Trong tình hình Kinh tế - Chính trị - Xã hội của nước ta lúc bấy giờ thì việc gia nhập WTO có những thuận lợi và những khó khăn nhất định. Đặc biệt trong vấn đề pháp luật thì chúng ta không thể tránh khỏi những thiếu sót khi trong một thời gian ngắn phải ban hành số lượng văn bản lớn như vậy. Trong lĩnh vực hợp đồng cũng vậy. Tuy nhiên điểm thành công nhất của sự thay đổi pháp luật hợp đồng trong thời kì này là đã thống nhất được pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng nói chung và quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại nói riêng
32 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những thay đôỉ cơ bản của pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uật.
Đối với cá nhân phải là người có năng lực hành vi dân sự.Những người có năng lực hành vi dân sự bao gồm:
-Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ ( Trừ trường hợp người đó bị mất năng lực hành vi dân sự hay hạn chế năng lực hành vi dân sự ) thì có quyền tham gia các quan hệ hợp đồng mà pháp luật cho phép.
-Người từ đủ 6 tuôỉ đến dưới 18 tuổi là người chưa thành niên và là chủ thể của quan hệ pháp luật hợp đồng khi được pháp luật cho phép: Đó là những hợp đồng mà phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý ( người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi) và những người từ đủ tuổi 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện quan hệ hợp đồng mà không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
c. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá:
Đó là các loại hàng hoá mà pháp luật cho phép mua bán, trao đổi: có thể đó là các hàng hoá phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, cũng có thể là các loại hàng hoá phục vục mục đích kinh doanh sinh lời. Đối với những hàng hoá phục vụ mục đích kinh doanh sinh lời thì phải thoả mãn là những hàng được phép mua bán, trao đổi (được phép kinh doanh); các loại hàng hoá hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện phải tuân thủ quy định của pháp luật.
d. Khách thể:
Khách thể của hợp đồng mua bán hàng hoá là các hàng hoá đó hay lợi ích thu được từ việc mua bán hàng hoá đó.
2.2. Hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại:
a. Chủ thể:
Hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại là một loại hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng. Chính bởi vậy ít nhất điều kiện về chủ thể của hợp đồng phải đạt đủ điều kiện của chủ thể hợp đồng mua bán hàng hoá nói chung. Do tính chất đặc biệt của loại hợp đồng này nên pháp luật đã quy định chỉ những chủ thể đặc biệt và phải đạt đủ điều kiện thì mới được tham gia quan hệ này.
Trước đây khi nhà nước còn độc quyền về ngoại thương thì chủ thể của các hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Khi nhà nước xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp để chuyển sang cơ chế thị trường thì các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại được phát triển rộng hơn, thể hiện quyền tự do kinh doanh của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Khi đó chủ thể của quan hệ hợp đồng này là các thương nhân: bao gồm cả cá nhân và pháp nhân( các loại hình doanh nghiệp).
b. Đối tượng
Do tính chất đặc biệt của loại hợp đồng này nên đối tượng của hợp đồng cũng khác với hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường. Với hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường thì đối tượng của nó có thể là các loại hàng hoá thông thường hay hàng hoá đặc biệt nhưng số lượng của nó là ít. Nhưng riêng với hàng hoá trong lĩnh vực kinh doanh thương mại thì hàng hoá phải là những loại có số lượng lớn và phải là những loại hàng hoá được phép kinh doanh, đối với những hàng hoá hạn chế kinh doanh hay kinh doanh có điều kiện thì phải tuân thủ những quy định của pháp luật về những hàng hoá đó.
Trong mỗi thời kì khác nhau thì các loại hàng hoá trong kinh doanh thương mại lại khác nhau. Hiện nay theo quy định tại Điều 3 khoản 2 Luật thương Mại 2005 thì hàng hoá đó là: “ Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai”.
c. Khách thể
Nếu khách thể của hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường là hàng hoá và lợi ích thu được từ việc mua bán hàng hoá đó thì khách thể của hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại chỉ là lợi nhuận.
CHƯƠNG II: NHỮNG THAY ĐỔI CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUA TỪNG THỜI KÌ
I. Giai đoạn trước năm 1986
Cho đến nửa đầu thế kỉ XX, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam nhìn chung vẫn được quy định trong một thể thống nhất.
Trong giai đoạn cơ chế tập trung quan liêu bao cấp này thì khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại còn rất mơ hồ. Hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại trong thời kì này không khác với hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường cho mấy. Và pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong thời kì này rất ít, hầu như là không có. Trong thời kì Phong Kiến và trong thời kì Pháp Thuộc thì hầu hết các quan hệ hợp đồng đều được điều chỉnh bởi các phong tục tập quán, các tục lệ, các quy phạm đạo đức.
Trong giai đoạn này thì các quan hệ hợp đồng dân sự hầu như bị bỏ ngỏ và không được chú trọng tới, không một văn bản nào chính thức điều chỉnh các quan hệ này. Điều này cho thấy vai trò và vị trí mờ nhạt của pháp luật dân sự nói chung và pháp luật hợp đồng nói riêng.
Khác với hợp đồng dân sự, với xu hướng coi sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là hai loại hình sở hữu chủ yếu đối với tư liệu sản xuất trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung cùng với mô hình quản lý mà các nhà làm luật Việt Nam tiếp thu từ liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước kia, mộy ngành luật kinh tế ở Việt Nam đã dần được hình thành và kèm theo đó, pháp luật về hợp đồng kinh tế cũng được chú trọng và đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc xât dựng và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa giai đoạn này.
Hợp đồng kinh tế lần đầu tiên được quy định dưới khái niệm “Hợp đồng kinh doanh” theo điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh ban hành kèm theo quyết định số 735/ttg ngày 10/4/1956, đến năm 1960 khái niệm “ Hợp đồng kinh tế” chính thức được sử dụng trong điều kiện tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo nghị định số 54 của Chính Phủ quy định về chế độ hợp đồng kinh tế thay thế cho nghị định số 004/NĐ_TTg.
Với đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế theo kế hoạch tập trung cao độ nên pháp luật hợp đồng kinh tế thời kì này đã phản ánh đúng bản chất và chức năng của hợp đồng khác hẳn với bản chất nguyên gốc của nó.
