MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Lịch sử vấn đề
IV. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu
2. Phương pháp nghiên cứu
V. Cấu trúc đề tài
PHẦN II. NỘI DUNG
I. NGUỒN GỐC TÀY CỔ CỦA THỤC PHÁN - AN DƯƠNG VƯƠNG
1. Một vài nét về Cao Bằng và tộc người Tày cổ
2. Sự gần gũi của văn hóa Tây - Thái và văn hóa Việt cổ
3. An Dương Vương là người Tày cổ
II. THỜI GIAN RA ĐỜI, TỒN TẠI VÀ KẾT THÚC NƯỚC ÂU LẠC
1. Thời gian ra đời
2. Về thời gian kết thúc nước Âu Lạc
TÀI LIỆU THAM KHẢO
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2448 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn gốc An Dương Vương và đất nước Âu Lạc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng là cơ hội để chỳng tôi hiểu sâu hơn về một thời kỳ lịch sử ít tư liệu. Mặt khác đề tài còn giúp chúng tôi có được những liên hệ phần nào trong công cuộc xây dựng xã hội mới - con người mới ở Việt Nam hiện nay. Để yêu hơn và tự hào hơn với những gì dân tộc mình đạt được cách đây hơn hai thiên niên kỷ.
II. Mục đích nghiên cứu
Đây là một đề tài chúng tôi lựa chọn để thực hiện nhằm hưởng ứng phong trào “tích cực tham gia nghiên cứu khoa học” của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Thể hiện đề tài là những cố gắng của chúng tôi để hoàn thành tốt công việc này, vận dụng những hiểu biết, những tìm tòi học hỏi của mình về nguồn gốc An Dương Vương và đất nước Âu Lạc để có được những kết luận rõ hơn về vấn đề.
Đề tài được nghiờn cứu sẽ tạo điều kiện nghiờn cứu đề tài theo một hướng tiếp cận mới, mở ra một con đường mới, để chúng tôi cùng những người đam mê nghiờn cứu thời kỳ lịch sử cổ trung đại nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung có thể tiếp nhận và khám phá nhiều hơn về nó, thể hiện đề tài còn là một cơ hội để chúng tôi rèn luyện khả năng nghiờn cứu khoa học cho bản thân, có thể tiếp cận và thực hiện ở những đề tài lớn hơn. nghiờn cứu đề tài cũng là một cách học tập hữu hiệu để chúng tôi nghiờn cứu thêm, đọc và hiểu thêm nhiều quan điểm, ý kiến đánh giá của các nhà nghiờn cứu, các vị tiền bối. Từ đó có thể đưa ra định kiến và những kiến giải của bản thân, rèn luyện đức tính cần cù, quyết đoán, sáng tạo- những đức tính cần có của một nhà nghiờn cứu lịch sử.
III. Lịch sử vấn đề
Mỗi một thời đại đi qua đều để lại đằng sau nó những dư âm không ngớt còn đeo đẳng trong kí ức con người. cũng giống như thế kỉ X, thế kỉ II TCN được coi là thế kỉ bản lề với nhiều biến động lớn trong lịch sử, người Việt Nam đã chứng kiến những phút giây chuyển giao của thời đại mình đầy đau xót nhưng cũng đáng tự hào.
Thật vậy trong lịch sử cổ đại nước ta, giai đoạn Âu Lạc do Thục Phán- An dương vương mở đầu là sự kế tiếp nhà nước văn lang đời các vua hùng. Nhưng thục phán là ai? cho đến nay không phải tất cả các vấn đề đều sáng tỏ. Bởi thế từ lâu nó đã trở thành một đề tài hấp dẫn được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc an dương vương tập trung chủ yếu với 3 quan điểm chính sau:
Thứ nhất, như chúng ta đã biết, tuy nói rằng lịch sử nước ta từ thời Âu Lạc trở đi đã có những sử liệu thành văn soi sáng nhưng số tư liệu đó cũng rất ít ỏi. Những ghi chép đầu tiên về thục phán an dương vương có thể tìm thấy trong thư tịch cổ của Trung Quốc. Sách Hậu hán thư, phần quận quốc chí của Phạm Việp khi chép về quận Giao Chỉ có chú thích “ đấy là nước cũ của An Dương Vương”. Tác phẩm Bùi thị Quảng châu kí ra đời vào khoảng thế kỉ V được dẫn lại trong sách ẩn của Tư Mã Trinh đời Đường thế kỉ VIII cũng chép: “ sau con vua Thục đem quân đánh chiếm tự xưng là An Dương Vương sai hai sứ cai trị hai xứ là Giao chỉ và Cửu chân tức là Âu lạc vậy”. Theo Nam Việt chí được dẫn lại trong Cựu đường thư, phần địa lí chí viên biên soạn thế kỉ X “ thì vua nước thục cho con là An Dương Vương cai trị đất Giao chỉ nước ấy nay nằm về phía đông huyện Bình Đạo”. như thế các thư tịch cổ của Trung Quốc đều chép An Dương Vương là con vua Thục nhưng không cho biết cụ thể vua Thục là ai và nước Thục ở đâu tuy sách vở Trung Quốc xưa viết nhiều, kĩ về nước Ba thục một nước đã thực sự tồn tại ở vùng Tứ Xuyên thời xuân thu chiế quốc nhưng cũng không thấy chi tiết nào nói về mối quan hệ giữa Ba thục và Văn lang. Sách Hoa dương quốc chí của Thường Cứ, người đời Tấn là bộ sách đã cung cấp cho chúng ta những hiểu biết vế lịch sử địa lí về nước Ba thục cũng không thấy nhắc đến tên Thục phán và việc Thục phán đánh được nước Văn lang, trong khi nó lại cho biết một cách chu đáo tình hình thay đổi chớnh trị trong từng quận huyện, sau khi nước này bị diệt năm 316 TCN “ nước Thục xưng vương vào lúc nhà Chu suy vong. Vua đầu tiên là Tàm Tùng cũng như các vua sau chỉ lo dậy dân cày cấy làm ăn không có chinh chiến gì. Đó là bước đầu xây dựng vương triều, nên vua Thục chưa có thế lực để phát triển ra bên ngoài. Đến lúc “thất quốc” suy vong (476 TCN) vua Thục là Đỗ Vũ cũng xưng đế lấy hiệu là Vong đế đổi tên là Bồ ty “ tự cho công đức cao các vương khác….các sông giang tiềm, miên, lạc làm thành trì, lấy núi Văn sơn làm nơi chăn nuôi, lấy Nam trung làm thượng uyển” đó lần đầu tiên Thục bành trướng. Theo địa danh và các tên đất trên chủ yếu nó hướng về phía bắc và phía đông. Đỗ Vũ nhường ngôi cho Khai Minh, con Khai Minh đánh Tần đến đất Ung “ đánh Thanh y, hùng cứ cả lão bặc….Thục vương phong cho em là Hà Manh giữ đất Hán Trung hiệu là Thư Hầu.. Thư Hầu kết thân với nước Ba, nước Ba lại thù với Thục. Thục vương giận đánh Thư hầu, Thư hầu chạy đến Ba cầu cứu Tần… Mùa thu năm Chu thuận vương thứ V quan quân của Tần là bọn đại phu Trương Nghi, Tư Mã Tháo đánh Thục, Thục vương kháng cự với Hà Manh, bị thua chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần giết tướng phó và thái tử của vua Thục lui về Phùng Hương rồi chết ở núi Bạch Lộc đó là lần duy nhất Thục vương phát triển về hướng đông nam nhưng chưa hề vượt khỏi nước Ba tức là chưa đến địa phận quận Tường Kha thời Hán sau này. Họ chưa vượt quá thượng lưu sông Trường giang ngày nay hướng phát triển chủ yếu là đông và bắc nên gặp phải quân Tần và Sở. Những người dân Thục bị Đường Mông đưa đi làm đường ở Dạ Lang có cả người Thục nhưng chưa xuống đến đất Nam Việt thì chiến tranh đã kết thúc, lúc đó không còn Thục Vương họ khai minh nữa. Nhiều sử gia và các nhà nghiến cứu đã tốn không ít giấy mực để vun đắp cho ức thuyết này. Trong số những người nghiến cứu gần đây thì Trần Thu Hòa là người đã bỏ nhiều công để vun đắp cho lý thuyết này. Nhưng chính ông cũng đã nhận thấy một khó khăn lớn trong vấn đề là tuổi của Thục Vương. Nước Thục bị Tần diệt vào năm 316 TCN. Nếu là con của Thục Vương tử tính đến năm 214 TCN trong kháng chiến chống Tần thì ít nhất ông cũng đã trên trăm tuổi, vậy làm sao có thể lãnh đạo nhân dân đánh thắng quân Tần?
