MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU 1
1.1 Cơ sở hình thành 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1
1.3 Phạm vi nghiên cứu 1
1.4 Phương pháp nghiên cứu 1
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN 2
2.1 Khái quát về tín dụng 2
2.1.1 Khái niệm về tín dụng 2
2.1.2 Các nguyên tắc tín dụng 2
2.1.3 Chức năng của tín dụng 3
2.1.4 Vai trò của tín dụng 4
2.1.5 Đối tượng cho vay của Ngân hàng 5
2.1.6 Điều kiện cho vay 5
2.1.7 Các phương thức cho vay 6
2.2 Khái niệm về rủi ro tín dụng 7
2.2.1 Rủi ro tín dụng 7
2.2.2 Biểu hiện, nguyên nhân và ảnh hưởng của rủi ro tín dụng 7
2.3 Doanh số cho vay 8
2.4 Doanh số thu nợ 8
2.5 Dư nợ 8
2.6 Nợ quá hạn 8
2.7 Vai trò công tác thẩm định trong việc hạn chế rủi ro 9
2.7.1 Khái niệm thẩm định tín dụng 9
2.7.2 Vai trò công tác thẩm định trong việc hạn chế rủi ro tín dụng 9
2.8 Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng 9
2.8.1 Tỷ lệ thu nợ 9
2.8.2 Tỷ lệ rủi ro tín dụng 9
2.8.3 Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ 9
CHƯƠNG 3: KHÁI QUÁT VỀ SACOMBANK
CHI NHÁNH AN GIANG 10
3.1 Giới thiệu về ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín 10
3.2 Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín – Chi nhánh An Giang 10
3.2.1 Quá trình hình thành và phát triển 10
3.2.2 Cơ cấu tổ chức – quản lý tại Sacombank An Giang 11
3.2.3 Chức năng nhiệm vụ các phòng ban 11
3.2.4 Thuận lợi và khó khăn trong hoạt động tại Ngân hàng 14
3.2.4.1 Thuận lợi 14
3.2.4.2 Khó khăn 14
3.2.5 Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006 15
3.2.6 Các chỉ tiêu kế hoạch hoạt động năm 2007 – Biện pháp tổ chức thực hiện 16
CHƯƠNG 4: RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG TẠI
SACOMBANK – CHI NHÁNH AN GIANG 17
4.1 Doanh số cho vay (DSCV) 17
4.1.1 Doanh số cho vay – Theo thời hạn tín dụng 17
4.1.2 Doanh số cho vay – Theo loại hình cho vay 18
4.2 Doanh số thu nợ (DSTN) 20
4.2.1 Doanh số thu nợ - Theo thời hạn tín dụng 21
4.2.2 Doanh số thu nợ - Theo loại hình cho vay 22
4.3 Dư nợ (DN) 23
4.3.1 Dư nợ - Theo thời hạn tín dụng 24
4.3.2 Dư nợ - Theo loại hình cho vay 25
4.4 Tìm hiểu tình hình nợ quá hạn (NQH) 26
4.5 Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng công tác tín dụng 29
4.5.1 Tỷ lệ thu nợ 29
4.5.2 Tỷ lệ rủi ro tín dụng 30
4.5.3 Tỷ lệ NQH trên tổng dư nợ 30
4.6 Rủi ro tín dụng – Một số nguyên nhân phát sinh 31
4.6.1 Ảnh hưởng của tình hình thị trường, môi trường hoạt động của khách hàng 31
4.6.2 Nguyên nhân từ phía bản thân khách hàng 31
4.6.3 Nguyên nhân từ phía bản thân Ngân hàng 32
4.6.4 Nguyên nhân xuát phát từ tài sản đảm bảo 32
4.6.5 Một số trường hợp bảo lãnh của bên thứ 3 để vay vốn dẫn đến rủi ro tín dụng 32
CHƯƠNG 5: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG 34
5.1 Vận dụng hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng 34
5.1.1 Khái niệm 34
5.1.2 Mục đích của hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng 34
5.1.3 Nguyên tắc xây dựng 34
5.1.4 Phân nhóm khách hàng và các chỉ tiêu đánh giá 35
5.1.5 Ứng dụng kết quả chấm điểm tín dụng trong việc ra quyết định tín dụng 36
5.2 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng (CBTD) 38
5.3 Công tác thẩm định tín dụng trước khi cho vay 39
5.4 Theo dõi, giám sát khoản vay 40
5.5 Một số biện pháp hạn chế NQH 40
CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 41
MỞ ĐẦU
1.1 Cơ sở hình thành
Ngày nay chúng ta đang đựơc chứng kiến hàng ngày sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, việc Việt Nam gia nhập WTO, tham gia vào các tổ chức, các hội nghị đã tạo ra cho các doanh nghiệp trong nước những điều kiện thuận lợi để thâm nhập thị trường quốc tế rộng lớn và đầy tiềm năng; đã tạo ra cơ hội để người tiêu dùng trong nước được tiếp cận và sử dụng những hàng hóa, dịch vụ tốt nhất của các nước.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đang khẩn trương nắm bắt những cơ hội, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư cho những dự án mới, cải tiến kỹ thuật công nghệ để có thể cạnh tranh trong môi trường mới. Để có thể thực hiện tốt những việc trên thì vấn đề tìm nguồn tài trợ luôn được đặt ra như là vấn đề cấp thiết hàng đầu với tất cả các chủ thể kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, các khoản cấp tín dụng của Ngân hàng luôn được xem là một nguồn tài trợ tốt ngày càng góp phần quan trọng trong việc tạo vốn cho các chủ thể kinh tế hoạt động, thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trong công việc kinh doanh luôn có thể xảy ra thiệt hại xuất phát từ cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan, do đó những rủi ro tiềm ẩn mà Ngân hàng có thể sẽ đương đầu khi cấp tín dụng là rất lớn. Vì lẽ đó, tôi đã quyết định chọn đề tài “PHÂN TÍCH RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SACOMBANK – CHI NHÁNH AN GIANG”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chủ yếu của nghiên cứu là tìm hiểu những rủi ro mà Sacombank gặp phải trong hoạt động cấp tín dụng, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro, giúp cho hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng ngày càng có chất lượng.
