II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
- Phân tích tình hình xuất khẩu cá tra, basa của công ty trong những năm gần đây đồng thời đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu đó.
- Phân tích các nhân tố của thị trường ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của công ty bao gồm các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan. Đánh giá những nhân tố thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng ở hiện tại và tương lai. Từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm làm gia tăng giá trị và hiệu quả xuất khẩu cá Tra, Basa của công ty trong những năm tới.
III. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH:
1. Phương pháp thu thập số liệu:
Các số liệu và dữ liệu liên quan đến quá trình phân tích được thu thập chủ yếu trong các báo cáo tài chính, báo cáo xuất khẩu của công ty, tạp chí thủy sản, từ nguồn internet, đồng thời, thông qua việc ghi nhận các nhận xét, các đánh giá về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty do các phòng ban cung cấp.
2. Phương pháp phân tích
- Thu thập thông tin dữ liệu liên quan đến thị trường và kết quả xuất khẩu cá tra, basa, của công ty cafatex và của việt nam trong những năm gần đây và những thông tin định hướng cho những năm kế tiếp.
- Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến nhất nhằm so sánh đối chiếu các chỉ tiêu, kết quả. Trên cơ sở đó đánh giá được những vấn đề thực hiện được và chưa thực hiện được, nhằm xác định nguyên nhân và tìm ra giải pháp tối ưu nhất.
- Phương pháp số tuyệt đối và số tương đối.
- Phương pháp đồ thị và biểu đồ để phân tích mối quan hệ, mức độ biến động cũng như sự ảnh hưởng của các chỉ tiêu phân tích.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Trong phạm vi nội dung nghiên cứu của bài luận văn này, em chỉ tập trung vào phân tích hoạt động xuất khẩu cá tra, cá basa của công ty cổ phần thủy sản Cafatex trên cơ sở tổng hợp và phân tích số liệu xuất khẩu cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của giai đoạn từ năm 2003 đến 2005.
Từ đó, đề ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động xuất khẩu cá tra, basa của công ty trong tương lai.
81 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3448 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động xuất khẩu cá tra, basa của công ty cổ phần thủy sản cafatex vào thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẩu sang EU. Tùng lô nguyên liệu nhập vào nhà máy phải có phiếu kiểm tra hoá chất, kháng sinh. Trong trường hợp chưa có phiếu kiểm tra, phải được lấy mẫu kiểm tra để biết chắc lô nguyên liệu đó không chứa kháng sinh cấm.
Trong thời gian qua công ty CPTS Cafatex đã thường xuyên cập nhật thông tin, cải tiến công nghệ và đã đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật khắc khe của thị trường thuỷ sản EU. SGS (tập đoàn chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế hàng đầu của Thuỵ Sĩ) cũng đã cấp giấy chứng nhận ISO 9002, SQF 2000, HACCP cho công ty. Đây là điều kiện thuận lợi để công ty mở rộng thêm thị trường vào các thành viên còn lại của EU trong những năm tới.
Chính hệ thông quản lý chất lượng đã tạo một lực lượng quản lý rất tốt. Trước đó công ty đã đấu tranh để hàng thuỷ sản của công ty không phải chịu sự kiểm soát khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. Hiện nay EU cũng không phải kiểm tra 100% các mặt hàng của công ty xuất khẩu vào điều này cho thấy uy tín cũng như chất lượng sản phẩm của công ty đã được nâng cao cũng như đã được người tiêu dùng EU thừa nhận. Điều này đã tạo ra 1 lợi thế rất lớn cho công ty trong việc tiết kiệm một phần chi phí làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty ở thị trường này.
2.3. Các quy chế về môi trường trong việc sản xuất, chế biến sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào EU:
Nếu 1 nhà sản xuất muốn chứng tỏ với đối tác kinh doanh là quy trình sản xuất thuỷ sản của mình được thực hiện theo cách thức phù hợp với việc bảo vệ môi trường, thì nhà sản xuất đó phải tuân thủ các tiêu chuẩn được quy định và phải dán nhãn sinh học nhằm cho biết sản phẩm thuỷ sản của mình không bị tác động của môi trường.
Hiện nay có 2 loại tiêu chuẩn tổng quát mà các sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản có thể lựa chọn để tuân thủ 1 cách tự nguyện là ISO 14001 và EMAS. Cả 2 tiêu chuẩn này đều dựa trên cơ sở loại tiêu chuẩn ISO 9000 về quản lý chất lượng.
Hệ thống quản trị môi trường ISO 14001được ban hành vào tháng 11/1996. Tuy hiện tại không có nhiều doanh nghiệp được chứng nhận là đã cập nhật hệ thống này, nhưng ISO 14001 vẫn có mức độ ảnh hưởng không kém gì so với hệ thống quản trị chất lượng ISO 9000.
Hệ thống kiểm toán và quản trị hệ sinh thái của EU (The EU’s Ecological Management and Audit Scheme – EMAS) đã đi vào hoạt động từ năm 1995. Vì hệ thống này chỉ áp dụng cho các công ty có cơ sở sản xuất ở EU, nên nó không mấy liên quan đến các doanh nghiệp sản xuất thuỷ sản xuất khẩu vào EU.
* Qua phân tích các chính sách về tiêu chuẩn công nghệ, lao động, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường… cho thấy EU là thị trường khiêm khắc và khó tính nhất hiện nay. Đây là mối đe doạ đối với công ty, nếu công ty không nghiên cứu kỹ về thị trường này và không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đã quy định thì hoạt động xuất khẩu của công ty sẽ gặp nhiều khó khăn. Đặt biệt là vấn đề về chất luợng và vệ sinh an toàn thực phẩm là trở ngại đối với công ty khi số luợng cá nguyên liệu nhiễm kháng sinh, hoá chất rất cao. Do đó đòi hỏi công ty phải kiểm tra giám sát chặt chẽ trong quá trình thu mua nguyên liệu, tuyệt đối không để xãy ra bất cứ sai sót nào. Nếu ta không cẩn thận phạm sai lầm sẽ ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng, nhãn hiệu của công ty.
2.4. Các quy định về đóng gói bao bì, kí mã hiệu và dán nhãn đối với sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu sang EU:
Bao bì được xem như 1 yếu tố cần thiết để khẳng định chất lượng của sản phẩm vì nó đại diện cho sản phẩm, vừa bảo vệ cho sản phẩm chống lại các tổn hại về cơ học. Nó là yếu tố quan trọng đối với các sản phẩm được bán lẻ tại các siêu thị hoặc tại các điểm bán lẻ khác.
Bên cạnh đó vấn đề vận chuyển, vấn đề về môi trường cũng có vai trò đáng kể trong việc đóng gói. Theo xây dựng luật về môi trường việc tái sử dụng và tái sinh các chất liệu bao bì và những yêu cầu cụ thể về đặt tính của môi trường phải hoàn toàn liên quan đến chất liệu bao bì. Bao bì nhựa đóng bên trong thùng carton phải đảm bảo không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Đối với các sản phẩm thuỷ sản đóng hộp, thì các yêu cầu về kim loạivà thuỷ ngân phải được đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định . Về vấn đè này Uỷ Ban Châu Âu đã có ban hành 1 danh sách các loại bao bì nhựa được sử dụng không gây hại.
Công ty muốn mở rộng thêm thị trường các nước thành viên của EU cũng cần biêt đến các quy định của EU về chất thải bao bì, để theo đó công ty có những biện pháp thực hiện mới để duy trì cũng như mở rộng mối quan hệ làm ăn lâu dài với EU. Quy định của EU đòi hỏi chất liệu bao bì đóng gói giới hạn trong 1 số chất liệu cho phép và có thể được tái sinh và tái sử dụng. Nếu công ty xuất khẩu không thực hiện đúng quy định như vậy thì nhà nhập khẩu EU sẽ mất thêm chi phí đóng gói lại, kết quả là nhà nhập khẩu không muốn tiếp tục mua hàng của công ty đó nữa. Vì chính sách môi trường của EU luôn thay đổi với tốc độ rất nhanh nên công ty được khuyến cáo là yêu cầu nhà nhập khẩu kịp thời cung cấp đầy đủ các quy định về các luật lệ có liên quan đến vấn đề đóng gói sản phẩm thuỷ sản để có cơ sở thực hiện việc đóng gói hàng hoá cho đúng.