Vì thế ông đã giả thuyết về con di phúc. Tuy nhiên, đó chỉ là một giả thuyết hoàn toàn vô căn cứ không dựa trên một tài liệu cơ sở chữ viết nào, một truyền thuyết làm cơ sở cho giả định này.
Các nguồn thư tịch cổ Việt Nam có thể nói xuất hiện muộn hơn các thư tịch của Trung Quốc nhưng lại có ghi chép rõ hơn về nguồn gốc của Thục Phán - An Dương Vương. Viện Sử lược Bộ sử biên niên thời Trần chép “cuối đời Chu, Hùng Vương bị con Vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay”. Kế tiếp đó trong Đại việt sử ký toàn thư các sử gia đã có một kỷ riêng “kỷ nhà Thục” để chép về Thục Phán và nước Âu Lạc, đoạn viết khẳng định: “Nhà Thục, An Dương Vương ở ngôi 55. Họ Thục tên Phán là người đất Ba Thục, đóng đô ở Phong Khê”3. Sách “Đại Việt sử ký” thời Tây Sơn cũng chép gần giống thế: “An Dương Vương húy Phán, người Ba Thục ở ngôi 50 năm sử cũ cho là không phải”. Thuyết “Thục Phán gốc người Ba Thục” chiếm địa vị độc tôn trong những tác phẩm sử học thời Lê sơ cho đến đầu thời Nguyễn. Trong “Lịch chiều Hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú viết “An Dương Vương tên là Phán người Ba Thục”5, đến cối triều Nguyễn trong khi biên soan Việt sử thông giám cương mục, một số sự kiện trong lịch sử cổ đại nước nhà đã được xem xét phê phán lại, trong đó có thuyết Thục Phán người ba Thục. Thuyết này đã bị bác bỏ. Trong “Việt sử thông giám cương mục” viết “Nước Thục đã bị quân Tần diệt từ năm thứ 5 đời Thuận Tĩnh Vương, nhà Chu (316 TCN) lúc đó làm gì có vua Thục nào? huống chi giữa đất Văn Lang với đất Thục còn có các thứ kiện - vi, dạ - lang, cùng, tạc, nhiễm, bàng cách xa nhau hai ba ngàn dặm. Nước Thục ở xa, làm thế nào băng qua các nước ấy mà đến lấy được Văn Lang? Sử cũ đã chép: cháu vua Thục tên là Phán lại bảo An Dương Vương họ Thục tên Phán người ba Thục hoặc giả ở ngoài cõi Tây Bắc, giáp liền với nước Văn Lang có người họ Thục, bèn cho là Thục Vương cũng chưa biết chừng. Nếu bảoThục Vương là người ba Thục là không phải”6.
Trong việc sử lược, cuốn sử lược được phổ biến rộng rãi thời Pháp thuộc của Trần Trọng Kim khi bàn đến gốc tích nhà Thục cũng khẳng định “Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải nhà Thục bên Tàu.
Năm 1957, Trần Văn Giáp đã đề cập đến vấn đề này trong bài “Một vài ý kiến về An Dương Vương ngọc giả và vấn đề Thục - An Dương Vương” ông đã dẫn sách vở Trung Quốc để đưa ra kết luận sau: “Khoảng trước thế kỷ 13 TCN vua Thục ở Ba Thục” sai cháu là Phán đánh xuống miền Nam tức vùng Giao Chỉ đời Hán và tượng Quận đời Tần. Trong thời gian đó thì nước Thục đã bị Trương Nghi và Tư mã Thố nhà Tân đánh, chiếm lấy cả nước Thục. Trong khi Phán mang 3 vạn quân ở miền Nam thì nước Thục bị mất và vua bị giết chết. Đám 3 vạn quân ở miền Nam đó trở về đâu? Phán tất phải đánh Tượng Quận, chiếm lấy một khu căn cứ địa nào đó, làm chỗ đứng chân rồi dần da thiết lập thành nước gọi là Âu Lạc, xưng là An Dương Vương”. Đọc đoạn viết này chúng ta chỉ thấy một điều là sau khi nước Thục bị Tần diệt người ta có nhắc đến người Thục, nước Thục cũ mà thôi. Chứ không chứng minh gì thêm cho ý kiến Thục - An Dương Vương là người từ Ba Thục xuống. Bởi khu căn cứ địa nào đó làm chỗ đứng chân là khu căn cứ nào. Tác giả chưa nói rõ, vả lại theo cách lý giải của ông thì Thục Phán là cháu Thục vương tử. Được sai dẫn quân đánh miền Nam, vậy là ít nhất tại thời điểm đó Phán phải là một tướng tài hoặc có uy tín. Việc này diễn ra trước khi nước Ba Thục bị diệt tức là trước 316 TCN.
Vậy cần giải thích như thế nào về cuộc kháng chiến chống Tần và Triệu Đà của Âu Lạc trong khi người chỉ huy lãnh đạo họ cũng là Thục Phán người cách đây khoảng 100 năm đã “đánh Tượng Quận chiếm lấy một khu căn cứ nào đó làm chỗ đứng chân rồi dần dà lập thành một nước gọi là Âu Lạc”.
Dựa trên cơ sở đó, chúng ta có thể bác bỏ quan điểm An Dương Vương là người Ba Thục.
Quan điểm thứ hai, cũng là một quan điểm nghiến cứu đáng quan tâm “An Dương Vương là người từ Ai Lao di đến”.
Trước tiên về vị trí nước Thục, Hùng Vương - Ngọc phả cho biết “vua thục phụ đạo xứ Ai Lao cũng là dòng giõi vua Hùng, được tên Hùng Tấn vương muốn nhường ngôi cho con rể là Sơn Tinh (Tản Viên sơn thánh) lên triêu tập binh mã sang đánh”. Thần tích đền Mủi xã Thanh Uyên, huyện Tam Nông, Vĩnh Phúc kể: “Đời Hùng Vương thứ 18 có giặc Ai Lao sang đánh nước ta. Chúng chia quân làm 5 đạo… vua mời Tản Viên sơn thánh đi đánh”. Sự tích Thiên Thai đại vương một vị tướng của Tản Viên có đoạn viết “đời Hùng Vương thứ 18… có quân Thục đến đánh giặc cùng Tản Viên sơn thánh chia thành hai đạo quân đánh tan giặc”. Thần tích về Cao Sơn, Quý Minh hai bộ tướng của Tản Viên được thờ ở xã Cảnh Mỹ cũng chép chuyện hai ông đi đánh giặc Thục tức giặc Ai Lao ở Tây Bắc. Sách “Sơn Tây thần tích An sơn huyện, Lạp Tuyết sơn xã, thông đạt thần tích” chép về chuyện Nam Hải đại cương cũng có đoạn viêt: “… Lúc đó bộ chủ Ai Lao là Thục Phán đem quân sang đánh bị Tản Viên sơn thánh đánh cho thua”…
Chuyện công thần nhị vị đại vương phả lục, trong sách thần tích các xã thuộc huyện Sơn vi tỉnh Phú Thọ cũng nói: “thời bấy giờ Hùng Duệ Vương gả công chúa Mỵ Nương cho Tản viên sơn thánh tên là Nguyễn Tùng Thi, Thục phán chúa Ai Lao đem 10 vạn binh 8 nghìn ngựa sang đánh, Duệ vương hỏi kế Sơn thánh nói: Nên cử anh em Cao Hưng đem binh tuần tiễu các nơi… đến xã Bản nguyên đóng đồn… sau cùng với Sơn thánh đánh giặc toàn thắng trở về Thục âp”.
Về vị trí các trận đánh, truyền thuyết địa phương nào cũng nói là quân Thục cũng đi qua vùng ấy, nếu căn cứ vào đó thì thấy cuộc chiến tranh xảy ra ở một vùng rộng lớn, phía Đông tới Sóc Sơn, bắc tới Hà Giang, Lai Châu, phía Tây tới Hòa Bình, phía Nam tới Ninh Bình. Trong khu vực được chỉ định một cách chung chung ấy thì tuyệt đại đa số truyền thuyết địa phương và thần phả ở Vĩnh Phúc và Hà Tây lại tập trung chỉ rõ hướng giặc Ai Lao tấn công từ phía Bắc và Tây Bắc trên lưu vực sông Hồng và sông Mã.
Có thể kể như thần tích đền gò Chám xã Dị Nậu, huyện Tam Nông, Vĩnh Phúc ghi rằng: “Thời Duệ Vương quân Thục sang đánh nước ta. Cao sơn Đại vương giúp Tản Viên sơn thánh tới thẳng trận tiền ở Mộc Châu là nơi đóng quân chính của giặc”.
Căn cứ vào việc thờ thần Tản Viên phân bố rộng rãi trong toàn bộ vùng cư trú của người Việt và một phần người Mường thì thấy cuộc chiến tranh chống Thục tác động đến toàn bộ vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ. Hiện nay vùng tập trung chủ yếu của những trận đánh lớn thì đều ở phía Tây và Tây bắc đồng bằng Bắc bộ.
