Nhờ sự giúp đỡ tận tình của thầy cô trên khoa KTNN & PTNT mà trực tiếp là thầy, TS. Trần Quốc Khánh, em tin tưởng rằng bản đề án này sẽ giúp mọi người hiểu rõ được sự cần thiết của chuyển dịch cơ cấu cây trông theo hướng sản xuất hàng hoá ở tỉnh Lào Cai. Hy vong rằng tỉnh Lào Cai sẽ thực hiện thắng lợi trương trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo, vì mục tiên dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
32 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề về việc định hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá của tỉnh Lào Cai trong một số năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trồng theo hướng sản xuất hàng hoá sẽ từng bước xây dựng được một cơ cấu kinh tế tiến bộ ở tỉnh góp phần vào viêc xây dựng một cơ cấu hợp lý của cả nước.
Muôn xây dựng một cơ cấu kinh tế phù hợp với khả năng, thế mạnh của tỉnh, thì việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá là con đường chắc chắn sẽ phải trải qua. Cụ thể là, hạn chế diện tích trồng cây lương thực, phát triển mạnh, đa dạng hoá cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản, cây dược liệu quý hiếm. Đồng thời cũng phải phát triển mạnh ngành công nghiệp chế biến, các ngành nghề, dịch vụ, từng bước biến đổi bộ mặt kinh tế xã hội.
Ba là, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá mới giải quyết tốt việc làm và thực hiên sự phân công lại lao động vận động theo đúng quy luật của nó, không những ở trong địa bàn các huyện mà nó còn góp phần vào việc thực hiện phân công lại lao động xã hội trong toàn tỉnh, vừa là vấn đề kinh tế vừa là vấn đề xã hội. Khi đã chuyển dịch được một cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá sẽ làm cho lực lượng lao động trí tuệ ngày càng tăng lên, vì phải áp dụng nhiều khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất. Lực lượng lao động trọng lĩnh vực nông nghiệp thuần túy hiện nay sẽ dần dần sang lĩnh vực lâm nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp, lao động trông trọt độc canh cây lương thực sẽ giảm xuống, chuyển dần sang lĩnhvực sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu… Đó chính là những lĩnh vực tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Đồng thời chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá có thể thu hút khối lượng lớn lực lượng lao động có kỹ thuật ở nơi khác đến.
Bốn là, chuyển dich cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá sẽ góp phần to lớn trong việc giữ gìn, bảo vệ môi trường sinh thái của tỉnh và các vùng lân cận, bảo vệ tài nguyên rừng không bị tàn phá, đất sẽ không bị rửa trôi, môi trường sinh thái sẽ không ngừng được bồi bổ và phát triển… Đây là điều kiện cơ bản để giữ gìn môi trường sinh thái bền vững của tỉnh, là vấn đề rất đáng lo ngại hiện nay không những ở trong tỉnh mà còn là vấn đề đáng lo ngại trong cả nước.
Năm là, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hang hoá thì đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc trong tỉnh mới được cải thiện, an ninh quốc phòng mới được giữ vững, chĩnh sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mới được thực hiên tốt, khoảng cách chênh lệch về sự phát triển giữa đồng bào các dân tộc trong tỉnh và vùng khác trong cả nước sẽ ngày càng rút ngắn, bản sắc văn hoá các dân tộc trong tỉnh sẽ được tôn trọng và phát triển, kết hợp được bản sắc văn hoá từng dân tộc với nền văn hoá của cả dân tộc Vịêt Nam và tinh hoa của nhân loài.
Sáu là, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá là phù hợp với quy luật phát triển kinh tế xã hội và phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay. Việc chuyển dich cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá là tất yếu khách quan đối với tỉnh Lào Cai đặc biết lại là một tỉnh vùng núi. Điều đó không những là do nhu cầu đòi hỏi và khả năng thực hiện của đông bào dân tộc trong tỉnh mà còn là nhu cầu đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Phần thứ hai
--ìLỉ--
Thực trạng chuyển dịch cơ cấu và những định
hướngvề chuyển dịch cơ cấu câytrồng
theo hướng sản xuất hàng hoá
------ư------
A. Thực trạng chuyển chuyển dịch cơ cấu cây trồng và những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng của tỉnh Lào Cai.
Thực trạng chuyển dịch cơ câu cây trồng của tỉnh.
Trong một số năm vừa qua tỉnh đã đạt được một số thành tựu đáng về chuyển dịch cơ cấu cây trồng, sản xuất hàng hoá đã từng bước được cải thiên và phát triển. Đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần, nhiều điển hình nhân tố mới xuất hiện, làm ăn có hiệu quả băng mô hình sản xuất VACR và một số ngành nghề truyền thống của dân tộc. Đồng bào ở nhiều vùng đã khai thác tiềm năng thế mạnh của mình, tranh thủ đầu tư, giúp đỡ của Nhà nước về vốn, giống kỹ thuật… để phát triển kinh tế. Việc thực hiện các dự án và trương trình phát triển kinh tế xã hội đã giúp đồng bào dân tộc nhiềi nơi phát triển nghề rừng gắn với phủ xanh đất trông đồi nủi trọc, bảo vệ môi trường.
Số hộ nghèo và đói của tỉnh giảm từ 33% năm 1995 suống còn 10% cuối năm 2001.
Song nhìn chung miền núi vẫn là khu vực chậm phát triển. Nền kinh tế về cơ bản vẫn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế còn đơn điệu, năng suất lao động thấp. Những nơi vung sâu, vung xa kinh tế còn ở mức trì trệ kém hơn, mang tính tự nhiên, tự cung tự cấp. Nhiều nơi còn rất nghèo nàn lạc hậu. Đời sống nhân dân còn khó khăn, có nơi tỉ lệ đói nghèo trên 40%, tình trạng thiếu nước sinh hoạt, nước sản xuất diễn ra ở khá nhiều nơi. Khoảng cách về mức sống, trình độ dân trí, trình độ văn hoá giữa vung thấp, vùng đô thị, gần trục lộ giao thông so với vùng cao, vùng sâu, vùng xa không những không được thu hẹp lại mà ngày càng tăng lên.
Vài năm gần đây, khi nhà nước có trương trình 135 đầu tư cho các xã đặc biệt khó khăn thì kết cấu hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng xã hội được nâng lên một bước, nhưng nhìn chung những vùng này vẫn còn tình trạng thấp kém, lạc hậu. Nhiều vùng từ lâu không có đường ô tô hoặc không được mở mang đường xá nên gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất hàng hoá và các tiến bộ xã hội.
Để khắc phục tình trạng khó khăn trên, tạo bước chuyển biến mới về kinh tế xã hội ở tỉnh Lào Cai chúng ta cần thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá.
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng của tỉnh Lào Cai.
1. Những nhân tố tích cực.
Tài nguyên đất đai rất phong phú, đặc biệt là rừng và đất rừng, cùng với diên tích đồng cỏ…có thể tạo điều kiên đạ dạng các loại cây trồng, phát triển nhanh nông, lâm nghiệp và công nghiệp chê biến.
Với vị trí địa lý của mình, tỉnh có khả năng phát triển kinh tế hàng hoá, có thể mở rộng lưu thông hàng hoá ở cả trong vùng và ngoài vùng.
Là tỉnh giàu tài nguyên khoáng sản, trữ lượng và số lượng khoáng sản lớn, có điều kiện phát triển mạnh công nghiệp khai thác và vật liệu xây dựng.