Yêu cầu về đóng gói bao bì các loại thuỷ sản:
+ Trọng lưọng của sản phẩm.
+ Kích cở của sản phẩm.
+ Số sản phẩm được đóng gói trong 1 thùng carton.
+ Vấn đề sức khoẻ.
+ Mùi của sản phẩm.
+ Khả năng có thể sắp xếp sản phẩm.
+ Thu hút sự chú ý của người tiêu dùng.
+ Vấn đề môi trường.
Tiêu chuẩn kỹ thuật cho việc đóng gói:
Có 1 kỹ thuật đóng gói sản phẩm thuỷ sản tươi sống đang nhanh chóng được phổ biến chủ yếu ở các nước Hà Lan, Bỉ và Đức là kỹ thuật “đóng gói theo phương pháp thay đổi bầu khí quyển” (Modifide Atmosphere Packaging - Map). Đây là 1 kỹ thuật mới nhằm xử lý môi trường xung quanh sản phẩm bằng 1 loại khí hoặc hỗn hợp khí để kéo dài thời gian sử dụng sản phẩm. Khi kỹ thuật MAP được áp dụng 1 cách tối ưu, nó sẽ đảm bảo thời hạn lưu trữ hàng hoá kéo dài trong 7 ngày, nhiều hơn thời hạn bảo quản kỹ thuật trước đây là 2 ngày.
Cách đóng gói sản phẩm thuỷ sản:
Có 3 cách đóng gói sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu vào EU:
+ Đóng gói sản phẩm thuỷ sản để cung cấp cho người tiêu dùng: có khối lượng tịnh từ 174 gr – 213 gr và 400 – 420 gr.
+ Đóng gói để bán sĩ: việc đóng gói cá đông lạnh tuỳ thuộc vào nhiều loại sản phẩm như sản phẩm chưa chế biến đông lạnh, fillet hoặc sản phẩm có giá trị tăng thêm. Tuy nhiên nguyên tắc cơ bản của việc đóng gói là gồm 1 thùng carton bên trong có chứa bao nhựa bọc khối sản phẩm đông lạnh, bọc những lát cá xếp lên nhau hoặc bọc những sản phẩm khác. Các sản phẩm cá đóng hộp cần được thiết kế sao cho chúng được sắp xếp và vận chuyển trên những pallet, tránh bị hư hại. Mỗi thùng có khối lượng tịnh 2 kg.
+ Đóng gói sản phẩm thuỷ sản sử dụng trong công nghiệp chế biến: đóng gói cá fillet trên khay 1 kg.
3. Đối thủ cạnh tranh:
Sản phẩm cá tra, cá basa là sản phẩm mới của thị trường EU và thế giới. Cá tra, cá basa Việt Nam trở nên nổi tiếng sau vụ kiện của hiệp hội cá da trơn Mỹ, nhiều nước trên thế giới được biết đến sản phẩm này ngày càng nhiều hơn. Đây là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp chế biến cá tra, cá basa xuất khẩu nói chung và công ty nói riêng mở rộng thêm nhiều thị trường mới nhất xâm nhập vào các thành viên còn lại của EU. Nhưng nó cũng là mối nguy ngại đối với các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và công ty nói riêng khi có nhiều nước có điều kiện địa hình, khí hậu như Việt Nam quan tâm đến loài cá này xuất khẩu. Những nước như: Thái Lan, Campuchia, Lào, Trung Quốc có cùng hệ thống sông Mê Kông với Việt Nam cũng sẽ có điều kiện thuận lợi như ĐBSCL để phát triển mô hình nuôi cá này. Hiện nay 1 số nước có điều kiện và khả năng nuôi cá tra, cá basa cũng đã bắt đầu có kế hoạch trong việc nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu. Mặc dù bây giờ các nước này chưa phải là đối thủ cạnh tranh thực thụ nhưng họ sẽ là đối thủ tiềm năng trong việc xuất khẩu cá tra, cá basa trong tương lai. Các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra của Việt Nam nói chung và công ty nói riêng sẽ mất dần thị phần nếu không có kế hoạch cũng như chiến lược hợp lý khi các nước này tham gia vào hoạt động xuất khẩu cá tra, cá basa.
Đối với Thái Lan và Trung Quốc, 2 nước này từ lâu đã là đối thủ lớn của Việt Nam trong việc xuất khẩu thuỷ sản. Hiện nay Trung Quốc đứng đầu thế giới về sản lượng xuất fillet cá nheo và cá da trơn vào thị trường Mỹ trong khi Thái Lan đã đưa nghề cá travà các loại pangasius khác vào chương trình phát triển cấp quốc gia. Do đó trong tương lai 2 nước này sẽ là đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Việt Nam và của công ty nói riêng trong hoạt động xuất khẩu cá tra, cá basa. Họ lại có được 1 bề dày kinh nghiệm xuất khẩu thuỷ sản và sản phẩm của họ đã khẳng định được trên thị trường quốc tế với sản phẩm chất lượng cao, công nghệ chế biến hiện đại. Nguy cơ cá tra, cá basa của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ mất dần thị phần nếu không nhanh chóng đổi mới quản lý, cải thiện chất lượng ở công đoạn sản xuất.
Lợi thế của công ty và các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay trong việc xuất khẩu cá tra, cá basa vào thị trương EU là chế độ thuế quan phổ cập GSP. Thuế suất đánh vào mặt hàng cá xuất khẩu Việt Nam với mức thấp, chỉ từ 0,7 – 6%, trong khi đó Thái Lan phải chịu mức thuế cao hơn gấp khoảng 3,5 lần. Ngoài ra công ty và các doanh nghiệp Việt Nam còn rút ra được nhiều kinh nghiệm khi trãi qua nhiều khó khăn lớn trong hoạt đọng xuất khẩu sản phẩm này (vụ kiện cá tra, cá basa của Mỹ, 1 số lô hàng xuất khẩu qua EU bị trả lại do nhiễm hoá chất cấm sử dụng). Hiện tại vẫn chưa có nước nào là đối thủ lớn trong việc cạnh tranh xuất khẩu cá tra, cá basaddoois với Việt Nam, đây là điều kiện thuận lợi để cá tra, cá basa Việt Nam phát triển trên thị trường thế giới đặt biệt là thị trường EU.
Về đối thủ cạnh tranh chủ yếu của công ty trong thời điểm này không phải là các doanh nghiệp ngoài nước mà là các doanh nghiệp của Việt Nam ở ĐBSCL. Thời gian qua xuất khẩu cá tra, cá basa đã đem lại nhiều lợi nhuận cho các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu ở ĐBSCL. Trước tình hình đó các nhà máy, xí nghiệp chế biến cá tra, cá basa xuất khẩu mới mộc lên ngày càng nhiều. Nhiều doanh nghiệp đã làm ăn thuận lợi, nên đã tiếp tục đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ và mở rộng quy mô sản xuất. Số doanh nghiệp được cấp phép xuất khẩu vào EU ngày càng tăng thêm. Do đó việc chế biến xuất khẩu cá tra, cá basa đã đòi hỏi sự cạnh tranh cao với các doanh nghiệp trong nước.
Năm 2005, có nhiều công ty đã đi vào đầu tư, mở rộng sản xuất, cải tiến công nghệ để nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu như: Công ty TNHH Tuấn Anh đã nâng công suất hoạt động lên 10%, Công ty TNHH Nam Việt vừa đầu tư 10 triệu USD xây dựng thêm một nhà máy chế biến công suất trên 400 tấn cá filê/ ngày, công ty Agifishco đã đầu tư 62 tỷ đồng để đổi mới trang thiết bị mới.