Đọc qua nhiều truyền thuyết thì dường như giả thuyết về nước Thục có liên quan tới nước Ai Lao (Lào) nước láng giềng phía Tây của nước ta thời nay. Nhưng tiếc thay những tài liệu lịch sử thành văn chỉ mới cho phép chúng ta soi sáng lịch sử nước Lào từ khoảng giữa thế kỷ 14 trở lại đây. Như vậy tương ứng với giai đoạn lịch sử cuối đời Hùng Vương trong lịch sử nước Lào chưa hề thấy một tổ chức quốc gia hay một nhóm bộ lạc có tên là Ai Lao cả. Mặt khác qua nhiều cuộc khảo sát trên thung lũng sông Hồng các nhà nghiến cứu thấy xuất hiện chữ Lao trong tên đất tên sông: chân lao ở bờ đầm Chính Công, ngòi lao ở Hạ Hà, ngòi kiên lao ở ngàng Lan Đình…
Chữa A dùng riêng hoặc kết hợp với một số chữ khác đứng trước hoặc đứng sau như núi A (274m ở sát ngã ba Nhân Mục). Như Sơn A ở sát đông bắc cánh đồng Nội… như vậy các nhà nghiến cứu phỏng đoán rất có thể ở khu vực thung lũng sông Hồng có thể có thên Việt cổ là A Lao mà sau này đọc nhầm, viết nhâm thành Ai Lao.
Thường cứ cũng khi “đất Thục đông giáp ba, nam tiếp với Việt, bắc tiếp Tần”. ở đây tác giả cho Thục giáp Việt. Sau này khi nhà Tây Han đặt ra hai châu ích và Dao thì địa bàn hai châu tiếp giáp nhau nhưng cũng không có đường ranh giới cụ thể .Dần dà về sau châu Giao thu hẹp với địa phận là khu vực miền Bắc nước ta. Trái lại châu ích được mở rộng gồm cả khu vực tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên ngày nay đến đời tam quốc .cũng có khi tac giả dùng lối định vị xưa ma cho bất cư môt địa điểm nào từ quảng tây đến Tứ Xuyên đều có thể là Thục. Thủy kinh chú dẫn Giao Châu ngoại vực ký có ghi là Thục vương tử nước Âu Lạc người sau dịch Thục vương tử là con vua Thục. Nhưng ta cũng có thể hiểu theo cách khác. Thủy tinh chú cũng ghi: “Thanh y vương tử hâm mộ chế độ nhà Hán bèn xin nội thuộc”. Đây là vua Thanh y quyết định việc hàng Hán chứ không phải con của vua Thanh y. Vì vậy cho nên cũng có tài liệu ghi là: “Thục vương đánh Hùng Vương”.
Trong một bài viết tác giả Nguyễn Huy Hinh từng nhận xét “Giữa Giao Châu và ích Châu chỉ hạn chế đến điển, không vượt qua khỏi điền đến Ai Lao di bao giờ, Ai Lao di cũng chưa từng trở thành một nước hùng mạnh và có xu thế phát triển về phía Giao Châu bao giờ.
Ngay nước Điền ở bên cạnh cũng chưa từng có hành động gì vào phía Giao Châu dù Điền rất phát triển. Những thần tích ghi việc Thục Phán cai trị ở Ai Lao là những tài liệu do người sau này viết. Từ Ai Lao ở đây phải chăng là Ai Lao di hay là Lào ngày nay.
Quan điểm thứ ba cho rằng An Dương Vương là người Lạc Việt theo sự gợi ý của sử ký. Tây Âu là nước ở trần. Các sử gia thời bấy giờ khi phân biệt các nhóm tộc thường chú ý đến trang phục của các dân tộc. Mà Tư Mã Thiên cũng như các sử gia đời sau đã mô tả, chúng ta không thấy nói đến nhóm người ở trần nào khác. Người Thục, người Điền đều không ở trần, nhiều tượng người thổi kèn được tìm thấy trong quan tải mộ Việt Khê. Những tượng đồng trên thạp đồng Đào Thịnh v.v… đều đóng khố, đó là một hình thức ở trần.
Đây là một dấu hiệu phân biệt người Âu Lạc với người Nam Việt, người Thục và họ đi đến khẳng định An Dương Vương là người Lạc Việt.
Sáng đến những năm đầu thế kỷ 20 nhiều người tỏ ý nghi ngờ vua Thục và thành Cổ Loa tiêu biểu như Ngô Tất Tố với bài: “Nước Nam không có ông An Dương Vương nhà Thục” hay một số nhà khảo cổ như ông Trương, ông Đỗ cũng nghi ngại thành Cổ Loa hay một bộ phận của nó là thành nhà Hán… nhiều học giả còn phủ nhận sự thật về An Dương Vương và cho rằng đó chỉ là nhân vật trong truyền thuyết. Học giả Pháp Maspéro cũng cho An Dương Vương “ là một nhân vật chưa chắc chắn đã có trong lịch sử, là một ông vua huyền thoại vì sử cũ chỉ chép theo truyền thuyết mà thôi”.
Tuy nhiên tất cả những quan điểm trên còn chứa đựng trong nó quá nhiều mâu thuẫn và nhiều điều chưa hợp lý. Một số cách giải thích mang tính chất giả định cao chưa có những tài liệu hay bằng chứng nào cụ thể. Bởi vậy, hiện nay các nhà nghiến cứu vẫn đang trên con đường kiếm tìm sự thật về nguồn gốc Thục Phán - An Dương Vương.
Một vấn đề còn gây nhiêu tranh cãi giữa các nhà sử học nghiến cứu về thời đại An Dương Vương đó là thời gian tồn tại nước Âu Lạc. Đây là vấn đề cũng được nhiều người quan tâm và tìm hiểu. Họ đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau với những kiến giải riêng. Trong đó nổi bất nhất là ba quan điểm sau:
Âu Lạc ra đời năm 257 TCN, kết thúc năm 208 TCN tồn tại trong khoảng 50 năm.
Âu Lạc ra đời trong khoảng 210 TCN, kết thúc năm 207 TCN, tồn tại trong khoảng 4-5 năm.
Âu Lạc ra đời năm 208 TCN và kết thúc 179 TCN tồn tại trong khoảng 30 năm.
IV. Phạm vi và phương pháp nghiến cứu
1. Phạm vi nghiến cứu
- Nguồn gốc An Dương Vương: thông qua nghiến cứu nguồn gốc tộc người Tày cổ.
- Thời gian tồn tại nước Âu lạc: thông qua việc nghiến cứu thời gian ra đời và kết thúc nhà nước Âu lạc.
2. Phương pháp nghiến cứu
Bài viết có sử dụng một số phương pháp nghiến cứu cơ bản như:
+ Hệ thống
+ So sánh, đối chiếu
+ Lựa chọn dẫn chứng.
+ Phân tích - tổng hợp.
+ Nhận xét, đánh giá.
+ Một số phương pháp khác.
V. Cấu trúc đề tài
Phần 1: Mở đầu.
I. Lý do chọn đề tài.
II. Mục đích nghiến cứu
III. Lịch sử vấn đề
IV. Phạm vi và phương pháp nghiến cứu.
V. Cấu trúc đề tài.
Phần 2: Nội dung:
I. Nguồn gốc Tày cổ của An Dương Vương.
1. Một vài nét về Cao Bằng và tộc người Tày cổ.
2. Văn hóa Tày Thái và văn hóa Việt cổ.
3. An Dương Vương - nguồn gốc Tày cổ.
II. Thời gian tồn tại nước Âu Lạc.
1. Thời gian ra đời.
2. Thời gian kết thúc.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. NGUỒN GỐC TÀY CỔ CỦA THỤC PHÁN - AN DƯƠNG VƯƠNG
1. Một vài nét về Cao Bằng và tộc người Tày cổ
Cao Bằng là một trong 6 tỉnh thuộc chiến khu Việt Bắc, là quê hương cách mạng, là nơi ghi dấu bao chiến công anh hùng của quân và dân ta trong lịch sử. đấu tranh dựng nước và giữ nước. Vốn là một vùng cao nguyên và bình nguyên đá vôi ở biên giới phía Bắc, là miền núi các cánh cung phía Nam và miền “lòng máng” Cao Bằng - Thất Khê - xứ Lạng chạy dài ra phía đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp với tỉnh quảng Tây Trung Quốc, sách Dư địa chí - Nguyễn Trãi 1438 chép “Cao Bằng xa là ngoại địa của bộ Vũ Định, đông bắc tiếp giáp Lưỡng Quảng, Tây Nam tiếp giáp Thái nguyên Lạng Sơn. Có 01 lộ, 4 châu, 273 làng xã. Đây là nơi phên dậu T4 về phương Bắc vậy” ngày nay vị trí chiến lược cao bằng vẫn rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước ……
Cư dân chủ yếu ở Cao Bằng là người Tày. Ngoài ra còn có một số dân tộc ít người khác như Daqo, H’mông, Nùng, Lôlô… Người Tày thực ra xưa kia cùng chung một nguồn gốc trong đại gia đình bách việt. Cái tên gọi Tày theo ước đoán của các nhà nghiến cứu có thể xuất hiện vào nửa cuối thiên niên kỷ thứ I, SCN. Song song với tiến trình phát triển không ngừng của lịch sử dân tộc, lịch sử dân tộc Tày cũng gắn bó chặt chẽ với những thăng trầm trong lịch sử đấu tranh của tộc người Lạc Việt - Một nền văn hóa Tày được tạo dựng từ nhiều yếu tố riêng mang màu sắc đặc trưng. Nhưng bên cạnh đó lại là sự gần gũi gắn bó keo sơn với văn hóa Lạc Việt. Cả hai nền văn hóa này có thể nói đã hỗn dung chộn hòa vào nhau tạo thành một văn hóa đầy màu sắc Tày - Việt, mà những yếu tố thể hiện còn dễ dàng tìm thấy trong lối sống, phong tục tập quán của mỗi người Việt Nam.
