nhiều việc USD lên giá so với VND thì hàng nhập khẩu từ khu vực EU sẽ đắt hơn nhiều, còn hàng xuất khẩu sẽ không được lợi tương xứng. Điều đó cũng giải thích vì sao những nguyên, nhiên vật liệu, máy móc, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu từ EU tính ra USD sẽ đắt lên và nếu tính ra VND còn đắt hơn nữa, càng làm cho chi phí đầu vào của nước ta tăng cao. Trong điều kiện như thế, hoặc là phải giảm lượng hàng nhập khẩu từ khu vực EU, hoặc là phải bỏ một lượng tiền nhiều hơn để nhập khẩu một lượng hàng như cũ và đương nhiên giá hàng trong nước sẽ không chỉ cao hơn trong năm 2004 mà còn chuyển vào giá bán ra của sang năm.
Đó là chưa nói những khoản vay nợ của các doanh nghiệp cũng như của nhà nước từ khu vực EU tính bằng euro sẽ tăng lên thuần túy do tỷ giá, chưa kể số lãi phải trả theo lãi suất đi vay. Cần phải quan tâm xử lý khi đồng euro lên giá so với USD và lên giá cao hơn so với năm.
Đó là chưa nói những khoản vay nợ của các doanh nghiệp cũng như của nhà nước từ khu vực EU tính bằng euro sẽ tăng lên thuần túy do tỷ giá, chưa kể số lãi phải trả theo lãi suất đi vay. Cần phải quan tâm xử lý khi đồng euro lên giá so với USD và lên giá cao hơn so với VND
Khi đồng euro giảm giá
Ít có đồng tiền nào khác thường như đồng tiền chung EU. Khi mới lưu hành, giá trị 1 đồng euro bằng 1 đồng USD. Chỉ sau đó ít tháng đã bị sụt giá liên tục, có thời gian 1 đồng euro chỉ còn bằng 0,8 USD.
Khi kinh tế Mỹ bước vào chu kỳ suy thoái, lại gặp sự kiện 11/9, rồi sa vào 2 cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq, với thâm hụt "kép" về cán cân thương mại và ngân sách..., làm cho tăng trưởng kinh tế Mỹ "đao" xuống trong những năm trước đó, đạt mức "đáy" 0,25% vào năm 2001, giá USD liên tục bị sụt giảm. Đồng euro vì thế mà lên giá so với USD gần như liên tục, có lúc 1 đồng euro đã ăn trên 1,3 USD. Nay kinh tế Mỹ phục hồi tăng trưởng một cách vững chắc (năm 2004 đã tăng 4,4%, xấp xỉ với mức 4,5% của năm 1997 và cao nhất từ năm 1998 đến nay), lãi suất đồng USD liên tục tăng lên và hiện đã đạt 3%, giá USD đã tăng lên, đồng thời giá euro giảm xuống, đến nay 1 euro chỉ còn đổi được khoảng 1,22 USD và đang trong xu hướng giảm xuống nữa. Tình hình trên đã cộng hưởng với kết cục thê thảm của hai cuộc trưng cầu dân ý mới đây ở Pháp và Hà Lan cùng với việc mở rộng khối từ 12 nước lên 25 nước,... không những cản trở xu hướng nhất thể hóa, mà còn làm cho giá euro bị sút giảm, mặc dù Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) thắt chặt cung tiền, hạn chế đầu tư nội khối và giảm hiệu quả xuất khẩu...