Ngoài đầu tư vào quy trình sản xuất, các doanh nghiệp còn thường xuyên tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm đặt biệt là các sản phẩm đồ hộp cá tra, cá basa. Việc đa dạng hoá sản phẩm không chỉ diễn ra ở khâu chế biến mà còn bắt đầu từ khi đầu tư nuôi cá nguyên liệu. Năm 2004 công ty Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Afaco An Giang và Công ty Binca Seafoods GMBH của Đức triển khai dự án nuôi thử nghiệm cá tra sinh thái đầu tiên trong cả nước, với sản lượng cá tra thương phẩm khi thu hoạch đạt khoảng 80 tấn. Trung tâm nghiên cứu Sản xuất giống thuỷ sản An Giang cung cấp con giống chất luợng cao, công ty Afaco luôn đảm bảo chất lượng chế biến, Công ty Binca Seafoods cung cấp toàn bộ nguồn thức ăn cho cá và bao tiêu toàn bộ sản luợng cá thương phẩm. Có nhiều doanh nhân từ Thụy Sĩ, Trung Quốc và Nhật Bản cũng đã đến khảo sát và đặt quan hệ mua cá tra, cá basa với các doanh nghiệp chế biến ở ĐBSCL, mở ra triển vọng mới cho ngư dân trong sản xuất và tiêu thụ cá nguyên liệu và đây cũng là thuận lợi cho công ty trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Số xí nghiệp, nhà xưởng chế biến cá tra, cá basa đang tạo ra nhiều chủng loại khác nhau nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Trong khi nhà nước chưa có điều luật chóng bán phá giá xuất khẩu, các doanh nghiệp chưa có sự hợp tác với nhau để cùng có lợi. Điều đó đã dẫn đến việc cạnh tranh xuất khẩu sẽ trở nên khó khăn hơn. Thực tế, tại những hội chợ thuỷ sản diễn ra ở Brussels (Bỉ) đều có doanh nghiệp Việt Nam chào bán theo kiểu hạ giá. Mới đây nhất, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (Vasep) đã yêu cầu các doanh nghiệp chỉ ký kết hợp đồng xuất khẩu cá tra, cá basa philê đông lạnh với đối tác nước ngoài với giá không thấp hơn 2,9 USD/kg FOB. Tuy nhiên một doanh nghiệp lớn đã “đấm vào lưng” các doanh nghiệp nhỏ khi ký hợp đồng xuất khẩu với giá 2,6 USD/kg FOB. Nếu việc phá giá này cứ tiếp rục diễn ra thì nó không những ảnh hưởng đến lợi nhuận của các doanh nghiệp khác mà còn làm giảm uy tín và chất luợng cá tra, cá basa của Việt Nam.
Giá trị xuất khẩu cá tra, basa của công vào thị trường EU vẫn còn rất thấp so với các doanh nghiệp lớn khác của cả nước, chỉ khoảng gần 4,5 triệu USD. Có một vài công ty công ty có giá trị xuất khẩu cá tra, basa rất lớn vào thị trường EU ở năm 2005 như Công ty Nam Việt, Công ty Agifishco.
Biểu đồ 9 : Tỷ trọng giá trị xuất khẩu cá tra, basa của công ty Cafatex so với các doanh nghiệp khác của Việt Nam vào thị trường EU năm 2005
( Nguồn: công ty Cafatex và VietNamnet)
Qua bảng phân tích ta thấy tỷ trọng xuất khẩu cá tra, basa của công ty trong tổng kim ngạch xuất khẩu cá tra, basa vào thị trường EU rất thấp so với các doanh nghiệp khác của Việt Nam. Thị phần hiện tại sản phẩm này ở thị trường EU của công ty chỉ khoảng gần 5% nhỏ hơn các doanh nghiệp khác rất nhiều. Vì công ty chiếm thị phần nhỏ trong khi các doanh nghiệp khác lại chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều nên hoạt động xuất khẩu cá tra, basa của công ty ở thị trường EU sẽ chịu ảnh hưởng phần nào từ các chính sách, kế hoạch và hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp đó.
Hiện nay công ty cổ phần thuỷ sản Cafatex đã đầu tư mở rộng thêm nhà máy sản xuất chế biến mới, nâng công suất chế biến cá tra, basa của công ty hiện nay gần 20000 tấn thành phẩm/ năm. Công ty cũng đã được SGS (tập đoàn chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế hàng đầu của Thụy Sĩ) cấp giấy chứng nhận ISO 9002, SQF 2000 và HACCP, là 1 trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam đạt tiêu chuẩn về chất luợng và vệ sinh an toàn thực phẩm để xuất khẩu hàng hoá vào thị trường EU. Nhưng số sản phẩm cá tra, basa, của công ty xuất khẩu vào thị trường này vẫn chưa nhiều, điều này tạo sự bất lợi để công ty cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong lộ trình phát triển xuất khẩu mặt hàng này vào EU.
4. Nguyên liệu:
Cá tra, cá basa là loại cá nước ngọt được nuôi dễ dàng trong điều kiện sông nước như ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đây là điều kiện thuận lợi để đáp ứng đủ nhu cầu về nguyên liệu của công ty và các doanh nghiệp chế biến khác của Việt Nam. Trong những năm gần đây tốc độ nuôi cá tra, basa ngày càng tăng cao, từ năm 2001-2003 tốc độ tăng bình quân từ 30-40%/ năm, do thị trường cá tra, cá basa có nhiều thuận lợi. Năm 2003 có 210 bè nuôi có dung tích tổng cộng 31.500 m3. Theo qui hoạch tỉnh Cần Thơ đến năm 2010 được phê duyệt đã xác định mục tiêu tận dụng các loại hình mặt nước để phát triển thuỷ sản nhằm tăng thu nhập, đẩy mạnh phát triển nuôi thuỷ sản ở vùng I (các huyện ven sông Hậu) sản xuất hàng hoá xuất khẩu với số lượng lớn. Trong đó 2 huyện đầu nguồn Thốt Nốt, Ô Môn phát triển nuôi theo hướng thâm canh năng suất cao. Cụ thể cuối năm 2010 diện tích nuôi là 45000 ha, 500 bè sản lượng bình quân tăng 13%/năm. Theo nguồn tin của Bộ Thuỷ Sản năm 2004 các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đã ngốn hết gần 300000 tấn cá tra, basa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long và năm 2005 là 500000 tấn. Hướng phát triển đến năm 2010 là sản lượng cá tra, basa cung cấp cho các doanh nghiệp khoảng 1 triệu tấn. Trước mắt nguồn nguyên liệu cung cấp cho dự án của công ty tập trung chủ yếu từ các nguồn: các ao nuôi của xí nghiệp, thu mua ở các tỉnh .
Bảng 22: Cá tra, basa ngyên liệu của công ty CPTS Cafatex 2003-2005
ĐVT: tấn
Năm
2003
2004
2005
Nguyên liệu thu mua
2.244,35
4.349,22
4.338,19
Thành phẩm chế biến
2.380,30
5.325,02
5.002,61
(Nguồn: bảng báo cáo xuất khẩu của công ty Cafatex)
Qua bảng số liệu ta thấy số luợng cá tra, basa thu mua của công ty năm 2004 có sụ tăng trưởng đột biến đây cũng là điều đương nhiên bởi năm 2004 được xem là mốc tăng trưởng kỷ lục của công ty về kim ngạch xuất khẩu cá tra, basa đặc biệt là xuất khẩu sang thị trường EU. Tuy nhiên năm 2005 sản luợng thu mua cá tra, basa nguyên liệu của công ty có giảm đi nhưng không đáng kể.