1.3 Phạm vi nghiên cứu
Sacombank đã thành lập văn phòng đại diện và đi vào hoạt động tại An Giang từ năm 1998, nhưng đến ngày 03/08/2005 mới chính thức trở thành một Chi nhánh cấp 1. Do đó việc tìm hiểu rủi ro tín dụng trong đề tài này chỉ tập trung trong thời gian từ lúc Chi nhánh bắt đầu đi vào hoạt động năm 2005 đến cuối năm 2006.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Số liệu thứ cấp: tập hợp số liệu từ các báo cáo, tài liệu công bố của Ngân hàng.
- Phân loại – so sánh số liệu, chỉ tiêu trong hoạt động tín dụng, đánh giá nguyên nhân, thực trạng của rủi ro tín dụng tại Ngân hàng.
- Quan sát hoạt động tín dụng tại Ngân hàng, tham khảo ý kiến cán bộ tín dụng.
- Đề xuất ý kiến.
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích rủi ro tín dụng tại Sacombank – Chi nhánh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, đạt 18,2 tỷ đồng. Đến thời điểm 31/12/2006, tình hình sản xuất, chăn nuôi của người dân có phần ổn định lại, làm cho cho vay nông nghiệp giảm đi hơn 40%, còn đạt 10,5 tỷ đồng. Khách hàng có nhu cầu vay vốn tại Chi nhánh chủ yếu phục vụ trồng lúa và nuôi cá, một số nuôi thêm các loại gia súc: bò, heo,… hoặc kết hợp mua bán vật tư nông nghiệp: các loại phân bón, thuốc trừ sâu… Đặc biệt với việc giá cá và giá lúa đang có sự biến động lớn như gần đây, thị trường tiêu thụ không ổn định thì Chi nhánh đã ngày càng thận trọng hơn, chuyển hướng hạn chế đáp ứng nhu cầu vay này, đặc biệt là vay nuôi cá.
Đối với cho vay CBCNV, đây là loại hình vay tín chấp đã được đẩy mạnh từ trước khi Chi nhánh được thành lập. Hiện nay Chi nhánh đã phát triển được loại hình này ở một số huyện thị lân cận như Long Xuyên, Chợ Mới, Thoại Sơn, Châu Thành và nơi đặt hai Phòng Giao dịch Tân Châu, Châu Phú. Nhóm khách hàng mà Chi nhánh hướng đến là các cán bộ - nhân viên hoạt động trong các đơn vị: trường học, Phòng Giáo dục, các cơ sở y tế các cấp, Kho Bạc Nhà Nước, bưu điện, và một số sở ban ngành theo phê duyệt riêng của Phó tổng giám đốc khu vực.
Qua số liệu ở bảng 4 và 5, DSCV CBCNV đã có sự biến động, đạt 31,6 tỷ đồng vào 31/12/2005, sau đó giảm đi chỉ còn 19,9 tỷ đồng vào 30/6/2006, nhưng đến thời điểm 31/12/2006 DSCV đã tăng trở lại và đạt được 35,3 tỷ đồng. Tính đến 30/6/2006, DSCV CBCNV đã giảm hơn 11 tỷ đồng tương đương 36,9%, điều này một phần là do địa bàn cho vay chưa được chú trọng đẩy mạnh, mặt khác cán bộ tín dụng không thể kiêm nhiệm hết khi mà DSCV loại hình SXKD gia tăng quá nhanh. Đến thời điểm 31/12/2006, cho vay CBCNV đã có gia tăng 76,9% tương đương 35,3 tỷ đồng, lúc này là khi Phòng Giao dịch Tân Châu và Châu Phú đã đi vào hoạt động, số lượng cán bộ tín dụng được gia tăng, công tác tiếp thị, giới thiệu tới các cơ quan xí nghiệp được đẩy mạnh, giúp cho lượng lớn cán bộ nhân viên quan tâm nhiều hơn đến loại hình vay tín chấp này, DSCV cũng được gia tăng.
Một số loại hình cho vay còn lại tuy cũng có biến động doanh số nhưng nhìn chung đều có xu hướng gia tăng. Sự gia tăng liên tục của tổng doanh số cho vay đã phần nào thể hiện sự tín nhiệm ngày càng cao của khách hàng đối với Chi nhánh, đối với Ngân hàng. Nguyên nhân của thành quả này một phần do chính quy chế cho vay của Ngân hàng ngày càng thông thoáng hơn, một phần nhờ vào tác dụng của công tác tiếp thị và sự nhiệt tình của đội ngũ nhân viên khi tiếp xúc, giải quyết hồ sơ khách hàng.
4.2 Doanh số thu nợ (DSTN)
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, khi quyết định việc nên cho vay hay không, cán bộ tín dụng sẽ căn cứ chủ yếu vào 3 nhóm yếu tố: giá trị và tính hợp pháp của tài sản đảm bảo, tình hình sản xuất và phương án kinh doanh, cuối cùng là nguồn thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng. Việc tìm hiểu rõ khả năng trả nợ của khách hàng sẽ quyết định việc thu nợ về sau được thực hiện tốt hơn, giúp Ngân hàng duy trì và bảo toàn được nguồn vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng.