Về chức năng : Hợp đồng kinh tế là căn cứ thực hiện và hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước.
Về dấu hiệu : Hợp đồng kinh tế được phân biệt với hợp đồng dân sự ở khía cạnh chủ thể và mục đích kí kết hợp đồng. Các chủ thể này kí kết hợp đồng với nhau trên cơ sở sự chỉ đạo của cơ quan quản lý nhà nước. Quan hệ hợp đồng kinh tế thời kì này không phản ánh đúng bản chất của quan hệ hàng hoá, tiền tệ. Hợp đồng kinh tế cũng mất đi giá trị đích thực của mình với tư cách là hình thức pháp lý chủ yếu của quan hệ kinh tế.
II.Giai đoạn sau năm 1986
Bước sang cơ chế thị trường, trong điều kiện đổi mới, khi quyền tự do kinh doanh được xem như một quyên tắc hiến định thì nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng, tính độc lập và tự chịu trách nhiệm về tài sản được coi là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hợp đồng. Cũng chính nguyên tắc đó, cùng nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng, tính độc lập và tự chịu trách nhiệm về tài sản được coi là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hợp đồng. Cũng chính nguyên tắc đó cùng nguyên tắc tự định đoạt của việc giải quyết tranh chấp đã chi phối toàn bộ quan hệ trao đổi của nền kinh tế thị trường. Điều đó dường như đã làm mờ nhạt ranh giới đã được xác định giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự trong cơ chế kế hoạch hoá. Để thích ứng với cơ chế kinh tế mới, hợp đồng kinh tế đã buộc phải xác định lại tiêu chí nhận dạng của nó bao gồm: Chủ thể, mục đích và hình thức hoạt động.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 ngay tại Đ1 đã định nghĩa về hợp đồng kinh tế với bản chất hoàn toàn mới so với trước đây : “ Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu, giao dịch giữa các bên kí kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh có sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng cà thực hiện kế hoạch của mình “.
Như vậy, pháp luật hợp đồng kinh tế trong giai đoạn mới đã phản ánh một cách nhìn nhận hoàn toàn khác về hợp đồng kinh tế, theo đó thừa nhận nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng , thừa nhận địa bình đẳng của các bên tham gia hợp đồng kinh tế và quan trọng hơn đó là gỡ bỏ những ràng buộc về trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng trước nhà nước, hạn chế sự can thiệp và chỉ đạo sâu của nhà nước vào trong mối quan hệ này, thừa nhận mục đích kí kết hợp đồng của các bên là nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của chính mình.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế là văn bản pháp luật có thể coi là đầu tiên điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại một cách rõ ràng nhất.
Nền kinh tế của nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi và ngày một phát triển dẫn đến các quan hệ kinh doanh thương mại cũng phát triển theo đòi hỏi pháp luật phải có sự thay đổi, bổ sung cho phù hợp.
Từ khi có pháp lệnh hợp đồng kinh tế cho đến khi bộ luật dân sự ra đời thì sự khác biệt cơ bản nhất giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế chính là mục đích kí kết hợp đồng. Mục đích kí kết hợp đồng kinh tế là nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh thì mục đích của hợp đồng dân sự chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tiêu dung.
Tuy nhiên, cho đến khi bộ luật dân sự 1995 ra đời ( Bộ luật này được Quốc Hội thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực 1/7/1996 ) thì ranh giới giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự càng trở nên mong manh khó xác định. Khái niệm hợp đồng dân sự bao chum lên khái niệm hợp đồng kinh tế.
Việc khó xác định ranh giới giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự đã làm cho quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại không đi vào cuộc sống hay pháp luật khó được thực thi. Việc khó phân biệt này sẽ tất yếu dẫn đến việc xác định sai quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng và khi sảy ra tranh chấp thì không biết thẩm quỳên giải quyết thuộc về ai, nếu như trong hợp đồng các bên không thoả thuận về phương thức giải quyết tranh chấp.
Trước bối cảnh ấy, khoa học pháp lý Việt Nam đã và đang phải đối mặt với một vấn đề thực tiễn nan giải là : Liệu luật kinh tế có thể tồn tại với tư cách là một ngành luật độc lập hay không? Và số phận của hợp đồng kinh tế trong cơ chế kinh tế mới như thế nào khi mà điều kiện kinh tế xã hội khách quan, nơi mà nó được sinh ra để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung không còn nữa?.
Khi sự tồn tại song song và đồng thời của hai hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự còn đang gây nhiều tranh cãi thì năm 1997, Luật Thương Mại ra đời ( Quốc Hội thông qua ngày 10/5/1997), trong đó điều chỉnh các hành vi thương mại của thương nhân và quy định một số hợp đồng đặc thù trong lĩnh vực thương mại. Có thể nói đây là một văn bản chứa đựng nhiều tư tưởng tiến bộ và phối hợp với quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong bối cảnh luật pháp Việt Nam mà cụ thể là pháp luật về hợp đồng Việt Nam thì sự ra đời của Luật Thương Mại lại góp phần làm rắc rối thêm những khó khăn trong việc áp dụng và thực thi pháp luật hợp đồng. Được xây dựng không dựa trên quan điểm nhất quán nào về mối quan hệ với Luật Dân Sự cũng như không nhằm làm thay thế Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hay dung hoà những mâu thuẫn nội tại trong pháp luật về hợp đồng của Việt Nam, vô tình Luật Thương Mại lại càng làm nổi bật hơn những vướng mắc về mặt lý luận và thực tiễn trong hệ thống các quy định về hợp đồng của chúng ta.
Luật Thương Mại điều chỉnh hành vi thương mại của các thương nhân, đồng thời quy định một số loại hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thương mại với các yêu cầu về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp, thời hiệu giải quyết tranh chấp khá khác biệt. Luật này một phần lặp lại các nguyên tắc của Luật Dân Sự về hợp đồng, mặt khác lại không quy định mộ cách toàn diện và đầy đủ các vấn đề pháp lý có liên quan đến hợp đồng trong khi cũng không dẫn chiếu đến các văn bản điều chỉnh khác. Vì vậy, một số quan hệ hợp đồng thương mại đồng thời cũng rơi vào tầm điều chỉnh của hợp đồng kinh tế, một số khác lại rơi vào phạm vi điều chỉnh của Luật Dân Sự, dẫn đến sự khác nhau trong cơ chế điều chỉnh và áp dụng luật đối với các quan hệ mang bản chất giống nhau.