Người dân có tinh thân đoàn kết thống nhất gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống. Đây là truyền thống đã có từ lâu đời của đồng bào các dân tộc. Họ thường xuyên giúp đỡ trong thời điển bân rộn của mùa vụ thông qua đổi công lao động cho nhau; giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoan nạn; trong việc dựng vợ, gả chồng; trong việc xây dựng, cất nhà.
Các dân tộc sống ở các địa hình, các tiểu vùng có thể khác nhau nhưng không độc lập, riêng rẽ, do vậy, tinh thần đoàn kết, quan hệ xã hội được mở rộng không những chỉ trong từng dân tộc mà còn có sự đoàn kết giúp đỡ giữa các dân tộc với nhau.
Khí hậu, địa hình phức tạp hình thành nên nhiều vùng và tiểu vùng, tạo điều kiện cho việc nuôi, trồng những cây, con đặc sản quý hiếm có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, tỉnh còn có nhiều danh lam thắng cảnh tự nhiên tuyệt vời, tạo khả năng tiềm tàng cho sự phát triển ngành du lịch sinh thái, kết hợp với du lịch văn hoá của 27 dân tộc trong tỉnh hết sức sinh động và phong phú, tương lai sẽ là ngành phát triển mạnh và đóng góp tỉ trọng lớn trong giá trị sản phẩm. Điêu kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội có thể xây dựng một cơ cấu cầy trồng theo hướng sản xuất hàng hóa đa dạng và phong phú.
1.Những nhân tố tiêu cực.
Do đặc điểm địa hình phức tạp, núi cao, đồi dốc, khí hậu, thời tiết không thuân hoà gây kho khăn trong xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất quy mô lớn và trong lưu thông tiêu thu hàng hoá.
Dân số thưa thớt, đời sống kinh tế thu nhập quá thấp, dân trí thấp, tỉ lệ mù chữ cao, đời sống văn hoá thiếu thốn…; đầu tư, tích luỹ để tái sản xuất mở rộng thấp vì vậy khó khăn trong việc áp dụng khoa học, công nghệ, đầu tư chiều sâu và cho thị trường tiêu thụ hàng hoá tại chỗ…; hơn thế nữa đồng bào dân tộc còn nhiều tập quán phong tục lạc hậu, nhất là tư tưởng nặng nề của sản xuất tự cung, tự cấp của nền kinh tế tự nhiên, gây rất nhiều khó khăn cho sản xuất hàng hoá ở trong tỉnh.
Tập quán canh tác một vụ, đa số đồng bào chỉ tập trung sản xuất từ tháng 3 đến tháng 10 (âm lịch), còn từ tháng 11 đến tháng 2 (âm lich) bỏ hoang (theo tài liệu của ủ ban dân tộc và miền núi, vùng núi phía Bắc có tới 63% đất canh tác chỉ trồng 1 vụ), lam giảm sản lượng của sản phẩm.
-Tập quán du canh, du cư của một số dân tộc vùng cao đã dẫn đến những tác hại rất lớn. Vì nhu cầu lương thực, nên ngoài cây lúa nước, họ ra sức phá rừng để trồng cây lúa nương, ngô, khoai, sắn…Họ chỉ biết gieo trồng, không có thói quen nuôi dưỡng chăm bón. Do vậy, khi đất đai đã bị rửa trôi, bạc mầu thì họ lại chuyển đến nơi khác để khai phá rừng đầu nguồn, rừng càng già thì đất càng tốt. Phá rừng già, rừng đầu nguồn đó là đối tượng chính của du canh, du cư. Do đó, kinh tế của đồng bào các dân tộc rơi vào vòng “luẩn quẩn”: càng đói thì càng phá rừng, môi trường sinh thái càng huỷ hoại, và càng phá rừng thì đồng bào càng đói.
Tập quán trồng và hút thuốc phiện, đã trở thành tập quán lâu đời của một số dân tộc ít người, đặc biệt đối với người H’ Mông. Thuốc phiện đã đầu độc, huỷ hoại nguồn nhân lực phát triển nền kinh tế hàng hoá, tiêu phí vật chất lớn và huỷ hoại sức khoẻ tinh thần của người dân, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội…trong khu vực.
Sự cố kết trong cộng đồng (gia đinh - dòng họ – làng bản) đã tạo ra sự khép kín trong đời sống kinh tế, kìm hãm sự phát triển của các quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế…, và do đó, kìm hãm cả sự phát triển của kinh tế hàng hoá.
Ngoài ra con tệ nạn tảo hôn, ly hôn, ma chay cúng bái, mê tín dị đoan, hội hè kéo dài… là những tập tục mang tính phổ biến, cũng đã kìm hãm sự phát triển của sản xuật và là một trong những nguyên nhân của sự thấp kém về đời sống kinh tế và tinh thần của đồng bào ở đây.
Kết cấu hạ tầng, nói chung kết cấu hạ tầng ở các huyện trong tỉnh là thấp kém làm cho nền kinh tế hàng hoá không có điều kiện phát triển. Nhất là hệ thống giao thông rất thâp kém, nhiều huyên không có đường giao thông liên xã, liên thôn, các công trình giao thông chất lượng rất thấp kém, quá trình nhựa hoá, bê tông hoá diễn ra còn rất chậm. Do đó gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển kinh tế của vùng.
Về thông tin lên lạc, kém phát triển, sự phát triển của bưu điện, truyền thanh chỉ bằng khoảng 20% mức trung bình của cả nước. “Đói” thông tin càng làm cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá không có điều kiện phát triển.
Về điên và nước, số hộ dùng điện quốc gia cũng quá ít, trung bình tiêu thụ điện của cả nước là 200 kw/người/năm, thì ở Lào Cai chỉ khoảng 35-50 kw/người/năm. Trung bình chỉ khoảng 30% số xã có điện, trong khi trung bình của cả nước là 60,4%.
Về cơ sở hạ tầng xã hội, giáo dục đào tao ở trong tỉnh còn rất thấp kém, biểu hiện là tỉ lệ mù chữ cao. Tình hình giao dục xuống cấp nghiêm trọng, thiếu về số lượng và kém về chất lượng, yêu kém cả về cơ sở vật chất trường lớp, cả về đội ngũ giáo viên và cả đối tượng người học, cả tỉnh chỉ có 70% sô xã có trường cấp II. Tỉ lệ học sinh không đến trường ở độ tuổi đi học cao, tỉ lệ bỏ học của học sinh các cấp lớn, câp học càng cao thì bỏ học càng nhiều.
Y tế và bảo vệ sức khoẻ, tỷ lệ xã có trạm y tê ít. Kết quả là sức khoẻ của người dân miềm núi rất thấp, tỉ lệ tử vong cua trẻ sơ sinh cao, suy dinh dưỡng ở tre em và phụ nữ đang độ tuổi sinh đẻ lớn và tuổi thọ trùng bình của người dân thấp (chỉ bằng 90% tuổi thọ trung bình của cả nước).
Qua sự phân tích trên ta có thể kết luận rằng, để chuyển dịch cơ cấu cây trồng của tỉnh theo hướng sản xuất hàng hoá đòi hỏi tỉnh phải có sự nỗ lực vượt bậc, đặc biệt là sự nỗ lực của các đồng bào dân tộc, đồng thời phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện của Nhà nước.
B. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên phạm vi toàn tỉnh và những định hướng chuyển dịch.
Tỉnh Lào Cai có tổng diện tich đất tự nhiên là: 805000 ha, trong đo diện tích đất nông nghiệp là: 80800 ha, diên tích đất lâm nghiệp là:161400 ha, diên tích đất chuyên dùng là: 7500 ha, diện tích đất khu dân cư: 5000 ha, diện tích đất chưa sử dụng là: 550300 ha.