4.2.1 Doanh số thu nợ - Theo thời hạn tín dụng
Bảng 6: Doanh số thu nợ theo thời hạn cho vay tại Sacombank An Giang
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/06/2006
31/12/2006
So sánh 31/12/2005 – 30/6/2006
So sánh 30/6/2006 – 31/12/2006
Tăng giảm
% tăng giảm
Tăng giảm
% tăng giảm
Ngắn hạn
15.500
27.216
134.751
11.716
75,58%
107.535
395,11%
Trung hạn
12.500
4.143
19.629
-8.357
-66,85%
15.486
373,78%
Dài hạn
0
0
0
0
-
0
-
Tổng
28.000
31.359
154.380
3.359
12,00%
123.021
392,29%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Bảng 7: Tỷ trọng thu nợ theo thời hạn cho vay
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/6/2006
31/12/2006
Ngắn hạn
55,36%
86,79%
87,28%
Trung hạn
44,64%
13,21%
12,72%
Dài hạn
-
-
-
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Do tác động lớn của việc gia tăng DSCV, nhìn chung tình hình thu nợ tại Chi nhánh cũng có xu hướng tăng mạnh. Tổng số thu nợ đạt 28 tỷ đồng vào 31/12/2005, đến thời diểm 31/12/2006 đã đạt 154,3 tỷ đồng, trong đó tăng mạnh nhất từ 30/6/2006 đến 31/12/2006, tăng được 123 tỷ đồng, tỷ lệ tăng là hơn 390%.
Về chi tiết từng loại thời hạn tín dụng, thu nợ ngắn hạn luôn có tốc độ tăng nhanh hơn và đạt tỷ trọng lớn hơn so với thu nợ trung hạn, mặc dù tính đến thời điểm 31/12/2006, tại Chi nhánh đã có phát vay dài hạn nhưng vẫn chưa thu lại vốn gốc từ các khoản vay này. Thu nợ ngắn hạn đạt 15,5 tỷ đồng vào 31/12/2005, và cũng như tổng DSTN, thu nợ ngắn hạn tăng nhanh từ 27,2 tỷ đồng ở 30/6/2006 lên 134,7 tỷ đồng vào 31/12/2006, mức tăng là 107,5 tỷ đồng tương đương 395,1%. Sự gia tăng DSTN ngắn hạn là do Chi nhánh đẩy mạnh việc phát vay ngắn hạn từ năm 2006, thời hạn tín dụng dưới một năm nên việc thu hồi nợ được thực hiện nhanh chóng.
Xét về tình hình thu nợ trung hạn, tại Chi nhánh đạt 12,5 tỷ đồng vào 31/12/2005. Nhưng đến 30/06/2006, thu nợ chỉ còn đạt 4,1 tỷ đồng, tỷ lệ giảm hơn 66%. Nguyên nhân do có sự giảm xuống của DSCV, một phần khác là do các khoản vay chưa đến hạn trả nợ và do phát sinh nợ quá hạn.
4.2.2 Doanh số thu nợ - Theo loại hình cho vay
Trong hoạt động tín dụng tại Chi nhánh từ năm 2005 đến hết năm 2006, DSCV luôn chiếm tỷ trọng cao ở loại hình cho vay SXKD và cho vay CBCNV. Tương tự như ở DSCV, DSTN theo loại hình cho vay cũng có xu hướng gia tăng và có tỷ trọng cao ở cho vay SXKD và cho vay CBCNV. Bảng 8 và 9 sẽ thể hiện DSTN theo loại hình cho vay tại Chi nhánh:
Bảng 8: Doanh số thu nợ theo loại hình cho vay tại Sacombank An Giang
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/06/2006
31/12/2006
So sánh 31/12/2005 – 30/6/2006
So sánh 30/6/2006 – 31/12/2006
Tăng giảm
% tăng giảm
Tăng giảm
% tăng giảm
SXKD
9.347
9.181
108.375
-166
-1,77%
99.194
1.080,42%
Nông nghiệp
2.374
4.833
7.381
2.549
103,58%
2.548
52,72%
CBCNV
8.249
3.583
8.847
-4.666
-56,56%
5.264
146,91%
Khác
8.030
13.762
29.777
5.732
71,38%
16.015
116,37%
Tổng
28.000
31.359
154.380
3.359
12,00%
123.021
392,29%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Bảng 9: Tỷ trọng thu nợ theo loại hình cho vay
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/6/2006
31/12/2006
SXKD
33,38%
29,27%
70,20%
Nông nghiệp
8,48%
15,41%
4,78%
CBCNV
29,46%
11,42%
5,73%
Khác
28,68%
43,90%
19,29%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Đối với loại hình cho vay SXKD, DSTN tại Chi nhánh đã có sự gia tăng đột biến, vào thời điểm 31/12/2005, DSTN đạt hơn 9,3 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33,3% tổng DSTN. Đến thời điểm 30/06/2006, DSTN vay SXKD chưa có sự biến động lớn, giảm đi 166 triệu đồng còn lại hơn 9,1 tỷ đồng. Nhưng đến thời điểm cuối năm 2006, DSTN đã có sự gia tăng rất mạnh, đạt mức 108,3 tỷ đồng, tức đã tăng so với thời điểm 30/06/2006 là hơn 10 lần, chiếm đến 70,2% tổng DSTN. Có sự gia tăng đột biến này là bởi trong năm 2006 đa số các doanh nghiệp làm ăn thuận lợi, các khoản nợ đến hạn được trả gốc đầy đủ, ngoài ra còn một số khoản vay được khách hàng tất toán trước hạn, sau đó yêu cầu được vay lại với số vốn gốc lớn hơn nhằm mở rộng quy mô kinh doanh.
Xét về những khoản vay phục vụ mục đích sản xuất nông nghiệp, tình hình thu nợ diễn ra thuận lợi, DSTN gia tăng theo thời gian. Thu nợ cho vay nông nghiệp đạt hơn 2,3 tỷ đồng vào 31/12/2005, đến 31/12/2006 con số này là 7,3 tỷ đồng. Trong đó tăng nhanh nhất là từ 31/12/2005 đến 30/06/2006, tăng 103,5 % tức đạt 4,3 tỷ đồng, tỷ trọng trong tổng DSTN tăng từ 8,4% lên 15,4%. Tuy có sự gia tăng liên tục trong DSTN thế nhưng về số lượng là không lớn, điều này là do tình hình cho vay năm 2006 đạt chưa cao, bên cạnh các khoản vay này đa phần đều có kỳ hạn 12 tháng, trả gốc cuối kỳ nên các khoản vay trong năm 2006 chưa đến thời điểm trả nợ gốc, làm DSTN đạt được không cao. Còn đối với cho vay phục vụ CBCNV, tình hình thu nợ có khác hơn trong cho vay nông nghiệp và sản xuất kinh doanh, giảm đi ở thời điểm 30/06/2006, sau đó tăng trở lại vào 31/12/2006. DSTN ở 31/12/2005 đạt khoảng 8 tỷ đồng, chiếm 29,4% tổng DSTN, đến 30/06/2006, DSTN giảm đi 56,5%, chỉ còn hơn 3,5 tỷ đồng. Tuy rằng DSTN có giảm đi, nhưng điều này không có nghĩa rằng nợ quá hạn chiếm lượng lớn làm ảnh hưởng đến DSTN, mặc dù ở thời điểm 30/06/2006 có một phần nhỏ nợ quá hạn của CBCNV, điều này sẽ được trình bày ở phần sau, chủ yếu sự sụt giảm này là do một số hợp đồng vay đã được tất toán trong khi những hợp đồng mới phát sinh lại được ký kết phần lớn không xa thời điểm 30/06/2006, đến 31/12/2006 thu nợ đối tượng CBCNV đã có sự gia tăng trở lại, đạt 8,8 tỷ đồng, tốc độ tăng đạt khoảng 146,9%.
DSTN tại Chi nhánh đã có sự gia tăng theo thời gian, điều này rõ ràng do ảnh hưởng của sự tăng mạnh trong DSCV. Một điều khá rõ nữa là sau khi giải ngân một khoản thời gian nhất định Chi nhánh mới có thể bắt đầu thu hồi vốn gốc, do đó sự gia tăng DSTN có thể nói sẽ luôn đến muộn hơn so với sự gia tăng của DSCV. Để có thể thực hiện tốt việc thu nợ như đã trình bày, có khá nhiều yếu tố tác động trong đó có thể kể đến như: sự phối hợp trong nội bộ Ngân hàng, phòng quản lý tín dụng theo dõi liệt kê nhằm giúp cán bộ tín dụng có thể kịp thời nhắc nhở, đôn đốc khách hàng trả nợ khi đến hạn, sự ổn định của thị trường giúp khách hàng hoạt động có hiệu quả, thuận lợi trong việc trả nợ, cuối cùng và quan trọng nhất cũng chính là ý thức trả nợ tốt của chính khách hàng.
4.3 Dư nợ (DN)
Dư nợ tại một thời điểm xác định thể hiện tổng số tiền mà Ngân hàng còn phải thu về, đây là toàn bộ số vốn gốc mà Ngân hàng chưa thu lại, bao gồm các khoản vay trước đây và các khoản vay mới phát sinh. Dư nợ có mối tương quan đồng biến với DSCV và nghịch biến với DSTN, do vậy chỉ tiêu này thể hiện được thực tế tình hình hoạt động tín dụng tại Ngân hàng, góp phần đánh giá hiệu quả việc cho vay, khả năng tạo ra lợi nhuận của Ngân hàng.
4.3.1 Dư nợ - Theo thời hạn tín dụng
Bảng 10: Tình hình dư nợ theo thời hạn cho vay tại Sacombank An Giang
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/06/2006
31/12/2006
So sánh 31/12/2005 – 30/6/2006
So sánh 30/6/2006 – 31/12/2006
Tăng giảm
% tăng giảm
Tăng giảm
% tăng giảm
Ngắn hạn
28.469
136.253
166.502
107.784
378,60%
30.249
22,20%
Trung hạn
33.828
64.685
100.056
30.857
91,21%
35.371
54,68%
Dài hạn
0
0
130
0
-
130
-
Tổng
62.297
200.938
266.688
138.641
222,55%
65.750
32,72%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Bảng 11: Tỷ trọng dư nợ theo thời hạn cho vay
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/6/2006
31/12/2006
Ngắn hạn
45,70%
67,80%
62,43%
Trung hạn
54,30%
32,20%
37,52%
Dài hạn
-
-
0,05%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Tổng dư nợ tại Chi nhánh có sự gia tăng liên tục theo thời gian, tuy nhiên tốc độ tăng có xu hướng chậm lại. Dư nợ tại thời điểm 31/12/2005 là 612,2 tỷ đồng, đến thời điểm 31/12/2006 là 266,6 tỷ đồng trong đó tăng nhanh nhất là từ 31/12/2005 đến 30/06/2006, trong thời gian 6 tháng dư nợ đã tăng hơn 138 tỷ đồng, đạt 200,9 tỷ đồng, tỷ lệ tăng đạt rất cao, khoảng 222%. Xét theo từng loại thời hạn cho vay, dư nợ đều tăng ở vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Riêng cho vay dài hạn, đến thời điểm 31/12/2006 dư nợ chỉ mới phát sinh là 130 triệu đồng, do lúc này DSCV dài hạn cũng chỉ phát sinh 130 triệu đồng và chưa thu hồi được vốn gốc.
Tại thời điểm 31/12/2005, dư nợ ngắn hạn là 28,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 45,7% dư nợ, dư nợ trung hạn chiếm tỷ trọng cao hơn, đạt 54,3% tương đương 33,8 tỷ đồng. Nhưng đến thời điểm 30/06/2006, tỷ trọng của cho vay ngắn hạn và trung hạn đã có sự thay đổi, 67,8% là của cho vay ngắn hạn và 32,2% là của cho vay trung hạn, lúc này dư nợ ngắn hạn tăng 107,7 tỷ đồng tương đương 378,6% đạt 136,2 tỷ đồng, trong khi dư nợ trung hạn chỉ đạt 64,4 tỷ đồng, tăng 30,8 tỷ đồng tương đương 91,2%. Nguyên nhân của sự tăng nhanh dư nợ ngắn hạn là do DSCV tăng quá cao (258,7%) trong khi DSTN tăng với tỷ lệ thấp hơn (75,5%).
