Đề tài Dựa trên hệ thống tài khoản quốc gia đánh giá về nợ nước ngoài Việt Nam thời gian qua

Nếu quan sát diễn biến nợ nước ngoài trong một thời gian dài sẽ dễ dàng nhận thấy xu hướng gia tăng nợ đã diễn ra trong những năm gần đây, từ mức 14,208 tỷ USD năm 2005 lên 27,928 tỷ USD năm 2010. Nếu tiếp tục xu hướng này và không có các biện pháp kiểm soát và quản lý nợ có thể khiến nợ nước ngoài trở nên không an toàn. Nếu đặt nợ nước ngoài trong quan hệ đầu tư và tiết kiệm, ta thấy nợ nước ngoài là nguồn bổ sung cho khoảng chênh lệch tiết kiệm trong nước thấp và mức đầu tư tăng cao. Như vậy, để nợ nước ngoài không mất an toàn thì cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư trong nước, khuyến khích tiết kiệm toàn dân. Nếu xem xét nợ nước ngoài trong quan hệ cán cán cân thương mại dưới góc độ xuất nhập khẩu thì đây là một khoản vay mà các nhà đầu tư nước ngoài cho Chính phủ và người tiêu dùng trong nước vay để thanh toán cho việc tiêu dùng quá mức, khi đó để giảm nợ nước ngoài cần cải thiện cán cân thương mại, thực hiện các giải pháp gia tăng xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu.

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1750 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Dựa trên hệ thống tài khoản quốc gia đánh giá về nợ nước ngoài Việt Nam thời gian qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: Dựa trên hệ thống tài khoản quốc gia đánh giá về nợ nước ngoài Việt Nam thời gian qua. Bài làm 1. Sơ lược về nợ nước ngoài Muốn nắm rõ khả năng trả nợ nước ngoài của nền kinh tế, ta cần biết tổng nợ nước ngoài của nền kinh tế, tức là gồm nợ của chính phủ cộng thêm nợ của doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh dù được nhà nước bảo lãnh hay không. Tuy nhiên những con số nợ mà không được nhà nước bảo lãnh là tương đối khó khăn trong việc cập nhật thông tin. Vậy ở đây tôi chỉ xin đề cập đến nợ của chính phủ và các doanh nghiệp được chính phủ bảo lãnh. Mà đặc biệt là khoản nợ mà chính phủ đi vay. Để phân tích khả năng trả nợ của nhà nước, ta cần chú ý đến nợ công. Phạm vi của nó rộng hơn là nợ nước ngoài. Nó bao gồm nợ của chính phủ và toàn bộ nợ của doanh nghiệp quốc doanh, gồm cả nợ nước ngoài lẫn nợ trong nước, cũng như nợ của doanh nghiệp tư nhân mà nhà nước bảo lãnh. Chính phủ mất khả năng trả nợ khi việc trả nợ đòi hỏi tỷ lệ thu thuế vượt ngoài khả năng chịu đựng của dân chúng và doanh nghiệp, và do đó nhà nước thường dùng các biện pháp thu thuế ngầm (không qua biểu quyết của quốc hội) là phát hành tiền để tiêu, tạo ra lạm phát, và làm mất ổn định nền kinh tế. 2. Tiêu chuẩn đánh giá nợ Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, cán cân thanh toán thường là thâm hụt, các khoản vay nợ nước ngoài gia tăng. Vì vậy, rất cần chú ý đến khả năng trả nợ nước ngoài của chúng ta. Khả năng này thường được xem xét qua các chỉ tiêu: - Tổng nợ đến cuối năm/GDP (ETD/GDP) ETD/GDP