Trên mảnh đất Cao Bằng, truyền thống yêu nước, niềm tự hào tự tôn dân tộc sớm đã rực sáng ngay từ buổi đầu giữ nước chông quân Tần xâm lược (cuối thế kỷ II TCN) xuyên qua chiều dài lịch sử đã không ngừng được củng cố, phát huy và đóng góp vào công cuộc bảo vệ nền độc lập tự chủ của dân tộc …
2. Sự gần gũi của văn hóa Tây - Thái và văn hóa Việt cổ
Để hiểu rõ hơn về những đặc điểm tương đồng văn hóa của 2 tộc người Tày- Thái và Việt cổ chúng ta hãy làm một cuộc hành trình vượt thời gian, từ thời đại Âu lạc của An Dương Vương trở lại với thời kỳ dựng nước đầu tiên của các vua Hùng - thời sở sử, nói như cách của PGS.Tài sản Hoàng Lương là để “đi tìm sự lắng đọng của văn hóa thời sơ sử trong các vấn đề văn hóa để từ đó tìm ra mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, giữa tiềm thức và sự kiện hành qua lớp bụi thời gian”. Trong sự hòa chộn và ảnh hưởng lẫn nhau, đã hình thành lên văn hóa Đông Sơn và sự ra đời quốc gia Văn Lang Âu lạc.
Hội nghị nghiến cứu thời kỳ lịch sử Hùng Vương dựng nước, họp tại Hà Nội, ngày 16/12/1968 do Viện Khảo cổ học, viện Sử học, viện Bảo tàng lịch sử trường Đại học Tổng hợp tổ chức đều khẳng định cư dân Văn Lang thời Hùng Vương “là cư dân làm ruộng nước là chính”. Những di chỉ khảo cổ học thuộc văn hóa Văn Lang đều là những di chỉ định cư lâu dài; tầng văn hóa ở đó dày, những đồ gốm lớn rất nhiều, công cụ lao động cũng lắm, lại có những khu mộ táng gần kề những điều này chứng tỏ dcân ta không phải sống bằng nghề lương rẫy”.
Đây quả thực là một đối lập. Tuy nhiên như nhận xét của GS Phạm Đức Dương “nếu giả thuyết rằng chủ nhân của nền văn hóa Phùng Nguyên người nói ngôn ngữ Việt Mường đã áp dụng văn hóa lúa nước của người Tày Thái cổ thì rõ ràng dấu vết văn hóa Môn - Kheme của họ chỉ có thể lưu lại trong ngôn ngữ và văn hóa của người Việt Mường mà hiện nay người Việt và người Mường còn bảo lưu. Còn văn hóa vật chất được lưu lại trong lòng đất (văn hóa Khảo cổ học) lại phản ánh mô hình văn hóa của người trồng lúa nước cư dân Tày Thái, mà chủ nhân nền văn hóa Phùng Nguyên để lại đây là chưa nói tới khả năng chủ nhân nền văn hóa Phùng Nguyên có thể chính là người Tày Thái cổ”. Vậy là có thể khẳng định, từ rất lâu trong quá khứ tộc người nói ngôn ngữ Tày Thái và người Việt cổ đã sống với nhau một cách gần gũi thân quen, giữa họ có sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa và rất có thể họ cùng chung sống trên một địa bàn. Sự có mặt của người Tày Thái cổ trong lớp cư dân Phùng Nguyên - Đông Sơn là một thực tế lịch sử. Do đó quan hệ của họ với các nhóm cư dân khác ở thời kỳ này đã tạo nên một cộng đồng cư dân thống nhất mà người Tày cổ là một thành viên có vai trò quan trọng. Đặc biệt những nguồn sử liệu khác nhau đã nhận ra rằng người Tày Thái cổ không chỉ là chủ nhân của nền văn hóa lúa nước mà thực sự họ còn là cư dân sông nước. Điều này thể hiện rõ nét trong phong tục tập quán, trong đời sống sinh hoạt còn lưu lại của người dân Tày. Tuy hiện nay ho là những tộc người sinh sống trên miền núi cao, song nơi ở của họ luôn được chọn lựa gần nguồn nước, lấy nước làm tiêu chuẩn hàng đầu cho việc lập làng bản. Cũng giống như người Việt người Mường trong ký ức và tiềm thức của cư dân nói tiếng Tày Thái, vẫn lưu lại những hình ảnh liên quan đến nước hay cái thuyền, nó đã trở thành một tín ngưỡng truyền thống của họ. Một trong những biểu hiện của tín ngưỡng đó là hình ảnh của “tô ngược” - trong tiếng Việt là “con thuồng luồng” và câu chuyện hôn nhân giữa nó với người Tày Thái. Có rất nhiều câu chuyện kể về các chàng trai thuồng luồng lấy cô gái Tày - Thái tạo ra dòng giống kết hợp giữa nước và cạn. Rất có thể đay là nguồn cội sinh ra truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ giải thích nguồn gốc người Việt cổ. Sự gần gũi về văn hóa còn t/h ở sự lặp lại tương đối như một mô típ có sẵn của những câu chuyện kể dân gian. Khi nghiến cứu truyện Tấm Cám ở vùng Bắc Giang - Bắc Ninh (xứ Hà Bắc) Cao Huy Đỉnh đã nhận xét rằng “Mặc dù hình tượng cô Tấm ở Hà Bắc đã được lịch sử hóa bằng nhân vật nhất lan phu nhân, nhưng cốt truyện dân gian Tấm Cám ở Hà Bắc lại giống những dị bản cổ của người Tày Thái. (11).
Hình ảnh những chàng trai cô gái khổng lồ có công khai phá tạo lập bản mường cũng phổ biến nhất văn hóa Tày Thái người Việt cổ. Đó là những ông Đùng bà Đà (của người Việt Mường) là Báo Luông Sao cải (Tày), Sơn Tinh, Thánh Gióng… hơn nữa trong lễ hội Thánh Gióng ở vùng Gia Lâm, nhân dân vẫn nhắc tới 2 địa danh mang tiếng Tày Thái là Trại Non” nơi sinh ra Thánh Gióng và nơi thợ rèn áo giáp cho chàng có tên là “Lang Na” (còn gọi là Y-Na) thuộc Quế Võ - Bắc Ninh.
Sự gần gũi ấy còn thể hiện rõ trong lời ăn tiếng nói, ngôn ngữ và cả sự giao tiếp. Như GS Phan Ngọc đã khẳng định “sự tồn tại cạnh nhau hàng ngàn năm nhất định dẫn tới những quan hệ kinh tế văn hóa, chính trị và tất cả những quan hệ này đều tác động đến ngôn ngữ.
Ông nói tiếp “Một điều hết sức quan trọng cần nhân mạnh là nếu nhìn vào lớp từ vựng cơ bản ngoài hệ thống từ chỉ các hiện tượng tự nhiên, cơ thể và sự hoạt động của con người , số đếm… thì trong các ngôn ngữ Việt Mường mà chỉ có các từ chỉ văn hóa săn bắt, hái lượm và hệ thống canh tác lương rẫy, còn lớp từ vựng về văn minh ngôn ngữ lúa nước hoàn toàn không có. Trong khi đó hệ thống từ này trong ngôn ngữ Việt Mường lại có chung 1 gốc với các ngôn ngữ Tày Thái, một số từ có gốc Tày Thái đã nhập vào vốn từ Việt cổ như: Huội/suối, Tây, Đông, cổng/trống… và hàng loạt từ hỗn hợp Việt thái như: Dao/pha, dòn/càn, xin/xỏ, cho/má, trông/coi, cơ/giả… Trên cớ sở gần gũi về ngôn ngữ, cư dân Việt cổ còn tiếp thu những biện pháp canh tác ruộng nước ở các thung lũng của người Tay. Những trò chơi văn nghệ dân gian của ngườiTày Thái cũng hiện diện trong xã hội Việt Mường như: nem còn vòng, chơi đu, cồng chiêng, đánh phết… Nói về điều này cố GS. Trần Quốc Vượng đã khẳng định: “Như vậy có thể thấy rằng tiếng Tày - Thái là một nhân tố cấu trúc q t của tiếng Việt, tộc Tày Thái đã tham gia ngay từ đầu vào sự hình thành và bước đầu phát triển của văn hóa Việt Nam”. Có lẽ đây là một lý do giải thích tại sao An Dương Vương - Thục Phán lên ngôi trị vì thì cả hai tộc người Tày Thái và Việt Mường đã ủng hộ ông.