Còn tại thời điểm 31/12/2006, mặc dù dư nợ ở mỗi loại thời hạn đều tăng nhưng tỷ lệ tăng đã có sự thay đổi. Lúc này dư nợ ngắn hạn là 166,5 tỷ đồng, dư nợ trung hạn là 100 tỷ đồng, vậy dư nợ ngắn hạn chỉ tăng được 30,2 tỷ đồng tương đương 22,2% trong khi dư nợ trung hạn tăng lên 35,3 tỷ đồng tương đương 54,6%. Nguyên nhân sự suy giảm nhanh tỷ lệ tăng dư nợ ngắn hạn là do đến thời điểm 31/12/2006, rất nhiều khoản vay ngắn hạn đã đến trả vốn gốc, làm DSTN tăng rất cao.
4.3.2 Dư nợ - Theo loại hình cho vay
Bảng 12: Tình hình dư nợ theo loại hình cho vay tại Sacombank An Giang
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/06/2006
31/12/2006
So sánh 31/12/2005 – 30/6/2006
So sánh 30/6/2006 – 31/12/2006
Tăng giảm
% tăng giảm
Tăng giảm
% tăng giảm
SXKD
27.483
121.536
133.502
90.453
342,22%
11.966
9,84%
Nông nghiệp
4.284
17.700
20.908
13.416
313,16%
3.208
18,12%
CBCNV
29.138
45.515
71.989
16.377
56,20%
26.474
58,16%
Khác
1.392
16.187
40.289
14.795
1062,85%
24.102
148,89%
Tổng
62.297
200.938
266.688
138.641
222,55%
65.750
32,72%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Bảng 13: Tỷ trọng dư nợ theo loại hình cho vay
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/6/2006
31/12/2006
SXKD
44,12%
60,49%
50,06%
Nông nghiệp
6,87%
8,80%
7,84%
CBCNV
46,77%
22,65%
26,99%
Khác
2,24%
8,06%
15,11%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Tình hình dư nợ ở mỗi loại hình cho vay đều gia tăng theo thời gian, trong đó có mức tăng tương đối cao và đạt dư nợ cao nhất là loại hình cho vay SXKD. Đối với loại hình cho vay này dư nợ gia tăng khá giống với dư nợ cho vay ngắn hạn, tăng từ 24,8 tỷ đồng vào 31/12/2005 đến 166,5 tỷ đồng vào 31/12/2006, trong đó tại thời điểm 30/06/2006 dư nợ đã đạt được hơn 136 tỷ đồng, tỷ lệ tăng đạt hơn 378%.
Còn đối với loại hình cho vay nông nghiệp, tuy dư nợ đạt tương đối không cao nhưng có sự tăng trưởng khá nhanh. Vào 31/12/2005, dư nợ chỉ đạt 4,2 tỷ đồng, đến 30/06/2006 dư nợ đã đạt 17,7 tỷ đồng, tỷ lệ tăng đạt đến 313,1%. Đến 31/12/2006 dư nợ ở loại hình này đã đạt 20,9 tỷ đồng. Mặc dù có sự tăng nhanh nhưng tỷ trọng dư nợ của loại hình này vẫn không có sự thay đổi lớn, chỉ đạt dưới 10% ở cả 3 mốc thời điểm.
Về mảng cho vay CBCNV, dư nợ tăng liên tục và tương đối đồng đều theo thời gian, điều này là bởi cho vay CBCNV đạt được DSCV tương đối cao trong khi thời gian trả nợ thường kéo dài đến 36 tháng làm dư nợ tăng lên liên tục. Dư nợ cho vay CBCNV ở thời điểm 31/12/2005 là 29,1 tỷ đồng, đến 30/06/2006 đạt 45,5 tỷ đồng và đến 31/12/2006 đã đạt 71,9 tỷ đồng, tốc độ tăng trung bình khoảng từ 56% đến 58%. Vì hoạt động tín dụng tại Chi nhánh được mở rộng nhanh chóng, các loại hình cho vay khác đều có sự tăng trưởng đáng kể, do đó mặc dù dư nợ cho vay CBCNV có sự gia tăng nhưng tỷ trọng trong tổng dư nợ tại Chi nhánh có sự giảm xuống, từ 47,6% ở thời điểm 31/12/2005 còn 26,9% tại 31/12/2006.
Dư nợ tín dụng tại Chi nhánh gia tăng chủ yếu bởi sự gia tăng mạnh của DSCV, còn DSTN tuy cũng có tăng lên nhưng vẫn không thể theo kịp tốc độ cho vay, bên cạnh còn có một số khoản vay chưa thu về được, những khoản nợ quá hạn này cũng đã góp một phần vào trong tổng dư nợ. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về tình hình nợ quá hạn tại Chi nhánh trong phần tiếp theo.
4.4 Tìm hiểu tình hình nợ quá hạn (NQH)
NQH là một phần trong tổng dư nợ của Ngân hàng, tuy nhiên đây là yếu tố quan trọng thể hiện chất lượng của công tác tín dụng, hiệu quả hoạt động cho vay của Ngân hàng, NQH càng lớn chứng tỏ hiệu quả công tác cho vay càng thấp và ngược lại. NQH phát sinh có thể do các nguyên nhân khách quan như sự biến động của thị trường, phương án kinh doanh không mang lại hiệu quả, việc thiếu ý thức trả nợ của khách hàng… hay do các nguyên nhân chủ quan như sự yếu kém về chuyên môn của cán bộ tín dụng, thiếu sự phối hợp trong công tác quản lý khoản vay… Do đó, NQH là vấn đề khó có thể tránh khỏi khi thực hiện cho vay, Ngân hàng chỉ có thể nỗ lực hạn chế các khoản nợ này sao cho càng thấp càng tốt.
