Đề tài Nội dung cơ bản đại lý làm thủ tục hải quan

LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG I 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐẠI LÝ LÀM THỦ TỤC HẢI QUAN 1 1. Khái niệm về Đại lý làm thủ tục Hải Quan 1 1.1. Khái niệm 1 1.2. Các đặc trưng cơ bản của đại lý hải quan 2 2. Sự hình thành, phát triển của Đại lý Hải Quan và vai trò của nó trong nền kinh tế 5 2.1. Đại lý Hải Quan trên thế giới 5 2.2. Sự hình thành và phát triển của Đại lý Hải Quan ở Việt Nam 7 2.3. Vai trò của Đại lý Hải Quan trong nền kinh tế 8 3. Pháp luật về Đại lý Hải quan 11 3.1. Khái quát pháp luật về đại lý hải quan 11 3.2. Pháp luật về đại lý hải quan của một số nước trên thế giới 14 CHƯƠNG II 19 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠI LÝ HẢI QUAN 19 1. Chủ thể tham gia hoạt động Đại lý Hải quan 19 1.1. Bên Đại lý 19 1.2. Bên giao Đại lý 23 1.3. Bên thứ ba 26 2. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ Đại lý Hải quan 29 2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên Đại lý Hải quan 29 2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý 34 3. Chấm dứt quan hệ đại lý hải quan 35 CHƯƠNG III 39 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ 39 ĐẠI LÝ HẢI QUAN 39 1. Thực tiễn hoạt động của Đại lý Hải quan 39 1.1. Những mặt đạt được của hoat động Đại lý Hải quan trong những năm qua 41 1.2. Những mặt chưa đạt được và nguyên nhân 41 1.2.1. Về nhận thức 42 1.2.2. Công tác triển khai thực hiện 43 1.2.3. Về ký hợp đồng Hải quan 44 1.2.4. Về công tác đào tạo 44 1.2.5. Về hỗ trợ của hải quan 45 2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đại lý hải quan 46 2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại lý hải quan 46 2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đại lý hải quan 48 2.2.1. Với cơ quan chức năng 49 2.2.2. Đối với doanh nghiệp 54 KẾT LUẬN

doc58 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1846 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung cơ bản đại lý làm thủ tục hải quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n và quyền nghĩa vụ của nó trong mối quan hệ đó. a. Với tư cách người làm thuê: Với tư cách là người nhận làm dịch vụ, như đã phân tích ở phần đặc trưng của Đại lý Hải quan (Chương 1), thì, Đại lý Hải quan có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người làm dịch vụ được quy định trong Luật Thương mại. Theo Luật Thương mại 2005 thì Đại lý Hải quan là thương nhân, cho nên nó có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của một thương nhân. - Quyền hoạt động thương mại; quyền bình đẳng trước pháp luật và hợp tác trong lĩnh vực thương mại; quyền cạnh tranh trong thương mại (cạnh tranh hợp pháp tuân thủ các quy định của Luật canh tranh 2004); được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu, quyền và các lợi ích hợp pháp khác nếu thương nhân thuộc các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân trong thương mại. - Có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh và có quyền được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; được quyền yêu cầu cung cấp nội dung về đăng ký kinh doanh; thực hiện các quy định về sổ sách kế toán và lưu giữ hoá đơn, chứng từ và giấy tờ có liên quan; chấp hành các quy định về thuế; có quyền chấm dứt hoạt động thương mại. Ngoài ra thì Đại lý Hải quan cũng có quyền và nghĩa vụ trong vấn đề hoạt động mà cụ thể đó là các quyền sau, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (Điều 174 Luật Thương mại 2005): - Tự do thoả thuận, ký kết hợp đồng Đại lý Hải quan với các chủ sở hữu hàng hoá hoặc người đại diện hợp pháp của chủ hàng hoá. Thay mặt người có quyền và nghĩa vụ (chủ sở hữu hàng hoá) trong việc làm thủ ụcc hải quan đối với hàng hoá, phương tiện vận tải khai hải quan và thực hiện các công việc theo thoả thuận tại hợp đồng Đại lý Hải quan. Thực hiện quyền và nghĩa vụ ghi trong hợp đồng. Khai và ký tờ khai hải quan.Yêu cầu chủ hàng bồi thường thiệt hại và các chi phí phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng Đại lý của chủ hàng gây ra - Quyền yêu cầu chủ hàng hướng dẫn, cung cấp đầy đủ, chính xác các chứng từ và thông tin cần thiết khác có liên quan để thực hiện làm thủ tục hải quan cho từng lô hàng XNK. - Quyền hưởng thù lao và những lợi ích hợp pháp khác do việc thực hiện hợp đồng mang lại. Đồng thời Đại lý Hải quan cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong trường hợp thực hiện không đúng những công việc được ủy quyền, không khai đúng những thông tin và chứng từ liên quan đến lô hàng XNK do chủ hàng cung cấp. Trách nhiệm giữa Đại lý Hải quan và chủ hàng được thể hiện bằng bản hợp đồng đại lý, trong đó ghi rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Đại lý Hải quan phải chịu trách nhiệm thực hiện đúng những nội dung đã thỏa thuận được ghi trên hợp đồng; chịu trách nhiệm thay chủ hàng trước cơ quan hải quan và pháp luật về trách nhiệm pháp lý liên quan đến việc chấp hành chính sách hải quan, kể cả việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và nghĩa vụ tài chính khác đối với hàng hóa XNK nếu được chủ hàng ủy quyền. Chấp hành các biện pháp xử phạt của cơ quan hải quan nếu có hành vi vi phạm pháp luật về hải quan thay cho chủ hàng. b. Với tư cách người khai hải quan Với tư cách người khai hải quan thì Đại lý Hải quan có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan được quy định tại Luật Hải quan, mà cụ thể là tại Điều 23 Luật Hải quan đã được sửa đổi bổ sung năm 2005 (điều này đã được sửa đổi bổ sung tại khoản 14 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật hải quan ngày 14/06/2005) quy định về quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan. 1. Người khai hải quan có quyền: Được cơ quan hải quan cung cấp thông tin liên quan đến việc khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và hướng dẫn làm thủ tục hải quan; Xem trước hàng hóa, lấy mẫu hàng hóa dưới sự giám sát của công chức hải quan trước khi khai hải quan để đảm bảo việc khai hải quan được chính xác; Đề nghị cơ quan hải quan kiểm tra lại thực tế hàng hóa đã kiểm tra, nếu không đồng ý với quyết định của cơ quan hải quan trong trường hợp hàng hóa chưa được thông quan; d) Khiếu nại, tố cáo việc làm trái pháp luật của cơ quan hải quan, công chức hải quan; đ) Yêu cầu bồi thường thiệt hại do cơ quan hải quan, công chức hải quan gây ra theo quy định của pháp luật; e) Sử dụng hồ sơ hải quan điện tử để thông quan hàng hóa; g) Yêu cầu cơ quan hải quan xác nhận bằng văn bản khi có yêu cầu xuất trình bổ sung hồ sơ, chứng từ theo quy định của pháp luật về hải quan. 2. Người khai hải quan có nghĩa vụ: Khai hải quan và thực hiện đúng quy định tại khoản 1 