3. An Dương Vương là người Tày cổ
Sở dĩ chúng tôi có thể nói rằng “An Dương Vương là người Tày cổ” là bởi chúng tôi dựa vào những lý do sẽ trình bày sau đây:
a. Từ truyền thuyết thư tịch đến hiện thực.
Như chúng ta đã biết, vấn đề chúng tôi muốn trìnhbày đã có lịch sử nghiến cứu từ rất lâu, tuy nhiên những nghiến cứu có tính chất bước ngoặt chỉ thực sự bắt đầu khi cách mạng Tháng 8/1945 thành công, công cuộc nghiến cứu về An Dương Vương và Âu Lạc được gắn với bối cảnh chung của lịch sử và thời đại. Nhiều phát hiện mới về tư liệu, đặc biệt là các tư liệu khảo cổ học, dân tộc học đã cho phép các nhà nghiến cứu đặt ra nhiều kiến giải mới.
Trong 1 luận văn nghiến cứu về An Dương Vương công bố 1970 hai nhà nghiến cứu Trần Quốc Vượng và Đỗ Văn Ninh đã viết như sau: “Trong khi đi tìm nguồn gốc tộc Thục, những người nghiến cứu đã đi theo những hướng khác nhưng trong giả thuyết công tác thì mọi người đều nhất trí ở điểm tìm tộc Thục trên cơ sở tìm “láng giềng” của tộc Hùng “người láng giềng này phải có sự gần gũi về đất đai, về văn hóa, chủng tộc…. Nghĩa là có nhiều quan hệ với nhau trong quá trình phát triển”. Trong một luận văn khác “thời An Dương Vương trong quan hệ với Hùng Vương công bố 1971 Trần Quốc Vượng và Đỗ Văn Ninh lại nhận định thêm rằng “Cuộc đấu tranh Thục - Hùng thực chất chỉ là cuộc sung đột nội bộ trong tiến trình hình thành dân tộc phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Căn cứ vào sự ghi chép của lịch sử cũ không thấy nêu rõ sự tình một cuộc chinh phục.
Ngày cả truyền thuyết cũng không coi An Dương Vương như một kẻ thống trị ngoại tộc, căn cứ vào những phát hiện khảo cổ học không thấy một văn hóa vật chất riêng biệt của thời kỳ An Dương Vương. Về mặt tổ chức dân tộc cũng vậy, nhân dân ta bao đời nay đều trân trọng kính thờ cả vua Hùng và vua Thục, vua chúa của các triều đại đều gia phong mỹ tự coi cả Hùng vương và Thục vương là những vị “Hộ quốc tý dân”. Vả lại giả sử An Dương Vương là kẻ ngoại bang xâm lược diệt Văn Lang thì quả thực chúng ta khó có thể hiểu cái lòng sùng bái có lẫn mến thương của nhân dân.
Năm 1963 khi truyền thuyết “Cẩu chủa cheng vùa” (chín chúa tranh vua) của người Tày ở Cao Bằng chính thức được công bố trên tạp chí nghiến cứu lịch sử và nhiều vấn đề về nguồn gốc Thục Phán - An Dương Vương dần dần được sáng tỏ. Theo thuyết này thì Thục Phán là con vua Thục Chế, vua nước Nam vương gồm 10 xứ Mường, trong đó có một xứ là trung tâm là nơi vua ở còn 9 xứ Mường xung quanh do 9 xứ Mường cai trị. Lãnh thổ nước Nam cương thuộc về vùng Cao Bằng và nam Quảng Tây Trung Quốc ngày nay. Thục Chế mất, Thục Phán lên ngôi, tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã dùng mưu trí quy phục 9 chúa Mường xung quanh nước Nam cương. Sau đó Thục Phán lãnh đạo bộ tộc đánh thắng Văn Lang, hợp nhất lãnh thổ lập ra nước Âu Lạc.
Đến nay truyền thuyết này đã được minh chứng bằng các di tích di vật và địa danh cụ thể như: Tổng Lằn (xã Thịnh Vượng, huyện Nguyên Bình), Tống Chúp, Khau Lừa, Cây đa cổ thụ ở Cao Bình, đôi guốc đá khổng lồ ở Bản Thành [14] (các xã Hưng Đạo, Bế Triều, huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng). Sau khi truyền thuyết được công bố, nhiều nhà nghiến cứu đã hướng về vùng núi Bắc bộ để tìm quê hương Thục Phán. Cho đến nay đa số đều tin rằng Thục Phán là thổ lĩnh một liên minh bộ lạc Tây Âu ở vùng núi phía Bắc Việt Nam và nam Quảng Tây Trung Quốc. Một số chuyên gia hàng đầu trước đây cũng bắt đầu điều chỉnh lại chủ thuyết của mình.
GS Đào Duy Anh cho biết: “Sự phát hiện về truyền thuyết ở trên của người Tày đã khiến chúng tôi thay đổi ít nhiều ý kiến trong cái ức thuyết về sự thành lập nước Âu Lạc mà chúng tôi đã trình bày trong lịch sử cổ đại Việt Nam”. Sự điều chỉnh của GS Đào Duy Anh chính là giải thích rõ hơn phạm vi của nước Nam Cương và vai trò của Thục Phán. Ông viết: “Chúng ta có thể nói một cách đại khái rằng miền Nam sông Tả Giang và lưu vực sông Hữu Giang cùng với miền thượng lưu của các sông Lô, sông Gâm, sông Cầu là địa bàn sinh tụ của các bộ lạc Tây Âu, hợp thành bộ lạc liên hiệp Nam Cương mà Thục Phán là thủ lĩnh tối cao”15. Vậy Nam Cương ở đâu và họ là ai? Cái tên Nam Cương đã có từ lâu đời. Giả Đam nhà du lịch nổi tiếng người Hoa đã viết trong sách “Tập đạo chí” về thế kỷ thứ 8 khi kể lại hành trình đường bộ từ phủ Đô Hộ An Nam (thời đó là Tống Bình- Hà Nội ngày nay) lên phía Yên Bái, Lào Cai như sau: “Từ An Nam qua Giao chỉ và Thái Bình, hơn 100 dặm khi tới Phong Châu sau đó đi qua Nam Điền hơn 130 dặm thì tới huyện Âu Lâu. Như thế thì đất Nam Cương chính ở miền Bắc Bắc bộ nước ta. Song Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ 4 tổ chức tại Cao Bằng tháng 7 năm 2006 dưới sự chủ chì của PGS Nguyễn Quang Ngọc, các nhà nghiến cứu đã tiến hành nghiến cứu khảo sát một số di tích và truyền thuyết có liên quan đến huyện Hòa An và thấy rõ sự trùng khít thống nhất giữa di tích và truyền thuyết. Đặc biệt là các câu chuyện về Thục Phán - An Dương Vương và nước Nam Cương đã ăn sâu và ký ức của nhân dân từ lâu đời.
Truyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa nhiều lần mà vẫn bị đổ sau phải nhờ Rùa vàng giúp cách xây thành mới xong, Rùa vàng còn giúp vua diệt yêu quái là tinh gà Trắng. Đó là trong truyện, nhưng một điều kỳ lạ là chính những con vật này lại trở thành những linh vật đầy ý nghĩa biểu tượng trong quan niệm truyền thống của người Tày - Thái. Rùa cũng là con vật mà trong tâm thức dân gian của người Tày là hiện thân của thần linh phò trợ cho con người sản xuất và chống lại kẻ thù, diệt trừ các thế lực yêu ma. Đồng thời là tượng trưng cho ân nghĩa trong cuộc sống. Trái lại, gà trắng bị coi là con vật đem đến tai họa, xui xẻo, gắn liền với bóng đêm và sự chết chóc.