Năm 2005 do ảnh huởng lớn từ việc giá cá tra, basa xuống thấp cùng vói việc cá bị nhiễm kháng sinh nên nhiều hộ nuôi đã bị lỗ vốn làm cho nguồn nguyên liệu thu mua cũng như chế biến của công ty sụt giảm so với năm 2004 Tuy nhiên tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty vẫn tăng trưởng ở mức cao, nguyê nhân là do công ty đã mở rộng được thêm nhiều thị trương xuất khẩu đặc biệt là đã xâm nhập được vào thị trường tìm năng EU. Cùng với sự mở rộng về thị trường, công ty đã đầu tư gần 37 tỷ đồng xây dựng xí nghiệp chế biến mới có tên là xí nghiệp thuỷ sản Tây Đô nằm ở huyện Châu Thành, chuyên chế biến cá đông lạnh xuất khẩu với công suất chế biến 1500 tấn thành phẩm trên năm. Nếu nhà máy hoạt động với công suất tối đa thì năm 2006 công ty sẽ cần thêm 45000 tấn cá tra, basa nguyên liệu chiếm trên 9% sản lượng cá tra, basa ước tính của Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Sự phát triển của ngành thuỷ sản nói chung và cá tra, basa nói riêng trong những năm qua đã kéo theo sự phát triển nhiều xí nghiệp chế biến đông lạnh xuất khẩu. Việt Nam ngày càng có nhiều nhà máy chế biến cá tra, basa xuất khẩu đang được mở rông và xây dựng, điều đó sẽ làm nguồ cá tra, basa nguyên liệu có nguy cơ bị thiếu hụt. Năm 2005 cá tra, basa nuôi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có khoảng 500000 tấn, khoảng 40% số lượng này có thể đáp ứng yêu cầu về chất lượng để bán sang Châu Âu. Điều này cho thấy số lượng cá nuôi đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Châu Âu không cao. Số lượng cà nhiễm các chất kháng sinh, hoá chất và dịch bệnh vẫn còn nhiều. Trong khi đó các nhà nhập khẩu thường đòi hỏi sản phẩm GMP (thực hành sản xuất tốt), HACCP (hệ thống phân tích mối nguy tại điểm kiểm soát giới hạn) hoặc SSOP (tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm). Những tiêu chuẩn này không áp dụng cho khâu chế biến mà xuyên suốt trong quá trình sản xuất từ nguyên liệu đến bảo quản thành phẩm cho nên không thể coi nhẹ vấn đề chất lượng ngay từ công đoạn khai thác nguyên liệu. Song các nước nhập khẩu đặc biệt là EU liên tục cập nhật thiết bị và phân tích hiện đại để hạ thấp giới hạn phát hiện các chỉ tiêu dư lượng trong kiểm soát hàng thuỷ sản nhập khẩu. Nhưng thực tế đối với ngành nuôi trồng thuỷ sản ở Đồng Bằng Sông Cửu Long vẫn còn nuôi manh mún, mỗi vùng nuôi bao gồm nhiều chủ nuôi/ao nuôi, dẫn đến không đồng nhất trong việc sử dụng thức ăn, thuốc thú y và phương phấp nuôi thả, chăm sóc. Có nhiều hộ không nắm bắt được cách thức, phương pháp sử dụng kháng sinh hoá chất ảnh hưởng đến việc xuất khẩu sang các thị trường khó tính. Hiện nay chất ảnh hưởng nhiều nhất đến việc xuất khẩu sang thị trường Châu Âu là chất Green Machite, đang là nổi lo đối với nghề nuôi cá ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ngoài ra cá tra, basa còn nhiễm các chất mà EU cấm nhập khẩu như: Chloramphenicol, Fulzolidone và Leucomlachite Green. Những năm gần đây Bộ Thuỷ Sản cùng với các doanh nghiệp chế biến đã có những biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn phương pháp kỹ thuật nuôi và sử dụng chất thay thế cho người nuôi để không ảnh hưởng đến việc xuất khẩu sau khi chế biến cũng đã làm giảm phần nào số cá không đạt tiêu chuẩn. Nhưng có một vài doanh nghiệp Việt Nam đã không kiểm tra kỹ trong vấn đề thu mua nguyên liệu, cụ thể là năm 2005 số lô hàng xuất khẩu sang EU bị phát hiện kháng sinh có hại vẫn còn cao. Tình trạng trên không chỉ gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và chất lượng cá tra, basa Việt Nam trên thịu trường thế giới.
Ngoài ra vấn đề làm ảnh hưởng đến thị trường nguyên liệu không ổn định là do giá cá tra, basa nguyên liệu trong thời gian qua luôn có sự biến đổi. Những năm đầu khi sản phẩm mới xuất khẩu giá cả luôn ở mức cao. Nhưng đến năm 2003 giá cá tra, basa nguyên liệu sụt xuống thảm hại có lúc chỉ còn 6500đ/kg.. Giá nguyên liệu giảm xuống thấp, đó là một điều kiện thuận lợi đối với các doanh nghiệp vì sản phẩm chế biến sẽ có giá thành thấp hơn. Nhưng một điều quan trọng hơn đó là thị trường đầu ra. Chính thị trường xuất khẩu đã tác động đến giá cả của thị trường nguyên liệu. Ngay sau vụn kiện cá tra, basa của hiệp hội cá da trơn của Mỹ các doanh nghiệp chế biến cá tra, basa xuất khẩu đã gặp nhiều khó khăn. Có những lô hàng chế biến không xuất khẩu được, phải nằm chờ đợi và tìm kiếm thị trường mới. Trong thời gian đó người gặp khó khăn nhiều nhất là người nuôi. Cá không tiêu thụ giá thấp đã dẫn đến tình trạng có những hộ nuôi đã phá sản. Giá cả lên xuống thất thường đã tác động không tốt đến tâm lý người nuôi, từ đó cũng sẽ ảnh hưởng đến số lượng cá nuôi ( người dân sẽ không đầu tư nuôi nếu cảm thấy không có lãi 1 khi giá sụt giảm mạnh). Số lượng cá nuôi không ổn định cũng là 1 trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc thu mua nguyên liệu của công ty.
Đầu năm 2004 giá cá tra, basa bắt đầu phục hồi do các doanh nghiệp Việt Nam đã mở rộng thị trường sang nhiều nước Châu Á, Châu Âu và từ khi ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, các nước bắt đầu chuyển qua dùng cá nhiều hơn. Số lượng cá xuất khẩu nagỳ càng tăng, nhu cầu về nguyên liệu của các nhà máy chế biến tăng cao đã kéo giá nguyên liệu tăng lên mức kỷ lục, cao hơn trước khi xãy ra vụ kiện. Năm 2004 gái cá tra động trong khoảng 13000-14000đ/kg, đặt biệt là cá tra thịt trắng nuôi nuôi ao hầm giá trên 15000đ/kg. Năm 2005, giá cá tra - basa rớt thảm hại đã khiến cho nhiều ngư dân thua lỗ, có nhiều người vỡ nợ, tuyên bố phá sản, làm cho diện tích mặt nước và số lượng lồng bè cá ở hai tỉnh An Giang, Đồng Tháp giảm đáng kể. Từ khi dịch cúm gia cầm tái phát, cá tra, basa thị trường trong nước tiêu thụ mạnh. Ngoài ra, nhu cầu cá nguyên liệu ở các nhà máy chế biến cũng tăng cao, số lượng cá hiện có không đủ cung cấp cho các nhà máy chế biến đã đẩy giá cá tra - basa trên thị trường ĐBSCL tăng vọt, nhiều hộ ngư dân ở ĐBSCL đã bắt đầu thả nuôi lại. Từ đầu năm 2006 đến nay, giá cá tra - basa nguyên liệu ở khu vực ĐBSCL tăng mạnh đã kích thích những hộ nuôi cá tra - basa thua lỗ nghỉ nuôi trước đây thả nuôi trở lại, làm cho giá cá giống trên thị trường biến động và tăng liên tục trong suốt nhiều ngày nay. Có khoảng 30% ngư dân trên địa bàn tỉnh An Giang thả nuôi cá trở lại, làm cho thị trường cá giống sau một thời gian dài nằm yên giờ sôi động hẳn lên. Hiện nay giá cá tra giống loại 1,5 cm - 1,7 cm giá 300 đồng/con; loại 2 cm giá 500 đồng/con; loại 2,5 cm giá 1.050 đồng/con; cá loại từ 1,5cm - 2cm để thả nuôi ao, hầm. Loại cá thả nuôi bè phải có kích cỡ từ 2 cm - 2,5 cm. II. NHÂN TỐ CHỦ QUAN
1. Quan hệ thương mại:
Sản phẩm thuỷ sản của công ty đã có mặt hầu hết ở các thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn của thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, EU, … Đến thời điểm này nhãn hiệu Cafatex Việt Nam đã có mặt ở 18 nước trên thế giới và trở thành nhu cầu thường xuyên tại Mỹ, 1 số nước Liên Minh Châu Âu, Nhật Bản, Úc, Canada, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapor, … nhu cầu về sản phẩm thuỷ sản của người dân ngày cao do đó trong thời gian tới công ty cần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cũng như tìm kiếm thị trường mới nhằm giảm bớt rủi ro. Trong số 18 quốc gia nhập khẩu thuỷ sản của công ty thì có 14 quốc gia nhập khẩu cá tra, cá basa năm 2004 là 11 nước (Châu Âu có 7 nước năm 2004 là 5 nước). Tương lai doanh nghiệp có kế hoạch mở rộng thị trường đặc biệt là xâm nhập vào thị trường tiềm năng là các thành viên còn lại trong khối EU, các nước tiềm năng thuỷ sản lớn và duy trì phát triển các thị trường hiện có. Để đạt được mối quan hệ làm ăn lâu với các nước thành viên viên mới của khối EU công ty cần chú ý:
+ Tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường mục tiêu bằng việc tập hợp và phân tích các thông tin thu thập đượckhi vẫn ở trong nước.