Để giải quyết vấn đề này và đồng thời đáp ứng theo nền kinh tế mở cửa và đang dần hội nhập với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới thì đòi hỏi nhà lập pháp phải thay đổi pháp luật cho phù hợp.
Theo điều kiện đó thì Bộ Luật Dân Sự 2005 ( Quốc Hội thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 ). Văn bản pháp luật này ra đời và có hiệu lực cũng là lúc chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. Cũng trong năm 2005 thì Luật Thương Mại 2005 (Quốc Hội thông qua ngày 14/6/2005 ) ra đời thay thế cho Luật Thương Mại 1997. Khi hai văn bản này ra đời thì hầu như chấm dứt hay hạn chế tối đa việc quy định lẫn lộn giữa hai loại hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế. Và tại Luật Thương Mại 2005 đã cho thấy rõ nét nhất về những thay đổi của pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại khi Việt Nam sắp trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Những thay đổi này được thể hiện chính thông qua những quy định mới, khác của hợp đồng mua bán hàng hoá trong Luật Thương Mại 2005 so với Luật Thương Mại 1997.
III. Những thay đổi cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại được quy định trong Luật thương mại 2005 so với Luật thương mại 1997.
1. Chủ thể
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá là thương nhân và các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân.
Thương nhân là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định tại Luật Thương Mại 1997 khác với Luật Thương Mại 2005;Theo Điều 17_ Luật Thương Mại 1997 quy định: “ Hộ gia đình, tổ hợp tác có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo quy định của pháp lụât nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân”; Còn theo quy định của Luật Thương Mại 2005 thì hộ gia đình và tổ hợp tác không được xếp là tổ chức hay cá nhân cho nên nó sẽ không phải là thương nhân.
2. Đối tượng
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá là hàng hoá
Theo Điều 5 khoản 3_ Luật Thương Mại 1997 quy định hàng hoá chỉ bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, bán. Theo đó, nhiều loại tài sản khác không được coi là hàng hoá như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, và các chứng từ có giá, bí quyết và các loại tài sản vô hình khác. Việc giải quyết tranh chấp có liên quan đến các loại tài sản này sẽ không được coi là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại theo pháp luật Việt Nam. Như vậy, quy định về hàng hoá của Luật Thương Mại 1997 là đối tượng hẹp so với thông lệ quốc tế, điều này đã gây ra những khó khăn nhất định khi chúng ta gia nhập WTO.
Theo Điều 3 khoản 2_ Luật Thương Mại 2005 đã mở rộng quy định về hàng hoá. Theo đó, hàng hoá bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; và các vật gắn liền với đất đai. Tuy nhiên, khái niệm về hàng hoá vẫn còn hạn chế, chúng ta dễ dàng nhận thấy trong quy định này : Hàng hoá chỉ bao gồm các loại tài sản hữu hình. Như vậy các loại tài sản vô hình khác như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ…..chưa được thừa nhận là hàng hoá. Trong khi đó các văn bản khác như Bộ Luật Dân Sự 2005, Luật Đất Đai 2003 quy định người có quyền sử dụng đất có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp…..thậm chí thừa nhận trên thực tế sàn giao dịch về quyền sử dụng đất.
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá là cách thức thể hiện ý chí thoả thuận giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Nó có thể thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Hình thức văn bản bao gồm cả điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác.
Các hình thức hợp đồng mua bán hàng hoá đó đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho các bên tham gia quan hệ mua bán hàng hoá có thể lựa chọn hình thức phù hợp nhất đảm bảo quyền lợi của mình. Những quy định của Luật Thương Mại Việt Nam phù hợp với pháp luật quốc tế về mua bán hàng hoá, đã bước đầu tạo ra những quy định tương thích với không gian pháp lý quốc tế, tạo điều kiện cho sự hội nhập khi các chủ thể có quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế. Như vậy Luật Thương Mại 2005 đã vượt ra và khắc phục được hạn chế về hình thức hợp đồng do các văn bản pháp luật trước đó quy định về vấn đề này, ví dụ như Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Quy định này cũng khắc phục được hạn chế của Luật Thương Mại 1997. Luật Thương Mại 1997 có sự phân biệt về hình thức giữa hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước với hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài. Hình thức hợp đồng bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể chỉ được áp dụng đối với các hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước. Còn hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài phải được lập thành văn bản và đó cũng là hình thức duy nhất đối với hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài.
4. Nội dung
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá là tất cả những gì mà các bên thoả thuận và pháp luật quy định đối với một hợp đồng, theo đó hình thành nên quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Một hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ có giá trị pháp lý khi thoả mãn tối thiểu những điều kiện về nội dung mà pháp luật quy định. Khi thiếu một trong các nội dung đó thì hợp đồng không thể phát sinh hiệu lực.
Luật Thương Mại 1997 quy định: Hợp đồng mua bán hàng hoá, dù là trong nước hay đối với thương nhân nước ngoài phải có các nội dung chủ yếu sau đây: Tên hàng, số lượng hàng hoá, quy cách, chất lượng hàng hoá, giá cả hàng hoá, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng hoá và các thoả thuận khác. Tuy nhiên, đến Luật Thương Mại 2005 đã không quy định về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá. Trên cơ sở việc xác lập mối quan hệ với Bộ Luật Dân Sự 2005, khi xem xét về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá chúng ta có thể dựa trên các quy định chung của Bộ Luật Dân Sự 2005.
5. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
Giao kết hợp đồng là một bước rất quan trọng trong việc xác lập quan hệ hợp đồng giữa các bên. Nếu giao kết hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật thì quan hệ hợp đồng sẽ không tồn tại, hay nếu khi giao kết hợp đồng các bên không thể hiện được đúng ý định, mục đích của mình thì tất yếu sảy ra tranh chấp. Khi đó sẽ gây cho các bên những thiệt hại không đáng có. Mục đích giao kết hợp đồng không đạt được.