Tỉnh gồm 10 huyện: thị xã Lao Cai,Bảo Thắng, Văn Bàn, Than Uên, Bảo Yên, Bát xát, Bắc Hà, Si Măng Cai, Mường Khương, SaPa.
Đất canh tác nông nghiêp của tỉnh chủ yếu là những thung lũng, ruông bậc thang và nhưng cánh đồng nhỏ hẹp. Do đó sản xuất lương thực không phải là thế mạnh của tỉnh, mà thế mạnh của tỉnh là phát triển các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu quý hiếm. Do đó việc chuyển dịch cơ câu cây trồng của tỉnh theo hướng sản xuất hàng hoá sẽ đi theo hướng giảm tỉ trọng các loại cây lương thực tăng tỉ trọng các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu…
Nhưng đối với tỉnh Lào Cai là một tỉnh vùng cao, địa hình phân bố rất phức tạp, có vùng địa hình thì rất cao, vùng thì địa hình lại bình thường. Do đó vấn đề ‘chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo vùng’ là một vấn đề rất quan trọng cần được tỉnh quan tâm và thực hiện.
Để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ câu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tỉnh Lào Cai cần phải thực hiện các bước công việc sau:
I. Chuyển dich cơ câu cây trồng theo vùng.
Phát triển sản xuất ngành trông trọt theo hướng đa canh là đúng đắn phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội loài người. Nhưng đa canh phải trên cơ sở sản xuất lớn gắn liền với việc xây dựng các vùng chuyên môn hoá sản xuất. Những cây chuyên môn hoá của vùng là những cây có giá trị kinh tế cao, cây xuất khẩu phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh, cho phép lợi dụng năng xuất tự nhiên, thu về địa tô chênh lệch cao và có điều kiên phát triển với quy mô lớn.
Xây dựng các vùng chuyên môn hoá sản xuất cây lương thực, bao gồm lúa, ngô, sắn… nhằm tạo ra khối lượng nông sản hàng hoá lớn và tỉ xuất hàng hoá cao. Ngoài những vùng sản xuất lúa tập trung, có quy mô lớn, cần mở rộng các vùng chuyên canh trọng điểm có quy mô nhỏ đây là đặc điểm rất phù hợp với miền núi vì đất đai để sản xuất lương thực ở miền núi không tập chung. Đất trồng lúa chủ yếu tập chung ở những thung lũng, mà vấn đề sản xuất lương thực đáp ứng nhu cầu tại chỗ là một vấn đề hết sức quan trọng đối với một tỉnh là vùng núi như tỉnh Lào Cai, giao thông đi lại rất khó khăn, nên vấn đề tiếp cân với lương thực của đông bào là rất khó khăn. Sắn và ngô là hai cây lương thực làm thức ăn chủ yếu cho đồng bào dân tộc vùng cao đông thời là thức ăn gia súc để đồng bào tăng gia sản xuất cải thiên đời sống giảm suy dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em.
Xây dựng vùng chuyên môn hoá sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, cây rau… phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong vùng, làm nhiên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Bên cạnh việc phát triển nâng cao khối lượng và chất lượng nông sản, nguyên liệu cần coi trọng xây dựng và hiên đại hoá công nghiệp chế biến nông sản, áp dụng tiến bộ công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ đó mở rộng thị trường và tăng thu nhập cho người lao động.
Đặc điển nổi bất của vùng chuyên môn hoá các loại cây trồng là có khối lượng hàng hoá lớn và tỉ suất hàng hoá cao, sản xuât luôn gắn với thị trường, vì thế sự nhạy cảm với thị trường trong nước, thế giới và các chính sách kinh tế rất cao.
1. Căn cứ để chuyển dịch cơ câu cây trồng theo vùng.
Đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho sản xuất và chế biến sản phẩm ngành trông trọt bao gồm:
Thuỷ lợi: trên cơ sở quy hoạch, phát triển hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi đồng bộ, năng cao diên tích chủ động tưới và chủ động tiêu, tiến tới tưới tiêu theo yêu cầu phát triển các loại cây trồng trước hết là những vùng có trình độ chuyên môn hoá cao. Đi liền với thuỷ lợi phải thực hiên tốt dự báo khí tượng, thuỷ văn, thực hiện phòng trống lụt bão có hiệu quả.
Mở rộng diên tích gieo trồng giống mới với cơ câu hợp lý.
Phân bón – yếu tố quyết định đến năng xuất cây trồng, cần phải đẩy manh việc cung cấp phân bón cho đồng bào sử dụng trong sản xuất, nâng cao năng xuất cây trồng, nhất là phân hữu cơ, phân vi sinh, đồng thời sử dụng hợp lý phân bón.
Phát triển hệ thống giao thông bao bồm cả hệ thông giao thông liên xã, liên thôn, giao thông nội đồng đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ giới hoá và vận chuyển hàng hoá.
Coi trọng công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch để nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm.
Thực hiên đồng bộ các biện pháp kỹ thuật thâm canh: chú ý biện pháp thuỷ lơi, giống, phân bón, phải đảm bảo về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Làm tôt công tác khuyến nông, nhằm chuyển giao kỹ thuật công nghệ mới cho người sản xuất.
Hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế khuyến khích phát triển ngành trồng trọt như: chính sách giá, thị trường, chính sách vốn, chính sác đất đai.
Hoàn thiên hệ thống tổ chức sản xuất bao gồm: hợp tác xã, hộ gia đình và trang trại.
2. Vùng sản xuất cây lương thực.
2.1. ý nghĩa của vùng sản xuất cây lương thực.
Cây lượng thực chính là cây có hạt, có tác dụng cuôi sống con người và gia súc. ở nước ta cây lương thực chính là: lúa, ngô, đỗ, trong đó lúa là cây lương thực quan trọng nhất. Nhưng đối với đồng bào dân tộc vùng cao thì ngô, sắn lại là cây lương thực rất quan trọng thay cho cây lúa.
Giải quyết vấn đề lương thực có tác dụng rất lớn đối với việc xoá đói, giảm nghèo của tỉnh. Đồng thời nó có tác dụng to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển sản xuất cây lương thực có ý nghĩa to lớn đối với việc củng cố tăng cường khả năng quốc phòng, tăng nguồn dự trữ quốc gia để phòng trống thiên tai. Nhất là đối với Lào Cai là một tỉnh miền núi có đường biên giới với Trung Quốc nên vấn đề an ninh quốc phòng là rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến vấn đề an ninh, quốc phòng trên phạm vi toàn tỉnh. Và khả năng bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Trong quá trình tổ chức sản xuất lương thực cần chú ý những đặc điểm sau đây:
Cây lương thực có vị trí quan trọng, vì thế tỉnh phải coi trọng việc sản xuất cây lương thực đáp ứng nhu cầu lương thực cho đồng bào dân tộc vung cao đảm bảo cho đồng bào dân tộc đủ ăn, giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em. Mặt khác để đẩy nhanh quá trình chuyển dich cơ câu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá thì tỉnh phải tìm các biện pháp để tăng nhanh năng suất ruộng đất, năng suất lao động trong khu vực sản xuất lương thực, nhằm giải phóng từng phần diện tích và sức lao động ra khỏi khu vực sản xuất lương thực. Chuyển lao động từ lĩnh vực sản xuất lương thực thuần tuý sang sản xuất các cây trồng có giá trị kinh tế cao, giá trị hàng hoá cao. Nhưng việc sản xuất cây lương thực vẫn là một vấn đề rất quan trọng đối với đồng bào dân tộc vung cao, vi thế việc phát triển sản xuất cây lương thực để nâng cao chỉ tiêu sản lượng lương thực và mức lương thực bình quân đầu người là đặc biệt quan trọng. Sản xuất lương thực của tỉnh ngoài cây lúa còn phải đẩy mạnh sản xuất ngô, sắn, đậu rất quan trọng đối với việc đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng cho đồng bào dân tộc vùng cao.