Điều 16, các điều 18,20 và 68 của Luật này; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự xác thực của nội dung thông tin đã khai và các chứng từ đã nộp, xuất trình, về sự thống nhất nội dung thông tin giữa hồ sơ giấy lưu lại tại doanh nghiệp với hồ sơ điện tử; Thực hiện các quyết định và yêu cầu của cơ quan hải quan, công chức hải quan trong việc làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải theo quy định của Luật này; Lưu giữ hồ sơ hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu đã được thông quan trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan; lưu giữ sổ sách chứng từ kế toán và các chứng từ khác có liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đac được thông quan trong thời hạn do pháp luật quy định; xuất trình hồ sơ, cung cấp thông tin, chứng từ liên quan khi cơ quan hải quan yêu cầu kiểm tra theo quy định tại các điều 28, 32 và 68 của Luật này; đ) Bố trí người phục vụ việc kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải; Nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; Không được thực hiện hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, gian lận thuế, đưa hối lộ hoặc các hành vi khác nhằm mưu lợi bất chính. - Ngoài ra Đại lý Hải quan còn được hưởng một số ưu đãi của cơ quan hải quan được quy định tại Điều 12 Nghị định 79/2005/NĐ – CP cụ thể là: Cơ quan Hải quan hỗ trợ miễn phí cho đại lý hải quan trong các lĩnh vực sau: Hỗ trợ kỹ thuật trong việc kết nối mạng giữa đại lý hải quan với cơ quan Hải quan. Tư vấn về thủ tục hải quan, thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Cập nhật các quy định mới của pháp luật về hải quan. Tập huấn, bồi dưỡng pháp luật về hải quan. c. Khi thay mặt cơ quan hải quan thực hiện một số công việc của hải quan với chủ hàng: Khi thay mặt cơ quan hải quan thực hiện một số công việc của hải quan với chủ hàng (nhất là trong điều kiện cơ quan hải quan thực hiện thủ tục hải quan điện tử), Đại lý Hải quan có một số quyền và nghĩa vụ của cơ quan hải quan theo quy định của Luật hải quan, mà cụ thể là kiểm tra bộ hồ sơ hải quan ; lưu giữ một số chứng từ thuộc hồ sơ hải quan đối với trường hợp hàng hóa được thông quan trước, nộp hồ sơ hải quan sau; lưu giữ hồ sơ phục vụ cho công tác kiểm tra sau thông quan.. Đương nhiên, với tư cách này Đại lý Hải quan giúp cơ quan hải quan quản lý doanh nghiệp, hướng dẫn, kiểm tra doanh nghiệp tuân thủ pháp luật hải quan, làm cho môi trường hải quan trong sạch, minh bạch hơn. Theo đó, Đại lý Hải quan được nhận sự hỗ trợ của hải quan về kỹ thuật (như việc kết nối mạng giữa doanh nghiệp với hải quan); về nghiệp vụ (như vấn đề thủ tục hải quan, về thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu); về pháp luật (như cập nhật các quy định mới pháp luật về hải quan); về đào tạo (như tập huấn, bồi dưỡng pháp luật về hải quan)…v...v. 2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý Bên giao đại lý (bên chủ hàng) như đã đề cập ở trên, có quyền và nghĩa vụ được quy định trong Luật Thương mại với tư cách là người giao kết hợp đồng đại lý với bên đại lý, có trách nhiệm và nghĩa vụ với phạm vi ủy quyền, cung cấp cho bên đại lý hải quan các chứng từ thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của lô hàng XNK. Đồng thời bên chủ hàng còn có quyền và nghĩa vụ được quy định trong Luật Hải quan. Theo điều 9 Nghị định 79/2005/NĐ – CP chủ hàng có quyền và nghĩa vụ sau: . Ký hợp đồng với đại lý hải quan về phạm vi uỷ quyền, trách nhiệm của mỗi bên. . Cung cấp cho đại lý hải quan đầy đủ, chính xác các chứng từ, thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu. . Chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với trường hợp cung cấp không chính xác, không đầy đủ các thông tin, các chứng từ liên quan đến lô hàng, cung cấp các chứng từ không hợp pháp, hợp lệ cho đại lý hải quan dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật. Hàng hóa XNK, hàng quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phải được làm thủ tục hải quan và chịu sự kiểm tra giám sát của cơ quan hải qua, phải được vận chuyển đúng tuyến đường, qua cửa khẩu đúng theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quyền và nghĩa vụ liên quan đến hàng hóa XNK là trách nhiệm của chủ hàng hóa XNK, hàng quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh. Đại lý hải quan được quyền thay mặt chủ hàng để thực hiện quyền và nghĩa vụ có liên quan đến hàng hóa nêu trên (được thể hiện trên hợp đồng giữa chủ hàng với Đại lý Hải quan). Những nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của chủ hàng mà không ghi trong hợp đồng hoặc tính trung thực liên quan đến hồ sơ hải quan mà chủ hàng cung cấp để Đại lý Hải quan khai báo với cơ quan hải quan thì chủ hàng phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật. 3. Chấm dứt quan hệ đại lý hải quan Đại lý hải quan cũng giống như các hoạt động dịch vụ thương mại khác luôn tồn tại trong một phạm vi thời gian và không gian nhất định. Hơn nữa việc hoạt động thương mại luôn phải tồn tại trong một môi trường cạnh tranh vì thế có thể bị giải thể và phá sản theo quy định của pháp luật giải thể và phá sản doanh nghiệp. Ngoài môi trường pháp lý chung đó, Đại lý Hải quan sẽ phải chấm dứt tư cách pháp lý của mình (không được tiếp tục làm người khai hải quan nữa) khi có các hành vi vi phạm pháp luật về điều kiện và hoạt động Đại lý Hải quan, chẳng hạn: Không còn đáp ứng được các điều kiện làm Đại lý Hải quan (được quy định tại Điều 2 Nghị định 79/2005/NĐ – CP); Thông đồng với chủ hàng để vi phạm pháp luật về hải quan; Không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Đại lý Hải quan theo quy định của pháp luật; Không chấp hành hoặc chấp hành không đúng các quyết định xử phạt của cơ quan hải quan khi có hành vi vi phạm pháp luật về hải quan; Không thông báo trước cho cơ quan hải quan các thay đổi về tên, địa chỉ Đại lý hải quan nhằm mục đích buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế; Cho mượn danh nghĩa trong hoạt động Đại lý Hải quan…v.v… Nói chung, pháp luật đã quy các trường hợp chấm dứt quan hệ đại lý hải quan thành 3 nguyên nhân chính sau: - Chấm dứt theo sự thỏa thuận của các bên: Do việc ký kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện nên khi các bên thấy hợp đồng không còn có ích thì có thể thỏa thuận để chấm dứt nó. Do là một đại lý thương mại nên hợp đồng đó cũng chấm dứt tuân theo quy định của một hợp đồng thương mại. Hợp đồng đại lý chấm dứt khi các bên có thoả thuận hoặc: . Hợp đồng đã thực hiện xong, hết thời hạn hiệu lực, . Một trong các bên mất tư cách pháp lý, . Hợp đồng đại lý bị huỷ bỏ, bị đơn phương chấm dứt việc thực hiện. - Chấm dứt theo ý chí của một bên: Về vấn đề chấm dứt hợp đồng Đại lý Hải quan của Đại lý với chủ hàng thì Hợp đồng đại lý Hải quan cũng là hợp đồng đại lý thương mại nên theo quy định tại điều 177 Luật Thương mại, các bên tham gia hợp đồng đại lý có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý trong những trường hợp sau: . Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không có lợi cho bên chủ hàng . Chủ hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình được quy định như trên hoặc thực hiện không đúng theo thoả thuận thì bên đại lý có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng .Cũng theo điều này thì thì các bên có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý và chỉ cần thông báo bằng văn bản cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng trong thời hạn quy định tại điều này chứ không phải chỉ trong các trường hợp quy định tại điều 525 Bộ luật dân sự. Do đó, nếu thực hiện theo quy định của Luật thương mại thì các bên có thể tự do chấm dứt hợp đồng và như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia. - Chấm dứt khi có vi phạm pháp luật, bắt buộc phải chấm dứt hoạt động đại lý hải quan: Điều 14 Nghị định 79/2005/NĐ - CP quy định về vấn đề xử lý vi phạm cũng đã nêu các trường hợp chấm dứt hoạt động Đại lý Hải quan cụ thể như sau: . Đối với Đại lý Hải quan Tổng cục Hải quan đề nghị Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh thành phố quyết định dừng hoạt động của Đại lý Hải quan trong các trường hợp sau đây: Đại lý Hải quan không đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 2 Nghị định này; Đại lý Hải quan thông đồng với chủ hàng để vi phạm pháp luật hải quan; Đại lý Hải quan tự ý thay đổi tên, địa chỉ không đúng quy định của pháp luật nhằm mục đích buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế; Đại lý Hải quan đã tự động chấm dứt hoạt động. Tổng cục Hải quan quyết định tạm dừng hoạt động của Đại lý Hải quan trong các trường hợp sau đây: Không thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của Đại lý Hải quan theo quy định của nghị định này và các quy định khác của pháp luật; Không chấp hành hoặc chấp hành không đúng các quyết định của cơ quan Hải quan khi có hành vi vi phạm pháp luật về hải quan; Cho mượn danh nghĩa trong hoạt động Đạ lý Hải quan. Thời gian tạm dừng kể từ khi phát hiện các hành vi trên cho đến khi Đại lý Hải quan khắc phuc xong hậu quả. Thông thường sự chấm dứt hoạt động của Đại lý Hải quan liên quan trực tiếp đến tư cách pháp lý của các nhân viên Đại lý Hải quan. Vấn đề đặt ra là, khi Đại lý Hải quan chấm dứt hoạt động thì có đương nhiên làm chấm dứt tư cách pháp lý của nhân viên Đại lý Hải quan đó hay không và họ có bị thu hồi thẻ nhân viên Đại lý Hải quan hay không, đồng thời họ còn được tiếp tục hành nghề nữa không? Trường hợp này cũng đã được pháp luật dự liệu. Bởi thông thường nhân viên Đại lý Hải quan bị thu hồi thẻ nhân viên Đại lý Hải quan khi họ có hành vi vi phạm pháp luật, như cho người khác sử dụng thẻ của mình hoặc sử dụng thẻ của người khác; một số trường hợp khác như là sử dụng thẻ để làm thủ tục hải quan cho hàng hoá của doanh nghiệp không ký hợp đồng với Đại lý Hải quan của mình, có hành vi hối lộ nhân viên Hải quan và các hành vi tiêu cực khác liên quan đến việc làm thủ tục hải quan cho hàng hóa XNK , có hành vi không trung thực với khách hàng… Cũng trong điều 14 của Nghị định này quy định cụ thể như sau: - Đối với nhân viên Đại lý hải quan: Cơ quan Hải quan quyết định thu hồi thẻ nhân viên Đại lý Hải quan trong các trường hợp sau: a) Nhân viên Đại lý Hải quan có một trong các hành vi vi phạm sau: - Buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế; - Cho người khác sử dụng thẻ của mình hoặc sử dụng thẻ của người khác; - Sử dụng thẻ để làm thủ tục hải quan cho hàng hoá của doanh nghiệp không ký hợp đồng với Đại lý Hải quan cho hàng hoá XNK; b) Đại lý Hải quan nơi nhân viên Đại lý Hải quan có văn bản đề nghị cơ quan hải quan thu hồi thẻ. Các hành vi vi phạm pháp luật khác của đại lý hải quan và nhân viên đại lý hải quan trong lĩnh vực hải quan, tuỳ theo mức độ sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Như vậy, các trường hợp dẫn đến việc chấm dứt quan hệ Đại lý Hải quan đều đã được pháp luật quy định mà cụ thể nhất là trong Nghị định 79/2005/NĐ – CP. Việc quy định này cũng là một phần rất quan trọng trong việc duy trì một hệ thống Đại lý Hải quan chuyên nghiệp, lành mạnh đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thị trường đồng thời từng bước tiến tới hiện đại hoá ngành hải quan, có thể đứng ngang hàng với khu vực và thế giới về chất lượng thông quan hiệu quả, thuận lợi. Tóm lại: Với vị trí là cầu nối trung gian giữa người XNK hàng hóa với cơ quan hải quan, Đại lý Hải quan đóng góp một vai trò tích cực trong họat động quản lý Nhà nước về hải quan. Thông qua Đại lý Hải quan, cơ quan hải quan biết tập trung thông tin về các chủ hàng, về các lô hàng, loại hàng chuẩn bị nhâpk khẩu vào Việt Nam hoặc xuất khẩu ra nước ngoài, đồng thời còn biết về khu vực, quốc gia mà các chủng loại hàng hóa XNK thường xuyên,… Từ đó đánh giá được các thông tin, quyết định các hình thức, mức độ kiểm tra thực tế phù hợp đối với lô hàng hóa để quyết định thông quan nhanh chóng. Hiểu rõ được vai trò của Đại lý Hải quan và mối tương quan giữa các bên tham gia quan hệ dịch vụ đại lý này cũng giúp cho việc xây dưng hệ thống dịch vụ Hải quan phát triển nhanh và mạnh hơn, kịp thời đề xuất và bổ sung các chính sách quản lý phù hợp với tình hình thực tế, bước tới hiện đại hóa ngành Hải quan của Đất nước. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI LÝ HẢI QUAN 1. Thực tiễn hoạt động của Đại lý Hải quan Ở Việt Nam, các doanh nghiệp làm dịch vụ khai thuê hải quan đã tồn tại từ lâu dưới hình thức tự phát là chính và chưa chịu bất kỳ một sự hướng dẫn, quản lý nào từ các cơ quan quản lý Nhà nước. Vào năm 1995, Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh đã báo cáo và xin phép Tổng cục Hải quan mở lớp huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ khai báo Hải quan và cấp giấy chứng nhận hoạt động cho từng doanh nghiệp trên địa bàn nhằm đưa hoạt động khai thuê hải quan này vào sự quản lý của cơ quan hải quan. Đến cuối năm 1998 đã có 85 doanh nghiệp được Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh tạm thời cấp giấy chứng nhận trong lĩnh vực thay mặt chủ hàng làm thủ tục hải quan tuy vẫn chưa được hướng dẫn nghiệp vụ khai báo hải quan một cách đầy đủ. Ngày 08/01/1999, đứng trước yêu cầu thúc bách của các doanh nghiệp đối với loại hình này, đồng thời để triển khai đồng bộ các nội dung đã được xây dựng trong đề án cải cách tủ tục hải quan nêu tại tờ trình Thủ tướng Chính phủ số: 146/TCHQ – GSQL ngày 14/01/1998 và đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại công văn số 162/CP – KTTH ngày 17/02/1998, Tổng cục trưởng Tổng cục hải quan đã ra quyết định số 15/1999/QĐ – TCHQ ban hành “Quy chế tạm thời quản lý dịch vụ khai thuê hải quan” thí điểm tại 7 địa phương là Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Nội dung quy chế tạm thời cho phép tất cả các doanh nghiệp được tham gia hoạt động đăng ký làm dịch vụ này trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện được quy định trong quy chế. Thủ tục đăng ký để được làm dịch vụ khai thuê hải quan quy định hết sức đơn giản, dễ dàng không mất phí với mục đích là để theo dõi, quản lý việc đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ khai thuê hải quan cho nhân viên tham gia hoạt động khai thuê hải quan. Với tư tưởng chỉ đạo rút kinh nghiệm để sau thời gian thí điểm sẽ tổng hợp báo cáo Chính phủ cho phép ban hành chính thức quy chế hoạt động khai thuê hải quan. Sau khi ban hành quy chế tạm thời, Tổng cục hải quan đã có nhiều văn bản hướng dẫn chỉ đạo Hải quan địa phương triển khai đồng thời tiếp tục nhận đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ khai hải quan và cho đăng ký làm dịch vụ khai hải quan cho các doanh nghiệp. Tính đến tháng 10/1999, Tổng cục hải quan thống kê các doanh nghiệp làm dịch vụ khai thuê hải quan như sau: STT Địa phương Số doanh nghiệp được công nhận hoạt động 1 Hà Nội 47 2 Hải Phòng 26 3 Tp Hồ Chí Minh 123 4 Đà Nẵng 3 5 Bình Dương 3 6 Đồng Nai 3 7 Bà Rịa – Vũng Tàu 5 8 Kom – Tum 1 9 Tổng số 210 (Báo cáo tổng kết công tác quản lý dịch vụ thủ tục hải quan, Cục giám sát quản lý về hải quan, 30/10/1999) [M] Những doanh nghiệp này là tiền đề cho sự hình thành các Đại lý Hải quan, thêm vào đó, năm 2005, Chính phủ ban hành 2 văn bản pháp luật là Nghị định 79/2005/NĐ – CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ quy định điều kiện và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan và Thông tư 73/2005/TT – BTC ngày 05/9/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của của Nghị định số 79 nêu trên, đã đánh dấu sự ra đời của các Đại lý Hải quan thay mặt chủ hàng thực hiện nghĩa vụ của người khai hải quan theo quy định của pháp luật và tự chịu trách nhiệm trước những gì họ khai báo. Việc hình thành này là hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của Thế giới. 1.1. Những mặt đạt được của hoat động Đại lý Hải quan trong những năm qua Sau hai năm triển khai thực hiện Nghị định số 79/2005/NĐ-CP và Thông tư số 73/2005/TT-BTC, hệ thống Đại lý Hải quan đã hình thành và có những đóng góp đáng kể vào việc đẩy nhanh quy trình thông quan hàng hoá XNK. Về cơ bản thì trong những năm vừa qua, Đại lý Hải quan đã: Đã có cơ sở pháp lý công nhận Đại lý Hải quan là một loại hình dịch vụ kinh doanh. Trên cơ sở đó, hoạt động này đã thực sự đóng góp một vai trò quan trọng đối với cả doanh nghiệp lẫn cơ quan hải quan. Bước đầu hình thành được hệ thống Đại lý Hải quan, đội ngũ nhân viên Đại lý chuyên nghiệp. Thông qua hoạt động Đại lý Hải quan, hải quan đã hình thành phương pháp quản lý mới về thủ tục hải quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Mà cụ thể là qua quá trình thực hiện hoạt động, những thành tựu đạt được là không nhỏ: Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tính đến cuối tháng 6/2007, đã có khoảng 1000 nhân viên được đào tạo về nghiệp vụ khai hải quan và đã có 68 thẻ nhân viên đại lý hải quan được cấp cho 22 doanh nghiệp thuộc địa bàn quản lý của 7 Cục Hải quan tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Quảng Nam, Khánh Hoà, Bình Dương và Cần Thơ. Việc đưa hệ thống đại lý hải quan vào hoạt động đã góp phần hỗ trợ các nhân viên Hải quan và doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục thông quan. Các nhân viên làm thủ tục của các đại lý được đào tạo cơ bản đã hạn chế sai sót, nhầm lẫn trong khai báo, tính thuế, phân loại hàng hoá. Các nguy cơ về gian lận, chậm chễ trong thông quan cũng được giảm đi. 1.2. Những mặt chưa đạt được và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hiện vẫn còn những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hệ thống Đại lý Hải quan, những hạn chế này được bắt nguồn từ nhiều phía, trong đó có cả trách nhiệm của cả cơ quan Hải quan, doanh nghiệp và các đại lý hải quan. 1.2.1. Về nhận thức Về mặt này thì cả Hải quan, chủ hàng và doanh nghiệp hoạt động đại lý hải quan (những doanh nghiệp đã được Cục Hải quan tỉnh, thành phố, xác nhận đủ điều kiện đăng ký và hoạt động Đại lý Hải quan, được Tổng cục Hải quan cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan) đều chưa nhận thức đúng, đầy đủ về vai trò của đại lý hải quan. Đặc biệt, chưa thấy rõ những lợi ích khi chủ hàng ký hợp đồng đại lý với doanh nghiệp trong hoạt động XNK hàng hóa của mình và lợi ích của cơ quan Hải quan trong việc quản lý và tiến tới thực hiện thủ tục hải quan điện tử. Ở Việt Nam các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh XNK chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính vì thế việc nhận thức về vấn đề trên là càng hạn chế, các doanh nghiệp này thường có tư tưởng tiết kiệm các chi phí bằng việc sử dụng nguồn nhân lực của chính công ty mình. Tuy nhiên nếu vẫn giữ tư tưởng như vậy thì không thể hoạt động trong môi trường hội nhập như hiện nay. Những tồn tại trên chủ yếu là do những nguyên nhân sau: - Đối với những doanh nghiệp đã được Cục Hải quan tỉnh, thành phố xác nhận đủ điều kiện đăng ký và hoạt động đại lý hải quan và đã được Tổng cục Hải quan cấp thẻ nhân viên đại lý chưa chủ động thong báo, tổ chức gặp gỡ với chủ hàng để thong báo việc doanh nghiệp đã có cơ sở pháp lý để hoạt động đại lý hải quan, đồng thời còn chưa tích cực trong việc phân tích những lợi ích khi chủ hàng ký hợp đồng Đại lý với doanh nghiệp… - Thực tế, các doanh nghiệp cũng không muốn thực hiện đầy đủ trách nhiệm về hoạt động Đại lý Hải quan với hải quan và với chủ hàng, cả doanh nghiệp lẫn chủ hàng đều chỉ muốn thực hiện thủ tục hải quan thông qua hình thức ủy quyền. Một ví dụ thực tiễn cho trường hợp này là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tiếp vận Thăng Long (DRAGON LOGISTICS CO., LTD) khai báo và làm thủ tục hải quan cho khoảng 90% các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại khu Công nghiệp Bắc Thăng Long, thế nhưng trên thực tế là trên những tờ khai hải quan do công ty này thực hiện thì vẫn do chủ hàng ký tên, đóng dấu. - Thêm vào đó là Hải quan các cấp chưa thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp và Đại lý Hải quan theo quy định tại Điều 12 Nghị định 79 và chưa thực sự quan tâm đến công tác tuyên truyền trong cộng