Trong vấn đề đề nghị giao kết hợp và chấp nhận giao kết hợp đồng thì Luật Thương Mại 1997 và Luật Thương Mại 2005 hầu như không có sự thay đổi. Tuy nhiên về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thì có sự khác nhau. Cụ thể là ở Luật Thương Mại 1997 có quy định thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, đó là 30 ngày kể từ ngày chào hàng được chuyển cho bên chào hàng. Nhưng trong Luật Thương Mại 2005 và trong Luật Dân Sự 2005 lại không quy định cụ thể vấn đề này.
6. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại.
Trong quan hệ kinh doanh thương mại nói riêng và trong quan hệ mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại nói riêng thì tranh chấp sảy ra giữa các bên là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy việc quy định cách thức giải quyết tranh chấp là điều rất quan trọng và cần thiết.
Trước khi Luật Thương Mại 2005 ra đời thì cơ chế giải quyết các tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại thuộc sự điều chỉnh của Luật Thương Mại 1997( chương IV) và pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, cùng pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994. Nhưng khi bộ Luật Dân Sự 2005 ra đời đã chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, khi đó cơ chế giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật Thương Mại 2005( chương VII) và Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Và Bộ Luật tố tụng dân sự 2004.
Điều này tạo rất nhiều thuận lợi cho các chủ thể khi tham gia quan hệ này. Bởi có trường hợp do mâu thuẫn thẩm quyền cũng như việc khó khăn khi chọn luật áp dụng cho việc giải quyết những tranh chấp khi nó sảy ra đã làm cho các chủ thể gặp rất nhiều rủi ro, tốn kém. Việc thống nhất pháp luật về hợp đồng nói chung và pháp luật giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại nói riêng cũng là một nghĩa vụ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
CHƯƠNG III. PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI KHI VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO
I. Những cam kết của Việt Nam về lĩnh vực thương mại hàng hoá khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
1. Gia nhập WTO
WTO là tên viết tắt tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới. WTO được chính thức thành lập từ ngày 1/1/1995 theo hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakéh (Marốc) ngày 15/4/1994
WTO ra đời với bốn chức năng chính là:
Thứ nhất: hỗ trợ và giám sát việc thực hiện các hiệp định WTO
Thứ hai: Thúc đẩy sự tự do hoá thương mại và là diễn đàn cho các cuộc đàm phán thương mại.
Thứ ba: Giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên.
Thứ tư: Rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên
WTO là một hệ thống thương mại đa phương, nên việc trở thành thành viên của WTO sẽ đem lại những lợi ích như:
Thứ nhất: Mở rộng cơ hội thương mại với các nước thành viên WTO trên cơ sở được hưởng những ưu đãi do kết quả 50 năm đàm phán từ khi thành lập Hiệp định chung về thuế quan thương mại (GATT) đến nay.
Thứ hai: Tạo ra môi trường kinh doanh ổn định hơn thông qua quan hệ thương mại rang buộc chặt chẽ, các quy định rõ ràng và khả năng dự báo trước.
Thứ ba: Thông qua một cơ chế giải quyết tranh chấp để bảo vệ các quyền lợi cuả mình.
Thứ tư: Thoát khỏi thế cô lập, hội nhập với nền kinh tế thế giới, qua đó nâng cao lợi ích kinh tế và lợi ích các mặt khác.
Thứ năm: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước thông qua việc đặt các doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh, tiếp cận với công nghệ, trình độ, chất lượng quốc tế, đổi mới hệ thống luật pháp, tăng cường thu hút vốn đầu tư dưới các hình thức khác nhau.
Từ những phân tích trên cho thấy Việt Nam cần thiết phải ra nhập WTO để hoàn thiện mình, đưa nền kinh tế đất nước phát triển theo tiến trình phát triển của nền kinh tế thế giới.
Sau 11 năm đàm phán gia nhập WTO thì đến tháng 11/2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới. Và đã tham gia ký kết trên 20 hiệp định thương mại song phương và đa phương.
2. Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO
Để bước vào sân chơi mới thì Việt Nam phải cam kết thực hiện những quy định chung của sân chơi mới này.
Theo kết quả đàm phán, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm mới gia nhập. Tuy nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến Thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh. Thể hiện thông qua các cam kết về thương mại hàng hoá.
Các cam kết chính trong vấn đề đa phương là: Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn hơn 31/12/2018. Tuy nhiên trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo kinh tế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” với ta. Và các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù với hàng xuất khẩu nước ta mặc dù bị coi là nền kinh tế phi thị trường.
Cam kết này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Việc bị coi là nền kinh tế phi thị trường sẽ làm cho hàng hoá xuất khẩu của chúng ta không được bảo vệ. Theo đó các chủ thể của quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mà là bên Việt Nam là bên bán hàng rất không có lợi. Họ rất rễ trở thành bị đơn trong các vụ kiện quốc tế, điều này làm cho họ bị thiệt hại rất nhiều và gây tâm lý không muốn tham gia thị trường thế giới vì họ không được bảo vệ.
Chính vì vậy nhà nước ta phải ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật cho phù hợp với tình hình kinh tế đất nước trong thời đại mới. Đồng thời đó cũng chính là nghĩa vụ của chúng ta. Điển hình là sự ra đời của Luật cạnh tranh, Luật đầu tư, Luật thuế,…..cùng các nghị định hướng dẫn thi hành nhằm nội luật hoá các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên hay các nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế để cho các chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp luật không bị bỡ ngỡ, cũng như tạo sự chủ động hơn cho họ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Gia nhập WTO thì sự thay đổi quan trọng nhất là sự không phân biệt đối xử giữa người Việt Nam và người nước ngoài trong việc tham gia các hoạt động thương mại.
3. Pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại khi Việt Nam là thành viên của WTO.
3.1. Chủ thể
Cam kết khi gia nhập WTO thể hiện rất rõ quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài, không phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Điều này đã làm cho quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá càng phát triển do chủ thể của hợp đồng tăng lên. Cụ thể là trong bản cam kết gia nhập WTO Việt Nam đã cam kết về quyền nhập khẩu và xuất khẩu hàng hoá:” Các thành viên đề nghị Việt Nam cam kết kể từ ngày gia nhập, mọi thể nhân hoặc pháp nhân, dù là thể nhân hay pháp nhân Việt Nam hoặc nước ngoài, đều có quyền trở thành nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu đứng tên trên hồ sơ đối với mọi sản phẩm được phép nhập khẩu vào Việt Nam hoặc xuất khẩu từ Việt Nam, và trong trường hợp nhập khẩu sẽ có quyền bán hoặc cung cấp các sản phẩm đó cho mọi thể nhân hoặc pháp nhân Việt Nam hay nước ngoài, có quyền phân phối các sản phẩm đó. Một thành viên lưu ý rằng hiện tại quyền nhập khẩu đòi hỏi nhà nhập khẩu phải có đầu tư vào Việt Nam. Một thành viên cũng đề nghị Việt Nam xác nhận rằng tới thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, quyền kinh doanh sẽ được quản lí phù hợp với mọi quy định liên quan của WTO. Một số thành viên cũng đề nghị Việt Nam cam kết sẽ giành quyền kinh doanh đối với mọi hàng hoá chịu sự điều chỉnh của cơ chế thương mại nhà nước vào một thời điểm xác định cụ thể trong tương lai và sẽ đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp do nhà nước kiểm soát và các doanh nghiệp được hưởng lợi ích mang tính độc quyền hoặc đặc quyền sẽ tuân theo các tiêu chí thương mại và nguyên tắc không phân biệt đối xử”.
Để trả lời cho vấn đề này thì chúng ta đã cam kết theo các mục từ 137 đến 147 của báo cáo của ban công tác. Theo đó trong lĩnh vực mua bán hàng hoá, Việt Nam thực hiện bằng việc ban hành các văn bản pháp luật để cụ thể hoá cam kết của mình, đó là:
Thứ nhất: Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư trong năm 2005, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế, nhằm thống nhất pháp luật điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hoá trong nước cũng như quốc tế.
Thứ hai: Đại diện Việt Nam lưu ý rằng để có quyền nhập khẩu, các cá nhân hoặc doanh nghiệp muốn trở thành nhà nhập khẩu đứng tên trên hồ sơ không bắt buộc phải đầu tư tại Việt Nam, dù là mức tối thiểu, mà chỉ cần làm thủ tục đăng kí. Theo đó Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 23/2007/NĐ-CP quy định về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, và Nghị định số 90/2007/NĐ-CP quy định về quyền xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam.
Tuy nhiên nếu cá nhân hoặc doanh nghiệp muốn trở thành nhà nhập khẩu đứng tên trên hồ sơ đăng ký để trở thành nhà nhập khẩu đứng tên trên hồ sơ đăng ký, thì cá nhân hay doanh nghiệp đó phải tiến hành đăng ký kinh doanh tại Việt Nam. Theo đó Chính Phủ đã ra Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng kí kinh doanh. Theo nghị định này thì các cá nhân phải thực hiện đăng kí kinh doanh để tham gia xuất khẩu và nhập khẩu; và Nghị định 101/2006/NĐ-CP quy định về đăng kí lại, chuyển đổi và đăng kí đổi giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư. Hai nghị định này giúp cho các bên kinh doanh nước ngoài về mặt thủ tục khi tham gia vào môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Qua đó đối với nhà đầu tư nước ngoài thì giấy chứng nhận đầu tư cũng chính là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Bên cạnh đó chúng ta cũng đã mở rộng phạm vi kinh doanh cho các doanh nghiệp khi họ đăng ký ngành nghề kinh doanh: Các nhà đầu tư trong nước, kể cả là doanh nghiệp hay hộ kinh doanh cá thể, đều được tự do đăng ký mọi ngành nghề kinh doanh, trừ những ngành nghề bị pháp luật Việt Nam cấm. Chính Phủ cũng đã ban hành Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
Ngoài ra Chính Phủ đang dự thảo Nghị định mới nhất trong đó quy định bãi bỏ yêu cầu về vốn đầu tư tối thiểu. Điều này giúp cho các cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài dễ dàng gia nhập thị trường Việt Nam hơn khi rào cản về vốn không còn nữa.
Từ những quy định đó ta có thể khẳng định sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì chủ thể của quan hệ mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại sẽ tăng lên rất nhiều.
3.2. Đối tượng
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá khi Việt Nam là thành viên của WTO cũng thay đổi bởi có sự tham gia quan hệ này của rất nhiều chủ thể nước ngoài. Tuy vậy về cơ bản thì sự thay đổi đó không phải lớn bởi theo quyền tự do kinh doanh của mọi cá nhân và doanh nghiệp, theo đó đối tượng của hợp đông là tất cả những loại động sản, kể cả bất động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai (Điều 3 khoản 2 Luật thương mại 2005). Tuy nhiên không phải tất cả các hàng hóa đó đều được phép kinh doanh. Chính Phủ quy định có những loại hàng hoá kinh doanh có điều kiện và khi gia nhập WTO những loại hàng hoá này được quy định trong Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
Mặc dù chúng ta đảm bảo quyền kinh doanh của cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài nhưng các cam kết đó sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí….
Hay như để bảo hộ nền sản xuất trong nước khi chung ta mới gia nhập thị trường quốc tế, để giúp cho các nhà sản xuất này có thể chuẩn bị thích ứng với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài. Theo đó chúng ta định có một số loại hàng hoá sẽ bị hạn chế nhập khẩu vào Việt Nam cũng như Việt Nam sẽ đánh thuế cao đối với hàng nhập khẩu đó, Ngoài ra chúng ta còn quy định hạn chế định lượng đối với một số hàng hoá mà chúng ta không khuyến khích lưu thông trong nước để đảm bảo mục tiêu an toàn, sức khoẻ và môi trường. Bao gồm cấm, hạn ngạch và chế độ cấp phép nhập khẩu. Ví dụ như : Ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007; Với thuốc lá điếu và xì gà, đây cũng là một phần của chương trình chống hút thuốc nhằm hạn chế sản xuất và tiêu thụ thuốc lá. Chính phủ đã quy định về hạn chế sản xuất và tiêu thụ thuốc lá trong Nghị quyết số 12/2000/NQ-CP ngày 14/8/2000 về chính sách quốc gia phòng chống tác hại của thuốc lá trong giai đoạn 2000-2010 và Nghị định số 76/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001,Việt Nam cũng đã ký Công ước khung về kiểm soát thuốc lá được Tổ chức Y tế thế giới thông qua ngày 25/5/2003 nhằm hạn chế số người tử vong ngày càng cao vì các bệnh liên quan đến thuốc lá. Tuy nhiên sẽ có một doanh nghiệp nhà nước được nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao; Đối với ôtô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm; Đối với hàng dệt may thì các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch đối với ta khi vào WTO, riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trả đũa nhất định. Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của ta. Bên cạnh đó ta cũng đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hoá. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng hoá xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm, trừ ngành dệt may. Ta cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quỳên được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số điều khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4000 tỷ đồng mỗi năm.