Từ ý niệm đến phong tục tập quán của người Tày về Rùa vàng và gà trắng cho thấy những nét tương đồng có lẽ không phải ngẫu nhiên với nhiều chi tiết trong truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Rùa giúp An Dương Vương xây thành phải chăng là sự nâng cấp cao hơn chuyện Rùa xây nhà. Rùa tiêu diệt yêu tinh cũng là một biểu hiện của quan niệm rùa là thần linh, tượng trưng cho sức mạnh che chở. Có thể đó là lý do giải thích tại sao mái nhà của các dân tộc Tày - Thái thường khum hình mai rùa - một biểu tượng của sức mạnh che chở, bảo vệ. Từ hình ảnh của tinh gà trắng chuyên phá thành hại dân đã trở thành quan niệm của người dân Tày cho gà trắng là hiện thân của bóng tối và cái ác. Trong hội thảo khoa học bằng kết quả khảo sát thực địa ở Cao Bằng PGS Nguyễn Quang Ngọc nói: “Người Tày rất quý và coi trọng con chó. Mỗi khi có công to việc lớn, nhất là khi chuyển cư tìm đất mới, người Tày bao giờ cũng tìm theo sự dẫn đường của con chó nhanh nhẹn, thông minh và chung thủy. Truyền thuyết An Dương Vương chọn đất đóng đô ở Cổ Loa cũng có công của chó dẫn đường, điều đó cũng thêm một dẫn chứng gián tiếp xác nhận nguồn gốc Tày cổ của ông”.
Một truyền thuyết khác phổ biến trong tâm thức dân gian là truyền thuyết Mỹ Châu - Trọng Thủy có nhiều di tích gợi cho ta liên tưởng đến mối quan hệ mật thiết giữa đất Cổ Loa và tộc người Tày Thái xưa. Các nhà nghiến cứu đã xác nhận hình ảnh “một người con gái Tày đánh dấu chỉ đường bằng cách rắc áo lông ngỗng bứt ra từ chiếc áo trên mình, trong sinh hoạt nương rẫy”17 rất gần gũi với chi tiết Mỵ Châu rắc áo lông ngỗng chỉ đường cho Trọng Thủy. Ngay tên “Mỵ Châu” cũng được giải thích là xuất phát từ chữ “Mẻ Châu” trong tiếng Thái nghĩa là “Bà chúa lớn”.
Hiện nay ở Cao Bằng trong nhân dân vẫn lưu truyền huyền thoại về Bế Khắc Thiệu xây thành và làm nỏ thần như một mô tít với câu chuyện Rùa vàng. Tất cả những nét tương đồng trên dần dần làm nguồn gốc Tày cổ cua An Dương Vương ngày cáng xác thực hơn. Có lẽ vì vua là người Tày cổ nên những quan niệm phong tục cổ của người Tày đã được lưu truyền trong vùng đất Cổ Loa, trở thành một phần không thể thiếu trong quan niệm của người dân Âu Lạc.
b. Thành Cổ Loa - một minh chứng hiện thực.
Bắt đầu từ truyền thuyết, chúng ta cùng nhau quay trở lại với tòa thành Cổ Loa cổ kính, huyền bí, ngay cái tên “Cổ Loa” cũng gợi lên nhiều ý nghĩa, liệu rằng Cổ Loa có phải chỉ đơn thuần là thành cổ (xưa) hay không? Nhà dân tộc học Trung Quốc Từ Tùng Thạch tác giả sách “Việt Giang Lưu vực nhân dân sử” cho rằng: chữ cổ là chữ phiên âm của tiếng choang tộc, người ta thường dùng để đặt lên trên một chữ khác làm tên đất. Ví như tỉnh Quảng Đông thì huyện Nam Hải có “Cổ Đỗ”, huyện Thuận Đức có “Cổ Đường”, tỉnh Quảng Tây thì huyện Quế Lâm có “Cổ Trúc”, huyện Dương Sóc có “Cổ Định”, huyện Nghĩa Ninh có “Cổ Lạc”, huyện Liễu Giang có “Cổ Luyên”, chữ Cổ trong tiếng Choang tộc nghĩa là cái. Ông cho rằng ở Việt Nam xưa cũng thường dùng chữ Cổ để đặt đứng đầu những tên đất. Thật vậy ở khu vực Thiệu Hóa - Thanh Hóa đến nay vẫn có những cái Tên như Cổ Bôn, Cổ Định. Cổ Bôn vốn tên tục là Kẻ Bôn khi đặt tên chữ đã thành Cổ Bôn, còn Cổ Định là một làng thuộc huyện Nông Cống tính Thanh Hóa, theo gia phả Họ Lê (Lê Bạt Tứ) thì vốn có tên là Kẻ Ngưa, viết thành chữ Hán rồi sau này đặt tên chữ nho là Cổ Định. Vậy Cổ Loa có phải là Kẻ Loa mà ra? Trong Tiếng Việt có lệ lấy “chữ Kẻ” đặt lên trên một chữ khác để đặt tên một làng, chữ thứ hai này thường chỉ là một đặc điểm gì đó về địa lý hay kinh tế của làng ấy. Ví như Kẻ chợ, Kẻ Noi, kẻ vẽ, kẻ mọc, kẻ xuôi v.v… từ kẻ trong nhiều từ ghép ở trên phiên âm thành chữ Hán có nghĩa là người, là cái, tương tự với chữ Cổ của người Choang từ hàng cùng nguồn gốc với người Tày cổ. Ngay chính địa danh khu vực Cổ Loa cũng gợi ra khá nhiều điểm tương đồng với văn hóa và ngôn ngữ của tộc người Tày - thái. GS Trần Quốc Vượng nhận thấy một số từ thuộc ngôn ngữ Tày cổ còn lưu lại trong địa danh khu vực Cổ Loa, quan trọng nhất là địa danh Làng Viềng (Nam Định). “Viềng” trong tiếng Tày cổ có nghĩa là thành, xuất phát từ việc An Dương Vương xây thành trên đất Cổ Loa. Rất có thể chữ Viềng sau được dân gian dùng để gọi tên một số Làng trong phạm vi khu vực Cổ Loa xưa.
Nhưng điều quan trọng hơn là khi nghiến cứu cấu trúc thành Cổ Loa, các nhà dân tộc học nhận thấy rõ nét tương đồng của nó so với thành của người Thái mang tên thành Xan Mứn xây dựng vào khoảng thế kỷ 13 - 14 trên đất Điện Biên Phủ ngày nay. Cả hai thành về cơ bản đều có 2 lớp lũy thành, thành Xan Mứn được xây dựng trên sông Nậm Rốn có ba vòng là Viêng Công (vòng thành trong), Viềng Tó (vòng thành giữa) và Viềng Nọ (vòng thành ngoài). Đôn canh của thành gọi là “Che”, phía ngoài : “Che” có những lũy bảo vệ gọi là “Dom” Che. Thành Cổ Loa không chỉ giống thành Xan Mứn về cấu trúc mà cả về tên gọi các bộ phận thành. Nhưng từ trong tiếng Tày Thái như Đồn, Tó, Nọ… được biến âm thành Dục Nội, Uy Nỗ, Cường Nỗ, Kinh Nỗ18… như vậy có thể cho rằng người Tày cổ, bộ tộc Tây Âu biết cách đắp thành từ rất sớm và chính An Dương Vương đã đem kinh nghiệm đó xuống vùng đồng bằng. Cuối cùng một thành Cổ Loa cổ kính nhưng đồ sộ kiên cố đã được xây dựng nhờ sự chung sức xây dựng của hai cộng đồng Tây Âu - Lạc Việt. Đây là một minh chứng cho mối liên hệ mật thiết giữa vùng Cổ Loa và vùng Núi phía Bắc, giữa An Dương Vương và người Tày Cổ.
c. Văn hóa tâm thức dân gian và nguồn gốc các vị tướng của An Dương Vương.
Trong tâm thức dân gian vùng Cổ Loa, luôn ghi nhớ về nguồn gốc “người Thượng Du”. “Một tù trưởng miền núi” của vua Thục, thậm chí truyền thuyết con nói rõ Thục Phán - An Dương Vương là người có quê quán gốc tích ở Cao Bằng. Dân gian có nhất đến Cao Lỗ một vị tướng tài năng và thân tín vào bậc nhất, một người anh em kết nghĩa của An Dương Vương - cũng có quê ở Cao Bằng. Nhiều vị tướng của An Dương Vương hoạt động ở Cổ Loa và khu vực xung quanh cũng được dân gian giải thích là người miền núi phía Bắc như Nồi Hầu - một bộ tướng giỏi của An Dương Vương. Người Hương Canh (Vĩnh Phúc) nhưng tổ ba đời lại ở Tuyên Quang. Niệm Hưng, Niệm Hải, hai tướng của Hùng Vương được thờ ở làng Lỗ Khê (Liên Hà - Đông Anh - Hà Nội) cũng từ Cao Bằng chung sống ở đây được một đời.