Chấp nhận được 50% Rủi ro ETD/GDP>100% => Rủi ro lớn - Tổng nợ đến cuối năm/tổng kim ngạch xuất khẩu ETD/EXChấp nhận được ETD/EX>200% => Tình trạng báo động Thường các nhà phân tích cho rằng tỷ lệ nợ công so với GDP dưới 60 % là ở ngưỡng an toàn. Ít nhất đây là ngưỡng mà các nước thành viên trong Liên hiệp châu Âu ký kết với nhau trong Hiệp ước Maastricht vào năm 1992. Riêng tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP ở mức 30 % là thuộc ngưỡng an toàn. Ngưỡng được coi là an toàn chỉ là dựa vào kinh nghiệm của quá khứ và không thể áp dụng nó một cách cứng nhắc để phân tích kinh tế mọi nước. Một nước có đồng tiền chuyển đổi, được chấp nhận rộng rãi và được dùng làm tiền dự trữ như đồng Mỹ, đồng Euro hay đồng Yen thì các nhà nước này có thể có tỷ lệ nợ rất cao mà không ảnh hưởng gì đến khả năng trả nợ vì họ có thể bán trái phiếu dễ dàng trên thị trường thế giới, thay vì phải in tiền, hay phải tăng thuế ngay để trả nợ. Những nước như Việt Nam hay Hy Lạp và Ireland thì không thể làm thế vì nếu mất khả năng trả nợ thì kinh tế sẽ khủng hoảng ngay. 3. Đánh giá về nợ nước ngoài của Việt Nam thời gian qua. 3.1. Xét tổng nợ của chính phủ Nợ nước ngoài của Việt Nam tính đến 30/6/2010 là trên 29,002 tỷ USD (áp dụng tỷ giá quy đổi tại thời điểm cuối kỳ), tăng 3,84% so với cuối năm 2009, tương đương với 1,073 tỷ USD tăng thêm. Theo bản tin tài chính số 6 ta có bảng số liệu sau: Tổng dư nợ của chính phủ giai đoạn 2006 - 2010 Đơn vị: Tỷ USD Năm 2006 2007 2008 2009 30/6/2010 Tổng dư nợ 15,641 19,252 21,816 27,928 29,002 Nợ của chính phủ 14,610 17,270 18,916 23,942 25,097 Nợ được chính phủ bảo lãnh 1,031 1,982 2,900 3,986 3,905 (Nguồn: Bản tin nợ nước ngoài số 6) Trong con số trên 29 tỷ USD, nợ nước ngoài của Chính phủ là gần 25,1 tỷ USD, tăng 4,82% so với cuối năm 2009; nợ được Chính phủ bảo lãnh là trên 3,9 tỷ USD, giảm 2,05%. Như vậy, số nợ nước ngoài tăng thêm trong nửa đầu năm 2010 chủ yếu đến từ nợ Chính phủ. Tốc độ tăng nợ nước ngoài của chính phủ 2006 2007 2008 2009 Trung bình năm Tổng nợ nước ngoài 12% 21% 17% 43% 22% Nhìn vào bảng trên ta thấy tốc độ tăng nợ nước ngoài trong năm 2009 tăng vượt bậc là 43%, tốc độ tăng trung bình cả giai đoạn là 22% (tăng cao hơn so với tộc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa bình quân giai đoạn 16%). Đây là dấu hiệu không tốt về chất lượng đầu tư và chất lượng quản lý kinh tế của chính phủ. 3.2. Xét theo cơ cấu lãi suất Không kể các khoản nợ được bảo lãnh, nợ nước ngoài của Chính phủ chỉ tăng nhẹ ở các khoản vay có lãi suất dưới 1%; giảm nhẹ ở mức lãi suất 1 đến dưới 3%; nhưng tăng tới 11,65% ở khoản vay lãi suất 3 đến dưới 6%; và tăng gấp đôi ở khoản vay lãi suất 6-10%. Các con số trên được thể hiện bằng bảng tổng hợp sau đây: Cơ cấu dư nợ nước ngoài của chính phủ phân theo lãi suất vay giai đoạn 2006 – 30/6/2010 (Áp dụng tỷ giá quy đổi tại thời cuối kỳ) Triệu USD