Khi gia nhập WTO thì nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thành viên mới. Trong đó có sự thay đổi của pháp luật Thuế nhằm một phần nào nội luật hoá hiệp định chung về thuế quan thương mại (GATT). Cụ thể là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 57/2005/QH11 ngày 29/11/2005. Theo đó pháp luật quy định những loại hàng hoá khi Việt Nam gia nhập WTO thì mức thuế đánh cho các loại hàng đó có sự thay đổi, do đó các quan hệ mua bán đối với các loại hàng hoá này cũng cần phải chú ý.
Trong quan hệ mua bán thì giá cả hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận thu được từ quan hệ mua bán đó, mà lợi nhuận chính là mục đích của quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại. Trong trường hợp nếu như lợi ích không được đảm bảo thì chủ thể của quan hệ đó sẽ không tham gia quan hệ đó nữa. Thuế xuất áp dụng đối với hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá là rào cản lớn trong việc quyết định là có nên tham gia quan hệ đó không.
Trong hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế thì các chủ thể không chỉ quan tâm đến thuế đánh vào việc sản xuất, lưu thông hàng hoá mà còn phải quan tâm đến thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu. Các quy định về đánh thuế hàng hoá nhập khẩu chủ yếu tuân theo Hiệp định GATT. Cụ thể là những cam kết mà Việt Nam đàm phán được trong thương mại qua các hiệp định song phương, nhưng chủ yếu vẫn phải dựa trên nguyên tắc của hiệp định GATT.
Bên cạnh đó chúng ta cũng tuyên bố rằng tất cả các sản phẩm văn hoá được xác định là sản phẩm mê tín dị đoan, đồi trụy hay phản động đều bị cấm sản xuất, xuất khẩu, kinh doanh và lưu thông ở Việt Nam, kể cả vì mục đích thương mại và phi thương mại. Việc cấm này được quy định chi tiết tại một số văn bản bao gồm: Luật xuất bản, Luật báo chí, Pháp lệnh về quảng cáo, Quyết định số 0088/2000/QĐ-BTM ngày 18/11/2000 về quản lý việc xuất nhập khẩu các sản phẩm văn hoá vì mục đích phi lợi nhuận và thông tư số 48/2006/TT-BVHTT ngày 28/4/2006 của Bộ Văn hoá Thông tin hướng dẫn thi hành Nghị đính số 12/2006/NĐ-CP.
3.3. Thực hiện hợp đồng
Trong quan hệ mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại giữa các chủ thể trong nước thì việc thực hiện hợp đồng có thể nói là dễ dàng hơn nhiều so với quan hệ mua bán hàng hoá quốc tế. Theo đó thì các hợp đồng trong nước thuần tuý chỉ áp dụng Luật Thương Mại 2005. Tuy nhiên khi chúng ta gia nhập WTO thì các mối quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển, đòi hỏi chúng ta phải có những quy định phù hợp hơn nữa trong lĩnh vực này. Luật Thương Mại 2005 cũng là văn bản phần lớn là nội luật hoá các cam kết quốc tế, tập quán quốc tế; cụ thể là nội luật hoá Công ước Viên 1980 và áp dụng các điều kiện về giao hàng quốc tế, là các incoterms mới nhất là của năm 2000.
Về giám định trước khi giao hàng: Việt Nam cho rằng Luật hải quan Việt Nam không có quy định nào về giám định trước khi giao hàng. Cơ quan hải quan sẽ không áp dụng kết quả giám định không bắt buộc. Mặc dù trước đó đại diện của Việt Nam cho biết việc giám định trước khi giao hàng có thể được áp dụng trên cơ sở thử nghiệm đối với một số chuyến hàng nhất định nhưng sau đó, đại diện này xác nhận Việt Nam hiện không áp dụng hệ thống giám định trước khi giao hàng và chưa có ý định ban hành văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này. Việt Nam cũng xác nhận rằng nếu đưa ra yêu cầu về giám định trước khi giao hàng thì quy định này chỉ mang tính tạm thời và phù hợp với yêu cầu của Hiệp định về Kiểm tra trước khi gửi hàng và các hiệp định có liên quan khác của WTO. Việt Nam hoàn toàn chịu trách nhiệm đảm bảo rằng các công ty cung cấp dịch vụ giám định trước khi giao hàng hoạt động dưới danh nghĩa của mình sẽ hoạt động phù hợp với các quy định trong các hiệp định của WTO, bao gồm Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm, Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu, Hiệp định về thực thi Điều VI ( chống bán phá giá), Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp chống trợ cấp, Hiệp định về Tự vệ và Hiệp định Nông nghiệp. Việc xây dựng mức phí và lệ phí cũng sẽ phải phù hợp với Điều VIII của Hiệp định GATT 1994 và Việt Nam đảm bảo sẽ áp dụng các yêu cầu về minh bạch và quy trình hợp lý trong các Hiệp định của WTO, đặc biệt là Điều X của Hiệp định GATT 1994. Nhà nhập khẩu có quyền khiếu nại các quyết định của các công ty này giống như các quyết định hành chính của Chính phủ Việt Nam.
Để thực hiện các cam kết này thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về các biện pháp tự vệ ngày 25/5/2002, Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam số 20-2004-PL-UBTVQH11 ngày 29/4/2004. Các văn bản hướng dẫn thực hiện đang được soạn thảo. Các quy định này sẽ được thi hành trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Một nghị định thực thi Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam được ban hành(Nghị định số 90/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005). Nghị định được ban hành nhằm đảm bảo việc tuân thủ Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp chống trợ cấp.