Nhiều nguồn tư liệu dân gian còn cho thấy lòng kính yêu, tôn sùng sâu sắc của nhân dân đối với Thục Phán - An Dương Vương. Việc thờ cúng An Dương Vương đã trở thành một truyền thống văn hóa tín ngưỡng lớn ở Cổ Loa, lễ tế An Dương Vương hàng năm và cả trong cúng tết của người Cổ Loa không thể thiếu bánh chưng tròn dài mà người Cổ Loa gọi đó là món banh chưng Tày. Lễ hội đền Thượng (6/1) luôn được tổ chức một cách chu đáo và trở thành một lẽ sống thiêng liêng của mỗi người dân Cổ Loa:
“Chết thì bỏ con bỏ cháu
Sống thì không bỏ mùng sáu tháng Giêng”.
II. THỜI GIAN RA ĐỜI, TỒN TẠI VÀ KẾT THÚC NƯỚC ÂU LẠC
Xung quanh thời gian ra đời, tồn tại và kết thúc nhà nước Âu Lạc cũng có không ít những quan điểm khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau trong đó tiêu biểu nhất là 3 quan điểm:
Thứ nhất, nước Âu Lạc ra đời năm 257 và kết thúc năm 208TCN tồn tại trong khoảng 50 năm.
Thứ 2: Âu Lạc ra đời năm 208 - kết thúc năm 179 TCN, tồn tại trong khoảng 30 năm.
Thứ 3: Âu Lạc ra đời năm 210 và kết thúc năm 207 TCN chỉ tồn tại 4 à 5 năm.
Sở dĩ có thời gian khác biệt như vậy là do có chỉ định những mốc hình thành và mốc kết thúc của nhà nước Âu Lạc có khác nhau cụ thể là việc xảy ra và kết thúc của các sự kiện quân sự … Những ý kiến đó hầu hết đều liên quan đến cuộc xâm lược của nhà Tần và ođất Lĩnh Lam.
1. Thời gian ra đời
* Ý kiến thứ nhất cho rằng nước Âu Lạc được thành lập vào năm 257 TCN, những người chủ trương bảo vệ ý kiến này tiêu biểu là Bùi Thiết, trong “Việt Nam thời cổ xưa” lý giải: “Thế lực của Thục Phán vào cuối đời Hùng Vương đạt đến trình độ cao của sự phát triển, và không gian nhỏ hẹp không cho phép để vươn lên nữa, buộc phải “mở thông’ vật cản, gây ra cuộc đụng độ với Hùng Vương, để tràn về đồng bằng. Cuộc đụng độ này là sự thật và cách giải quyết là Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Phán”. Ông phủ nhận việc ra đời của Âu Lạc liên quan đến cuộc kháng chiến chống Tần, và cho rằng: thời gian kết thúc cuộc đụng độ Hùng - Thục là vào giữa thế kỷ thứ III TCN, tức khoảng cuối đời nhà Chu (770 - 221 TCN) dựa vào ghi chép trong “Việt Sử lược”; “Cuối đời nhà Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay, Phán đắp thành ở Việt - Thường, xưng hiệu là An Dương Vương, không thông hiếu với nhà Chu” (19) và Đại Việt sử ký toàn thư tập 1 tr64-70 khẳng định mốc thời gian thành lập Âu Lạc là năm 157 TCN. Theo lập luận của Bùi Thiết thì: “có xác định được mốc khởi đầu như vậy mới cho phép nhà nước Âu Lạc có một thời gian phát triển tương đối hòa bình trong khoảng 30 năm cuối đời nhà Chu, khi tình hình nội bộ Trung Hoa rối ren, trước khi nhà Tần thống nhất trung Hoa 221 TCN.
Nhiều thành tựu kỹ thuật quân sự của nhà nước Âu Lạc đạt được phải là trước năm 221 TCN, như thành cổ Loa được xây liền vào vài năm sau khi thành lập nước Âu Lạc, và phải nhiều năm sau mới xây xong, hoặc mốc bang giao nhà Tần và Âu Lạc thông qua nhân vật Lý Ông Trọng trong truyền thuyết phản ánh, phải xảy ra trong thời bình, trước lúc nhà Tân đánh xuỗng lĩnhngoại vào năm 214 TCN.
Nhưng liệu cách giải thích này đã đủ căn cứ? Bằng những lý lẽ trên Bùi thiết đã phủ nhận hoàn toàn việc nước Âu Lạc ra đời là kết quả của cuộc kháng chiến chống Tần, mặt khác lại quả quyết nó là kết quả của cuộc đối đầu Hùng Vương - Thục Phán và nước Âu Lạc ra đời trước khi nhà Tần thành lập 221 TCN. Tuy nhiên ở đây ông mới giải thích dựa vào một số cứ liệu trong Việt sử lược và Đại việt sử ký, chưa có sự đối chiếu so sánh và trong quá trình phân tích lại đưa ra những lập luận thiên về cái nhìn chủ quan, có phần phiến diện. Bởi nếu ông quá nhấn mạnh đến cuộc đụng độ giữa Hùng - Thục thì tâm lý và tình cảm dân tộc lại có những biểu hiện ngược lại. Nếu ông chỉ dựa vào những bộ sử biên niên trong nước để bảo vệ mốc thời gian 227 TCN - mốc kết thúc cuộc đối đầu Hùng - Thục để hình thành một đất nước chung của 2 tộc người là Tây Âu - Lạc Việt mà Thục Phán An Dương Vương là người đứng đầu là thủ lĩnh tối cao. Vậy thì trong cuộc kháng chiến chống Tần (214 - 208) Thục Phán sẽ là người chỉ huy kháng chiến, lúc đó cần gì phải “cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh nhau với quân Tần [2] trong điều kiện phải cùng nhau đặt người tài năng lên làm tướng như thế thì người “Việt” tức là lạc Việt mà quân Tân gặp đó không thể là một quốc gia như đúng nghĩa mà chỉ là một liên minh bộ lạc, sự tập hợp chính trị còn rất lỏng lẻo. Mặt khác truyền thuyết Lý Ông Trọng nói đến cuộc xâm nhập của Quân Tần vào đất Lạc Việt - Song truyền thuyết nói rằng Tần Thủy Hoàng muốn tấn công An Dương Vương nên An Dương Vương phải hiến Lý Ông Trọng (Lý Thân) để xin hòa, nhưng có phải An Dương Vương thấy không chống nổi quân Tần mà phải xin hàng hay không? Theo sử ký thì nhà Tần “Sai giám sát làLộc Đào Cừ hở lương để vào sâu đất Việt. Người Việt trốn (Quân Tần) trì cửu lâu ngày lương thực bị tuyệt và thiếu. Người Việt ra đánh - Quân Tần đại bại (nhà Tần) bèn sai úy Đà đem quân đóng giữ đất Việt. Đương lúc bây giờ nhà Tân ở phía Bắc thì bị họa Hồ, ở phía Nam thì bị họa người Việt. Đóng binh ở đất Đo dụng tiến không được, thoái cũng không được. Trong nơn 10 năm, đàn ông thì mặc áo giáp, đàn bà thì phải chuyển chở, khổ không sống nổi. Người ta tự treo cổ ở cây dọc đường người chết trông nhau. Kịp thi Tần Hàng đế băng thì cả thiên hạ nổi lên chống”, như thế thì An Dương Vương không thể vì sợ mà chịu thua, chắc chắn đã kháng chiến. Vậy thì cách lý giải của Bùi Thiết và niên đại 257 TCN có phần chưa chính xác.