+ Thực hiện việc tiếp xúc ban đầu với các đối tác bằng thư, fax hoặc điện thoại. Nếu có thể nên thực hiện việc giới thiệu công ty và chất lượng sản phẩm muốn đưa vào thị trường 1 cách chi tiết bằng tiếng Anh hoặc bằng ngôn ngữ của nước nhập khẩu. Đồng thời gửi kèm 1 bảng báo giá sản phẩm theo điều kiện giao hàng FOB hoặc CIF bằng EUR.
+ Khi lựa chọn được 1 số đối tác có triển vọng nhất sau đó thực hiện việc tiếp cận thực tế. Qua đó có thể tiếp xúc trực tiếp và thiết lập mối quan hệ làm ăn lâu dài chính thức với nhà nhập khẩu sau khi đã thực hiện điều tra sơ bộ về họ.
* Những vấn đề trong giao dịch thương mại với các doanh nghiệp nhập khẩu thuỷ sản của EU:
- Quan hệ thư từ giữa 2 công ty rất quan trọng vì đó là bằng chứng về sự hiện diện của công ty trong giao dịch thương mại, vì thế cần thực hiện thư từ càng đúng, càng chính xác và thường xuyên càng tốt cho quan hệ giữa 2 bên.
- Hầu hết các giao dịch mua bán với các nước EU đều được thực hiện trực tiếp , thoáng mở và minh bạch.
- Vấn đề kinh doanh được ưu tiên hàng đầu.
- Sự chắc chắn đúng giờ, đáng tin cậy và trung thực đều rất quan trọng. Do đó các doanh nghiệp nhập khẩu thuỷ sản của EU rất cần sự trung thực, thẳng thắn và giao hàng đúng hẹn, bên cạnh đó thì chất lượng sản phẩm và khả năng sản xuất cũng rất quan trọng. Trong trường hợp có thể các đối tác EU sẽ giúp đỡ công ty cải thiện các thiếu sót 1 cách trực tiếp hoặc thông qua 1 bên thứ ba. Như thế uy tín của công ty có thể được nâng lên và có khả năng đạt được thoả thuận xuất khẩu dài hạn.
- Phải có sự giao hẹn trước khi giao dịch trực tiếp, trong trườnghợp không đúng hẹn phải có sự thông báo càng sớm càng tốt.
* Những điều doanh nghiệp cần tránh khi giao dịch mua bán với các doanh nghiệp trong khối EU:
- Không thường xuyên liên lạc.
- Không kịp thời trả lời những thắc mắc có liên quan đến hàng hoá cho nhà nhập khẩu.
- Giao hàng trể.
- Chất lượng sản phẩm hoàn toàn không đạt không đạt yêu cầu của nhà nhập khẩu: giao hàng có chất lượng kém hoặc không đúng với quy định về hàng xuất khẩu vào EU hoặc không đúng với những gì đã thoả thuận giữa 2 bên là điều tối kỵ trong buôn bán với các nước trong EU. Nếu doanh nghiệp vi phạm điều này sẽ khó có cơ hội thứ 2 để sữa chữa.
- Quá chú trọng đến lợi nhuận kinh doanh mà hy sinh mối quan hệ làm ăn lâu dài.
- Không chú trọng đến đóng gói bao bì dẫn đến chi phí quá lớn trong vận chuyển và bảo quản hàng hoá.
- Vi phạm hợp đồng đối với đối tác này để bán cho đối tác khác có lợi hơn.
2. Chính sách kế hoạch phân phối sản phẩm của công ty:
2.1. Chính sách bán hàng:
- Cung cấp cá chế biến cao cấp cho các thị trường hiện tại của công ty và mở rộng thị trường khi cần thiết bằng hình thức xuất khẩu trực tiếp.
- Giảm chi phí phân phối, đưa sản phẩm đến nơi có nhu cầu bằng việc thành lập 1 hệ thống tiếp thị tại Việt Nam hoặc các đối tác mà công ty dự kiến bán sản phẩm.
2.2. Kế hoạch bán hàng và phạm vi cung cấp:
Bảng 23: Kế hoạch xuất khẩu cá tra, cá basa của công ty
Thị trường
Năm 2006
Năm 2007
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Mỹ
EU
Nhật Bản
Thị trường khác
2.320
3.950
845
1.820
9,900
16,540
3,249
6,136
2.200
5.750
937
1.895
9,650
23,710
3,752
6,341
(Nguồn: Thông tin từ công ty Cafatex)
Kế hoạch xuất khẩu cá tra, cá basa của công ty là tăng dần số lưọng của công ty qua từng năm. Trong đó gia tăng mạnh xuất khẩu vào thị trượng EU vì nhu cầu về cá của thị trường này là rất lớn, đặt biệt là cá tra và cá basa đã có sự tăng trưởng rất mạnh qua 3 năm đầu xuất khẩu vào thị trường này. Bên cạnh đó ổn định số lượng xuất khẩu cá tra, basa vào thị trường Mỹ do ảnh hưởng của chế độ bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước ở thị trường này. Các thị trường khác tạm thời chưa có kế hoạch gia tăng đáng kể.
2.3. Giá bán sản phẩm:
Giá bán cá tra, basa đông lạnh cao cấp và truyền thống của công ty cổ phần thuỷ sản Cafatex bằng hình thức xuất khẩu trực tiếp: giá từ 3,2 USD/kg – 3,5 USD/kg, giá xuất khẩu vào thị trường EU với mức cao hơn: từ 3,6 USD/kg – 4,1 USD/kg.
Dự án xác định giá bán sản phẩm căn cứ vào:
- Giá thị trường quốc tế.
- Giá có tính cạnh tranh.
Giá bán trên là giá FOB tại càng Thành Phố HCM được tính thấp hơn so với thực tế để đảm bảo tính an toàn cho dự án, đồng thời kiểm định suất thu lợi nội tại IRR khi giá thị trường xuống thấp.
2.4. Chiến lược chào hàng quảng cáo của công ty:
Hình thành phòng bán hàng và Marketing
- Ngoài thị phần sẵn có, phòng bán hàng và Marketing tiếp tục điều tra nhu cầu của thị trương trong và ngoài nuớc, chiêu mại trực tiếp bằng hình ảnh, sản phẩm, các tài liệu về chất lượng, mẫu mã sản phẩm.
- Tạo điều kiện ưu đãi cần thiết đối với khách hàng có uy tín, đây cũng là cách nhân rộng quảng cáo sản phẩm mà khỏi tốn chi phí.
- Giới thiệu những thông tin về Cafatex Việt Nam với những công nghệ chế biến thuỷ sản đông lạnh tiên tiến, sản phẩm cao cấp trên trang website của xí nghiệp.
- Việc chiêu mại quảng cáo cũng phải dành chi phí cần thiết và giảm dần khi đã có thị phần ổn định.
2.5. Kế hoạch thu thập thông tin:
Luôn nắm chắc thông tin liên quan đến ngành thuỷ sản xuất khẩu và hướng phát triển chế biến thuỷ sản của thế giới qua phương tiện Internet và thương mại điện tử qua các trang website về thông tin và các sản phẩm chuyên dùng cho kỹ nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
Nắm các chủ trương, chính sách, luật pháp của nhà nước Việt Nam liên quan đến chế biến thuỷ sản trong nước và xuất khẩu. Nguồn nguyên liệu cung cấp thông tin chủ yếu từ:
- Các website cung cấp thông tin thương mại trên mạng Internet.
- Hiệp hội chế biến thuỷ sản Việt Nam (VASEP).
- Các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh trong và ngoài nước.
- Tài liệu kỹ thuât, tạp chí nước ngoài.