Năm 2006 2007 2008 2009 30/6/2010 Tổng cộng Lãi suất cố định 0% - 0,99% 1% - 2,99% 3% - 5,99% 6% - 10% Lãi suất thả nổi 14.610 14.362 239 11.443 1.521 1.157 247 17.270 16.839 299 13.917 1.492 1.1130 430 18.916 18.294 257 15.553 1.557 925 621 23.942 22.029 281 19.325 1.502 919 1.913 25.097 23.177 296,77 19.313 1.678 1.888 1.920 (Nguồn: Bản tin tài chính số 6) Các khoản vay có lãi suất càng cao càng tăng mạnh là tín hiệu xấu, chúng ta cần tăng trưởng, nhưng ổn định và hiệu quả quan trọng hơn nhiều. Vào năm 2009, các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%; vay ưu đãi chiếm 5,41%; vay thương mại 19,92%. Đến năm 2010, trong tổng số dư nợ nước ngoài Chính phủ gần 25,097 tỷ USD, có đến 19,313 tỷ USD lãi suất từ 1-2,99%; trên 1,678 tỷ USD lãi suất từ 3-5,99%; 1,888 triệu USD ở mức lãi suất 6-10%. Ngoài ra, hơn 1,9 tỷ USD dư nợ còn lại được áp lãi suất thả nổi theo lãi suất liên ngân hàng của thị trường London (LIBOR). Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm nay đạt tới 2,1%/năm. Nhưng điều này chưa đáng lo ngại vì thường thì nợ của chính phủ từ các nguồn vay chính thức, như từ các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước phát triển cao đều có thời gian phải trả nợ dài đến 10 năm hay dài hơn nhiều. Tỷ lệ nợ này cao thì áp lực chi trả thấp và nước vay mượn có thể tính toán trước về khả năng trả vì lãi suất cố định. Trường hợp Việt Nam là rất thuận lợi. Vào năm 2009, tỷ lệ vay chính thức lên tới 86 % và phần vay tư nhân là 14 %. Hơn nữa, 72 % tổng số nợ này chịu lãi suất thấp dưới 6 %, trong đó 60 % số nợ có lãi suất dưới 3 %. Như vậy, các khoản vay có lãi suất thấp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn. Tuy nhiên, đã có những chuyển biến về các khoản vay dần dịch chuyển sang các khoản vay có lãi suất cao. Các khoản viện trợ và cho vay ưu đãi cũng dần giảm xuống do tốc độ phát triển của nước ta đã tiến thêm được một bậc, lại gia nhập WTO. Chính vì vậy chúng ta vẫn cần có những chính sách cẩn trọng trong vấn đề nợ nước ngoài. 3.3. Xét theo cơ cấu loại tiền Cơ cấu đồng tiền cũng có thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng vay bằng USD và giảm ở các đồng tiền mạnh khác. Tỷ trọng vay bằng USD từ mức gần 17% vào cuối năm 2009 đã tăng lên xấp xỉ 23% vào giữa năm 2010 Cùng thời gian này, các khoản vay bằng đồng Yên đã giảm tỷ trọng từ 39,63% xuống còn 38,25%; SDR (quyền rút vốn đặc biệt - đơn vị tiền tệ quy ước của một số nước thành viên Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF) giảm từ 29,29% xuống 26,64%; vay bằng đồng Euro từ 10,78% còn 9,21%... Cụ thể, lớn nhất là các khoản vay bằng đồng Yên, chiếm 41,96%; SDR (quyền rút vốn đặc biệt - đơn vị tiền tệ quy ước của một số nước thành viên Quỹ Tiền tệ Quốc tế) chiếm 27,39%; vay theo đồng USD chiếm 16,61%; vay bằng đồng Euro chiếm 10,68%; Do nhu cầu nhập siêu lớn và việc điều hành kinh tế không hợp lý, đặc biệt