đồng doanh nghiệp (chủ hàng) để doanh nghiệp thấy được sự cần thiết, thấy được những lợi ích của chủ hàng khi thực hiện hoạt động XNK hàng hóa thông qua đại lý hải quan. 1.2.2. Công tác triển khai thực hiện Công tác triển khai thực hiện còn chậm và lúng túng dẫn đền kết quả đạt được còn rất khiêm tốn. Thiếu đã là một cái khó nhưng hoạt động của các đại lý này cũng chủ yếu là làm một số khâu thủ tục do chủ hàng ủy quyền, các đại lý này chưa đứng tên đại lý để chịu trách nhiệm ký tên trên tờ khai hải quan lại càng khó hơn. Đây là một trong những yếu tố cho thấy hoạt động của các đại lý hải quan hiện nay chưa thực sự phát triển, mặc dù đã có nhiều văn bản tạo ra cơ chế, chính sách thuận lợi đối với loại hình này. Về phía cơ quan hải quan, thực tế cho thấy một số Cục Hải quan, Chi cục Hải quan chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động của đại lý hải quan, chưa thấy được lợi ích về hoạt động chuyên nghiệp và chuẩn mực của đại lý cũng như vai trò của đội ngũ này trong quản lý hải quan hiện đại. Thậm chí còn có số ít công chức hải quan chỉ muốn làm việc trực tiếp với chủ hàng hóa XNK khi làm thủ tục hải quan. Lý do quan trọng nhất của hiện trạng trên đó là do giai đoạn đầu triển khai đã có sự hiểu không thống nhất trong nội bộ ngành Hải quan, giữa Hải quan với doanh nghiệp hoạt động đại lý về nội dung một số quy định, điển hình là quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định 79 (quy định về một trong bốn điều kiện làm Đại lý Hải quan); cụ thể là doanh nghiệp ngoài việc đáp ứng điều kiện theo quy định thì còn phải đáp ứng điều kiện nối mạng máy tính với Cục hải quan thì mới được hoạt động Đai lý Hải quan.Ngoài ra còn có một số quy định về mẫu chữ ký của nhân viên đại lý, hợp đồng đại lý hải quan… Tuy nhiên, đến tháng 12/2006 Tổng cục Hải quan đã giải quyết vấn đề trên và thống nhất trong toàn ngành thực hiện như sau: các doanh nghiệp muốn đăng ký làm Đại lý Hải quan phải đáp ứng các điều kiện nối mạng máy tính với cơ quan hải quan để thực hiện thủ tục hải quan điện tử tại các Cục hải quan tỉnh, thành phố đã thực hiện thủ tục hải quan điện tử. Đối với Cục Hải quan tỉnh, thành phố chưa thực hiện thủ tục hải quan điện tử thì không yêu cầu phải có điều kiện này. Đến nay, toàn Ngành đang thống nhất thực hiện nội dung trên tương đối thuận lợi. 1.2.3. Về ký hợp đồng Hải quan Đây là một vấn đề còn nan giải mà trên thực tế là chưa thực hiện được. Thực tế là giữa đại lý và chủ hàng có nhiều lý do cần xem xét, trong đó có việc chưa tin cậy lẫn nhau ( về trách nhiệm pháp lý, về khả năng của nhân viên đại lý thực hiện các nội dung trong hợp đồng, về khả năng tài chính của Đại lý ). Các đại lý hải quan chưa đầu tư thích đáng về cơ sở vật chất, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nhân viên đại lý có đủ kiến thức và năng lực để thực hiện dịch vụ này. Nhìn chung các đại lý hải quan hầu như vẫn muốn hoạt động theo kiểu chủ hàng ủy quyền, giúp chủ hàng khai báo nhưng việc ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan vẫn là chủ hàng, để khi xảy ra vấn đề gì thì đại lý không phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với cơ quan hải quan. Cũng chính vì lý do này mà nhiều DN XNK vẫn chưa thật sự tin cậy vào năng lực của đại lý hải quan, chưa dám giao hết việc làm thủ tục hải quan cho các đại lý, vì sợ rằng khi có vướng mắc thì sẽ gặp nhiều rắc rối. 1.2.4. Về công tác đào tạo Đại lý hải quan là một loại hình dịch vụ có điều kiện, đòi hỏi nhân viên đại lý phải am hiểu về chính sách quy định liên quan đến hoạt động XNK, thủ tục hải quan, chính sách mặt hàng, có kiến thức về phân loại hàng hóa, xác định xuất xứ hàng hóa, các phương pháp tính thuế, xác định trị giá tính thuế... Để có được những kiến thức trên, nhân viên đại lý hải quan phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản, có hệ thống. Ngược lại các đại lý cũng cần có kế hoạch tuyển dụng, bồi dưỡng nhân viên để có kiến thức và năng lực đảm đương vai trò của mình.Thế nhưng công tác đào tạo nhân viên Đại lý Hải quan hiện nay chưa đem lại chất lượng. Chất lượng của đội ngũ nhân viên khai thuê hải quan chưa cao. Do sự phân bố thời gian đối với các nội dung cần đào tạo chưa thật sự hợp lý (đặc biệt là kỹ năng phân biệt hàng hóa, sở hữu trí tuệ, xuất xứ hàng hóa, xác định chính sách mặt hàng, thủ tục hải quan điện tử ). Đồng thời còn do trình độ của nhân viên tham gia học tập không đồng đều, ý thức tham gia học tập chưa cao, chỉ chú trọng vào hình thức, không mang tính chất chuyên nghiệp 1.2.5. Về hỗ trợ của hải quan Hiện nay, do cơ cấu tổ chức đội ngũ công chức phụ trách về Đại lý Hải quan ở Tổng cục hải quan chỉ có 2 nguời, tuy nhiên các công chức này là các chuyên viên chính của Tổng cục cho nên họ còn phải phụ trách rất nhiều mảng khác nhau. Do vậy chưa có được một đội ngũ đảm nhận chuyên trách và chuyên sâu về Đại lý Hải quan, với tương quan lực lượng bố trí như vậy thì không thể nào phát triển nhanh chóng Đại lý Hải quan được. Tại các Cục hải quan địa phương cũng vậy, chưa có sự chú trọng nào cho công tác phát triển Đại lý Hải quan. Mặc dù Thông tư 73/2005/TT – BTC đã quy định rõ việc định kỳ 6 tháng/ lần, Cục hải quan tỉnh phải có báo cáo lên Tổng cục hải quan về tình hình làm thủ tục hải quan của các Đại lý, kết quả kiểm tra giám sát của cơ quan hải quan. Tuy nhiên các Cục Hải quan chưa thực hiện nghiêm chỉnh quy định trên và chưa có sự chú trọng vào biện pháp thúc đẩy sự phát triển của các Đại lý Hải quan. Ngoài ra, trong tiến trình hiện đại hóa thủ tục hải quan, cơ quan hải quan cũng chưa có chính sách để khuyến khích các Đại lý Hải quan tham gia, trong công tác thí điểm thủ tục hải quan điện tử cũng chưa có cơ chế cho khuyến khích sự tham gia của các Đại lý Hải quan. Đồng thời Hải quan vẫn chưa thực hiện được việc hỗ trợ kỹ thuật trong việc kết nối mạng giữa Công ty với Hải quan, như cài đặt chương trình phần mềm khai hải quan điện tử, cài đặt chương trình..