Bảo hiểm hàng hoá: Việc quy định bảo hiểm hàng hoá giúp cho các bên tham gia hợp đồng hạn chế được tổn thất khi sảy ra sự kiện bảo hiểm. Vấn đề bảo hiểm được quan tâm do khi chúng ta gia nhập WTO thì các hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ngày càng tăng lên và rủi ro trong các hợp đồng này là rất lớn. Đặc biệt là các hợp đồng mua bán hàng hoá có điều kiện vận chuyển bằng đường biển. Để điều chỉnh vấn đề này thì chúng ta đã ban hành Bộ luật hàng hải của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 40/2005/QH11 ngày 14/6/2005.
Về thanh toán: Đây là khâu quan trọng nhất trong việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại. Giai đoạn này là giai đoạn mà mục đích của hợp đồng của bên bán được thực hiện. Tuy nhiên không phải lúc nào bên bán cũng nhận được tiền hàng khi đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng. Nhất là khi bên bán và bên mua không có cùng quốc tịch, trụ sở….Và điều này rất thường thấy khi chúng ta gia nhập WTO. Để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì Luật các công cụ chuyển nhượng số 49/2005/QH11 của Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 ra đời.
3.4. Giải quyết tranh chấp
Trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại, mặc dù các chủ thể không mong muốn có sự vi phạm hợp đồng nhưng do nhiều nguyên nhân nên việc vi phạm hợp đồng là rất phổ biến đặc biệt trong thương mại quốc tế. Chẳng hạn như do sung đột pháp luật, do ngôn ngữ, do hoàn cảnh khách quan khác…..mà các bên không thể thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình như đã cam kết trong hợp đồng. Tuy nhiên không phải những vi phạm nào cũng bị áp dụng những chế tài để xử lý. Điều 294- Luật thương mại 2005 quy định những trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm. Ngoài những hành vi này thì các chủ thể vi phạm phải gánh chịu những trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật. Việc quy định chế tài áp dụng cho hành vi vi phạm này có thể đựơc các bên thoả thuận trong hợp đồng hoặc không.
Việc xử lý các tranh chấp này còn phụ thuộc vào việc các bên thoả thuận cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp những thoả thuận này phải không trái với quy định của pháp luật như cơ quan giải quyết tranh chấp phải có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đó. Theo pháp luật hiện hành thì các bên có thể lựa chọn toà án giải quyết theo Bộ luật tố tụng dân sự 2004( thay cho Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994) và pháp lệnh trọng tài 2003, nêú luật được áp dụng để giải quyết các tranh chấp này là luật Việt Nam. Do những ưu điểm của trọng tài so với toà án thì các bên khi lựa chọn cơ quan giải quýêt tranh chấp thường lựa chọn trọng tài. Bởi khi giải quýêt tranh chấp bằng trọng tài thì giúp cho các bên bảo vệ được bí mật kinh doanh của mình, và giảm được chi phí cũng như thời gian cho việc giải quyết này. Bên cạnh đó Toà án lại có những bất cập lớn và không có ưu điểm bằng trọng tài, đó là trình độ thẩm phán còn thấp, không có kinh nghiệm nhiều trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế. Hiện nay đội ngũ thẩm phán của nước ta còn thiếu một cách trầm trọng, Chánh án toà án nhân dân tối cao phải: “cố vơ vét, bổ nhiệm cho đủ” thẩm phán.
Trong quan hệ hợp đồng quốc tế thì vấn đề về sung đột pháp luật là trở ngại rất lớn cho các bên. Và việc giải quyết các tranh chấp đó theo luật nước nào rồi đến việc thực hiện quyết định đó của các bên cũng cần phải được đảm bảo, theo đó Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Quyết định số 453/QĐ-CTN ngày 28/7/1995 về việc tham gia Công ước về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài của Liên hiệp quốc đã được thông qua tại Niu-oóc ngày 10/6/1958.
II. Kiến nghị
1.Thực tế của những thay đổi pháp luật Việt Nam khi gia nhập WTO
Trong quá trình Việt Nam đàm phán gia nhập WTO, Đảng, Nhà nước ta và các bộ, ngành có liên quan đã cố gắng lường trước vấn đề này. Riêng năm 2005 và 2006, Quốc hội nước ta đã đưa việc xây dựng và thông qua các văn bản pháp luật thành nội dung ưu tiên trong các chương trình làm việc. Tính đến ngày 7/11/2006, Việt Nam đã sửa đổi và thông qua 25 luật và pháp lệnh, nên đã tránh được cơ chế giám sát của WTO như đã áp dụng đối với Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam còn phải sửa đổi và thông qua 4 văn bản khác, gồm Thuế thu nhập đặc biệt đối với rượu mạnh và bia; Điều 113 Luật Chính sự liên quan đến bản quyền tác giả. Điều 52 và 104 Luật doanh nghịêp; Luật về hạn ngạch nhập khẩu phim….Tuy văn bản pháp luật nước ta phải sửa đổi và thông qua không theo yêu cầu của WTO không quá lớn, nhưng việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh minh bạch và bảo đảm tính dễ dự báo vẫn đang là đòi hỏi cấp thiết, đặc biệt là việc rà soát toàn bộ các văn bản dưới luật của các bộ, ngành và các địa phương. Đồng thời với việc sửa đổi hệ thống pháp luật, Việt Nam còn phải thực hiện các cam kết của Chính Phủ về cả cách thể chế, minh bạch hoá chính sách, giảm và xoá bỏ những cản trở đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp trong cạnh tranh. Để làm được điều đó cần phải nâng cao năng lực thể chế (năng lực xây dựng pháp luật, chất lượng của bộ máy điều hành, khả năng phối hợp giữa các bộ phận trong bộ máy lãnh đạo và quản lý). Chính trong tình hình này phần nào ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của công việc soạn thảo văn bản theo yêu cầu.