- Các tạp chí kinh tế - kỹ thuật trong và ngoài nước
- Các quy định của Chính phủ, Bộ Thuỷ Sản, Ngành quản lý nhà nước có liên quan.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÁ TRA, CÁ BASA CỦA CÔNG TY:
Qua phân tích tình hình hoạt động của công ty và các nhân tố thị trường ảnh hưỏng đến hoạt động xuất khẩu cá tra, basa có thể rút ra được những ảnh hưởng đối với hoạt động xuất khẩu cá tra, basa của công ty hiện nay như sau:
1. Những thuận lợi và thành tựu đạt được:
- Là một trong những công ty xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất cả nước, tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty chiếm giá trị tương đối lớn và luôn có sự tăng trưởng tương đối cao qua mỗi năm tuy năm 2005 tổng kim ngạch xuất khẩu c ó giảm đôi chút do tình trạng thiếu nguyên liệu. Riêng đối với sản phẩm cá tra, cá basa đây là sản phẩm mà công ty mới bắt đầu hoạt động chế biến xuất khẩu trong những năm gần đây nhưng nó cũng đã cho thấy được tầm quan trọng và triển vong phát triển của mặt hàng này. Thực tế qua 3 năm xâm nhập vào thị trường EU mặt hàng này đã tăng kỷ lục. Giá trị kim ngạch xuất khẩu cá tra, basa vào thị trường này đạt gần 4,5 triêu USD năm 2005 và chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu cá tra, cá basa của công ty.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật được nâng cấp và mở rộng. Công ty đã xây dựng xong xí nghiệp chế biến mới và đã đưa vào hoạt động cuối năm 2004. Xí nghiệp có tên xí nghiệp thuỷ sản Tây Đô có công nghệ chế biến hiện đại, chuyên chế biến cá tra, basa đông lạnh xuất khẩu với công suất 15.000 tấn thành phẩm/năm. Xí nghiệp này ra đời đã cho thấy được hướng đi đúng của công ty đối với sản phẩm đầy triển vọng như cá tra, cá basa. Hiện nay trình độ công nghệ kỹ thuật sản xuất của công ty được xem là 1 trong những qui trình sản xuất tiên tiến và không thua kém các nước trên thế giới.
- Với chính sách gia tăng mạnh xuất khẩu cá tra, basa vào thị trường EU cho thấy công ty đã xác định được tầm quan trọng của thị trường này. Vì nhu cầu cá của thị trường này là rất lớn và điêu đó đã được chứng minh một cách xác thực là cá tra, basa của công ty đã có sự tăng trưởng kỷ lục qua 3 năm xuất khẩu vào thị trường này. Bên cạnh đó công ty còn gia tăng xuất khẩu cá chế biến cao cấp cho thị trường giàu có như EU. Ngoài ra công ty còn có các chính sách kế hoạch thích hợp đối với thị trường hiện có và mở rộng thị trường trong tương lai bằng các hình thức như: chiêu mại, quảng cáo giới thiệu hình ảnh của công ty với công nghệ sản xuất hiện đại và nhiều sản phẩm cao cấp mới.
- Từ khi hình thành và phát triển, hiện tại công ty đã có tài sản và cơ sở vật chất kỹ thuật hùng hậu. Đội ngủ quản lý giàu kinh nghiệm và có trình độ từ khi còn là doanh nghiệp nhà nước cùng với lực lượng công nhân lành nghề được đào tạo kỹ lưỡng.
- Công ty đã được tập đoàn SGS (tập đoàn chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế hàng đầu của Thụy Sĩ) cấp giấy chứng nhận ISO 9002, SQF 2000 và HACCP và là 1 trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản của Việt Nam đạt tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm để xuất khẩu hàng vào EU. Với các điều kiện trên cho phép công ty ngăn ngừa và xử lý kịp thời những rủi ro cũng như khó khăn trong việc thâm nhập vào mở rộng thị trường xuất khẩu. Nó có thể duy trì uy tín sản phẩm làm cho sản phẩm của công ty đáp ứng cao nhất nhu cầu tiêu dùng ở EU. Ngoài ra các điều kiện trên còn thể hiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động kinh doanh và quan tâm đến nhu cầu và yêu cầu của người tiêu dùng và hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Nhãn hiệu Cafatex Việt Nam đã được khẳng định trên thị trường quốc tế. Các sản phẩm thuỷ sản của công ty đang là nhu cầu thường xuyên của các thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn trên thế giới như: EU, Mỹ, Nhật Bản.
- Công ty rút ra được 1 số kinh nghiệm quý báu trong việc xuất khẩu cá tra, cá basa khi sản phẩm này của Việt Nam gặp những khó khăn trong thời gian qua.
- Thị hiếu tiêu dùng cá của người dân EU rất lớn chiếm trên 45% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản của thị trường này. Trong đó cá tra, cá basa đóng vai trò là mặt hàng chủ lực. EU là thị trường đầy tiềm năng đặc biệt là Hà Lan, Tây Ban Nha, Pháp khá ưa chuộng sản phẩm cá tra, cá basa. Bên cạnh đó sự mở rộng của EU về phía Đông không chỉ đơn thuần làm gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam mà còn tạo ra thị trường mới cho hàng thuỷ sản giá thấp, đây cũng được đánh giá là 1 thị trường tiêu thụ cá nước ngọt tiềm năng mà cá tra, cá basa lại đáp ứng đầy đủ nhu cầu này.
- Kênh phân phối thuỷ sản của EU không quá phức tạp, thuận lợi cho công ty trong việc đưa sản phẩm vào thị trường này đồng thời mở rộng thêm thị trường của các thành viên còn lại trong khối.
- Hưởng mức thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP) tương đối thấp tạo lợi thế về giá để sản phẩm cá tra, cá basa của công ty có thể cạnh tranh với các nước xuất khẩu cá da trơn trên thế giới.
- Hiện nay Việt Nam đã có văn phòng đại diện cho sản phẩm thuỷ sản đây là điều kiện để các công ty và các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam thuận lợi trong việc giao dịch, cập nhật thông tin, nghiên cứu thị trường và giải quyết các vấn đề khó khăn khi gặp phải.
- Cá tra, cá basa đã được đăng ký thương hiệu ở thị trường EU. Thương hiệu cá tra, cá basa được xây dựng với tên khoa học là Pangasius, đồng thời xác lập nhãn hiệu và chất lượng thương hiệu là: “ Top-Quality Pangasius from Viet Nam ” ( tạm dịch là Pangasius - chất lượng cao nhất từ Việt Nam). Như tên gọi sản phẩm cá tra, cá basa được mang thương hiệu này phải đảm bảo yêu cầu về màu, mùi, cơ thịt, hàm lượng mở cũng như các tiêu chuẩn nghiêm ngặt khác của thị trường EU. Thương hiệu cá tra, cá basa được thành lập sẽ làm tăng uy tín và chất lượng cá tra, cá basa của Việt Nam cũng như của công ty trên thị trường quốc tế đặc biệt là thị trường khó tính như EU. Hiện nay người dân EU đã ưa chuộng thịt trắng thơm ngon của sản phẩm này với tên quên thuộc là Pangasius.
- Được sự quan tâm của nhà nước và các chức năng địa phương đặt biệt là các nhà nuôi trồng và chế biến thuỷ sản xuất khẩu (VASEP). VASEP thường cung cấp các thông tin về thị trường, định hướng cho người nuôi và doanh nghiệp tronh quá trình sản xuất và chế biến, tổ chức các đoàn tham gia các kỳ hội chợ quảng bá sản phẩm. Đặc biệt là vào tháng 4/2005 VASEP vừa tổ chức một chương trình xúc tiến với tên gọi “ Những ngày thuỷ sản Việt Nam” tại Brussels Bỉ. Đây là 1 chương trình quảng bá thuỷ sản đầu tiên chủ yếu là giới thiệu về cá và tôm của Việt Nam ở thị trường Châu Âu nhằm mở rộng thị phần ở thị trường này.
- Bộ trưởng bộ thuỷ sản Tạ Quang Ngọc đã ký quyết định thành lập Ban điều hành sản xuất và tiêu thụ cá tra, cá basa Việt Nam. Theo đó Ban điều hành được thành lập gồm 11 thành viên trong đó có lãnh đạo bộ, VASEP, Hội nghề cá Việt Nam, lãnh đạo các tỉnh ở ĐBSCL có nuôi cá… Chương trình hành động về chất lượng và thương hiệu cá tra, cá basa Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010. Ban điều hành có quyền quyết định các biện pháp cụ thể trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của Uỷ Ban các tỉnh nhằm đảm bảo sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dúng sẩn phẩm cá tra, basa ở ĐBSCL.