Đây là một thiếu sót mà trong quá trình lập kế hoạch thí điểm thủ tục hải quan điện tử cần quan tâm đến nhiều hơn. Việc dự báo được xu thế phát triển để có thể đi tắt đón đầu là rất quan trọng trong thời đại này. 2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đại lý hải quan 2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại lý hải quan Để hoạt động của dịch vụ Đại lý Hải quan được triển khai thực hiện đi vào cuộc sống hỗ trợ đắc lực cho hoạt động XNK, thực thi tốt các chính sách hải quan, góp phần giảm chi phí cho các doanh nghiệp, hỗ trợ đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa quy trình thủ tục hải quan thì chúng ta cần phải có một hệ thống pháp luật thật tốt, chắc chắn và cụ thể để điều chỉnh hoạt động của loại dịch vụ này. Nhìn chung tuy chúng ta đã có một hệ thống các văn bản pháp luật và quy định khá cụ thể, chặt chẽ về ra đời và hoạt động của Đại lý Hải quan, nhưng do mới đi vào triển khai trong thời gian ngắn đồng thời do việc phát triển quá nhanh của loại hình dịch vụ này nên các quy định của pháp luật chưa bắt kịp với thực tiễn, xảy ra một số thiếu sót trong cách quy định, mà cụ thể là: Thứ nhất, có sự mâu thuẫn giữa khái niệm đại lý thương mại trong luật thương mại và khái niệm đại lý hải quan, mà cụ thể là: Tại điều 166 Luật thương mại 2005 có nêu khái niệm đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao. Nhưng đem so với khái niệm đại lý hải quan thì không thỏa mãn mặc dù ta thừa nhận đại lý hải quan là một đại lý thương mại. Trong đó, đại lý hải quan không nhân danh chính mình mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của bên chủ hàng cho khách hàng mà nhân danh cho chính mình thực hiện dịch vụ khai báo hải quan và một số công việc khác liên quan đến hải quan do bên chủ hàng ủy quyền. Rõ ràng ở đây khái niệm về đại lý thương mại trong luật thương mại bị bó hẹp, không bao hàm hết được chức năng và đặc điểm của các đại lý thương mại. Vậy em có ý kiến là nên mở rộng hơn nữa khái niệm này để tạo điều kiện tốt hơn cho các đại lý thương mại khác nói chung và đại lý hải quan nói riêng hoạt động được thuận tiện hơn. Thứ hai, về vấn đề điều kiện làm nhân viên Đại lý Hải quan được quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định 79/2005/NĐ – CP và được hướng dẫn cụ thể tại mục 2 phần II Thông tư 73/2005/TT- BTC về khoản có bằng trung cấp trở lên thuộc các ngành kinh tế, pháp luật nên mở rộng thêm điêu kiện là bằng tại chức thuộc các ngành này bởi vì dịch vụ Đại lý Hải quan ngày càng phát triển với sự mở rộng về phạm vi hoạt động và số lượng nhân viên. Chính vì vậy điều kiện để trở thành nhân viên Đại lý cũng cần phải thoáng hơn thì mới có thể tăng số lượng nhân viên được. Vấn đề đặt ra là, liệu việc mở rộng điều kiện như vậy có làm giảm chất lượng của nhân viên Đại lý hay không, do việc đăng ký làm nhân viên rồi để được cấp thẻ nhân viên Đại lý còn phải được thực hiện thông qua một quy trình đào tạo của cơ quan hải quan đặt ra thì mới có thể được cấp thẻ hành nghề. Vậy việc mở rộng đầu vào và thắt chặt đẩu ra cũng là một biện pháp vừa làm tăng số lượng nhân viên vừa nâng cao chất lượng một cách hiệu quả. Thứ ba, theo quy định hiện nay chưa có điều khoản cụ thể nào quy định trách nhiệm pháp lý giữa nhân viên Đại lý Hải quan và Giám đốc doanh nghiệp khai thuê hải quan trong trường hợp xảy ra gian lận thương mại mà Giám đốc không biết.Tuy tại khoản 5 Điều 8 Chương II Nghị định 79/2005/NĐ – CP có quy định: . Đối với Đại lý Hải quan: “Chịu trách nhiệm trước pháp luật trong trường hợp thực hiện không đúng những công việc được ủy quyền, khai không đúng những thông tin và chứng từ liên quan do chủ hàng cung cấp” (khoản 5 Điều 8). Nhưng việc quy định như vậy rất chung chung, nếu không có thêm các điều khoản quy định cụ thể trách nhiệm của nhân viên Đại lý thì chắc chắn sẽ xảy ra hiện tượng nhân viên Đại lý tự ý làm trái gây gian lận thương mại mà Giám đốc không biết. Vậy xin đề nghị có hướng dẫn thực hiện khi lập biên bản xử lý vi phạm là chủ thể pháp nhân Đại lý hay cá nhân nhân viên Đại lý. Thứ tư, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp làm thủ tục hải quan chuyên nghiệp theo quy định của Luật hải quan cũng như phù hợp với thông lệ của hải quan trong khu vực và quốc tế, vấn đề hoàn thiện môi trường pháp lý của Đại lý Hải quan đang được đặt ra như một tất yếu ở nước ta hiện nay. Nhu cầu tất yếu này sẽ được đáp ứng một cách thoả đáng khi có sự thống nhất về nhận thức đối với dịch vụ làm thủ tục hải quan là một loại hình dịch vụ thương mại nhà nghề, thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Do vậy việc hoàn thiện một môi trường pháp lý chung cho hoạt động dịch vụ thương mại, cụ thể sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự, luật Thương mại và ban hành Luật doanh nghiệp thống nhất, Luật Đầu tư chung.., cần đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện môi trường pháp lý chuyên ngành như sửa đổi bổ sung Luật Hải quan, ban hành luật Giao dịch điện tử.. Để đảm bảo tính minh bạch, công khai cũng như độ an toàn và chắc chắn của hoạt động Đại lý Hải quan, Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính ngoài việc hướng dẫn nội dung thì cần phải tập trung làm rõ: . Điều kiện về tài chính để Đại lý Hải quan thực hiện trách nhiệm pháp lý đối với nghề nghiệp của mình. Về vấn đề này có thể lựa chọn phương án hoặc là quy định mức vốn tối thiểu (vốn pháp định) đối với các doanh nghiệp thực hiện hoạt động Đại lý Hải quan; hoặc là quy định các hình thức đảm bảo khác như số tiền bảo lãnh của các tổ chức tín dụng hoặc số tiền ký quỹ phải có thường xuyên tại Ngân hàng; hoặc mua bảo hiểm nghề nghiệp; . Quy định khung giá dịch vụ của Đại lý Hải quan theo tỷ lệ phần trăm trên trị giá lô hàng XNK; . Quy định chế độ báo cáo tài chính của Đại lý Hải quan; . Quy định các ưu đãi về tài chính như ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt là việc thành lập các Hiệp hội Đại lý Hải quan để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Đại lý Hải quan bởi môi trường minh bạch về tài chính góp phần khẳng định sự tồn tại lâu dài và bền vững của dịch vụ làm Đại lý Hải quan. 2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đại lý hải quan Nhằm hoàn thiện và nâng cao vai trò của Đại lý Hải quan trong hoạt động khai thủ tục hải quan nhằm thúc đẩy hoạt động thông quan hàng hóa, nhanh gọn thủ tục, không những chúng ta cần phải đề ra những giải pháp để khắc phục nhưng khó khăn vướng mắc nêu trên mà đồng thời còn phải tích cực trong việc đưa ra những kiến nghị thẳng thắn, thiết thực không những đối với cơ quan chức năng mà còn với cả những doanh nghiệp hoạt động Đại lý Hải quan phối hợp thực hiên, mà cụ thể là: 2.2.1. Với cơ quan chức năng a. Đối với Chính phủ, Bộ Tài chính Đây là những cơ quan quản lý trực tiếp ngành Hải quan, cũng chính là cơ quan góp phần tạo nên những văn bản pháp luật quy định về cơ sở pháp lý cho Đại lý Hải quan. Cho nên để thực hiện được việc quản lý và phát triển toàn diện hoạt động của loại dịch vụ này thì Chính phủ, Bộ Tài chính cần phải hỗ trợ Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật sao cho chúng thật rõ ràng, dễ đi vào hoạt động và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Đại lý Hải quan. Hiện nay hệ thống cơ sở pháp lý cho hoạt động của Đại lý Hải quan chưa được đầy đủ và quy định chưa cụ thể, hơn nữa chúng chưa dự trù được các trường hợp khi tranh chấp xảy ra giữa