Đề tài Nội dung của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Hạn chế và giải pháp

Trong những năm tiếp theo, Chính Phủ và Quốc hội cần quan tâm hơn nữa trong vấn đề chống lạm phát, cũng như đưa ra các chính sách hợp lí hơn nữa trong việc bình ổn giá cả thị trường và sự thất thường bất ổn của các thị trường chứng khoán, bất động sản. Trong quá trình phát triển hiện nay, vừa mới gia nhập thị trường kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán mới được hình thành chưa được ổn định, lại được đầu tư một cách tự do của các nhà đầu tư mang trong mình suy nghĩ kiểu “tiểu nông” thì sớm muộn cũng chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của thị trường thế giới do chính nó cũng chưa thực sự vững mạnh. Tránh tình trạng mới chỉ gặp một thông tin bất lợi, hay một bất động nhỏ ảnh hưởng đến các nhà đầu tư thì mọi thứ đã trở nên náo loạn như thời kì cuối năm 2007. Hay tình trạng bất ổn liên tiếp của các thì trường bất động sản, thị trường vàng gây nên một chấn động tổng thể cho toàn bộ nền kinh tế như hiện nay. Tham nhũng và lãng phí cũng là một trong những vấn đề mà nhà nước cần quan tâm giải quyết nhanh chóng và dứt điểm. Vì nó không những ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến lòng tin của người dân vào Đảng, lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn đầu tư vào Việt Nam. Chính phủ cần có những biện pháp cứng rắn hơn nữa trong việc chống tham nhũng, lãng phí. Hãy học tập những gì mà Trung Quốc đã làm nhằm làm trong sạch bộ máy hành chính, pháp luật của họ. Bên cạnh đó cũng phải tăng cường trình độ quản lý của bộ máy nhà nước. Điều quyết định trực tiếp đến thành công của quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam Trên đây chỉ là những một số suy nghĩ cho việc khắc phục một số hạn chế đang còn tồn tại trong quá trình thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.

doc44 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2557 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Hạn chế và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g xu thế toàn cầu hóa hiện nay, mở cửa nền kinh tế là vô cùng cấn thiết đối với tất cả các quốc gia. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, đặc biệt khi chúng ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa thì việc mở rộng cũng như nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại có một vị trí quan trọng ảnh hưởng đến sự thành công của quá trình CNH – HĐH. Nhưng trong quá trình hội nhập, chúng ta cần xác định rõ đâu là những điều tích cực để có thể tận dụng, đâu là những điều tiêu cực để hạn chế.Tránh tình trạng mất phương hướng trong quá trình hội nhập, hòa nhập nhưng không được hòa tan. Trong việc mở cưa phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm. Vai trò của Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam Từ những năm 60 của thập niên XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối Công nghiệp hóa và coi Công nghiệp hóa là nhiệm vụ hàng đầu, tập trung trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cả về lí luận và thực tiễn đã cho ta thấy vai trò vô cùng quan trọng của quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với Việt Nam; nó có tác dụng to lớn về mọi mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đó là: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu cao cả xây dựng cũng như bảo vệ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp hiện đại, gắn với việc hành thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện rõ bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới chế độ xã hội chủ nghĩa Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất – kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội, không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi nhanh chóng về chất lượng của lực lượng sản xuất mà ở đây là cả trình độ người lao động cũng như thiết bị máy móc hiện đại kèm theo. Ngày càng nâng cao hơn vai trò của người lao động với trình độ cao, lấy đó là trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện vật chất cho xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh vững chắc giữa giai công nhân với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tạo nên một sức mạnh tổng hợp có thể đưa chúng vượt qua mọi khó khăn trên con đường chông gai phía trước. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền lực sức mạnh cũng như hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước. Từ đó lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm điều kiện vật chất để xây dựng nền độc lập, tự chủ vững mạnh, từ đó thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy nhanh quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lí theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng kinh tế, các miền trở nên thống nhất và đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng mà còn góp phần tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển, hiện đại hóa nền quốc phòng an ninh nhân dân. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với của sự nghiệp phát triển văn hóa, kinh tế xã hội. từ đó tạo tiền đề cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế và chính trị, văn hóa và xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp Công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định đến sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước cùng nhân dân ta đã chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hiện đại hóa kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì tiến lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa phải đi đôi với Hiện đại hóa??? Nhận thức rõ sự gắn kết tất yếu của hai quá trình Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa, tạo Hội nghị thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam là quá trình Công nghiệp hóa –Hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phá triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.” Điều đó cho ta thấy rằng ngay từ thời điểm bắt đầu tiến hành công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở nước ta, chúng ta đã xác định được sự tất yếu của việc thực hiện Công nghiêp hóa phải đi đôi với việc Hiện đại hóa. Quá trình công nghiệp hóa là một quá trình nhằm tăng nhanh năng suất lao động xã hội, trong đó chúng ta tập trung phát triển ngành Công nghiệp nhưng đó không phải là một quá trình tăng thêm một cách giảm đơn tốc độ và tỉ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ. Công nghiệp hóa không thể không gắn liền với hiện đại hóa, kết hợp với những bước đi tuần tự về công nghệ, tận dụng và phát triển theo chiều rộng, tạo ra ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nhưng ngoài những bước tiến cơ bản đó, chúng ta cũng cần phải có những bước đón tắt đi đầu, phát triển theo chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ trình độ phát triển Khoa học. Đó chính là quá trình hiện đại hóa khi được thực hiện đồng thời với công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình xây dựng một xã hội văn minh, cải biến căn bản các ngành kinh tế, các hoạt động xã hội theo phong cách Công nghiệp hiện đại, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế xã hội bền vững, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Nó không chỉ thể chỉ thể hiện qua các con số tăng trưởng của Kinh tê – Kĩ thuật – Công nghệ, trình độ khoa học kĩ thuật, xã hội được tổ chức khoa học và hợp lí, mà quan trọng hơn là đảm bảo cho Xã hội phát triển như một chỉnh thể thống nhất, toàn vẹn (Kinh tế - Xã hội – Vật chất – Tinh thần ) trên cơ sở giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, tiến bộ xã hội và phát triển con người toàn diện. Để có thể thực hiện được điều đó hiển nhiên chúng ta phải thực hiện quá trình Hiện đại hóa, quá trình này không những giúp chúng ta hoàn thiện quá trình Công nghiệp hóa mà còn giúp chúng ta hoàn thiện sự phát triển của xã hội về mọi mặt. Tạo nên một nền tảng kinh tế xã hội vững mạnh, từ đó thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải thực hiện Công nghiệp hóa xong mới thực hiện Hiện đại hóa – đó là một quan niệm hết sức sai lầm. Hơn nữa với điều kiện hiện nay của Việt Nam, chúng ta không có đủ thời gian để làm như vậy. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa là hai quá trình đan xen với nhau. Để có một lực lượng sản xuất phát triển như hiện nay, các nước Trung Âu – Mỹ đã có một quá trình Công nghiệp hóa, sau đó tiến tới Hiện đại hóa và hiện nay vẫn đang tiếp tục. Hiện đại hóa như quá trình chống tụt hậu trước sự bùng nổ của Cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật – công nghệ trên thế giới. Như vậy, xét về mặt lịch sử thì Công nghiệp hóa diễn ra trước Hiện đại hóa nhưng sự phân chia đó chỉ mang tính tương đối, trên thực tế thì không có sự phân chia, luôn có sự tác động qua lại giữa hai quá trình và chúng luôn được thực hiện xen kẽ với nhau. Việt Nam ta có những đặc điểm khác với các quốc gia khác nên chúng ta cũng không thể tiến hành công nghiệp hóa rồi mới tiến hành hiện đại hóa, vả lại chúng ta cũng không thể tiến hành Công nghiệp hóa với máy móc lạc hậu được nên: Công nghiệp hóa phải đi đôi với Hiện đại hóa là một tất yếu khách quan không thể phủ nhận. HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP Một số hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam. Vấn đề sử dụng vốn. Như chúng ta chúng ta đã biết, đối với bất kì quốc gia nào thì việc sủ dụng vốn có hiệu quả, bao gồm cả vốn của ngân sách và vốn đầu tư nước ngoài là hết sức quan trọng. Nó càng quan trọng hơn đối với Việt Nam trong giai đoạn thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa hiện nay, một giai đoạn mà mọi nguồn lực cần được tận dụng một cách triển để. Nhưng trong những năm gần đây, thực tế hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của Việt Nam hiện nay đến đâu? Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: "Ở Việt Nam, tồn tại một nghịch lí là nước nghèo nhưng không biết tiêu tiền hợp lí, gây lãng phí". Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA. Để rồi xảy ra đồng loạt tình trạng “lãng phí kép” và bệnh thành tích trong việc sử dụng vốn. Việc thất thoát ngân sách đã được Chính phủ thừa nhận, Quốc hội bàn thảo, và khiến người dân xót xa và quan tâm. Tiền ngân sách là gì khác ngoài tiền thuế của dân đóng góp? Theo thống kê, đầu tư trong nước cũng là một nguồn lực tốt, thậm chí, năm 2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các DN tư nhân, các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc đẩy hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các nguồn lực khác: Cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho DN nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên, không phủ nhận sự yếu kém của DN tư nhân trong nước, nhưng một yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do chính nhà nước tạo ra. Về vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI năm 2007 là 10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm 2006. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào.  Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến chính là việc các nhà đầu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra.  Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức ưu tiên xây dưng cho các DN nước ngoài là BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Nước này đã rút dự án khỏi Việt Nam. Bài học Phần Lan cần phải tránh.   Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất. Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình giải ngân. Ngay cả một nơi được đánh giá là phát triển năng động như thành phố Hồ Chí Minh cũng có tình trạng đó. Một số nhà cung cấp ODA đã thực hiện biện pháp mang tính trừng phạt nhưng cũng không thúc đẩy được bao nhiêu.Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào.Đây là lãng phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. Đặc biệt, mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội.Nếu có thể sử dụng vốn ở tất cả các khu vực ngân sách nhà nước, DN tư nhân, FDI, ODA hiệu quả hơn, chắc chắn thời gian trở thành nước thu nhập trung bình sẽ được rút ngắn và chất lượng tăng trưởng cũng cao hơn. Trên thực tế, "kiếm tiền ở Việt Nam thì dễ, cho tiền Việt Nam quá khó", cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Pete Peterson, hiện đang là lãnh đạo của một tổ chức phi chính phủ Mỹ tại Việt Nam đã nói như vậy. Đại diện các tổ chức phi chính phủ thường xuyên phàn nàn về tình trạng quá khó khăn trong thực hiện dự án ở Việt Nam.  "Nó cũng là dạng bệnh thành tích trong huy động vốn, thích những dự án lớn. Mà gốc rễ của nó không gì khác chính là theo đuổi mục tiêu số lượng chứ không phải chất lượng.  Đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao Đây là một vấn đề được chúng ta rất quan tâm không chỉ trong giai đoạn thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa hiện nay, mà còn là vấn đề của mọi giai đoạn phát triến của đất nước. Như ta đã biết, thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa là phải tiếp cận với những thành tựu khoa học kĩ thuật trên thế giới nhưng liệu chúng ta có thể tiếp cận với những thành tựu đó trong khi bản thân chúng ta lại không có gì trong tay. Không tự chuẩn bị cho mình một kiến thức vững chắc cũng như là bắt kịp với tốc độ phát triển của thế giới thì dù chúng ta có trong tay những cỗ máy hiện đại bậc nhất thế giới mà chúng ta lại không biết sử dụng nó ra sao thì cũng không có ý nghĩa gì cả. Nó sẽ không đem lại cho ta bất kì một nguốn lợi nào cả mà còn làm tốn tiền của Nhà nước và nhanh chóng trở thành những đống sắt vụn phế liệu. Đó chính là thực trạng đã và đang tồn tại ở một số doanh nghiệp, xí nghiệp nước ta. Đến nay chất lượng lao động của nước ta vẫn còn thấp, cơ cấu lao động tiếp tục bất hợp lý ngay từ khi đào tạo, khiến thị trường lao động phải tiếp nhận một nguồn nhân lực không đạt yêu cầu. Đây là thực tế đòi hỏi có giải pháp hữu hiệu để giải quyết. Nước ta có nguồn lao động dồi dào, chiếm trên 54% dân số cả nước, với 46,6 triệu lao động. Tuy nhiên, có đến gần 80% người lao động trong độ tuổi từ 20 - 24 khi tham gia thị trường lao động chưa được đào tạo nghề, hoặc được đào tạo thì còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp. Các yếu tố như thể lực, trí lực, tác phong công nghiệp, . thức kỷ luật của người lao động cũng còn nhiều vấn đề đáng bàn… Thực tế này làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là những ngành có hàm lượng công nghệ cao, như cơ khí, điện tử…Hiện nay, chúng ta có nhiều thợ, nhiều kỹ sư, nhưng kỹ sư giỏi và thợ lành nghề ít vì vậy mà chúng ta chỉ có thể gia công. Kỹ sư của chúng ta mới quen làm việc theo công nghệ, mẫu mã của nước ngoài, tự mình thiết kế sản phẩm, hoặc sáng tạo ra mẫu mã mới còn rất ít. Đây là thực tế đã kéo dài nhiều năm nay nhưng chưa có giải pháp khắc phục. Theo thống kê của Hiệp hội Dệt may Tp. HCM, nhu cầu của các doanh nghiệp dệt may hiện đang cần khoảng 40.000 lao động điều hành sản xuất cho các chức danh giám đốc, quản đốc, quản lý chất lượng, thiết kế… nhưng không tìm đâu ra. Ở ngành Tin học, cũng trong tình trạng tương tự khi ngành cần ngay khoảng 25.000 chuyên gia phần mềm và lập trình viên, nhưng hiện nay, hệ thống đại học chỉ có thể cung cấp 5.000 chuyên gia công nghệ thông tin mỗi năm. Doanh nghiệp “tìm không ra”, nhưng nhân lực từ các trường đào tạo lại thừa. Theo Sở LĐ - TB và XH Tp. HCM, số lao động tốt nghiệp đại học chưa xin được việc làm hiện tại vào khoảng 8.000 đến 10.000 người, nhưng số sinh viên ra trường đáp ứng được việc làm cho các doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 25%, số còn lại phải làm công việc trái ngành nghề đã học hoặc phải chờ việc. Theo số liệu thống kê từ Bộ Giáo dục-Đào tạo, từ nay đến năm 2015, Hà Nội và thành phố  Hồ Chí Minh cần khoảng gần 4 triệu lao động chất lượng cao đáp ứng nhu cầu các ngành nghề: Công nghệ thông tin, Du lịch, Đóng tàu, Tài chính Ngân hàng. Tính trung bình, mỗi ngành nghề này cần bổ sung thêm từ 10.000-15.000 người/năm nhưng quy mô đào tạo hiện nay cũng chỉ đáp ứng được 40-60% nhu cầu nhân lực. Mỗi năm, Việt Nam có hơn 315.000 sinh viên tốt nghiệp nhưng chỉ 1/3 trong số đó đáp ứng được với yêu cầu công việc trong các doanh nghiệp. Đây là một sự lãng phí, đang làm mất lợi thế về nhân công trong nước. Chất lượng đào tạo chưa đạt yêu cầu, cơ cấu lao động tiếp tục bất hợp lý chính là “điều kiện” khiến cho thị trường lao động luôn ở tình trạng thừa mà thiếu. Tại các học viện, đại học, cao đẳng đào tạo chuyên ngành , chương trình đào tạo và nội dung giảng dạy chưa bắt kịp với trình độ thế giới và yêu cầu hội nhập, chưa tạo cho người học một khả năng thích ứng linh hoạt trong công việc. Ở nhiều trường học, phương pháp giảng dạy không hiệu quả, nặng về thuyết trình, đọc - chép dẫn đến tình trạng sinh viên học thụ động, chưa biết áp dụng lý thuyết học được với việc thực tập, thực hành. Ngoài ra, Bộ Giáo dục-Đào tạo cũng chưa có những báo cáo chính thức về hoạt động của các cơ sở đào tạo để có những đánh giá, quản lý chất lượng ở các cơ sở. Về phía đội ngũ giảng viên cho lĩnh vực kinh tế còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực chuyên môn, kỹ năng thực hành, ít có điều kiện tiếp cận với môi trường doanh nghiệp, thiếu thời gian và cơ hội nâng cao trình độ. Mặt khác, do chính sách tiền lương nên việc tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở lại trường hoặc mời chuyên gia giỏi về làm giảng viên gặp nhiều khó khăn. Nhìn lại thực trạng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nước ta, chúng ta không thể phủ nhận rằng doanh nghiệp Việt Nam kém cạnh tranh. Xét về đội ngũ quản lý, đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng doanh nhân giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Đa phần họ chưa được trang bị các kiến thức kinh doanh như: quản trị doanh nghiệp, phát triển thương hiệu, chiến lược cạnh tranh, ứng dụng công nghệ thông tin,… Hoạt động quản lý chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tiễn, do đó tính hiệu quả chưa cao và dễ gặp rủi ro. Ứng dụng thành tựu khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin. Chúng ta hiểu tầm quan trọng của Khoa học và Công nghệ đối với bất kì quốc gia đang phát triển, đặc biệt đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nhưng trong những năm gần đây, tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định trong các lĩnh vực khoa học nhưng nhìn chung thì trình độ bình quân khoa học công nghệ của chúng ta còn rất thấp so với mặt bằng thế giới. Năng lực khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém: Đội ngũ cán bộ KH&CN còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các "tổng công trình sư", đặc biệt là thiếu cán bộ KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu nhân lực KH&CN theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý. Đầu tư của xã hội cho KH&CN còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh nghiệp. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại học nhìn chung còn rất thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở sản xuất tiên tiến cùng ngành. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực KH&CN tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN cũng như sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hệ thống dịch vụ KH&CN, bao gồm thông tin KH&CN, tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế. Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu KH&CN, giáo dục - đào tạo và sản xuất - kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức nghiên cứu - phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta còn có khoảng cách rất lớn về tiềm lực và kết quả hoạt động KH&CN: tỷ lệ cán bộ nghiên cứu KH&CN trong dân số và mức đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo đầu người thấp; các kết quả nghiên cứu - phát triển theo chuẩn mực quốc tế còn rất ít. Nhìn chung, năng lực KH&CN nước ta còn yếu kém, chưa giải đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới, chưa gắn kết chặt chẽ và đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu: Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính - viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, còn mang nặng tính hành chính: Quản lý hoạt động KH&CN còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào, chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ KH&CN chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế. Cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN không phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức KH&CN chưa có được đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng động, sáng tạo. Việc quản lý cán bộ KH&CN theo chế độ công chức không phù hợp với hoạt động KH&CN, làm hạn chế khả năng lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế đảm bảo để cán bộ KH&CN được tự do chính kiến, phát huy khả năng sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật. Chưa có những chính sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ KH&CN và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ KH&CN toàn tâm với sự nghiệp KH&CN. Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động KH&CN chưa tạo thuận lợi cho nhà khoa học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; cơ chế tự chủ về tài chính của các tổ chức KH&CN chưa đi liền với tự chủ về quản lý nhân lực nên hiệu quả còn hạn chế. Thị trường KH&CN chậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu KH&CN còn bị hạn chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các quy định pháp lý cần thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ. Thực trạng nhập khẩu thiết bị máy móc từ các quốc gia khác được một số doanh nghiệp coi là cách duy nhất tiếp cận với thành tựu khoa học thế giới, mà không quan tâm trong việc đầu tư nghiên cứu và tự sản xuất cũng như nâng cao thiết bị máy móc cho chính mình. Dẫn đến tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào các nhà cung cấp nước ngoài. Ngành công nghiệp chế biến còn lạc hậu, hầu như những sản phẩm xuất khẩu từ nông sản, sản phẩm công nghiệp mà đặc biệt là dầu mỏ mới chỉ được xuất khẩu dưới dạng thô, dẫn đến sản phẩm đó không có được chất lượng tốt và tính cạnh tranh kém trên thị trường thế giới. Việc sản xuất năng lượng với công nghệ lạc hậu dẫn đến hiệu quả chưa cao và ảnh hưởng lớn đến môi trường. Công nghệ sinh học đã có những bước tiến mạnh mẽ nhưng mới chỉ dừng ở việc phục vụ cho nông nghiệp mà chưa quan tâm tới các ngành công nghiệp, hóa chất, bảo vệ môi trường.. Công nghệ thông tin Việt Nam hiện nay vẫn đang ở tình trạng lạc hậu, phát triển chậm, có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và yêu cầu về hội nhập khu vực và quốc tế, vai trò động lực và tiềm năng to lớn của công nghệ thông tin chưa được phát huy mạnh mẽ; việc phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin chưa được chuẩn bị kịp thời cả về số lượng và chất lượng, về chuyên môn cũng như về ngoại ngữ, viễn thông và Internet chưa thuận lợi, chưa đáp ứng các yêu cầu về tốc độ, chất lượng và giá cước cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin; đầu tư cho công nghệ thông tin chưa đủ mức cần thiết; quản lý nhà nước về lĩnh vực này vẫn phân tán và chưa hiệu quả, ứng dụng công nghệ thông tin ở một số nơi còn hình thức, chưa hiện thực và gây lãng phí. Sự quản lí vĩ mô của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với sự hội nhập như vũ bão của kinh tế thế giới hiện nay, vai trò của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhưng trong những năm gần đây, chúng ta đã bắt đầu xuất hiện một số vấn đề trong việc quản lí của Nhà nước. Trước hết, trong những năm trước là vấn đề về việc quản lí các chính sách đầu tư, cũng như các chính sách trong việc cải tổ bộ máy điều hành pháp luật và thủ tục hành chính còn rườm rà. Những biện pháp và chính sách mà Đảng nhà nước ta đưa ra chưa thực đạt hiệu quả và mang tính thiết thực do chưa sát với những yêu cầu của người dân, gây nên những làn sóng phản đối trong nhân dân. Hay tình trạng những chính sách đưa ra thì rất hợp lí và cấp thiết nhưng do yếu kém trong việc quản lí quá trình thực hiện nên hiệu quả của những chính sách đó chưa đạt được và chưa thể đi vào cuộc sống của phần lớn nhân dân. Hiện nay, tình trạng người dân không nắm rõ được các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đang tồn tại trong đại bộ phận người dân. Có thể do ý thức tiếp cận, cập nhật các chính sách của người dân chưa cao nhưng cũng không thể không nhắc đến sự yếu kém của Nhà nước trong việc đưa nội dung cũng như các quan điểm chỉ đạo trong các vấn đề xã hội, kinh tế… đến với người dân. Hơn nữa Việt Nam lại đang trong giai đoạn hoàn thiện bộ máy pháp luật để gia nhập vào môi trường hoạt động kinh doanh toàn cầu hiện nay nên việc thay đổi nội dung chính sách diễn ra trên cả chiều rộng và chiều sâu nên nếu không có biện pháp tuyên truyển tới người dân hợp lí thì chính Việt Nam lại đang gây khó khăn cho mình. Và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thẳng thắn thừa nhận thực tế trên khi trình bày báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2007, 4 tháng đầu năm 2008 tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 3, QH khóa XII: “Những bất cập, yếu kém trong quản lý, điều hành của Chính phủ, cùng với những yếu kém trong nội sinh của nền kinh tế đã làm cho nền kinh tế nước ta dễ bị tổn thương trước những biến động bất lợi từ bên ngoài” Những yếu kém này thể hiện trên 5 mặt chủ yếu là: 1. Việc thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng trong nhiều năm, nhất là trong năm 2007 đã làm tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng tăng cao gây áp lực trực tiếp đến lạm phát. Khi thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát, thì một số biện pháp xử lý cụ thể lại chưa thật thích hợp và đồng bộ, thiếu sự phối hợp chặt chẽ nên làm nảy sinh những khó khăn mới. 2. Việc tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 5% được giữ liên tục trong nhiều năm nhưng chưa đặt ra kế hoạch phấn đấu giảm nên không tạo được áp lực đối với việc kiểm soát và tiết kiệm chi tiêu ngân sách. Chi đầu tư từ khu vực nhà nước còn lớn và hiệu quả thấp. Hệ số ICOR cao làm giảm chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. 3.Vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường (trong đó có thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản) và quản lý giá cả, quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập, yếu kém, chậm đề ra chính sách thích hợp. Các giải pháp chống đầu cơ, buôn lậu hiệu quả chưa cao. 4. Công tác dự báo và thông tin thị trường chưa được coi trọng đúng mức. Năng lực tham mưu tổng hợp về kinh tế vĩ mô chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý điều hành. Đến những tháng cuối năm 2007, trong khí thế lạc quan chung, chưa phân tích dự báo được hết những khó khăn thách thức mới, nên Chính phủ vẫn trình Quốc hội thông qua chỉ tiêu tăng trưởng cao trong năm 2008 (GDP tăng từ 8,5 đến 9%, phấn đấu đạt mức cao hơn) và tốc độ tăng giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng GDP. 5. Công tác thông tin tuyên truyền, giải thích tình hình chưa kịp thời, chưa đủ rõ và thiếu nhất quán, nhất là trước những diễn biến mới và khi ban hành các chính sách, giải pháp có tính nhạy cảm, gây tâm tư lo lắng trong xã hội. Ngoài những vấn đề còn tồn tại trên, còn rất nhiều vấn đề khác còn đang tồn tại như: vấn đề ô nhiễm môi trường do quá trình đo thị hóa; lạm phát tăng nhanh cùng với sự leo thang giá cả; vấn đề minh bạch hóa trong hoạt động của các tổ chức, cá nhân chưa được quan tâm đúng đắn….Những vấn đề này đang ảnh hưởng tới tiến độ của quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, nếu không nhanh có những biện pháp khắc phục thì chúng ta khó có thể đạt được chỉ tiêu đến năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Một số giải pháp thúc đẩy quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa trong những năm tới. Dựa trên những khó khăn trong quá trình thực hiện CNH – HĐH đã được nêu trên thì chúng ta cần có những biện pháp nhắm giải quyết và khắc phục chính các vấn đề đó: Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả Từ thực trạng sử dụng vốn như hiện nay, Đảng và nhà nước ta cũng có những biện pháp nhằm cải thiện cũng như nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sỏ ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, hợp lí sản xuất. Và ở nước ta hiện nay, để tăng năng suất lao động xã hội. tạo nên nguồn vốn cho tích lũy, trước