Ở Việt Nam, đồng euro chưa được sử dụng rộng rãi như USD, nhưng do việc mở cửa hội nhập và buôn bán với khu vực EU ngày một mở rộng, nên tỷ giá VND/euro cũng có những biến động đáng lưu ý. Khi đồng euro mới ra đời, 1 euro ăn khoảng 14,8 nghìn VND. Khi 1 euro trên thế giới giảm giá chỉ còn đổi được 0,8 USD thì 1 euro ở Việt Nam cũng chỉ còn đổi được khoảng 12.218 VND. Khi euro lên giá so với USD đồng thời USD lên giá so với VND, thì euro đã lên giá "kép" so với VND. Đỉnh điểm đã có thời gian 1 euro đổi được trên 22,7 nghìn VND. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho xuất khẩu sang EU tăng mạnh, còn nhập khẩu từ khu vực này tăng thấp hơn, nhưng giá nhập khẩu lại tăng mạnh. Từ khi euro giảm giá so với USD thì ở trong nước, giá euro cũng giảm theo, mới đây nhất 1 euro chỉ còn đổi được khoảng 19.506 VND. Khi euro giảm giá, thì xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực EU gặp bất lợi, cộng hưởng với sự cạnh tranh của hàng xuất khẩu cùng loại của Trung Quốc sang khu vực này sẽ làm cho tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến EU sẽ bị sút giảm, nhất là các mặt hàng dệt may, giày dép... Trong khi đó, nhập khẩu của Việt Nam từ EU lại gia tăng nhờ được lợi về giá khi tính bằng VND. Xuất siêu lớn từ khu vực EU trong mấy năm qua (4 năm liền ở mức trên dưới 1,5 tỉ USD) sẽ khó duy trì được trong thời gian tới. Khi euro giảm giá, thì việc vay nợ của Việt Nam (bao gồm ODA và vay thương mại) đối với khu vực đồng euro sẽ có lợi cả về vốn và lãi so với trước.
Sự giảm giá của euro cũng sẽ làm cho những người trước đây được lợi lớn từ việc chuyển sang giữ euro (lên tới trên 80% trong vòng hơn 1 năm) thì nay sẽ được đẩy ra để găm giữ USD...
Giá euro giảm là yếu tố khách quan ngoài tầm tay của các tổ chức, cá nhân. Nhưng từ đó có thể điều chỉnh các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, du lịch, vay trả nợ với khu vực này.
Rủi ro của đồng EURO tại thị trường Việt Nam
Theo các ngân hàng thương mại, dù euro liên tục tăng giá so với USD, lãi suất euro cũng hấp dẫn hơn, song các tổ chức tài chính, doanh nghiệp cũng như cá nhân vẫn rất ít sử dụng hay đầu tư vào đồng tiền này. Diễn biến tại Việt Nam hầu như trái ngược hẳn so với tình hình tài chính thế giới.
Các ngân hàng liên doanh cũng không mấy mặn mà với đồng tiền này: "Số lượng các khách hàng là cá nhân có nhu cầu gửi euro rất ít và vì thế, việc huy động euro từ cá nhân tại Việt Nam hiệu quả không cao”.
"Nếu chỉ nhìn bên ngoài thì đầu tư vào euro rất có lợi bởi nó có khả năng tăng giá mạnh. Tuy nhiên, đầu cơ euro là vô cùng rủi ro, thị trường có thể đổi chiều rất nhanh mà không thể dự đoán được. Chính vì thế, Vietcombank chỉ kinh doanh euro ở mức độ giới hạn và chủ yếu thực hiện giao dịch theo yêu cầu của khách hàng"".
Tình hình cũng diễn ra tương tự tại nhiều ngân hàng trong nước khác. "Không một ngân hàng Việt Nam nào dám đầu cơ euro vì đây là một nghiệp vụ rất phức tạp và rủi ro, các ngân hàng trong nước chưa đủ trình độ để thực hiện. Cứ nhìn euro lên giá mà lao vào đầu cơ euro thì chẳng khác nào việc đánh bạc nhưng lại chưa hiểu hết luật chơi"".
4. Một số giải pháp nhằm xử lý tác động của đồng EURO đối với Việt Nam.
4.1. Về lĩnh vực xuất nhập khẩu.
- Hầu hết các nhà xuất khẩu của Việt Nam đang trong tình trạng thiếu vốn do vậy Việt Nam có thể đàm phán cấp Nhà nước với các nước EU để ký kết các hợp đồng vềviệc các ngân hàng thương mại của các nước EU cho Việt Nam vay các khoản tiền bằng đồng EURO để hỗ trợ các doanh nghiệp cũng như các cá nhân tham gia hoạt động xuất khẩu sang EU. Các khoản vay này có thể là trung hạn hoặc dài hạn với lãi suất ưu đãi từ 3 - 5 năm đầu.
- Nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK trên thị trường EU.
4.2. Về lĩnh vực đầu tư.
- Tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư EU sử dụng đồng EURO trên thị trường tiền tệ Việt Nam
- Đối với các dự án đầu tư đang thực hiện cần phải có những cuộc trao đổi bàn bạc để đưa ra những quyết định chính xác về việc có nên chuyển đổi đồng tiền tính toán của dự án sang đồng EURO hay không?
- Đối với những dự án mới, thực hiện trước thời điểm 1 - 1 - 2002 thì việc tính toán cũng cần phải được cân nhắc có nên tính toán giá trị của dự án theo đồng EURO không khi mà đồng tiền này đang còn nhiều rủi ro hay tính bằng đồng USD
- Các nhà đầu tư của Việt Nam cần phải chớp thời cơ, nhanh chóng xâm nhập vào EU, so sánh và tính toán các dự án đầu tư của mình bằng đồng EURO để lựa chọn nơi đầu tư hiệu quả nhất..
4.3 Về lĩnh vực vay nợ nước ngoài
Thời kỳ "Không bắt buộc, không cấm đoán" này nhất là hiện tại đồng EURO đang giảm giá thì Việt Nam đang có điều kiện thuận lợi để thực hiện trả các khoản nợ.
Thời điểm hiện tại đồng EURO giảm giá rất có lợi cho Việt Nam vì vậy với những khoản nợ lớn giữa các Chính phủ, cần phải thoả hiệp để có thể chuyển đổi một số khoản nợ sang đồng EURO ngay trong thời điểm này. Đặc biệt là là những khoản tiền vay nợ bằng những đồng tiền mạnh như DM, FF, chúng ta nên có những thoả thuận để chuyển đổi ngay trong thời kỳ này để Việt Nam có thể giảm được cả phần nợ gốc lẫn lợi nhuận phải trả.
4.4 Về dự trữ ngoại tệ
- Ngân hàng Nhà nước cần đánh giá cơ cấu dự trữ ngoại tệ, trên cơ sở đó có những điều chỉnh tương ứng.
- Không chỉ là Nhà nước mà ngay cả các doanh nghiệp có quan hệ với EU cũng cần phải làm quen và có dự trữ bằng đồng tiền này tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp mình khi thực hiện trao đổi thương mại.
4.5 Về tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái giữa VND và đồng EURO là một yếu tố quan trọng quyết định việc thực hiện các quan hệ kinh tế Việt Nam - EU, vì thế cần có những việc làm như sau:
Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu, đề xuất với chính phủ về quyết định cho phép chấp nhận đồng EURO trong giao dịch quốc tế cũng như công bố tỷ giá EURO/ VND cùng với các loại ngoại tệ mạnh khác.
Các ngân hàng thương mại cần xem xét, tính toán đối với việc tập trung các tài khoản bằng các loại ngoại tệ của các nước thuộc EMU và quy định mở tài khoản bằng đồng EURO tại một hoặc một số ngân hàng do mình lựa chọn.
Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng một chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát linh hoạt, gắn với một tập hợp các đồng tiền mạnh bao gồm cả đồng EURO, đồng USD, đồng JPY, giảm được rủi ro và tăng tính ổn định cho tỷ giá hối đoái khi Việt Nam không còn chỉ theo một tỷ giá duy nhất là đồng USD.
4.6 Về chính sách lãi suất
Là một nước thành viên trong khu vực Đông Nam Á tuy chưa bị suy thoái trầm trọng về nền kinh tế nhưng nền kinh tế Việt Nam cũng chịu những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến đầu tư, thương mại… và chịu tác động từ sự biến động tỷ giá của hệ thống tiền tệ nói chung và Euro nói riêng đến nền kinh tế quốc gia đặc biệt trong vấn đề xuất – nhập khẩu.