Lương thực là nhu câu hàng ngày của nhân dân, điều kiên sản xuất ở miền núi lại có nhiều khó khăn, việc xây dựng các vùng sản xuất lớn là rất khó vì đất đai chủ yếu là đồi vúi, do đó tỉnh cần phải bố trí sản xuất rộng rãi trải khắp địa bàn nhằn tân dụng những vùng đất đai ở những thung lũng, ở ven những con sông, để sản xuất đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, giảm chi phí lương thực cho đồng bào.
2.2. Bố trí sản xuất và cơ cấu sản xuất cây lương thực của tỉnh.
Việc bố trí một cách khoa học sản xuất lương thực theo các vùng trong tỉnh và việc biến đổi cơ cấu sản xuất lương thực phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế của từng vùng, từng địa phương là điều kiên quan trọng để tăng cường và nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành sản xuất lương thực.
a. Bố trí vùng sản xuất lúa.
Lúa là cây lương thực chủ yếu ở nước ta và đây cũng là lương thực quan trọng của đông bào dân tộc tỉnh Lào Cai. Lúa chủ yếu được bố trí sản xuất ở các huyện như: Văn Bàn, Bảo Yên, Bảo Thắng, chiến khoảng 80% diên tích đất gieo trồng của huyện, năng suất tương đối cao khoảng 6 tấn/ha.
Ngoài việc trồng lúa nước thì đông bào dân tộc vùng cao còn phát triển trồng lúa nương trên các đồi cao, đây là loại lúa cho năng suất thấp nhưng chất lượng gạo rất cao. Đây cũng là một sản phẩm đặc sản mà tỉnh có thể phát triển sản xuất để bán cho các vùng khác trong cả nước, tuy năng suất thấp nhưng gia trị của nó lại cao.
Việc phát triển trồng lúa nương là cần thiêt để nâng cao đời sống đồng bào dân tộc trong tỉnh. Nhưng việc phát triển đó cần phải theo một kế hoạch thực sự đúng đắn của tỉnh, vì việc phát triển trồng lúa nương đương nhiên là phải co nương rẫy, do đo không thể tránh khỏi việc bà con dân tộc phá rừng, đốt rừng làm rẫy ảnh hưởng sấu tới môi trường sinh thái, ảnh hưởng sấu tới chủ trương của tỉnh và Nhà nước là thực hiện phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững.
b. Bố trí vùng sản xuất ngô, đậu.
Đối với nước ta ngô là cây lương thưc đứng sau lúa, nhưng đối với đồng bào dân tộc vùng cao thì cây ngô là cây lương thực số một, là thành phần chính trong bữa ăn của người dân tộc, nền việc phát triển sản xuất ngô là rất quan trọng.
Ngô được trồng rộng rãi khắp các địa phương trong tỉnh .Nhưng vùng sản xuất lớn chỉ yếu tập chung ở ven Sông Hồng và ở ven một số con sông khác trong tỉnh, ngoài ra nó còn được trồng rất nhiều ở vùng cao do đồng bào các dân tộc ở đây tự canh tác để phục vụ cuộc sống, họ trồng chủ yếu là ngô nếp, năng suất không cao nhưng ngô ở đây thì rất ngon, có nhiều chất dinh dưỡng.
Cây đậu được trồng không nhiều lắm trong tỉnh, nó được trồng chủ yếu ở vùng thấp như ven sông, vùng đồi thấp, hoặc được trồng sen với ngô trong vụ đông.
Nói chung việc sản xuất cây lương thực trong tỉnh chủ đáp ứng nhu cầu lương thực cho đồng bào các dân trong tỉnh, nhằm đảm bảo vấn đề an toàn về an ninh lương thực trong phạm vi toàn tỉnh. Chứ cây lương thực của tỉnh không có giá trị hàng hoá cao. Nhưng việc xác định cơ cấu sản xuất cây lương thực hợp lý, đảm bảo cho nông nghiệp của tỉnh phát triển một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn lợi tự nhiên, kinh tế của tỉnh. Cơ cấu sản xuất lương thực của tỉnh vẫn còn rất nhiều bất hợp lý và sự chuyển biến tiến bộ còn chậm. Cây lương thực còn chiếm quá nhiều cả về diện tích và sản lượng. Màu còn chiếm tỉ trọng ít và có su hướng giảm trong vài năm gần đây. Điều đó đặt ra sự cần thiết và nhanh chóng biến đổi cơ cấu sản xuất lương thực hợp lý để tạo điềi kiện thúc đẩy và phát triển nhanh một cơ câu nông nghiệp toàn diên có nhiều sản phẩm hàng hoá trong phạm vi toàn tỉnh.
2.3. Khả năng và biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh sản xuất cây lương thực của tỉnh.
Xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ đặt ra đối với sản xuất nông nghiệp của tỉnh là: đảm bảo nhu cầu ăn cho các đồng bào dân tộc trong tỉnh có dự trữ, có dư thừa mang ra để trao đổi hàng hoá, chế biến và phân phối. Việc giải quyêt lương thực của tỉnh không phải chỉ là cây lúa mà có cả màu, không chỉ mở rộng diên tích mả phải đẩy mạnh thâm canh cây lương thực. Để đảm bảo đủ lương thực tỉnh phải thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau đây:
Phải cử cán bộ có chuyên môn kỹ thuật về tân nơi (tân xã, thôn, làng, bản) hướng dấn bà con từng bươc trong quy trình kỹ thuật về sản xuất các loại cây lương thực.
Thực hiện xoá mù chữ cho đồng bào các dân tộc trong tỉnh.
Thực hiên các trương trình phát thanh dạy cách làm nông nghiệp ở trên vùng đồi cao, cho bà con dân tộc nghe và học cách làm.
Hướng dẫn bà con tăng gia sản xuất thêm các loại vật nuôi như: dê, bò, ngựa… rất thích hợp với vùng núi.
Xây dựng các trương trình, dự án thực sự đúng đắn để giúp bà con vùng cao có được phương hướng sản xuất tốt nhất.
3. Vùng sản xuất cây công nghiệp.
3.1. ý nghĩa của vùng sản xuất cây công nghiệp.
Cây công nghiệp có vị trí quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu có giá trị cho công nghiệp và thủ công nghiệp như: cây sở, cây chẩu, cây quế…; cây mía, cây lạc, cây vừng, cấy đậu tương… dùng cho công nghiệp chế biến thực phẩm; đặc biệt là cây thuốc là thế mạnh của vùng dùng cho công nghiệp dược liệu… nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trước hết là đáp ứng nhu cầu về ăn, măc mặt khác là đáp ứng nhu cầu cho sản xuất hàng hoá thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuât hàng hóa của tỉnh.
Việc phát triển sản xuất cây công nghiệp cho phép sử dụng hợp lý có hiệu quả tư liệu sản xuất, đất đai, khí hậu, lao động… góp phần cải thiên đời sống, tăng thu nhập cho người lao động.
Phát triển sản xuất cây công nghiệp còn góp phần thực hiện phân công lao động xã hội trong nông nghiệp và chuyển dịch sản xuất nông nghiệp.
Việc phát triển sản xuất cây công nghiệp cần phải chú ý đến những đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sau:
Cây công nghiệp đòi hỏi quy trình kỹ thuật cao từ khâu sản xuất bảo quản và chế biến để đáp ứng yêu cầu của công nghiệp về mặt chất lượng.