là khi có lạm phát cao, rất có thể gây ra khủng hoảng thiếu ngoại tệ. Số dự trữ có thể nhanh chóng không còn nếu doanh nghiệp không mua nổi ngoại tệ trên thị trường. Lạm phát cao có tác dụng khuyến khích dân chúng và doanh nghiệp găm giữ ngoại tệ và vàng. Hạn chế mua ngoại tệ và phát lệnh kiểm soát giá ngoại tệ chính thức, càng làm việc găm giữ này tăng; không mua được ngoại tệ dân sẽ đổ xô mua vàng, nhập vàng để làm lời sẽ làm tăng thêm số ngoại tệ sẵn sàng cung ứng cho thị trường. Đây chính là nguyên nhân của tình hình rối loạn tài chính những tháng cuối năm 2010. Giữ cố định hối suất, ra lệnh giữ giá trong khi lạm phát tăng vọt sẽ không giải quyết được vấn đề. Vấn đề là giải quyết nguyên nhân gây ra lạm phát hiện nay. Nguyên nhân là chi tiêu và đầu tư quá mức của khu vực nhà nước và do đó đưa đến việc tăng tín dụng và phát hành tiền quá mức. 3.4. Xét theo các chỉ tiêu giám sát nợ Một số chỉ tiêu giám sát nợ Đơn vị: % Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 Tổng số dư nợ nước ngoài so với GDP 32,2 31,4 32,5 29,8 39,0 Nghĩa vụ trả nợ so với XNK hàng hóa, dịch vụ 4,8 4,0 3,8 3,3 4,2 Dự trữ ngoại hối so với tổng dư nợ ngắn hạn 4.075,0 6.380,0 10.177,0 2.808,0 290,0 Nghĩa vụ trả nợ so với thu NSNN 4,1 3,7 3,6 3,5 5,1 (Nguồn: bản tin tài chính số 6) Cụ thể, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP bằng 39%, thuộc diện quốc gia có nợ nước ngoài vừa phải, nếu xét theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới (WB), theo đó trên 50% được cho là nợ quá nhiều; nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ chỉ bằng 4,2% (WB cho phép đến 25%); dự trữ ngoại hối so với nợ nước ngoài ngắn hạn là 290% (khuyến nghị của WB là trên 200%); nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước 5,1% (ngưỡng an toàn của WB là dưới 35%)… Các chỉ tiêu đều cho thấy Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn cho phép. Tuy nhiên, Việt Nam đã gia nhập WTO, nhập khẩu tăng lên, xuất khẩu giảm đi vì sức cạnh tranh thấp sẽ làm cho việc cung ứng ngoại tệ để trả nợ thật sự là khó khăn. Mặt khác, hệ số ICOR của Việt Nam cao (khoảng 4 – 5). Điều này cho thấy hiệu quả đầu tư là không cao. Tham nhũng, hối lộ, thất thoát, lãng phí là các nguyên nhân làm cho lợi tức trên một đồng vay nước ngoài thấp. Vậy chúng ta có nên lạc quan về tương lai hay nên suy nghĩ các giải pháp phát triển bền vững hơn. 3.5. Dự kiến trả nợ hàng năm Với số nợ hiện nay, Việt Nam sẽ phải trả hơn 1,7 tỉ đôla tiền nợ, và hơn 250 triệu đôla tiền lãi trong năm 2016. Năm nay, 2011, Việt Nam sẽ phải trả khoảng 1,1 tỉ đôla tiền nợ, cả vốn lẫn lời. Đến năm 2025, Việt Nam sẽ phải trả 855 triệu. Dự kiến nghĩa vụ trả nợ hàng năm về nợ nước ngoài của chính phủ Đơn vị: Tỷ USD Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 Phải trả 1,147 1,330 1,492 1,389 1,281 2,015 1,196 1,185 1,176 1,160 1,119 1,109 0,981 0,952 0,856 (Nguồn: Bản tin tài chính số 6) Trong việc trả nợ thì năm phải trả cao nhất là 2,1 tỷ USD vào năm 2016. Mà năm 2009, Theo Ngân hàng Á châu số dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vào năm 2009 là 16,8 tỷ USD. Như vậy việc trả nợ sẽ không phải là mối quan ngại nếu như nợ không tiếp tục tăng mạnh như hiện nay, và nếu như thiếu hụt thương mại với nước ngoài lớn như hiện nay được giải quyết. Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước đều cho rằng, cán cân thanh toán năm 2010 tiếp tục thâm hụt 4 tỷ USD. Khả năng chi trả nằm chung trong việc phân tích cán cân thanh toán, tức là cung cầu ngoại tệ. Cung gồm nguồn ngoại tệ từ kiều hối và viện trợ không hoàn lại, đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài, còn cầu là để nhập siêu và trả nợ nước ngoài. Các chi tiêu nhỏ bé khác được bỏ qua. Cầu và cung ngoại tệ năm 2009 Đơn vị: Tỷ USD Nhu cầu ngoại tệ Cung ngoại tệ Nhập siêu hàng hóa và dịch vụ -14.0 Kiều hối và viện trợ 6.5 Trả nợ nước ngoài -1.3 Đầu tư trực tiếp của nước ngoài 6.9 Đầu tư gián tiếp 0.1 Tổng cầu -15.3 Tổng cung 13.5 (Nguồn : Ngân hàng Á châu (ADB)). Thông tin cho thấy là hiện nay và trong vài năm tới nợ nước ngoài không phải là điều đáng lo ngại. Tuy nhiên nếu tiếp tục với chính sách kinh tế như hiện nay thì nợ nước ngoài sẽ là điều thật đáng lo ngại. Đầu tư quá trớn vào tập đoàn và doanh nghiệp quốc doanh hay ngay cả vào hạ tầng cơ sở, mà những đầu tư này đòi hỏi nhập khẩu máy móc, kể cả nguyên liệu sản xuất mà không tăng nhanh sản xuất có thể xuất khẩu thì không thể giải quyết được nhập siêu rất lớn hiện nay. Đáng lo ngại nhất có lẽ là số nợ với lãi suất thị trường của doanh nghiệp quốc doanh đang tăng rất nhanh. Họ vay mượn dễ dàng chỉ vì cái tên quốc doanh. Không vay mượn được ở thị trường phương tây, họ sẽ quay sang Trung Quốc. Nếu quan sát diễn biến nợ nước ngoài trong một thời gian dài sẽ dễ dàng nhận thấy xu hướng gia tăng nợ đã diễn ra trong những năm gần đây, từ mức 14,208 tỷ USD năm 2005 lên 27,928 tỷ USD năm 2010. Nếu tiếp tục xu hướng này và không có các biện pháp kiểm soát và quản lý nợ có thể khiến nợ nước ngoài trở nên không an toàn. Nếu đặt nợ nước ngoài trong quan hệ đầu tư và tiết kiệm, ta thấy nợ nước ngoài là nguồn bổ sung cho khoảng chênh lệch tiết kiệm trong nước thấp và mức đầu tư tăng cao. Như vậy, để nợ nước ngoài không mất an toàn thì cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư trong nước, khuyến khích tiết kiệm toàn dân. Nếu xem xét nợ nước ngoài trong quan hệ cán cán cân thương mại dưới góc độ xuất nhập khẩu thì đây là một khoản vay mà các nhà đầu tư nước ngoài cho Chính phủ và người tiêu dùng trong nước vay để thanh toán cho việc tiêu dùng quá mức, khi đó để giảm nợ nước ngoài cần cải thiện cán cân thương mại, thực hiện các giải pháp gia tăng xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docno nuoc ngoai 1.doc
  • docno nuoc ngoai 2.doc
Tài liệu liên quan