Mặc dù hiện nay đồng EURO chưa tác động mạnh tới chính sách lãi suất của Việt Nam, nhưng trong thời gian không xa nữa mà quan hệ kinh tế Việt Nam - EU phát triển sâu rộng hơn thì Chính phủ Việt Nam nên có những chính sách lãi suất thích hợp với đồng EURO.
VI. Tổng kết
Theo một cuộc thăm dò mới nhất do tạp chí The Economist thực hiện cho thấy một số nguyên thủ và lãnh đạo cao cấp của nhiều nước đang kêu gọi thay đổi hệ thống tài chính thế giới kể từ khi có sự góp mặt của đồng euro. Nhiều nhà kinh tế còn cho rằng đây sẽ là những động thái tốt cho đồng tiền đang dần khẳng định sức mạnh của mình trong thế kỷ 21 này. Việc mở rộng thành viên khối EU mới đây sẽ làm cho EU chiếm giữ 30% khối lượng mậu dịch thế giới bằng đồng euro, điều này buộc các ngân hàng chuyển 310 tỷ USD sang euro để dự trữ.
Hiện tại đồng đôla Mỹ chiếm hơn 70% nguồn tiền dự trữ của các nước trên thế giới không hẳn vì tờ bạc của nước này có sức mạnh ghê gớm, mà chủ yếu là vì đôla Mỹ là tiền tệ của một nền kinh tế lớn nhất thế giới và có tính thanh khoản cao nhất.
Trong khi đó, khối liên minh tiền tệ châu Âu đã qua mặt Mỹ để chiếm giữ vai trò nhà xuất khẩu - nhập khẩu lớn nhất thế giới, đồng euro đang trở thành phương tiện thanh toán thuận lợi cho bất cứ ai liên quan đến mậu dịch và tài chính với khu vực này.
Các nhà làm chính sách châu Âu phải chứng tỏ cho thị trường thấy là họ cũng có trách nhiệm như các đồng sự Mỹ. Họ có một lợi điểm khá lớn là: đồng euro đã chiếm được cảm tình từ rất lâu trước khi những tờ giấy bạc và đồng bạc euro thật sự được lưu hành.
Nếu đồng euro hoàn thành sứ mạng tạo dựng châu Âu thành một sức mạnh đầy quyền lực, có thể người ta sẽ chứng kiến một khối kinh tế vững mạnh ở khu vực Đại Tây Dương vào thế kỷ 21 này. Sự kết họp giữa các thị trường tài chính lớn của châu Âu đang bắt đầu "so kè" với Wall Street (Mỹ) và qua mặt châu Á.
Tuy nhiên, châu Âu vẫn còn rất nhiều hạn chế để biến đồng tiền của khu vực mạnh mẽ như đồng đôla Mỹ. Trước hết, nền móng cho sự thành công của đồng tiền mới nằm trong tay các nhà chính trị, chứ không phải phụ thuộc vào các nhà kinh tế học, ngân hàng hay tổng giám đốc các công ty. Mặt khác, một khi các chính sách tài chính tiền tệ bị khóa chặt vào một đồng tiền duy nhất, thì các chính phủ châu Âu chỉ còn kiểm soát được thuế, lao động và những quy định khác. Giới kinh tế vẫn nhận định đồng đôla Mỹ sẽ tiếp tục thống lĩnh các thị trường quốc tế, mặc dù gần đây có nhiều biến động.
Mặt dù vậy, đối với một nền kinh tế lớn như EU thì tác động của đồng tiền Euro sẽ khác nhau tùy thuộc vào quan hệ của quốc gia với EU. Đối với Việt Nam có nhiều quan hệ với EU cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng xu thế biến động tỷ giá Euro nhằm để có thể tăng cường, mở rộng hoạt động kinh tế quốc tế và phát triển hiệu quả kinh tế quốc gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mục lục.doc