Cây công nghiệp đòi hỏi điều kiện tự nhiên khắt khe hơn, vì vậy phải có sự bố trí sản xuất phù hợp với điều kiện tự nhiên.
Cây công nghiệp đòi hỏi trình độ thâm canh cao, đầu tư lao động sống và lao động vật hoá hợp lý và có chất lượng.
Cây công nghiệp nhất là cây công nghiệp dài ngày đòi hỏi nhiều vốn đầu tư trong thời kỳ xây dựng cơ bản và do vậy cây công nghiệp dài ngày thường có chu kỳ kinh doanh dài, do đó thời gian thu hồi vốn cũng dài. Cần phải có quy trình kỹ thuật thích hợp cho cả chu kỳ sản xuất.
Điều kiên tự nhiên của tỉnh Lào Cai cũng thích hợp với một số loại cây công nghiệp như: cây sở, cây quế được trồng ở nhiều nơi trong tỉnh với trữ lượng tương đối lớn. Nhưng một vấn đề đặt ra ở tỉnh là vấn đề đầu ra cho sản phẩm cây công nghiệp, một vấn đề bức súc không chỉ ở tỉnh Lào Cai mà nó còn là vấn đề nặng lên vai những người làm nông nghiệp trong cả nước ta. Đây là vấn đề rất khó khăn cần phải có định hướng cụ thể của tỉnh và Nhà nước.
3.2. Bố trí sản xuất và cơ câu sản xuất cây công nghiệp của tỉnh.
Cây công nghiệp của tỉnh Lào Cai được bố trí rộng khắp trong tỉnh. Cây lấy dầu được bố trí ở các huyện như: Bảo Thắng, Bát Xát, Bảo Yên, Mường Khương, Văn Bàn, SaPa, Bắc Hà với trữ lượng tương đối lớn; cây dược liêu của tỉnh Lào Cai rất phong phu và đa dạng được bố trí sản xuất chủ yếu ở ba huyên: Sa Pa, Bắc Hà, Xi - Măng Cai với trữ lượng tương đối lớn.
Đã có rất nhiều hộ gia đình, đồng bào dân tộc làm dầu bằng trồng cây thuốc đặc biệt là trồng các loại cây như: thảo quả, trồng cây tam thất, trà a-ti-sô, sâm, trà dây và nhiều cây dược liệu quý hiếm khác mà chỉ vùng này mới có.
Nhưng một vấn đề rất kho khăn cho tỉnh là vấn đề phát triển sản xuất hàng hoá lớn, đồng bào dân tộc chỉ thấy cây nào có lợi thì họ trồng không có một quy hoạch cụ thể, nên vấn đề giá thành biến đổi lớn không theo một quy luật nào cả.
Để giải quyết vấn đề trên, nhất là vấn đề đầu ra cho sản phẩm này thì tỉnh phải có quy hoạch, có phương án cụ thể khai thác thế mạnh đặc biệt này của tỉnh.
Riêng đối với cây dược liệu muốn đẩy mạnh mở rộng sản xuất, nâng cao giá trị sản phẩn thì tỉnh phải thực hiên một số biên pháp sau:
Thực hiện quy hoach và phân vùng sản xuất một cách khoa học.
Thực hiên thống kê các loại cây thuôc có giá trị kinh tế cao, những cây đặc thù của vùng, để thực hiện bố trí sản xuất cho phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, nhằn khai thác một cách đầy đủ và khoa học các điều kiên tự nhiên của tỉnh.
Thực hiên chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào vay vốn với lãi suất thấp phát triển sản xuất.
Xây dựng viên nghiên cứu ứng dụng những thành tựu của công nghệ sinh học vào sản xuất, phổ biến những phương thực canh tác hiện đại, phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh cho đồng bào các dân tộc.
Phải đưa cán bộ co trình độ chuyên môn cao về tân những Bản, Làng trực tiếp hướng dẫn bà con cách canh tác.
Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất hàng hóa, nhất là hệ thống giao thông liên xã, liên thôn.
3.3. Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh sản xuất cây công nghiệp ở tỉnh Lào Cai.
Đứng trước yêu câu của nền kinh tế hàng hoá. Ngành sản xuất cây công nghiệp của tỉnh cần phát triển mạnh mẽ theo hướng vừa thực hiện thâm canh tăng năng suất vừa mở rộng diện tích để đáp ứng yêu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và yêu cầu nguồn hàng hóa xuất khẩu của tỉnh ngày càng tăng.
Để thực hiện phương hướng trên, tỉnh Lào Cai cần phải chú ý thực hiện các biện pháp chủ yếu sau:
Từng bước chuyển đổi cơ cấu sản xuất cây công nghiệp hợp lý. Điều kiện tự nhiên: đất đai, khí hậu, thời tiết của tỉnh cho phép phát triển tập đoàn cây công nghiệp tương đối phong phú: cây lấy đường, cây lấy dầu, cây thuôc và cây đặc sản. Vì vây, để phát triển hiệu quả sản xuất cây công nghiệp trong tỉnh cần phải biến đổi hoàn thiện về cơ cấu sản xuất, chọn những cây chủ lực có lợi thế so sánh cao để phát triển tập chung quy mô lớn. Song cũng cần kết hợp phát triển tổng hợp các cây trồng khác để lợi dụng hiệu quả các điều kiện về tự nhiên và kinh tế của tỉnh.
Trên cơ sơ phân vùng cần chú ý tiến hành quy hoạch để hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hoá có quy mô hàng hoá lớn, nhất là những cây công nghiệp chủ yếu kể cả cây công nghiệp ngắn ngày và cây công nghiệp dài ngày.
Đẩy mạnh thâm canh sản xuất cây công nghiệp vừa để tăng khối lượng sản phẩm, vừa nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất. Đối với cây công nghiệp lâu năm cần thực hiện thâm canh ngay từ đầu, thâm canh liên tục và toàn diện.
Coi trọng công tác chế biến, mạnh dạn đầu tư, trang bị hệ thống máy móc hiên đại, có công nghệ tiên tiến để đảm bảo chất lượng chế biến cao. Tăng cường công tác bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm.
Hoàn thiên từng bước các chính sách kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích cho người sản xuất, thực sự tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất cây công nghiệp phát triển .
4. Vùng sản xuất cây ăn quả.
4.1. ý nghĩa của vùng sản xuất cây ăn quả.
Hoa quả là sản phẩm nông nghiệp rất cần thiết cho đời sống của con người. Mỗi loại hoa quả đều có hương vị khác nhau và được sử dụng dưới dạng tươi sống là chính và dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thực phẩm để chế biến rượu quả, nước giải khát, bánh keo, đồ hộp… rất có giá trị.
Phát triển cây ăn quả góp phần tăng giá trị sản phẩm hàng hóa, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Việc phát triển sản xuất cây ăn quả của tỉnh cần chú ý những đặc điểm kinh tế kỹ thuật sau:
Cây ăn quả đòi hỏi những điều kiện tự nhiên như sau: đất đai, thời tiết, khí hậu… rất khắt khe, vì vậy, việc bố trí sản xuất phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, theo phương châm đất nào cây ấy.
Trong quá trình sản xuất đòi hỏi trình độ thâm canh cao, quy trình kỹ thuật chặt chẽ, sự chăm sóc kỹ lưỡng từng ngày của người lao động.
Là loại sản phẩm chứa nhiều nước, dễ hư hỏng, nhưng lại yêu cầu đảm bảo chất lượng tươi, tiêu dùng ngay và thường xuyên; vì vậy, đòi hỏi phải tổ chức tốt khâu thu hái, chế biến và tiêu thụ sản phẩm với trình độ kỹ thuật cao.