Giữa NQH và RRTD của Ngân hàng có mối tương quan chặt chẽ với nhau, NQH là biểu hiện cơ bản, là hệ quả gắn liền khi quá trình cho vay của Ngân hàng phát sinh rủi ro. Trong hoạt động của một Ngân hàng Thương mại thì nghiệp vụ cho vay và đầu tư là nghiệp vụ quan trọng nhất, quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của chính Ngân hàng đó, nhất là nghiệp vụ cho vay luôn chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng tài sản có của Ngân hàng. Vì thế, việc khách hàng không thể trả nợ đúng hạn hoặc mất khả năng chi trả cho Ngân hàng trước hết sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng, ngoài ra khi mà các khoản dự trữ sơ cấp và thứ cấp không đủ sức bù đắp nhu cầu của khách hàng có thể dẫn đến việc Ngân hàng bị mất khả năng thanh toán, nguy cơ trầm trọng nhất là có thể làm sụp đổ cả một hệ thống Ngân hàng.
Do vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động các Ngân hàng, góp phần hạn chế việc phát sinh rủi ro tín dụng, Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước đã ban hành Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN vào ngày 22/04/2005 về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Theo quyết định này, toàn bộ số dư nợ gốc sẽ được phân thành 5 nhóm, trong đó nhóm 1 là các khoản nợ trong hạn, từ nhóm 2 đến nhóm 5 là các khoản nợ quá hạn có nguy cơ cao dần, khả năng thu hồi được càng thấp. Quyết định trên đã góp phần làm chặt chẽ hơn công tác đánh giá các khoản nợ, hạn chế việc phát sinh NQH, đồng nghĩa với việc có thể giảm nguy cơ phát sinh rủi ro tín dụng. Thể hiện là quyết định 493 đã quy định phân loại nợ theo từng khoản vay có xem xét đến trạng thái nợ của khách hàng chứ không chỉ đơn thuần hạch toán theo từng khoản vay như quyết định 950 trước đây.
Nếu khách hàng có nhiều khoản vay mà trong đó chỉ một khoản vay được cơ cấu lại thời hạn trả nợ hoặc chuyển NQH thì toàn bộ dư nợ của khách hàng đó phải phân loại theo mức độ rủi ro cao hơn tương ứng.
Một khách hàng cùng quan hệ tại hai Chi nhánh, nếu khách hàng đó được cơ cấu lại thời hạn trả nợ hoặc chuyển NQH một khoản vay tại Chi nhánh này thì đồng thời tại Chi nhánh kia cũng phải phân loại theo mức độ rủi ro cao hơn tương ứng, do đối tượng của quyết định 493/2005/QĐ-NHNN do Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước ban hành là tổ chức tín dụng chứ không phải là đơn vị trực thuộc của tổ chức tín dụng. Việc phân loại nợ này là do thực tế khách hàng đã quan hệ tại 2 Chi nhánh trở lên nhưng vẫn không thể linh động đáp ứng được nhu cầu hoàn trả, điều này chứng tỏ hiện tại tình hình tài chính hay tình hình kinh doanh của khách hàng đang có chiều hướng xấu đi, rất có thể ảnh hưởng đến các khoản nợ còn lại.
Tại Sacombank Chi nhánh An Giang có điểm khá đặc biệt trong tình hình NQH, đó là chỉ phát sinh NQH ở loại hình cho vay nông nghiệp và cho vay CBCNV. Đồng thời các khoản NQH trong cho vay nông nghiệp đều thuộc các khoản vay ngắn hạn, còn các khoản nợ trong cho vay CBCNV đều thuộc các khoản vay trung hạn. Tình hình NQH tại Chi nhánh được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 14: Tình hình nợ quá hạn tại Sacombank An Giang
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/6/2006
31/12/2006
Ngắn hạn
(Nông nghiệp)
Nhóm 2
-
-
-
Nhóm 3
-
-
-
Nhóm 4
-
-
-
Nhóm 5
0
37
32
Trung hạn
(CBCNV)
Nhóm 2
874
63
2
Nhóm 3
58
7
7
Nhóm 4
102
7
2
Nhóm 5
42
58
50
Dài hạn
0
0
0
Tổng
1076
172
93
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Bảng 15: Tổng nợ quá hạn theo thời hạn cho vay
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/06/2006
31/12/2006
So sánh 31/12/2005 – 30/6/2006
So sánh 30/6/2006 – 31/12/2006
Tăng giảm
% tăng giảm
Tăng giảm
% tăng giảm
Ngắn hạn
0
37
32
37
-
-5
-13,51%
Trung hạn
1076
135
61
-941
-87,45%
-74
-54,81
Dài hạn
0
0
0
-
-
-
-
Tổng
1076
172
93
-904
-84,01%
-79
-45,93%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Tính đến thời điểm 31/12/2005 tại Chi nhánh chưa phát sinh NQH ngắn hạn trong khi NQH trong cho vay trung hạn cũng là cho vay CBCNV đạt 1.076 triệu đồng, trong đó NQH nhóm 2 đạt đến 874 triệu đồng, đây là những khoản NQH chưa đến 90 ngày và nợ được cơ cấu lại thời gian trả. Các khoản nợ này được đánh giá là có khả năng thu hồi đủ cả gốc lẫn lãi.
Đến thời điểm 30/06/2006, trong cho vay ngắn hạn đã phát sinh 37 triệu đồng NQH do việc sản xuất và kinh doanh nông nghiệp của một số hộ nông dân không đạt hiệu quả. Còn trong cho vay CBCNV đã có sự sụt giảm mạnh của NQH, duy nhất chỉ NQH nhóm 5 tăng lên 16 triệu đồng, còn các khoản nợ từ nhóm 2 đến nhóm 4 đều giảm mạnh, làm tổng NQH tại thời điểm này chỉ còn 172 triệu, giảm đi hơn 84% tương đương 904 triệu đồng.
Sang thời điểm 31/12/2006, lúc này tổng NQH chỉ còn là 93 triệu đồng, giảm được 45,9%. NQH trong cho vay ngắn hạn đã giảm lượng nhỏ là 5 triệu đồng, còn lại 32 triệu đồng, NQH trong cho vay trung hạn đã có sự giảm xuống ở tất cả các nhóm nợ, trong đó nhóm 1 giảm mạnh nhất, từ 63 triệu đồng xuống chỉ còn 2 triệu đồng.