2. Kiến nghị
Trong tình hình như vậy thì sẽ gây khó khăn lớn cho doanh nghiệp trong việc áp dụng pháp luật trong kinh doanh thương mại nói riêng và trong hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại nói riêng. Đó là việc các chủ thể này khi tham gia các quan hệ này thì rất mơ hồ trong việc phải áp dụng pháp luật như thế nào, cũng như do trình độ chưa đủ cao để có thể có thể hiểu hết các quy định chung của quốc tế trong quan hệ mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng. Chính vì vậy nhà nước ta phải có những biện pháp trước mắt là hạn chế những thiếu sót trong hoạt động lập pháp khi chưa ban hành đủ các văn bản hướng dẫn các cam kết quốc tế mà ta đã tham gia, có thể thông qua các lớp tập huấn về các cam kết đó cũng như nhanh chóng nội luật hoá các cam kết đó. Bởi hiện nay có những quy định của pháp luật Việt Nam còn trái với các Điều ước quốc tế, mặc dù theo nguyên tắc sẽ ưu tiên áp dụng Điều ước quốc tế nhưng không phải mọi cá nhân và doanh nghiệp nào cũng biết và hiểu hết các Điều ước mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
Vấn đề nữa là chúng ta cần phải đào tạo đội ngũ thẩm phán nhiều hơn nữa để tránh tình trạng “thừa nghề nhưng thiếu thợ”. Nâng cao uy tín cũng như mở rộng phạm vi lựa chọn ( thực tế ) cho việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại.
KẾT LUẬN
Trong tình hình Kinh tế - Chính trị - Xã hội của nước ta lúc bấy giờ thì việc gia nhập WTO có những thuận lợi và những khó khăn nhất định. Đặc biệt trong vấn đề pháp luật thì chúng ta không thể tránh khỏi những thiếu sót khi trong một thời gian ngắn phải ban hành số lượng văn bản lớn như vậy. Trong lĩnh vực hợp đồng cũng vậy. Tuy nhiên điểm thành công nhất của sự thay đổi pháp luật hợp đồng trong thời kì này là đã thống nhất được pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng nói chung và quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại nói riêng. Trước đây pháp luật về hợp đồng của chúng ta được điều chỉnh theo cơ chế cắt khúc điều chỉnh, có nghĩa là có nhiều văn bản pháp luật cùng lúc có thể cùng được áp dụng để điều chỉnh quan hệ này. Đến nay cơ chế đó đã được xoá bỏ và thay vào đó là tính liên thông, có nghĩa là không có sự chồng chéo văn bản khi điều chỉnh vấn đề này. Thể hiện là chúng ta áp dụng pháp luật theo nguyên tắc: Áp dụng luật chuyên ngành trước, sau đó mới đến luật chung điều chỉnh vấn đề đó. Tuy vậy nếu có Điều ước quốc tế nào điều chỉnh quan hệ này thì phải ưu tiên áp dụng Điều ước đó trước.
Trên đây tôi đã chỉ ra những sự thay đổi cơ bản của pháp luật hợp đồng trong kinh doanh thương mại khi Việt Nam gia nhập WTO. Qua đó giúp chúng ta có thể phần nào hiểu thêm được pháp luật hiện hành điều chỉnh quan hệ này.
Trong quá trình nghiên cứu vấn đề này tôi đã nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo nhiệt tình của thầy Nguyễn Hợp Toàn - trưởng khoa Luật trường Đại học kinh tế quốc dân.
Rất mong các bạn cho ý kiến về bài viết này để tôi có thể hoàn thiện bài hơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Luật dân sự 1995;
Bộ luật dân sự 2005;
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989;
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989;
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994;
Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003;
Bộ luật tố tụng dân sự 2004;
Luật thương mại 1997;
Luật Thương Mại 2005;
Luật doanh nghiệp 1999;
Luật doanh nghiệp 2005;
Luật hàng hải 2005;
Luật đầu tư trong năm 2005;
Nghị định số 12/2006/NĐ-CP về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế;
Nghị định số 23/2007/NĐ-CP quy định về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
Nghị định số 90/2007/NĐ-CP quy định về quyền xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam;
Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng kí kinh doanh;
Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện;
Nghị quyết số 12/2000/NQ-CP ngày 14/8/2000 về chính sách quốc gia phòng chống tác hại của thuốc lá trong giai đoạn 2000-2010;
Nghị định số 76/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 57/2005/QH11 ngày 29/11/2005;
Quyết định số 0088/2000/QĐ-BTM ngày 18/11/2000 về quản lý việc xuất nhập khẩu các sản phẩm văn hoá vì mục đích phi lợi nhuận và thông tư số 48/2006/TT-BVHTT ngày 28/4/2006 của Bộ Văn hoá Thông tin hướng dẫn thi hành Nghị đính số 12/2006/NĐ-CP;
Pháp lệnh về các biện pháp tự vệ ngày 25/5/2002;
Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam số 20-2004-PL-UBTVQH11 ngày 29/4/2004;
Luật các công cụ chuyển nhượng số 49/2005/QH11 của Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005;
Thống nhất pháp luật hợp đồng ở Việt Nam - Thạc sỹ: Đinh thị mai Phương – Nhà xuất bản tư pháp;
Hướng dẫn pháp luật hợp đồng thương mại – Nhà xuất bản lao động;
Incoterms 2000;
Báo cáo của ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO;
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ 2
I.Sự ra đời của pháp luật hợp đồng 2
II. Hợp đồng mua bán hàng hoá 2
1.Khái niệm hợp đồng 2
2. Nội dung của hợp đồng 3
2.1. Hợp đồng mua bán hàng hoá nói chung 3
2.2. Hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại 4
CHƯƠNG II: NHỮNG THAY ĐỔI CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUA TỪNG THỜI KÌ 6
I. Giai đoạn trước năm 1986 6
II.Giai đoạn sau năm 1986 7
III. Những thay đổi cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại được quy định trong Luật thương mại 2005 so với Luật thương mại 1997. 11
1. Chủ thể 11
2. Đối tượng 11
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá 12
4. Nội dung 13
5. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá 13
6. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại. 14
CHƯƠNG III. PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI KHI VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO 15
I. Những cam kết của Việt Nam về lĩnh vực thương mại hàng hoá khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). 15
1. Gia nhập WTO 15
2. Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO 16
3. Pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại khi Việt Nam là thành viên của WTO. 17
3.1. Chủ thể 17
3.2. Đối tượng 20
3.3. Thực hiện hợp đồng 23
3.4. Giải quyết tranh chấp 25
II. Kiến nghị 26
1.Thực tế của những thay đổi pháp luật Việt Nam khi gia nhập WTO 26
2. Kiến nghị 27
KẾT LUẬN 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0175.doc