Việc tổ chức sản xuất nếu có điều kiện phải hình thành vùng chuyên môn hoá để tiện lợi về mọi mặt và đạt được hiệu quả kinh tế cao.
Sản xuất cây ăn quả đòi hỏi các chính sách kinh tế phải linh hoạt để kích thích người sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm nhất là sản phẩm hàng hoá và hạn chế tính thời vụ trong sản xuất.
4.2. Bố trí sản xuất và cơ cấu sản xuất cây ăn quả của tỉnh Lào Cai.
Cây ăn quả ở tỉnh Lào Cai tập chung chủ yếu ở ba huyên: SaPa, Bắc Hà, Bảo Yên, chủ yếu là trồng các loại cây ăn quả như: cam, mận, đào, lê với trữ lượng tương đối lớn.
Do điều kiện của thiên nhiên ưu đãi mà cây ăn quả rất phát triển ở những huyên này. Những đời sống của nhân dân các huyên này thì không phải là sung túc cho lắm.
Câu hỏi đặt ra cho các nhà lãnh đạo của huyện và của tỉnh Lào Cai với điều kiện tự nhiên ưu đãi như thế mà nhân dân không thể làm giầu trên ngay mảnh đất quê hương mình.
Vung mận ‘Tam Hoa’ ở Bắc Hà nổi tiếng cả nước về chất lượng mân thơm, ngon. ‘Nhưng thử hỏi người dân ở nhưng khu kinh tế phát triển như: Hà Nôi, và các tỉnh lân cận đã ai ra ngoài chợ mua hoa quả mà thấy cửa hang hoa quả nào đề ở đây bán mân ‘Tam Hoa’ của Bắc Hà tỉnh Lào Cai không thì rất hiếm người biết, con số người biết có thể đếm trên đầu ngón tay’.
Trong vụ mận vừa qua nhân dân của huyên rất được mùa nhưng lợi nhuận có khi lại giảm. ‘Tôi đã từng ở huyên Bắc Hà chứng kiến trong mùa mận năm 2002 kéo dài khoảng gần hai tháng, từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 7 (dương lịch), lúc bình thương giá mỗi cân mân khoảng từ 2 – 3 ngàn(vnđ) thì người dân còn có lãi, nhưng đang lúc mận chín rộ khoảng nửa đầu tháng 6 thì lúc này là mùa mưa đường bị sạt, lở xe trở mân không hoạt động được giá mận hạ xuống chỉ còn có 500 (vnđ)/1kg, mà còn không có ai mua’. Như thế thì người dân làm sao có thể làm giầu được.
Do đó, để đẩy mạnh việc phát triển vung sản xuất cây ăn quả của huyện Bắc Hà em mạnh dạn đề xuất một số biện pháp sau đây:
Thứ nhất, là vấn đề đầu ra cho sản phẩm hàng hoá: tỉnh phải đẩy mạnh việc hỗ trợ người sản xuất trong việc nghiên cứu thị trường đầu ra, cung cấp các thông tin về thị trường đến từng người sản xuất.
Xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là hệ thống đường giao thông (liên huyện, liên xã, liên thôn), đây là điểm khó khăn nhất của các tỉnh miền núi. Nên cần có sự quan tâm hỗ trợ của Đảng và Nhà nước.
Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng sinh học vào sản xuất.
Đưa cán bộ có chuyên môn kỹ thuật lên tân Xã,Thôn hướng dẫn bà con, cung cấp cho bà con những kiến thức về sản xuất cây ăn quả.
4.3. Phương hướng, biện pháp chủ yếu đẩy mạnh sản xuất cây ăn quả.
Khả năng phát triển cây ăn quả của tỉnh là rất to lớn. Thực trạng phát triển cây ăn quả của tỉnh mấy năm gần đây cũng có rất nhiều cố gắng, nhưng chưa tương sứng với tiêm năng hiện có của tỉnh. Vì vậy, phương hướng phát triển cây ăn quả của tỉnh là: tiếp tục đẩy mạnh hơn cữa cây ăn quả, vừa theo hướng thâm canh tăng năng suất cây trồng, vừa mở rộng diện tích cây ăn quả, từng bước xây dựng và hoàn thiện những vùng sản xuất chuyên môn hoá quy mô lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày cằng tăng của nhân dân, nhu câu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu ngày càng nhiều với chất lượng cao.
Nhằm thực hiên phương châm trên cần thực hiện các biện pháp chủ yếu sau:
Trên cơ sở lợi thế so sánh của tỉnh, tiến hành quy hoạch, phát triển một cách hợp lý các vùng sản xuất cây ăn quả tập chung có quy mô lớn nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường.
Xây dựng cơ câu sản xuất cây ăn quả hợp lý xuất phát từ nhu cầu thì trường, song lại phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế của từng khu vực trong tỉnh, nhằm sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng của địa phương.
Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật để thực hiên thâm canh có hiệu quả, xây dựng và thực hiên quy trình thâm canh cho từng loại cây ăn quả, song phải phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng khu vực.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và công nghệ hiện đại để làm tốt các khâu vận chuyển, bảo quản và chế biến hoa quả, nhằm nâng cao chất lượng và giá trị hoa quả trên thị trường.
Xây dựng và hoàn thiện các chính sách kinh tế phù hợp để thúc đẩy phát triển sản xuất cây ăn quả như: chính sách đất đai, chính sách vay vốn, chính sách thị trường đầu ra cho sản phẩm...
5. Vùng sản xuất rau.
5.1. ý nghĩa của vùng sản xuất rau.
Rau có vị trí quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của người dân ta. Rau sử dụng làm thức ăn tươi hoặc sử dụng dưới dạng chế biến và làm nguyên liệu cho công nghệ thực phẩm.
Vì vậy, việc phát triển sản xuất và bố trí sản xuất phải hợp lý để vừa thuận tiên cho việc thâm canh vùa thuân tiện cho việc tiêu thụ sản phẩm…
5.2. Bố trí sản xuât và cơ câu sản xuất rau.
Rau chủ yếu được trồng ở ven sông hồng quanh thị xã và ở huyện SaPa. Với điều kiên tự nhiên tương đối ưu đãi cho phép đa dạng hoá các loại cây rau, do đo rau ở thị xã Lào Cai là rất phong phú.
Mặc dù có điều kiên tự nhiên ưu đãi nhưng sản xuất rau ở tỉnh vẫn không phát triển cho lắm. Điều này cũng dễ giải thích vì tỉnh Lào Cai ở gần Trung Quốc là nước có rất nhiều loại rau, chất lượng cũng không tồi cho lắm, nhưng số lượng và chủng loại thì rất là nhiều, đa dạng và phong phú, giá thành thì lại thấp. Nên người dân trong tỉnh chủ yếu là dùng rau xuất từ Trung Quốc xang.
Tỉnh Lào Cai muốn phát triển sản xuất rau thì chủ yếu đi vào sản xuất một sô loại rau đặc sản, trồng ở khu vực huyện SaPa. Nên theo em phát triển sản xuất rau của tỉnh thì cũng cần thiết nhưng khônh quan trọng lắm, do đo ta không cần mở rộng diện tích sản xuất rau mà chú ý đi vào phát triển theo chiều sâu.
Tóm lại: sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo vùng là một vấn đề hết sức quan trọng mà tỉnh Lào Cai cần phải thực hiện, để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa.
II. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo diện tích.
Chủ trương của tỉnh là giảm dần diện tích trồng cây lương thực, tăng diên tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lược liệu…lên. Mà muốn làm được việc này trước hết là phải đẩy mạnh thâm canh tăng năng xuất cây lương thực, nhờ đó sẽ chuyển nền sản xuất nông nghiệp từ độc canh sản xuất cây lương thực sang nền nông nghiệp đa canh có nhiều sản phẩm hàng hoá giá trị kinh tế cao đáp ứng nhu cầu thị trường.