hết và chủ yếu là phải khai thác sử dụng tốt quỹ lao động, tập trung sức phát triển nông nghiệp,công nghiệp hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu… Nguồn vốn trong nước phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm nên chúng ta phải coi “tiết kiệm là quốc sách”, đấu tranh mạnh mẽ với nạn tham nhũng, lãng phí…Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải có những chính sách kinh tế: chính sách cơ cấu thành phần kinh tế, chính sách đầu tư, chính sách thuế, chính sách lãi xuất…thật hợp lí, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn phát triển là một yêu cầu khách quan. Nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định vì đó là nhân tố bên trong đảm bảo cho việc xây dựng nền kinh tế tự chủ, độc lập; là tiền đề để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài. Do đó việc đề cao nội lực là hoàn toàn hợp lí và đúng đắn. Nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với những quốc gia còn kém phát triển như Việt Nam. Nguồn vốn này không những giúp những nước nghèo khắc phục khó khăn về vấn đề vốn trong những giai đoạn đầu mà còn góp phần nâng cao trình độ quản lí và công nghệ, tạo việc làm cho người dân. Vì thế cần tranh thủ nguồn vốn bên ngoài là một nhân tố đẩy nhanh thành công Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. Việt Nam cũng có thể học bài học Philippine khi nước này quyết định mở cửa thị trường điện để nhà đầu tư nước ngoài vào tham gia. Chỉ trong vài năm, nhu cầu điện đã được đáp ứng cơ bản. Nhờ đó, Philippine đã giảm tải được nguồn vốn lớn mà ngân sách phải bỏ ra cho phát triển hạ tầng điện, dành đầu tư cho lĩnh vực khác. Việc mở cửa thị trường điện nhiều nước khác cũng đã làm rồi. Chúng ta không thể chỉ dựa riêng vào ngân sách, vào ODA để làm hạ tầng. Phải tin mình và tin các nhà đầu tư để mạnh dạn mở cửa. Không thể quay lưng lại với cơ hội, nhất là khi chúng ta đã có hệ thống pháp lí quốc tế để soi chiếu, có kinh nghiệm hợp tác nhiều năm. Để có được những dự án ODA, FDI là không hề dễ dàng một chút nào. Mà các dự án ODA lớn, FDI lớn, nhưng nếu không được giải ngân thì giá trị cũng không bằng một dự án nhỏ của NGOs nhưng giúp được một xã cải thiện cuộc sống, hiệu quả ngay lập tức giúp cho hàng vạn người. Những dự án của NGO tuy nhỏ nhưng là những dự án dân sinh, giúp giải quyết câu chuyện người nghèo, hỗ trợ DN, giáo dục đào tạo cho người dân tộc, người dân ở vùng sâu vùng xa... Chương trình nhỏ nhưng giá trị cao, có hiệu quả ngay tức thì. Đó là những vấn đề mà Nhà nước ta cần lưu tâm khi tận dụng nguồn vốn nước ngoài. Chúng ta cũng cần phải có một hệ thống ngân hàng hoàn thiện và một thị trường chứng khoán hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đào tạo nguồn nhân lực Từ những khó khăn mà chúng ta thấy ở trên để có thể giải quyết được bài toán về nguồn nhân lực cấn có sự tham gia một cách tích cực từ mọi phía, các ban ngành, chính phủ cũng như toàn dân. Nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa là những con người có đức có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, làm việc quên mình, được đào tạo tốt về kiến thức van hóa, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình đô khoa học kĩ thuật cao so với thế giới. Trong nguồn nhân lực đó, việc xây dựng giai cấp công nhân là một nhiệm ụ trọng tâm, bởi vì chỉ với một giai cấp CN hội tụ tất cả những yêu cầu trên mới có thể là nòng cốt để liên minh nông dân và đội ngũ tri thức, tập hợp và đoàn kết các thành phần khác, phấn đấu đưa sự nghiệp công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đến thành công. Đề có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu CNH – HĐH, phải coi trọng đầu tư cho giáo dục, đào tạo. Theo ông Hoàng Ngọc Vinh, Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ Giáo dục - Đào tạo): “Cần phải đẩy nhanh tiến độ đổi mới, cải cách giáo dục và xây dựng một chương trình đào tạo theo tiêu chí “chuẩn”: Cơ sở vật chất tốt, giáo viên giỏi, sinh viên tài năng. Để thực hiện tiêu chí này, các trường nên “bắt tay” với các doanh nghiệp nhằm kêu gọi sự tài trợ về kinh tế, tài chính để mở rộng, phát triển hạ tầng cơ sở; tăng cường bổ sung, cải tiến trang thiết bị giảng dạy. Ngoài ra, các trường đại học và doanh nghiệp cần tiến hành hợp tác xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đủ trình độ để đào tạo ra những sinh viên có học vấn, tay nghề, chất lượng đáp ứng kịp với yêu cầu đòi hỏi của doanh nghiệp. Trong đó, các trường đại học nên chú trọng đào tạo 20.000 tiến sĩ trong các lĩnh vực: Khoa học, công nghệ và quản trị kinh doanh. Ngoài ra, hai bên cùng áp dụng hình thức giảng dạy tiếng Anh để đến năm 2020, tiếng Anh sẽ trở thành lợi thế của người Việt Nam khi giao tiếp, làm việc trong nền kinh tế hội nhập.” Phải đào tạo một cơ cấu nguồn nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ nghiên cứu và triển khai công nghệ, các bộ quản lí, nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành kinh doanh, công nhân kĩ thuật…Việc xây dựng nguồn nhân lực cho Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa phải tiến hành với tốc độ, quy mô thích hợp đáp ứng nhu cấu của mỗi thời kì trong quá trình CNH – HĐH, đặc biệt hơn khi hiện nay Việt Nam đã là một thành viên của tổ chức WTO. Nên công tác đào tạo nguồn nhân lực được quan tâm hơn bao giờ hết. Đặc biệt là nguồn nhân lực trong các lĩnh vực khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin..Đi đôi với việc đào tạo, bồi dưỡng, phải bố trí và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đã được đào tạo, phát huy đầy dủ khả năng và nhiệt tình sáng tạo của họ để sáng tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Ngoài việc chú trọng đào tạo, chúng ta cũng cần phải bảo đảm dinh dưỡng, phát triển y tế, cải thiện môi trường sống..nhằm chăm sóc tốt sức khỏe và nâng cao thể lực cho người lao động Phát triển khoa học và công nghệ Quan điểm chủ đạo về phát triển KH&CN đã được chỉ rõ trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, như: Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Luật KH&CN, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX và Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX mới đây. Những quan điểm này cần được cụ thể hoá và phát triển phù hợp với bối cảnh mới trong nước và quốc tế trong giai đoạn từ nay đến năm 2010. - Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Để KH&CN nhanh chóng phát huy được vai trò là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nhà nước cần có chính sách quan tâm đặc biệt đến phát triển KH&CN: coi đầu tư cho KH&CN là đầu tư phát triển; ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực; tạo động lực vật chất và tinh thần mạnh mẽ cho cá nhân hoạt động KH&CN, trọng dụng và tôn vinh nhân tài. - Phát triển kinh tế - xã hội dựa vào khoa học và công nghệ, phát triển khoa học và công nghệ định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh Các chủ trương, quyết định, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng phải được luận cứ về KH&CN; các nhiệm vụ KH&CN phải hướng vào giải quyết có hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội. Mọi ngành, mọi cấp phải đẩy mạnh việc triển khai nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi thành tựu KH&CN vào hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, từ việc định hướng chiến lược phát triển, hoạch định chính sách, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đến việc tổ chức thực hiện. - Bảo đảm gắn kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo; giữa khoa học và công nghệ; giữa khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học ký thuật. Sự gắn kết giữa KH&CN với giáo dục - đào tạo trước hết phải được thực hiện ngay trong các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu và phát triển; đồng thời có cơ chế khuyến khích kết hợp với biện pháp hành chính để tạo ra sự hợp tác, phối hợp giữa các tổ chức này. Sự gắn kết giữa các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và giữa khoa học với công nghệ được thực hiện trên cơ sở những nghiên cứu liên ngành nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội tổng hợp và phát triển bền vững đất nước. - Đẩy mạnh tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ thế giới, đồng thời phát huy năng lực khoa học và công nghệ nội sinh, nâng cao hiệu quả sử dụng tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hợp tác quốc tế về KH&CN phải được đẩy mạnh nhằm khai thác những cơ hội mà toàn cầu hoá có thể mang lại. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, cần lấy nhập công nghệ từ các nước phát triển là chủ yếu nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế - kỹ thuật; đồng thời nâng cao năng lực KH&CN nội sinh để tiếp thu có hiệu quả thành tựu KH&CN hiện đại của thế giới. Đổi mới cơ chế quản lý nhằm khai thác tối đa năng lực KH&CN hiện có trong nước, vừa tranh thủ tiếp thu, ứng dụng nhanh chóng có hiệu quả các thành tựu KH&CN của thế giới. - Tập trung đầu tư của Nhà nước vào các lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ.   Nhà nước tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; kết hợp đồng bộ giữa đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật với đầu tư đào tạo nhân lực KH&CN, thực hiện dứt điểm các công trình để sớm phát huy hiệu quả đầu tư. Quan điểm này phải được quán triệt ngay trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển KH&CN 5 năm và hàng năm trên cơ sở định hướng KH&CN trọng điểm được đề ra trong Chiến lược phát triển KH&CN. Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài tham gia nghiên cứu, ứng dụng và đầu tư phát triển KH&CN. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu để đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, nắm bắt công nghệ cao cùng những thành tựu mới của khoa học công nghệ…để từ đó đề xuất một chiến lược đúng đắn cho việc ứng dụng vào các ngành kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và khai thác hợp lí cũng như bỏa vệ tài nguyên quốc gia. Phát triển khoa học tự nhiên theo hướng tập trung nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, đặc biệt những lĩnh vực mà chúng ta có ưu thế. Mở rộng quan hệ hợp tác khoa học – công nghệ với các nước và các tổ chức quốc tế nhằm tiếp cận, kế thừa những thành tựu khoa học công nghệ của thế giói; tranh thủ mọi sự giúp đỡ của quốc tế. Muốn làm được những việc trên cần phỉa xây dựng và thực hiện tốt cơ chế và chính sách đồng bộ cho phát triển khoa học công nghệ. Để khoa học công nghệ trở thành động lực cho sự phát triển của chính bản thân khoa học công nghệ. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại Trong xu thế toàn cầu hóa, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước càng được tiến hành thuận lợi và càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu. Thực chất của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại chính là việc thu hút vốn bên ngoài, là việc tiếp thu nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện đại, là việc mở rộng thị trường cho sự nghiệp CNH – HĐH được thuận lợi. Do đó sau đây là một số nội dung trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trong những năm tiếp theo Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỉ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn. Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học. Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng (khoá X), TBT Nông Đức Mạnh nói: “Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị.” Đây là tiền đề quan trọng quyết định thắng lợi của sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở nước ta. Công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa là sự nghiệp là sự nghiệp của toàn dân, thế nhưng công nghiệp hóa – Hiện đại hóa là sự nghiệp mang tính tự giác do đó phải có một Đảng Cộng sản tiên phong, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, biết tự đổi mới không ngừng lãnh đạo và một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong sạch vừng mạnh và có hiệu lực quản lí thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước – nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta mới có thể hoàn tất. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công nghiệp hóa – hiện đại hóa trước hết là phải tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam phải là người lãnh đạo duy nhất, trực tiếp và toàn diện mọi hoạt động của xã hội Việt Nam. Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được tiến hành theo đườg lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là nhân tố trực tiếp bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tiếp theo, Chính Phủ và Quốc hội cần quan tâm hơn nữa trong vấn đề chống lạm phát, cũng như đưa ra các chính sách hợp lí hơn nữa trong việc bình ổn giá cả thị trường và sự thất thường bất ổn của các thị trường chứng khoán, bất động sản. Trong quá trình phát triển hiện nay, vừa mới gia nhập thị trường kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán mới được hình thành chưa được ổn định, lại được đầu tư một cách tự do của các nhà đầu tư mang trong mình suy nghĩ kiểu “tiểu nông” thì sớm muộn cũng chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của thị trường thế giới do chính nó cũng chưa thực sự vững mạnh. Tránh tình trạng mới chỉ gặp một thông tin bất lợi, hay một bất động nhỏ ảnh hưởng đến các nhà đầu tư thì mọi thứ đã trở nên náo loạn như thời kì cuối năm 2007. Hay tình trạng bất ổn liên tiếp của các thì trường bất động sản, thị trường vàng…gây nên một chấn động tổng thể cho toàn bộ nền kinh tế như hiện nay. Tham nhũng và lãng phí cũng là một trong những vấn đề mà nhà nước cần quan tâm giải quyết nhanh chóng và dứt điểm. Vì nó không những ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến lòng tin của người dân vào Đảng, lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn đầu tư vào Việt Nam. Chính phủ cần có những biện pháp cứng rắn hơn nữa trong việc chống tham nhũng, lãng phí. Hãy học tập những gì mà Trung Quốc đã làm nhằm làm trong sạch bộ máy hành chính, pháp luật của họ. Bên cạnh đó cũng phải tăng cường trình độ quản lý của bộ máy nhà nước. Điều quyết định trực tiếp đến thành công của quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam Trên đây chỉ là những một số suy nghĩ cho việc khắc phục một số hạn chế đang còn tồn tại trong quá trình thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. KẾT LUẬN Trên đây là những điều mà em suy nghĩ về hơn 50 năm thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. Nó giúp chúng ta nhận thấy tính tất yếu cũng như cấp thiết của công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đối với Việt Nam. Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa sẽ biến nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất hợp lí và tiến bộ, phù hợp với sự phát triển sản xuất, nguồn lực con người được phát huy, mức sống vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. CNH- HĐH chính là quá trình trang bị và đổi mới công nghệ tạo thành hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối vững chắc, đồng thời cũng là quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí, tạo hướng chuyển dịch cơ cấu trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Nhưng công cuộc CNH – HĐH này không phải của riêng ai hay một tổ chức nào, mà muốn thực hiện được nó cần sự tham gia nỗ lực của mọi người dân, mọi ban ngành dưới sự quản lí chặt chẽ của Đảng và Nhà nước. Có như vậy chúng ta mới hoàn thành được chỉ tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Mặc dù quá trình thực hiện CNH – HĐH còn nhiều gặp khó khăn nhưng chúng ta cũng xo rất nhiều thuận lợi, sự nghiệp CNH – HĐH đã đạt được những thành tựu nhất định, nền kinh tế đã có những sự khởi sắc dù mới chỉ là nhưng bước đầu. CNH – HĐH cũng đặt chúng ta trước những thử thách lớn, vì vậy cần phải xây dựng các phương pháp, giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn. Các giải pháp về vốn, sử dụng vốn nhằm khai thác cũng như sử dụng tối ưu nhất nguồn vốn trong nước và ngoài nước. Chúng ta nghiên cứu vấn đề này không nhằm một mục đích gì khác đó là tìm ra giải pháp tốt nhất để phát triển đất nước. Thông qua những kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới về quá trình CNH – HĐH từ đó chúng ta có thể ứng dụng phù hợp với nền kinh tế Việt Nam và tìm ra phương hướng phát triển CNH – HĐH ở Việt Nam cho hiện tại và tương lai. DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam. Lý luận và thực tiễn (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia) 2. Tạp chí kinh tế 3. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác Lênin (Bộ giáo dục và đào tạo) 4.Văn kiện đại hội đại hôi Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII (Nhà xuất bản chính trị quốc gia) 5.Trang web: www.vnep.org.vn : cổng thông tin Kinh tế Việt Nam - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương. 6. Trang web: www.tapchicongsan.org.vn : Trang web của Tạp chí cộng sản Việt Nam. 7. Trang web: www.mpi.gov.vn : Trang web của Bộ kế hoạch và đầu tư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10950.doc
Tài liệu liên quan