4.5 Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng công tác tín dụng
4.5.1 Tỷ lệ thu nợ (TLTN)
Bảng : Tỷ lệ thu nợ tại Sacombank An Giang
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/06/2006
31/12/2006
So sánh 31/12/2005 – 30/6/2006
So sánh 30/6/2006 – 31/12/2006
DSCV
60.000
170.000
220.130
110.000
50.130
DSTN
28.000
31.359
154.380
3.359
123.021
TL TN
46,67%
18,45%
70,13%
-28,22%
51,68%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Đây là chỉ tiêu đánh giá chủ yếu hiệu quả công tác thu hồi nợ của Ngân hàng, tỷ lệ này càng cao chứng tỏ công tác thu hồi nợ của Ngân hàng càng chặt chẽ và có hiệu quả. Đối với một Ngân hàng Thương mại, hoạt động cho vay mang lại nguồn lợi nhuận chủ yếu, đồng thời Ngân hàng cũng phải luôn chú trọng công tác thu hồi nợ nhằm thu hồi và duy trì nguồn vốn, đảm bảo hoạt động của Ngân hàng được thông suốt, rủi ro được giảm thiểu.
Tỷ lệ thu nợ tại Sacombank trong thời gian qua đã có sự biến động lớn, tỷ lệ này chỉ đạt 18,4% ở thời điểm 30/06/2006, giảm đi 28,2% so với mức 46,6% ở 31/12/2005. Đến 31/12/2006 tỷ lệ thu nợ đã tăng được 51,6%, đạt mức 70,1%. Nguyên nhân của sự tăng giảm này là do ở 30/06/2006, DSCV tăng rất cao trong khi DSTN chỉ gia tăng một khoản tương đối nhỏ, đến thời điểm 31/12/2006, đến lượt công tác thu nợ được thực hiện có hiệu quả, DSTN gia tăng nhanh chóng làm tỷ lệ thu nợ tăng lên rõ rệt.
4.5.2 Tỷ lệ rủi ro tín dụng (TLRRTD)
Bảng 17: Tỷ lệ rủi ro tín dụng tại Sacombank An Giang
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/06/2006
31/12/2006
So sánh 31/12/2005 – 30/6/2006
So sánh 30/6/2006 – 31/12/2006
Dư nợ
62.297
200.938
266.688
138.641
65.750
Tổng TS có
78.017
240.817
290.921
162.800
50.104
TL RRTD
79,85%
83,44%
91,67%
3,59%
8,23%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
Tỷ lệ rủi ro tín dụng càng cao thể hiện dư nợ tín dụng càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản có của Ngân hàng, một khi Ngân hàng không thể thu hồi các khoản vay đúng hạn, tức NQH tăng lên, lúc đó các khoản thanh khoản Ngân hàng có sẽ có thể không đủ đáp ứng nhu cầu rút tiền và nhu cầu cấp tín dụng nếu có của khách hàng. Ta thấy rằng tổng dư nợ luôn chiếm một khoản lớn trong tổng tài sản có của Ngân hàng và tỷ lệ này đang có xu hướng tăng lên, đặc biệt tỷ lệ rủi ro tín dụng ở 31/12/2006 đã đạt 91,6%, tăng đến 8,2% so với thời điểm 30/06/2006. Điều này là do Ngân hàng đã liên tục đẩy mạnh việc phát vay, do vậy phải đồng thời tăng cường chú ý đến khả năng thu hồi của các khoản vay này, và tất nhiên nếu tỷ lệ này được duy trì ở một mức vừa phải sẽ tốt hơn cho việc phát triển bền vững của Ngân hàng.
4.5.3 Tỷ lệ NQH trên tổng dư nợ (TLNQH/DN)
Bảng 18: Tỷ lệ Nợ quá hạn trên tổng dư nợ tại Sacombank An Giang
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
30/06/2006
31/12/2006
So sánh 31/12/2005 – 30/6/2006
So sánh 30/6/2006 – 31/12/2006
NQH
1076
172
93
-904
-79
DN
62.297
200.938
266.688
138.641
65.750
TL NQH/DN
1,72%
0,085%
0,034%
-1,635%
-0,051%
(Nguồn: P. Quản lý TD – Sacombank An Giang)
NQH trên tổng dư nợ là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp hiệu quả hoạt động tín dụng. Ngân hàng không thể đưa dư nợ quá hạn về con số không bởi NQH có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, do đó chỉ có thể hạn chế tối đa sao cho tỷ lệ NQH trên tổng dư nợ nằm trong khung quy dịnh của Ngân Hàng Nhà Nước là 5% và riêng hệ thống Sacombank là 1,5%. Tại Chi nhánh An Giang, tỷ lệ NQH đã có bước sụt giảm liên tục rất đáng khích lệ, điều này đồng nghĩa với chất lượng tín dụng đã được nâng cao rõ rệt. Đến 31/12/2006 tỷ lệ NQH chỉ có 0,034%, trong đó giảm nhanh nhất là từ 31/12/2005 đến 30/06/2006, từ 1,72% xuống còn 0,085%.
4.6 Rủi ro tín dụng – Một số nguyên nhân phát sinh
4.6.1 Ảnh hưởng của tình hình thị trường, môi trường hoạt động của khách hàng
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp luôn phải chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ những biến động kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Khi một nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái hay khi tình hình lạm phát tăng cao làm giá cả biến động sẽ đồng thời làm sức mua của thị trường bị giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp đến đầu ra của sản phẩm, có thể dẫn đến doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Hay chỉ cần một chiến lược marketing không phù hợp, một thông tin sai lệch gây e ngại từ thị trường cũng có thể làm doanh nghiệp mất doanh thu, phá sản dự án về một sản phẩm mới… từ đó không thể thực hiện việc trả nợ cho Ngân hàng theo đúng thoả thuận.