Để đẩy mạnh công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo diện tích, tỉnh cần thực hiên một số biện pháp sau:
Thực hiên quy hoạch vùng sản xuất thâm canh cây trồng ở các khu vực trong tỉnh.
Đưa nhiều loại cây trồng mới vào sản xuất trong phạm vi tỉnh, nhưng phải chú ý tìm những loại cây phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng.
Xây dựng các trương trình, dự án một cách cụ thể để hướng dẫn bà con nông dân chuyển đổi cây trồng một cách hợp lý, mang lại giá trị kinh tế cao nhất.
III. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo mùa vụ, theo giá trị sản xuất.
1. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo mùa vụ.
ở tỉnh Lào Cai chủ yếu bà con tiến hành sản xuất hai vụ chính đó là vụ mùa và vụ chiêm. Cơ cấu cây trồng ở các vụ là rất đa dạng và phong phú.
Việc bố trí các loại cây trồng sao cho đúng mùa vụ là rất quan trọng. Mỗi loại cây trồng có một đặc điểm sinh học khác nhau, chúng chỉ phát huy tối đa phẩm chất của mình khi chúng ta gieo trồng nó một cách khoa hoc và đúng thời vụ.
Vụ mùa: Chú ý khai thác những lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu của vùng. Trồng các loại cây đặc sản nhất là cây ăn quả và cây dược liệu ở hai huyện Bắc Hà và SaPa, cây thích hợp với khí hậu ôn đới.
Vụ chiêm: Vụ này tỉnh lại tập chung phát triển các loại cây thích hợp với khí hậu nhiệt đới như tất cả các vùng khác trong cả nước.
2. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo giá trị sản xuất.
Chủ trương của tỉnh là: tăng nhanh những loại cây có giá trị kinh tế cao, tỉ suất hàng hoá lớn giảm các loại cây có giá trị kinh tế thấp không phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của vùng.
Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất . Thì vấn đề chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo giá trị sản xuất là một vấn đề tương đối nghiêm trọng. Khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người về sản phẩm nông nghiệp càng tăng, mà tăng chủ yếu là những nông sản hàng hoá có chất lượng cao. Nên phát triển các loại cây đặc sản có chất lượng cao là rất quan trọng, đặc biêt đối với tỉnh Lào Cai có điều kiện tự nhiên , khí hậu phù hợp với nhiều loại cây đặc sản mà chỉ tỉnh Lào Cai mới có.
Tóm lại, vấn đề chuyển dịch cơ câu cây trồng theo diện tích và theo giá trị sản xuất, là một vấn đề không thể thiếu trong quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá.
Do trình độ có hạn và khuôn khổ bài viết không cho phép nên vấn đề chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo diện tích, theo mùa vụ, theo giá trị sản xuất em không thể phân tích một cach chi tiết được mong thầy (cô) và các bạn thông cảm!
Muốn đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trông theo hướng sản xuất hàng hoá. Tỉnh cần phải có một số giải pháp sau.
Phần III
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu câytrồngtheo hướng sản xuất hàng hoá.
I. Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa.
1. Đối với Nhà nước.
Nhà nước phải áp dụng các hình thức đa dạng với những cơ chế thích hợp huy động nhiều nguồn vốn. Có chính sách đầu tư đồng bộ, có trọng điểm nhằm thúc đẩy sản xuất miền núi phát triển.
Hiện nay ở những nơi vùng sâu,lao động vùng xa sản xuất chưa đủ ăn, chưa có tích luỹ để tái sản xuất. Nếu không có sự đầu tư giúp đỡ của Nhà nước, của các thành phần kinh tế thì người dân khó có thể tự mình đi lên được. Đồng bào vẫn không có điều kiện vật chất để phát triển sản xuất kinh doanh, mãi mãi dẫm chân tại chỗ, thậm chí còn thụt lùi trong nền kinh tế tự túc tự cấp, huỷ hoại môi trường sinh thái.
Nhà nước phải có những giải pháp để nâng cao hiệu quả của các chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. hiên nay các chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bị thất thoát vốn quá nhiều (trung bình mỗi dự án thất thoát khoảng 30% tổng giá trị dự án) nếu không giải quyết nhanh vấn đề này thì việc phát triển kinh tế xã hội ở miền núi rất khó khăn.
Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ về đào tạo, đưa các cán bộ có chuyên môn cao về phát triển kinh tế xã hội miềm núi.
Đối với những ven huyên thị, vùng thuận lợi giao thông, các tụ điểm dân cư đông đúc, kinh tế hộ gia đình đã có bước phát triển các sản phẩm cây trồng, vật nuôi trở thành hàng hoá thì Nhà nước cần có chính sách kinh tế đỡ đầu cho việc tiêu thụ sản phẩm, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, dịch vụ tao điều kiện cho vùng cao có sản phẩm tập trung như (thảo quả, dược liệu, chè búp, hoa quả và lâm sản như gỗ, mây, trúc…). Mặt khác, ở địa phương này cần tập trung đầu tư các loại cây trồng dài ngày trên cơ sở giao đất giao rừng cho các hộ nông dân, có định hướng của Nhà nước.
Đối với vùng sâu, vùng xa Nhà nước cần phải có chính sách xoá đói giảm nghèo.
2. Đối với tỉnh.
Xây dựng các trương trịnh, dự án nhằm phát huy được thế mạnh của tỉnh về: nghề rừng, trồng cây công nghiệp, dược liệu cây ăn quả và các loại đặc sản quý hiếm .
Tỉnh phải xây dựng những mô hình kinh tế thích hợp với từng vùng thì mới làm thay đổi cơ câu kinh tế cũ, kém hiệu quả của nền kinh tế tự túc, đem lại nhiều sản phẩm hàng hoá đa dạng, phong phú.
Phải nâng cao trình độ văn hóa, trình độ giác ngộ chinh trị của nhân dân các dân tộc miền núi.
Thành công hay thất bại của quá trình phát triển phụ thuộc vào yếu tố con người, nên tỉnh phải có chính sách đào tạo cán bộ phục vụ cho vùng cao.
Trước hết là Tỉnh phải có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc về phục vụ cho chính điạ phường của họ.
Chăm lo giải quyết chính sách xã hội ổn định đời sống nhân dân trên địa bàn vùng núi, xây dựng các dự án cụ thể, thiết thực về định canh định cư ở các huyên có đồng bào du canh, du cư. Định canh định cư phải gắn với công tác trồng rừng, giải quyết lương thực, đường giao thông.
II. Một số kiến nghị nhằm đây nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá.
Tỉnh phải tìn mọi biên pháp để thực hiện có hiệu quả các chính sách, trương trình, dự án của Nhà nước. Như trương trình 135 về xoá đói giảm nghèo ở các huyên, xã đặc biệt khó khăn.
Về trước mắt tỉnh phải có chính sách đưa các cán bộ có trình độ chuyên môn cao về công tác ở các huyện các xã đặc biệt khó khăn. nhưng đây chỉ là trước mắt. Mà tỉnh muốc cho các huyện phát triển một cách lâu dài, bền vững thì tỉnh phải có chính sách đào tạo cán bộ ở chính địa phương đó, đặc biệt là cán bộ người dân tộc sau đó đưa về phục vụ chính địa phương của họ, thế thì mới có thể lâu dài được.
Tỉnh phải tìm mọi biên pháp giảm tình trạng thất thoát trong đầu tư, nâng cao hiệu quả của đầu tư.