Đại lý Hải quan và doanh nghiệp, cũng chưa có biện pháp hạn chế trường hợp Đại lý giúp doanh nghiệp gian lận thuế, gian lận thương mại.. Mặt khác, hiện nay 2 văn bản điều chỉnh trực tiếp quá trình ra đời cũng như hoạt động của Đại lý Hải quan là Nghị định 79/2005/NĐ – CP và Thông tư 73/2005/TT – BTC còn nhiều bất cập, chính vì vậy để tạo điều kiện cho sự phát triển của các Đại lý Hải quan thí việc hoàn thiện cơ sở pháp lý là điều kiện cần thiết và tiên quyết. Do đó theo em, Chính phủ và Bộ Tài chính cần rà soát lại Nghị định 79/2005/NĐ – CP và Thông tư 73/2005/TT – BTC, xem xét các văn bản này để thống nhất về điều kiện nối mạng máy vi tính với cơ quan hải quan để tiến hành thủ tục hải quan điện tử với quy định trong điều kiện làm Đại lý. b. Đối với ngành Hải quan Tổng cục Hải quan là đơn vị quản lý trực tiếp việc cấp phép và quản lý hoạt động của các Đại lý Hải quan, là ngành chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc quản lý hoạt động XNK của nền kinh tế. Đứng trước yêu cầu hội nhập nền kinh tế, ngành hải quan cần phải nhanh nhạy và triển khai tốt công tác hiện đại hóa và một trong những yêu cầu của quá trình hiện đại hóa mà ngành đang tiến hành đó là tính đồng bộ. Sự đồng bộ cần được tiến hành trên nhiều khía cạnh, trong đó có sự kết hợp phát triển Đại lý Hải quan trong việc tiến hành thủ tục hải quan điện tử. Để thực hiện được điều đó trước tiên cần phải: + Tạo điều kiện cho hoạt động của các Đại lý Hải quan: Để tạo điều kiện cho hoạt động của các Đại lý Hải quan trước tiên phải xây dựng cơ chế phối hợp giữa hải quan và các Đại lý. Sự phối hợp giữa cơ quan hải quan với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Đại lý Hải quan là yếu tố quyết định hoạt động của dịch vụ này có phát huy được lợi ích nhiều mặt vốn có hay không. Thông qua đó, các doanh nghiệp có thể hỗ trợ Hải quan chống buôn lậu và gian lận thương mại trên cơ sở theo dõi thường xuyên sự di chuyển của các loại hình hàng hóa. Đội ngũ những người trực tiếp làm dịch vụ này nếu có sự phối hợp chặt chẽ về mặt nghiệp vụ có thể trở thành “tai mắt” của Hải quan. Loại hình dịch vụ này còn giúp tinh giảm được bộ máy tại hải quan cửa khẩu mà hiệu quả quản lý lại đạt cao hơn. Trong cơ chế phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp, cơ quan hải quan phải tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho những nhân viên của các doanh nghiệp, thường xuyên tư vấn về các chế độ, chính sách kiên quan tới XNK, gia công đầu tư, sự thay đổi bổ sung trong luật, nghị định của Chính phủ … Cơ quan hải quan cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp làm dịch vụ khi tiến hành khai báo, làm thủ tục hải quan. Từ đó, các doanh nghiệp có thể cung cấp dịch vụ tốt hơn cho khách hàng, tiến hành thông quan cho hàng hóa một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời đưa vào sản xuất, lưu thông, tránh được các chi phí phát sinh cho khách hàng. Để tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác giữa hải quan và các Đại lý Hải quan. Cần tăng cường cả về chất và lượng bộ phận cán bộ công chức chuyên trách về Đại lý Hải quan làm thủ tục hải quan tại các Cục hải quan tỉnh, thành phố. Bộ phận này tại các Cục hải quan có thể từ 5 đến 7 công chức và đảm nhiệm các nhiệm vụ: . Tiếp nhận hồ sơ đăng ký làm Đại lý Hải quan của các doanh nghiệp . Điều tra về doanh nghiệp đăng ký bao gồm về vốn, đội ngũ nhân viên, tình hình chấp hành pháp luật về XNK, hải quan. Từ đó tư vấn choa cấp trên trong việc xét công nhận doanh nghiệp trở thành Đại lý Hải quan. . Cấp thẻ nhân viên Đại lý Hải quan cho nhân viên khi đủ điều kiện theo mẫu, mã số do Tổng cục Hải quan quy định. . Thường xuyên theo dõi hoạt động của các Đại lý Hải quan tại địa phương, đặc biệt kiểm tra chế độ lưu giữ hồ sơ, chứng từ. . Là đầu mối thu ý kiến phản ánh, kiến nghị, đề xuất về các vấn đề còn vứong mắc trong hoạt động của các Đại lý Hải quan, qua đó từng bước cải tiến công tác quản lý, hoàn thiện cơ sở pháp lý sao cho dịch vụ đạt được hiệu quả cao nhất, thực sự tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp XNK, các nhà đầu tư. . Tư vấn miễn phí cho các Đại lý Hải quan các vấn đề về thủ tục Hải quan, thuế XNK, các chế độ chính sách … Tiếp theo, ngành Hải quan nên hỗ trợ các Đại lý Hải quan thành lập nên hội Đại lý Hải quan. Hiệp hội Đại lý Hải quan đã được thành lập ở nhiều nước trên thế giới và đã chứng tỏ được những ưu thế đem lại cho hải quan trong quản lý và đem lại quyền lợi cũng như những lợi ích cho chính những Đại lý này khi xảy ra tranh chấp.Việc có hiệp hội Đại lý Hải quan còn giúp: . Ngành hải quan có một giao diện đơn nhất với phía các Đại lý Hải quan và thông qua hiệp hội này sẽ giúp ngành hải quan có thể quản lý tốt hơn các Đại lý Hải quan và giúp hải quan trống gian lận thương mại, trốn thuế... . Giúp các Đại lý Hải quan có tiếng nói hơn trong hoạt động thưong mại, các Đại lý Hải quan có thể thông qua hiệp hội để tham gia trong các diễn đàn và tham gia đóng góp ý kiến trong việc xây dựng văn bản pháp luật điều chỉnh tới hoạt động của chính các Đại lý đó. Đồng thời sẽ có một tổ chức đứng ra đảm bảo giải quyết các mâu thuẫn giữa Đại lý Hải quan với cơ quan hải quan và giữa Đại lý và các doanh nghiệp XNK. Thông qua hiệp hội có thể tham gia các hiệp hội lớn hơn như Hiệp hội Đại lý Hải quan Châu Á (FACBA) và thế giới (IFCBA) giúp Việt Nam có thể học hỏi và tham gia hội nhập sâu rộng hơn. Cơ quan Hải quan nên phối hợp với phòng thưong mại và công nghiệp Việt Nam và hiệp hội giao nhận vận tải để thành lập hiệp hội Đại lý Hải quan. Để làm được điều này cần lấy ý kiến của các Đại lý Hải quan lên chương trình cụ thể để liên hệ với phía FACBA để học hỏi kinh nghiệm và yêu cầu sự giúp đỡ từ phía họ. + Khuyến khích các doanh nghiệp có năng lực đầu tư vào lĩnh vực này Để khuyến khích được các doanh nghiệp có năng lực đầu tư vào lĩnh vực này trước hết cần phải hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý cho hoạt động của Đại lý Hải quan. Để hoạt động trong một ngành có liên quan đến luật pháp của nhiều ngành thì Đại lý Hải quan cần được hoạt động trong một hệ thống cơ sở pháp lý ổn định và thống nhất.Cho nên việc hoàn thiện hệ thống pháp luật lại càng là vấn đề phải đặt ra cần giải quyết trước mắt. Tiếp theo là cơ quan hải quan cần phải có những cơ chế khuyến khích tăng cường hỗ trợ thể hiện ở nhiều khía cạnh như hỗ trợ trong việc đào tạo đội ngũ nhân viên cho các Đại lý Hải quan. Việc đào tạo hiện nay được giao cho các đơn vị đào tạo do Tổng cục Hải quan ủy quyền nhưng các khóa đào tạo thường trong thời gian ngắn và có nhiều cơ sở đào tạo không theo giáo trình chuẩn, do vậy chưa đánh giá được chất lượng đào tạo tại