- Với chính sách đồng đôla yếu của Mỹ, sự hấp dẫn của đồng EUR thì thị trường EU tiếp tục để công ty đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng cá vào thị trường tiềm năng này.
- Giá nhân công thấp tạo cho công ty 1 lợi thế rất lớn trong việc cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài.
- Hiện nay chủ yếu chỉ có Việt Nam là nước xuất khẩu mạnh cá tra, cá basa vào EU còn các đối thủ cạnh tranh nước ngoài hiện thời chưa có hoặc ít phát triển sản phẩm này.
2. Những hạn chế và khó khăn, bất lợi:
- Mức độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu cá tra, cá basa năm 2005 tăng cao, nhưng so với tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm này của Việt Nam xuất khẩu vào EU thì giá trị của công ty vẫn còn rất thấp. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu nhỏ, công ty sẽ không thể nắm vai trò chi phối được thị trường mà phải chịu ảnh hưởng từ những công ty có tỷ trọng xuất khẩu lớn hơn.
- Số sản phẩm cá tra, cá basa chế biến của công ty còn chưa nhiều. Từ đó làm cho tính cạnh tranh đối với mặt hàng cá tra, cá basa của công ty không cao, sự đáp ứng nhu cầu về mặt hàng này không lớn. Đây là điều kiện bất lợi để công ty duy trì, gia tăng thêm thị phần và phát triển sản phẩm này ở thị trường EU.
- Công ty chưa có văn phòng đại diện chính thức ở EU để kịp thời nắm bắt thông tin, tìm kiếm đối tác mở rông thị trường, quảng bá hình ảnh công ty và kịp thời giải quyết những vướn mắt khó khăn khi cần thiết.
- Mặc dù công ty được công nhận là 1 trong những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn được phép xuất khẩu vào thị trường EU nhưng hiện tại công ty vẫn chưa có thiết bị để kiểm tra chất Green Malachite. Nó là chất mà phần lớn số cá tra, cá basa ở ĐBSCL bị nhiễm và nó là 1 trong những chất EU cấm nhập khẩu vào thị trường này.
- Việt Nam chưa có chiến lược thị trường cho cá tra, cá basa và cũng chưa có những điều luật nào xử lý những doanh nghiệp “xé rào”, hạ giá xuất khẩu làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp khác vaf làm giảm uy tín, chất lượng sản phẩm cá tra, basa Việt Nam. Điển hình là tại hội chợ Brussels Bỉ có 1 doanh nghiệp lớn phá giá xuất khẩu khi ký hợp đồng xuất khẩu với giá FOB là 2,6 USD/kg.
- Một số nước trong khu vực như Thái Lan, Bangladesh, … đang đầu tư rất mạnh vào nuôi cá tra ao hầm. Trong tương lai, nếu “quân ta vẫn tiếp tục đánh quân mình”, thì các hộ nuôi cá tra, cá basa và các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra, cá basa ở các nước trên sẽ mừng như bắt được vàng bởi vì họ đang phát triển nuôi cá tra theo mô hình công nghiệp chất lượng cao, giá thành rẻ, và họ sẽ rút kinh nghiệm từ Việt Nam từ đó họ sẽ không đánh lẫn nhau mà đoàn kêt hổ trợ nhau để cạnh tranh với các doanh nghiệp Việt Nam đồng thời chiếm lĩnh thị trường cá tra, cá basa thế giới.
- Cá nguyên liệu nhiễm kháng sinh, hoá chất chiếm tỷ lệ cao khoảng 50% trong tổng lượng cá nuôi ở ĐBSCL. Công ty phải thường xuyên kiểm tra giám sát trong quá trình thu mua cá nguyên liệu.
- Năm 2004 có 1 số lô hàng cá tra, cá basa của Việt Nam bị trả về đã làm ảnh hưởng đến chất lượng cá tra, cá basa Việt Nam và gây khó khăn cho công ty trong việc mở rộng thị phần ở Châu Âu.
- Hàng rào kỹ thuật cao, các nhà nhập khẩu EU thường cập nhật các thiết bị hiện đại để kiểm tra các dư lượng kháng sinh, hoá chất. Qui định, nguyên tắc đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu vào EU rất khắc khe và nghiêm chỉnh.
IV. PHÂN TÍCH MA TRẬN SWOT:
Điểm mạnh (S)
Điểm yếu (W)
SWOT
- Mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cá tra, cá basa cao.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến, công nghệ hiện đại.
- Quy mô sản xuất lớn.
- Có nguồn tài chính mạnh, cán bộ quản lý có kinh nghiệm.
- Được cấp chứng nhận ISO 9001, SQF 2000, HACCP về chất lượng và đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào EU.
- Chất lượng sản phẩm cao.
- Nhãn hiệu của Cafatex đã được nhiều nước biết đến và tin cậy.
- Tỷ trọng xuất khẩu cá tra, cá basa của công ty so với cả nước còn rất thấp.
- Chủng loại sản phẩm của công ty chưa đa dạng.
- Công ty chưa có văn phòng đại diện chính thức ở EU.
- Còn thiếu thiết bị quan trọng dùng để kiểm tra chất Green Malachite là chất EU cấm nhập khẩu.
- Chưa có chương trình nghiên cứu thị trường EU.
Cơ hội (O)
O + S
O + W
- Tốc độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu cá tra, basa của EU rất cao.
- EU là thị trường tiềm năng đối với sản phẩm cá.
- Hưởng mức thuế xuất khẩu thấp (GSP).
- Được sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức nhà nước.
- Cá tra, cá basa có tên mới và được đăng ký thương hiệu quốc gia.
- Đối thủ cạnh tranh nước ngoài chưa mạnh.
- Xây dựng thương hiệu riêng của công ty đối với sản phẩm cá tra, cá basa.
- Kết hợp với nhà nước tăng cưòng xúc tiến, quảng bá thương hiệu công ty rộng rãi hơn.
- Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu vào thị trường EU.
- Mở rộng thêm thị trường các nước thành viên và thị phần hiện tại.
- Tận dụng sự giúp đỡ, hỗ trợ của nhà nước để cập nhật thông tin, nắm bắt thị trường.
- Nhu cầu cá tra, cá basa của EU còn lớn nên cần phải nâng cao chất lượng để người tiêu dùng EU chấp nhận tên mới của sản phẩm này.
Đe doạ (T)
S + T
W + T
- Việt Nam chưa có điều luật cạnh tranh cùng có lợi cho các doanh nghiệp.
- Một số nước đang bắt đầu đầu tư mạnh vào sản xuất chế biến xuất khẩu cá tra, cá basa.
- Xí nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra, cá basa trong nước ngày càng nhiều.
- Cá nguyên liệu không đạt tiêu chuẩn còn cao.
- Hàng rào kỹ thuật của EU rất khắc khe và nghiêm khắc.
- Tăng cường quảng bà tiếp thị sản phẩm mang nhãn hiệu Cafatex. Tạo sự ảnh hưởng mạnh mẽ hơn nữa đối với thương hiệu của công ty.
- Đẩy mạnh mối quan hệ với các đối tác hiện có.
- Kiểm tra kỹ trong việc thu mua nguyên liệu.
- Tạo thêm nhiều loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Thường xuyên cập nhật thông tin.
- Hạn chế tối đa để không vướn mắc các vấn đề về chất lượng sản phẩm.
- Tận dụng sự giúp đỡ của nhà nước để tạo sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước.
V. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÁ TRA, CÁ BASA CỦA CÔNG TY CPTS CAFATEX VÀO THỊ TRƯỜNG EU:
- Phải xác định EU là thị trường tiềm năng và là thị trường lớn, chủ lực nhập khẩu cá tra, cá basa chủ yếu của công ty. Từ đó phải có chính sách, kế hoạch cụ thể đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vào thị trường này.
- Đẩy mạnh tiếp thị:
+ Phối hợp với các cơ quan nhà nước: VASEP, văn phòng đại diên thuỷ sản ở EU, Bộ thuỷ sản để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại thuỷ sản thông qua các hình thức: tham gia các kỳ hội chợ, triễn lãm, khảo sát thị trường, tổ chức hội nghị khách hàng, giới thiệu văn hoá ẩm thực cá tra, cá basa.