Hiện nay tỉnh đang có chính sách luân chuyển cán bộ lên vùng cao, đây là một chính sách rất tốt. Nhưng tỉnh cần phải lưu ý lựa chọn những cán bộ có năng lực, tâm huyết với nghề, có phẩm chất đạo đức tốt, đặc biệt là phải có khả năng tiếp cân với đồng bào dân tộc, nếu không thì hậu quả của nó sẽ rất lớn.
Đặt biệt là tỉnh phải có chính sách để hỗ trợ đầu ra cho đông bào, đây là điểm đặc biệt yếu của tỉnh. Nếu không làm được việc này thì thỉnh không thể thực hiện phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá lớn được.
Nâng cao đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng cao, đặc biệt là các tuyên đường giao thông (liên xã, liên thôn) thuận tiên cho việc lưu thông hàng hoá.
Đầu tư phát triển công nghiệp chế biến với quy mô vừa và nhỏ là chính. Chú ý phát triển công nghiệp chế biến hoa quả, chè, giấy.
Chú ý phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc, phát huy thế mạnh của tỉnh là có cửa khẩu Quốc tế với Trung Quốc.
III. Một số dự báo về phát triển kinh tế xã hội của vung Đông Bắc của Viện chiến lược phát triển kinh tế – Bộ kế hoạc và Đầu tư Hà Nội.
Biểu 1: Dự báo cơ cấu kinh tế cho giai đoạn 2000 – 2010.
TT
Ngành
Năm 2000
Năm 2010
Cơ cấu ngành
Nhịp độ tăng GDP/
năm(%)
Cơ cấu ngành
Nhịp độ tăng GDP/
năm(%)
C. Nghiệp
18,8
14
25,3
17,2
X. Dựng
8,7
14,5
12,2
17,7
N-Lnghiệp
30,9
4,5
12,5
4
D.vụ
41,6
15,7
50
16
Biểu 2: Dư báo cơ cấu, tốc độ phát triển ngành nông nghiệp.
STT
Thời điẻm
Sản lượng
Cơ cấu
Tốc độ tăng trưởng
1990
1994
2000
2010
1999-2000
2001-2010
Tổn số
100
100
100
100
4,5
4
Trồng trọt
66
71
67
61
3,5
3
Chăn nuôi
34
29
33
39
6,8
5,8
Tổng trồng trọt
100
100
100
100
3,5
3,0
Lương thực
63,9
63,5
60
55
2,5
2,1
Thực phẩm
12
10
11
12
5,2
4,0
Cây công nghiệp
9,3
8,9
12
15
7,0
5,3
Cây ăn quả
4,5
7,0
9
12
7,9
6,0
Qua bảng trên ta thấy muống đạt được trình độ phát triển trên thì cần có sự nỗ lực rất lớn của nhân dân các dân tộc trong tỉnh và sự giúp đỡ của nhà nước.
Tóm lại , việc chuyển dịch cơ cấu cây trông theo hướng sản xuất hàng hoá là một định hướng đúng đắn cần được tỉnh quan tâm và thực hiên một cách có hiệu quả.
Kết luận
.².
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng là một vấn đề rất quan trọng, nhằm khai thác mọi thế mạnh của mỗi địa phương và trong cả nước, nhằm ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên do điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của mỗi địa phương không giống nhau cho nên việc đề ra và thực hiên phương hướng, giải pháp chuyển dịch cơ câu cây trồng ở mỗi địa phương là khác nhau.
Tỉnh Lào Cai là một tỉnh miền núi vùng cao, kinh tế xã hội của tỉnh có điểm xuất phát thấp. Trong thời kỳ đổi mới cơ cấu cây trồng của tỉnh đã có sự chuyển biến nhưng mới là bước đầu. Kết cấu hạ tầng của tỉnh còn nhiều khó khăn; trình độ dân trí thấp. Trình độ quản lý kinh tế của cán bộ còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. Nhìn chung tỉnh còn nhiều khó khăn lúng túng trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá. Là một tỉnh nông dân chiếm đa số, nhưng đội ngũ cán bộ chuyên ngành nông nghiệp còn thiếu rất nhiều, trình độ dân trí thấp, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vừa thiếu vừa yếu đã hạn chế, ảnh hưởng nhiều tới việc tiếp thu khoa học công nghệ mới, giảm khả năng khai thác thế mạnh của địa phương.
Đảng, chính quyền tỉnh đã đề ra phương hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá. Để khắc phục những khó khăn nêu trên nhằm thực hiện được phương hướng đã đề ra, cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ và toàn diện.
Chuyển dịch cơ cấu cây trông theo hướng sản xuất hàng là một nội dung tương đối mới mẻ của tỉnh, là một vấn đề có tính cách mạng trong sản xuất nhưng cũng là một đòi hỏi khách quan, cấp bách. Điều đó đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh phải có một quyết tâm cao, nỗ lực tích cực, có sự năng động sáng tạo, biết kết hợp tiềm năng thế mạnh của tỉnh với các nguồng lực bên ngoài cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Nhà nước.
Chuyển dịch cơ câu cây trông theo hướng sản xuất hàng hoá của tỉnh Lào Cai trong bối cảnh chuyển từ nền kinh tế thuần nông, tự cung tự cấp, còn chịu ảnh hưởng nhiều của cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đầy những biến động phức tạp nhiều cơ hội nhưng cũng đầy thách thức. Trong bối cảnh đó, em cố gắng tìm ra một số nguyên nhân, điểm mạnh điểm yếu của tỉnh về chuyển dịch cơ cấu cây trồng, góp phần vào xoá đói giảm nghèo của tỉnh.
Nhờ sự giúp đỡ tận tình của thầy cô trên khoa KTNN & PTNT mà trực tiếp là thầy, TS. Trần Quốc Khánh, em tin tưởng rằng bản đề án này sẽ giúp mọi người hiểu rõ được sự cần thiết của chuyển dịch cơ cấu cây trông theo hướng sản xuất hàng hoá ở tỉnh Lào Cai. Hy vong rằng tỉnh Lào Cai sẽ thực hiện thắng lợi trương trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo, vì mục tiên dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Mục lục
Lời mở đầu 1
Phần thứ nhất: Những vấn đề lý luận chung 3
I. Khaí niệm về chuyển dịch cơ cấu cây trồng 3
II. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá 5
Phần hai: Thực trạng chuển dịch cơ cấu và những định hướng về chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá 8
A. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng và những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng của Tỉnh Lào Cai 8
I. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng của Tỉnh 8
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng của Tỉnh Lào Cai 9
1. Những nhân tố tích cực 9
2. Những nhân tố tiêu cực 10
B. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên phạm vi toàn tỉnh và những định hướng chuyển dịch 11
I. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo vùng 12
1. Căn cứ để chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo vùng 13
2. Vùng sản xuất cây lương thực 14
3. Vùng sản xuất cây công nghiệp 17
4. Vùng sản xuất cây ăn quả 19
5. Vùng sản xuất rau 22
II. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo diện tích 23
III. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo mùa vụ, theo giá trị sản xuất 23
1. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo mùa vụ 23
2. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo giá trị sản xuất cây trồng 24
PHần ba: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy nhanh quá trình Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá 25
I. Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá 25
1. Đối với Nhà nước 25
2. Đối với Tỉnh 26
II. Một số kiến nghị nhằm đẩy nhanh quá trình Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá 26
III. Một số dự báo về phát triển kinh tế xã hội vùng đông bắc của viện chiến lược và phát triển kinh tế – Bộ kế hoạch và đầu tư Hà Nội 27
Kết luận 29
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0071.doc