các cơ sở này. Việc nâng thời gian đào tạo và xây dựng hệ thống giáo trình chung có sự kiểm định chất lượng của cơ sở đào tạo là việc làm cấp bách. Ngoài ra, để thu hút các doanh nghiệp có chất lượng tham gia vào kinh doanh Đại lý Hải quan thì quy trình hải quan cần phải được cải thiện và tạo thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp. Quy trình hải quan phải phản ánh được những cải cách, tạo thuận lợi và nhanh chóng cho cả hải quan và doanh nghiệp. Cần bổ sung ngay Nghị định 79/2005/NĐ – CP và Thông tư 73/2005/TT – BTC cho rõ ràng hơn để tránh những hiểu lầm trong quá trình đăng ký hoạt động của các Đại lý Hải quan. Đó là những việc làm trước mắt, về mặt lâu dài để quản lý cũng như tạo những hành lang pháp lý cao nhất cho hoạt động của các Đại lý Hải quan cần tiến hành tìm hiểu và xây dựng luật về Đại lý Hải quan tách biệt nhằm có một cơ sở pháp lý cho Đại lý Hải quan hoạt động hiệu quả nhất.Về vấn đề đào tạo đội ngũ nhân viên thì cần chú trọng hơn nữa đào tạo về thủ tục hải quan điện tử trong chương trình đào tạo nghiệp vụ hải quan cho các nhân viên của các Đại lý Hải quan, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa thủ tục hải quan. Để khuyến khích đựoc các Đại lý Hải quan tham gia thì cần hỗ trợ họ trong việc kết nối hệ thống mạng với cơ quan hải quan. Mặt khác do đây là một ngành nghề cần khuyến khích phát triển, thời gian đầu các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trường cũng như đào tạo nhân viên, tìm hiểu hệ thống pháp luật nên cần hỗ trợ về mặt tài chính. Thậm chí có thể cho phép các Đại lý Hải quan được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian đầu hoạt động. Hiện nay, quy trình thủ tục đang tiến hành theo quyết định số 874/QĐ – TCHQ. Tuy nhiên nếu xây dựng được một quy trình riêng, áp dụng cho các Đại lý Hải quan và quy định này phải cho thấy rõ được những ưu đãi, thuận lợi cho các Đại lý Hải quan thì sẽ khuyến khích được các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng Đại lý Hải quan đồng thời còn khuyến khích được các Đại lý Hải quan phát triển. + Tăng cường hiện đại hóa hệ thống khai báo hải quan trên cơ sở kết nối mạng máy tính của hải quan và các doanh nghiệp làm dịch vụ. Áp dụng tin học trong khâu làm thủ tục hải quan thông qua việc sử dụng cấu trúc mạng máy tính là biện pháp chủ yếu nhằm hiện đại hóa hệ thống khai báo hải quan. Thế nhưng việc kết nối hệ thống mạng máy tính để thực hiện thủ tục hải quan điện tử giữa hải quan với các doanh nghiệp XNK một cách trực tiếp là rất khó vì: .Thứ nhất, số lượng các doanh nghiệp XNK là rất lớn nên việc kết nối mạng máy tính là không kinh tế, chi phí lắp đặt cơ sở vật chất kỹ thuật rất lớn. .Thứ hai, do quy mô các doanh nghiệp là rất khác nhau, lượng hàng hóa XNK không lớn và không thường xuyên, việc phải duy trì một bộ phận chuyên trách đòi hỏi trình độ chuyên môn cao nhiều khi vượt quá khả năng của các doanh nghiệp này. .Thứ ba, có thể gây không đảm bảo bí mật số liệu thống kê do có quá nhiều đường kết nối. Trong khi đó việc sử dụng các doanh nghiệp làm dịch vụ thủ tục hải quan là xu hướng phát triển tất yếu thì việc đưa công tác kết nối hệ thống máy tính với cơ quan hải quan là việc làm cần thiết và cấp bách để đáp ứng được yêu cầu phát triển. 2.2.2. Đối với doanh nghiệp a. Với các doanh nghiệp Đại lý Hải quan: Với xu hướng xây dựng một ngành hải quan hiện đại với đội ngũ người khai hải quan am hiểu hệ thống pháp luật, được trang bị những kiến thức cần thiết phục vụ công tác làm thủ tục hải quan, việc tăng cường vai trò của đội ngũ người khai hải quan là rất cần thiết. Mỗi một bước đi trong hiện đại hóa thủ tục hải quan cần có sự đóng góp của đội ngũ người khai hải quan đặc biệt là sự có mặt của các Đại lý Hải quan chính vì vậy việc tăng số lượng và chất lượng cho đội ngũ này là việc làm rất cần thiết. Mặc dù các Đại lý Hải quan chưa thực sự phát triển mạnh về cả số lượng và chất lượng nhưng trong quá trình thí điểm thủ tục hải quan điện tử mà kết hợp đưa một số Đại lý Hải quan có chất lượng tham gia thì không những vừa giúp công tác thí điểm thủ tục hải quan điện tử được nhanh chóng mà còn nâng cao được nhận thức của các doanh nghiệp XNK về vai trò của các Đại lý Hải quan. b. Với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu: Song song với việc phát triển nhận thức cho các Đại lý Hải quan về việc làm của mình thì cũng phải làm tăng sự hiểu biết từ phía các doanh nghiệp kinh doanh XNK. Dù cho đã phát triển được tất cả các yếu tố trên nhưng nếu thiếu sự hiểu biết từ phía doanh nghiệp kinh doanh XNK thì cũng không thể phát huy được vai trò của các Đại lý Hải quan đối với công tác hiện đại hóa thủ tục hải quan được. Để phát triển cũng như bảo vệ được lợi ích của chính doanh nghiệp mình thì các doanh nghiệp kinh doanh XNK cần có cách làm việc chuyên nghiệp hơn, kết hợp sử dụng dịch vụ của các Đại lý Hải quan nếu mang lại hiệu quả cao hơn, đồng thời cần lựa chọn các Đại lý Hải quan có uy tín và chất lượng cao để đảm bảo lợi ích công việc cho doanh nghiệp.Cùng với sự phát triển và hiện đại hóa thủ tục hải quan, cần sự tham gia nhiều hơn của các Đại lý Hải quan, mà cụ thể là trong chuơng trình xây dựng thí điểm thủ tục hải quan điện tử như đã nói ở trên thì chọn lựa một số các Đại lý Hải quan điển hình tham gia. Trên cơ sở đã có những đánh giá và xây dựng cơ chế phối hợp tốt hơn với các Đại lý Hải quan thì tạo tiền đề cho việc triển khai thủ tục hải quan điện tử thông qua các Đại lý Hải quan. Tóm lại, việc hình thành và phát triển loại hình dịch vụ Đại lý Hải quan chuyên nghiệp là mô hình thích hợp để hỗ trợ doanh nghiệp XNK làm tốt nhiệm vụ khai báo hải quan và làm thủ tục hải quan, nó có tác dụng thúc đẩy cho quá trình cải tiến thủ tục hải quan, hiện đại hóa công tác quản lý hải quan theo hướng chính quy, hiện đại và phù hợp với yêu cầu hài hòa hóa thủ tục hải quan với các nước trong khu vực và trên thế giới theo quy định của Công ước Kyoto và Tổ chức hải quan Thế giới mà Việt Nam là thành viên. Đã đến lúc phải đưa hoạt động của Đại lý Hải quan ở nước ta vào quỹ đạo quản lý, hỗ trợ cho tiến trình cải cách hành chính trong lĩnh vực XNK, hải quan của Nhà nước. Đây cũng là một bước đi cần thiết để tiến tới khu vực mậu dịch tự do AFTA, khi đó, các loại hình dịch vụ thương mại nhà nghế sẽ mở ra cho tất cả các nước thành viên, đồng thời,Việt Nam đã tham gia vào WTO nên các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải tập dượt hoạt động dịch vụ này chất lượng và phát triển mạnh mẽ để có thể cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp trong lĩnh vực này của các nước vào làm ăn với Việt Nam. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (39).doc