+ Thành lập văn phòng đại diện ở trung tâm nhập khẩu thuỷ sản lớn của EU để kịp thời thoả mãn các yêu cầu, nắm bắt thông tin, tiềm kiếm đối tác, … Trong tương lai nếu doanh số bán của công ty ở thị trường trên 30 triệu USD/ năm thì công ty mở thêm các văn phòng chi nhánh tại các thành phố lớn để đảy mạnh xúc tiến bán hàng.
+ Tiềm cộng tác viên tại EU để thu thập thông tin và xúc tiến thương mại đồng thời có chính sách hoa hồng hợp lý.
- Dựa vào thương hiệu cá tra, cá basa của Việt Nam để xây dựng và phát triển thương hiệu Cafatex của công ty:
+ Tạo lập thói quen tiêu dùng sản phẩm của công ty trên thị trường thông qua việc phát triển sản phẩm giá trị gia tăng: tạo ra hương vị riêng, kiểu dáng mẫu mã riêng cho sản phẩm của công ty.
+ Đa dạng hoa sản phẩm, tạo thêm nhiều sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và tăng khả năng cạnh tranh của công ty đối với các đối thủ khác.
- Thường xuyên nắm bắt những quy định, diễn biến mới của thị trường để kịp thời có biện pháp đối phó.
- Mở rộng thị phần ở thị trường hiện tại đồng thời mở rộng thêm thị trường các nước thành viên còn lại trong liên minh EU bằng cách:
+ Lập bộ phận nghiên cứu về thị trường EU.
+ Thường xuyên cập nhật thông tin ở thị trường xuất khẩu để tìm kiếm thêm đối tác.
+ Hợp tác với các nhà môi giới xuất khẩu thuỷ vào thị trường EU.
+ Hợp tác phát triển thương mại với các thương nhân Việt Kiều ở thi trường này là một trong những cầu nối thị trường nội tại.
- Đầu tư thêm chương trình bán hàng trên mạng.
- Cần quan tâm đến vấn đề thu mua nguyên liệu, phải kiểm tra mẫu ở chỗ nuôi trước khi công ty thu mua. Đồng thời đầu tư thêm thiết bị kiểm tra chất Green Malachite.
- Cập nhật thông tin về thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến. Nâng cao tay nghề công nhân để đáp ứng nhu cầu thay đổi về công nghệ sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Đầu tư cho các chủ chủ nuôi quen (thường xuyên cung cấp nguyên liệu cho công ty) các dự án nuôi cá tra, cá basa sạch sinh thái chất lượng và bao tiêu sản phẩm đối với họ. Hướng dẫn họ sử dụng kháng sinh, hoá chất và nhận biết các chất không được sử dụng. Từ đó sẽ đảm bảo cung cấp cho công ty một lượng cá tra nguyên liệu sạch nhất định và tạo ra nét đặc trưng riêng cho sản phẩm chế biến của công ty.
- Từng bước tiến tới phân phối sản phẩm trực tiếp đến ở nước nhập khẩu. Công ty xuất hàng theo giá FOB nên toàn bộ hoạt động phân phối bán hàng ở nước nhập khẩu do đối tác nắm giữ, cho nên để tiến tới nắm bắt và chi phối được thị trường nhập khẩu công ty cần có chiến lược tiến tới phân phối hàng nhập khẩu khi có điều kiện. Các bước tuần tự có thể kiểm tra là:
+ Tận dụng sự hổ trợ, giúp đỡ của nhà nước, VASEP phải xây dựng hoặc thuê mướn lâu dài ở thị trường để tổ chức tham gia phân phối bán buôn tại nước nhập khẩu.
+ Có chính sách hoa hồng và tổ chức khuyến mãi sản phẩm của công ty.
+ Tổ chức hội nghị khách hàng mua sỉ sản phẩm tại nước nhập khẩu.
- Phải có ý kiến với các cấp nhà nước có liên quan nhằm xây dựng điều luật chống bán phá giá và liên kết kết các doanh nghiệp lại với nhau tạo thành sân chơi chung của các doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường EU.
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
¯
I. KẾT LUẬN:
Cá tra, basa là một trong những sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Cùng với sự tăng trưởng nhanh giá trị xuất khẩu mặt hàng này voà thị trường EU của công ty và các doanh nghiệp khác đã giải quyết được những khó khăn về vấn đề thị trường sau khi xãy ra vụ kiện bán phá giá của Mỹ. Hiện tại EU là một trong nững thị trường nhập khẩu cá tra, basa chủ lực của công ty. Tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu cá tra, basa của công ty trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam đối với sản phẩm này vẫn còn thấp. Để gia tăng thị phần xuất khẩu cá tra, basa của công ty ở thị trường này các cấp quản lý của công ty đã đầu tư mở rộng cơ sở chế biến và có các chính sách, kế hoạch hoạt động sản xuất, tiếp thị, quảng bá và xúc tiến xuất khẩu trong những năm tới.
EU là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn trên thế giới. Trong đó cá là sản phẩm chiếm tỷ trọng giá trị cao nhất trong tổng giá trị các mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu. Đặt biệt sản phẩm cá tra, basa rất được thị trường EU ưa chuộng, giá trị nhập khẩu sản phẩm này của Eu có tốc độ tăng trưởng rất cao trong nững năm gần đây. EU được xem là thị trường nhập khẩu tìm năng cá tra, basa và là thị trường chủ lực về xuất khẩu sản phẩm này của công ty. Tuy nhiên EU cũng được xem là thị trường khó tính nhất thế giới với các hàng rào kỹ thuật và quy định rất khắc khe như các quy định về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường, …
Điều thuận lợi để công ty đẩy mạnh xuất khẩu cá tra, basa vào EU là do thị hiếu tiêu dùng cá của người dân EU rất cao, giá trị xuất khẩu mặt hàng này tăng trưởng rất cao, lại được hưởng thuế ưu đãi thấp (GSP). Công ty có đội ngủ cán bộ quản lý và nhân viên có năng lực, công nghệ sản xuất tiên tiến với quy mô sản xuất lớn và là một trong những công ty có giá trị xuất khẩu đứng đầu cả nước. Ngoài ra công ty còn được sự hổ trợ, giúp đỡ của nhà nước và tận hưởng được nguồn nguyên liệu dồi dào ở ĐBSCL.
Bên cạnh những thuận lợi công ty còn có những khó khăn hạn chế như: Tỷ trọng giá trị xuất khẩu cá tra, basa của công ty trong tổng giá trị xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam còn rất thấp, số sản phẩm của mặt hàng này vẫn chưa nhiều. Sự cạnh tranh với các đối thủ ngày càng gay gắt khi số luợng xí nghiệp chế biến thuỷ sản mộc lên ngày càng nhiều mà chính phủ lại chưa có hành lang pháp lý để tránh tình trạng “tranh mua, tranh bán” giữa các doanh nghiệp với nhau. Để đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm này vào thị trường EU công ty cần có những giải pháp thích hợp nhằm hạn chế những khó khăn và tận dụng các điều kiện thuận lợi đối với công ty.
II. KIẾN NGHỊ:
1. Đối với nhà nước:
- Xây dựng điều luật để hạn chế việc phá giá xuất khẩu làm bất ổn thị trường xuất khẩu và thị trường nguyên liệu.
- Xây dựng khuôn khổ pháp lý rõ ràng và thông thoáng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh.
- Nhanh chóng triển khai cập nhật, điều chỉnh bổ sung các tiêu chuẩn hiện có, sớm ban hành các tiêu chuẩn cơ bản bắt buộc áp dụng.
- Chính phủ cần áp dụng các biện pháp khác nhau nhằm khuyến khích và giúp đỡ doanh nghiệp khi bị nước ngoài kiện.
- Nghiên cứu và qui hoạch cụ thể cho ngành nuôi trồng để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu.
- Có biện pháp hướng dẫn người nuôi sử dụng kháng sinh hoá chất phương pháp chăm sóc và nhận biết các hạn chế và cấm sử dụng.
- Nghiên cứu tạo ra những giống mới chất lượng cao.
2. Đối với Công ty:
- Tập trung các nguồn lực để đẩy mạnh công tác quảng bá, phát triển thị trường.
- Thực hiện đa dạng hoá thị trường và đa dạng hoá sản phẩm.
- Duy trì tốc độ phát triển xuất khẩu vào các thị trường chủ lực.
- Thường xuyên cập nhật thông tin về thị trường xuất khẩu để có những biện pháp và kế hoạch xuất khẩu hợp lý.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- noi dung.doc