* Ý kiến thứ 2 cho rằng Âu Lạc ra đời năm 210 TCN, người đại diện cho quan điểm này là một học giả nước ngoài Loausousseau, ông cho rằng: An Dương Vương một mặt nhân cuộc loạn xảy ra ở Trung Quốc sau khi Tần Thủy Hoàng mất để chiếm lấy Tương Quận của nhà Tần mà dựng nước Âu Lạc, thì nước Âu Lạc phải được dựng vào năm 210, là năm Tần Thủy Hoàng chết. Quan điểm này là hoàn toàn vô căn cứ và có thể coi là một sai lầm lớn. Bởi sau khi Tần Thủy Hoàng chết năm 210 - 208, Tần Nhị Thế mới ra lệnh bãi binh. Vả lại L.aurousseau trong khi bảo vệ ý kiến của mình đã đồng nhất Quản Tượng của Tần với Âu Lạc. Tuy nhiên trên thực tế không phải như vậy. Thật ra quân Tần chưa hề đánh thắng An Dương Vương thì làm sao có thể chiếm đất này mà đặt ra tương quận? Sau khi thất bại sử sách ghi nhàTàn đóng quân ở Nam Hải để giữ bờ cõi thế thì họ chưa bước đến vùng sông Hồng ngày nay. Trong sách “Quảng Châu ký của họ Triệu ghi” hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân chính là Âu Lạc” [21]. Như vậy, nói rằng quận Tượng thời Tần chính là Âu Lạc cũng là đồng nhất quận tượng với Giao Chỉ - Cửu Chân sau này. Nhưng 2 quân này được đặt vào năm Nguyễn Đĩnh thứ 6 (111 TCN). Hán thư ghi “Năm Nguyên Phụng thứ 5… mùa thu bãi bỏ quận Tượng, chia nhập vào đất Uất Lâm, Tường Kha” [22], như thế là sau khi lập Giao Chỉ - Cửu Chân tồn tại song song với quận Tượng trong 35 năm thời Tây Hán. Điều đó khẳng định rõ ràng Quận Tượng phải nằm giữa quận Tường Kha và Uất Lâm thì mới có thể chia đôi quân Tượng cho 2 quận này kiêm trị. Bởi thế Quận Tượng không phải là Giao Chỉ hay Cửu Chân - Âu Lạc. Mà nó là một dải đất nằm giữa 2 quận Uất Lâm - Tường Kha, nằm ở phía nam hai tỉnh Quý Châu Vân Nam và phía Bắc tỉnh quảng Tây ngày nay. Do vậy cách lý giải của L’aurouseau là không khoa học. Mà Âu Lạc chỉ có thể thành lập sau năm 210 TCN là kết quả trực tiếp của sự liên minh giữa tộc người Lạc Việt và Tây Âu. Sau cuộc kháng chiến chống Tần thắng lợi, tức là khoảng 208 TCN. Bởi chỉ có như vậy mới giải thích được mối tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa tộc người tây Âu Lạc việt. Chính vì họ vốn gần gũi nhau về dòng máu về địa vị cư trú, về kinh tế - văn hóa, lại có điều kiện đoàn kết chặt chẽ với nhau trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung là quân Tần. Dưới sự lãnh đạo của “người kiệt tuấn” mà họ đã “cùng nhau cử” nên đó là Thục Phán để “đại phá quân Tân và giết được Đồ Thư” dành chiến thắng, buộc nhà Tần phải bãi binh. Đây là thắng lợi đầu tiên của dân tộc ta chống kẻ thù xâm lược. Sau cuộc chiến này, vai trò của Thục Phán ngày càng được nâng cao trong liên minh bộ lạc chống Tần, không chỉ trong bộ lạc Tây Âu mà còn cả trong tộc người Lạc Việt. Vì thế kháng chiến kết thúc trong điều kiện cộng đồng cư dân Tây Âu - Lạc Việt đã hình thành, Thục Phán đã thay thế Hùng Vương, xưng là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc. Bởi vậy Âu Lạc chỉ là sự tiếp nối của Văn Lang. Nó ra đời và được bao bọc trong hào quang chiến thắng. Vì thế không thể coi việc Hùng Vương bị Thục Phán thay thế, Âu Lạc thay thế Văn Lang là cuộc đấu tranh thôn tính hay là cuộc xâm lược của kẻ ngoại tộc. Cách lý giải này hoàn toàn phù hợp với nguồn gốc Tày cổ của An Dương Vương.
2. Về thời gian kết thúc nước Âu Lạc
Giống như thời gian ra đời, những người chủ trương mốc kết thúc nhà nước Âu Lạc vào năm 208 và 207 TCN là dựa vào tư liệu trong Đại Việt sử ký toàn thư và đưa ra lý luận “Triệu Đà phải chiếm được Âu Lạc rồi mới xưng làm Nam Việt Vương tức là năm 207 TCN”. Điều này là không đúng bởi với cuộc hành quân cuối cùng của Đồ Thư - Cử Lộc năm 214 TCN quân Tần chiếm được Lĩnh Nam trừ lưu vực sông Hồng (quốc gia Âu Lạc). Tần đặt ra 4 quận: Mân Trung, Nam Hải, Tượng Quận, Quế Lâm. Triệu Đà được cử làm huyện lệnh Long Xuyên ở quận Nam Hải. Khi nhà Tần đổ, Nam Hải, Quế Lâm, Tượng được Triều Đà khống chế, xây dựng thế lực độc lập của mình, Đà chiếm Tượng và Quế Lâm rồi tự xưng Nam Việt Vương. Triệu Đà có tấn công Âu Lạc nhưng trong thời gian này đặc biệt sau cuộc kháng chiến chống Tần, nước Âu Lạc đã trở thành nước mạnh, có quân đội hùng cường “giỏi cung nỏ thạo thủy chiến”. Năm 1959, phát hiện Khảo cổ học về kho mũi tên đồng vô cùng lớn về khối lượng, tương đối lớn về kích thước là một minh chứng cho câu chuyện nỏ thần. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa với kiến trúc qui mô độc đáo, thế đất hiểm trở. Chứng minh một trình độ khá cao về tổ chức xã hội và văn hóa vật chất, chứng tỏ Âu Lạc có đủ sức chặn đứng cuộc tiến công xâm lược của Triệu Đà, buộc y phải dùng đến âm mưu dùng nội gián như trong truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy để chiếm được Âu Lạc.
Trên thực tế, sử Trung Quốc và Việt Nam đã chứng minh nhân vật Trọng Thủy là hoàn toàn có thật. Mấy cuộc xâm lược của Tần vào Âu Lạc 207 TCN hoàn toàn thất bại, vì thế Âu Lạc không thể mất vào tay cha con Triệu Đà vào năm này. Mặt khác, năm 196 TCN nhà Hán sai lục giả dụ Đà hòa hiếu với Hán, đến đời Cao Hậu (187-180 TCN) Đà đánh nhau với quân Hán. Năm 180 TCN Cao Hậu chết, quân Hán rút. Thừa thế thắng nhưng Đà vẫn phải “dùng sức ép quân sự kèm với mua chuộc bằng của cải khiến Mân Việt và Tây Âu - Lạc Việt phải thuần phục”. Rồi Triệu Đà mới xưng đế. Một thời gian sau khi Hán cường thịnh trở lại sai lục giả trách Đà sao dám xưng đế ngang hàng với vua Hán. Đà trả lời rằng: “ở chốn man di” này ai cũng có thể xưng vương như “Mân Việt ở phía đông có nghìn người và xưng Vương, Âu Lạc ở phía Tây là nước ở trần mà cũng xưng Vương”. Chứng tỏ Âu Lạc không thể mất vào năm 207 TCN, mà ít nhất phải sau khi Cao Hậu chết Triệu Đà xưng đế năm 179 TCN. Điều này còn được khẳng định trên bia khắc đá nhà Triệu với thời gian mở đầu là nam 179 TCN.
Như vậy nước Âu Lạc tồn tại trong suốt khoảng 30 năm từ năm 208 đến năm 179 TCN là khoảng thời gian hợp lý nhất, tức là tồn tại song song với triều Tây Hán, điều này một lần nữa được lý giải bằng những hiện vật Khảo cổ học tìm thấy ở di chỉ Cổ Loa của An Dương Vương có mang những đặc điểm của triều Tây Hán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thường cứ - Hoa Dương quốc chí - Thục chí bản in của vụ Ấn Quan.
2. Đại Việt sử lược - quyển 1 - trang 1a bản dịch, Nxb Văn sử địa, Hà Nội, 1960, tr 14.
3. Đại việt sử ký toàn thư - quyển 1, tờ 6, 11.
4. Đại việt sử ký - quyển 1, tờ 11.
5. Lịch triều hiến chương loại chí - Phan Huy Chú.
6. Việt sử thông giám cương mục - quyển 1 - tờ 7, 8.
7. Tập san nghiến cứu Văn sử địa số 18, 1957.
8. Theo cụ Lạc xóm Vi Giữ.
9. Thủy kinh chú sớ, Thanh y thủy, quyển 36, tr 29.
10. Nguyễn Linh, Ruộng lạc và một vài vấn đề nông nghiệp thời đại Hùng Vương trong Hùng Vương dựng nước, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr 208.
11. Phạm Đức Dương, Cội nguồn mô hình văn hóa.
12. Phạm Đức Dương, nguồn gốc tiếng nói Việt, 131, 129, 130, 123.
13. Hùng Vương dựng nước - tập 3, tr 368.
14. Văn hóa và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái-Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002, tr 54.
15. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1964, tr 20 - 22.
16. Vũ Anh Tuấn, tr 187.
17. Vũ Anh Tuấn, tr 193.
18. Trần Quốc Vượng.
19. Việt sử lược, tr 14.
20. Lưu An - Hoài Nam tử nhân gian huấn, quyển 18.
21. Sử ký sách ẩn dẫn, Quảng Châu ký của họ Triệu Thị Đề, Chú sử kỹ liệt truyện 53, tr 1066.
22. Hán Chiêu Đế, tr 1282.
23. Sử ký Tư Mã Thiên - liệt truyện 53, Nam việt úy đà trong nhị thập tứ xử Bắc Kinh 1958, tr 1066.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lsu10t.doc