Xu hướng hội nhập khu vực và thế giới hiện nay đang gắn kết nền kinh tế các nước lại với nhau, mở ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp trong nước hội nhập và phát triển, tuy nhiên sự cạnh tranh cũng sẽ ngày càng gay gắt. Môi trường kinh doanh biến động với những thay đổi diễn ra nhanh chóng và khó dự báo một cách chính xác có thể là thời cơ cũng có thể là nguyên nhân làm khách hàng của Ngân hàng hoạt động không hiệu quả, gián tiếp tác động đến hoạt động của Ngân hàng. Các biến động của tình hình chính trị - quân sự trên thế giới đều có thể làm ảnh hưởng giá cả các loại nguyên nhiên liệu, đồng thời sự xâm nhập của hàng hóa, dịch vụ nước ngoài dẫn đến nguy cơ các doanh nghiệp trong nước hoạt động không hiệu quả, gia tăng rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
4.6.2 Nguyên nhân từ phía bản thân khách hàng
Đối với những khách hàng là cá nhân vay vốn Ngân hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng hay mua, sửa chữa, xây dựng nhà… mà nguồn dùng trả nợ chủ yếu từ lương và thu nhập trong sản xuất nhỏ lẻ thì nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng do:
Khách hàng bị mất việc, mất thu nhập từ lương, tình hình sản xuất kinh doanh không đạt hiệu quả.
Những biến cố bất ngờ như bệnh tật, tai nạn, hoả hoạn…
Khách hàng thiếu ý thức trong việc trả nợ.
Đối với khách hàng vay vốn để đầu tư, mở rộng hoạt động kinh doanh:
Ảnh hưởng của giá cả vật tư đầu vào, thị trường tiêu thụ bị cạnh tranh bởi các đơn vị cùng ngành.
Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã thoả thuận.
Phương án kinh doanh không mang lại hiệu quả, gây ảnh hưởng khả năng tài chính của khách hàng.
Một số nguyên nhân như: Năng lực quản lý yếu kém, thiên tai, hoả hoạn…
4.6.3 Nguyên nhân từ phía bản thân Ngân hàng
Cán bộ tín dụng chưa nắm vững nghiệp vụ, việc cho vay được thực hiện không đúng quy chế tín dụng, cho vay vượt quá tỷ lệ quy định, thiếu tài sản đảm bảo.
Công tác thẩm định được tiến hành hời hợt, có thể do chủ quan của cán bộ tín dụng dẫn đến việc phân tích đánh giá khách hàng còn sai sót. Hay do sự kiêng nể, những mối quan hệ từ trước dẫn đến việc cán bộ tín dụng lập tờ trình cho vay không trung thực.
Việc kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay không được thực hiện, cán bộ tín dụng thiếu sự quan tâm theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng, dẫn đến việc khách hàng có thể sử dụng vốn sai mục đích, không đủ khả năng hoàn trả vốn cho Ngân hàng.
Công tác quản lý tín dụng chưa chặt chẽ, thiếu sự phối hợp giữa các bộ phận để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc khách hàng trả nợ khi đến hạn.
4.6.4 Nguyên nhân xuất phát từ tài sản đảm bảo
Việc định giá tài sản đảm bảo được thực hiện không chính xác, có thể do thiếu thông tin về tình hình giá cả hoặc cán bộ tín dụng cố tình định giá cao cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng và quy định của Ngân hàng về tỷ lệ vốn vay trên giá trị tài sản đảm bảo.
Khi tài sản đảm bảo thuộc quyền sở hữu của bên bảo lãnh nhưng thiếu biên bản đồng thuận của các thành viên có liên quan; việc thế chấp tài sản đảm bảo không thực hiện việc đăng ký giao dịch đảm bảo nên rất khó khăn trong việc xử lý nếu có tranh chấp xảy ra.
Tài sản đảm bảo không xử lý được do có mãi lực quá thấp, thị trường không có nhu cầu. Thực tế đã xảy ra việc khách hàng sau khi sử dụng vốn, thay vì hoàn lại vốn cho Ngân hàng đã chấp nhận dùng tài sản đảm bảo là đất thổ cư tại nông thôn (ONT) để trừ nợ, do đó hiện Ngân hàng rất hạn chế trong việc chấp nhận tài sản đảm bảo là đất ONT, trừ khi đất có vị trí sát ngay trung tâm xã hoặc đường giao thông chính.
4.6.5 Một số trường hợp bảo lãnh của bên thứ 3 để vay vốn dẫn đến rủi ro tín dụng
Giả mạo hồ sơ để vay vốn Ngân hàng:
Do thủ tục đăng ký kinh doanh của Sở KH&ĐT ngày càng thông thoáng nên một số đối tượng lợi dụng để lập hồ sơ pháp nhân công ty vay vốn ngân hàng thông qua hình thức bảo lãnh của bên thứ ba. Khách hàng là đối tượng lừa đảo, đã tạo hồ sơ pháp nhân giả mạo, sổ kế toán giả, mượn cơ sở sản xuất kinh doanh của người khác để chứng minh nguồn thu nhập và mục đích sử dụng vốn... lợi dụng sự kém hiểu biết của bên bảo lãnh, kinh nghiệm còn non yếu của cán bộ tín dụng để dễ dàng qua mặt Ngân hàng. Điều này càng trở nên khó kiểm soát hơn nếu Ngân hàng cho vay thông qua trung gian.
Mượn tư cách pháp nhân để vay vốn Ngân hàng thông qua hình thức bảo lãnh:
Khách hàng có tài sản, có kinh doanh nhưng không minh bạch, hoặc không đủ cơ sở để chứng minh việc kinh doanh chẳng hạn như kinh doanh nhà đất với quy mô lớn, cho vay nặng lãi, tham gia hùn vốn trong các phi vụ làm ăn mờ ám, trốn thuế, lách luật... đối tượng khách hàng thuê mướn pháp nhân để vay vốn, sau đó người bảo lãnh sử dụng tiền vay và làm giấy nhận nợ với bên cho mướn pháp nhân. Còn đối tượng khách hàng sau khi lấy tiền thì trốn tránh trách nhiệm trả nợ.
Hùn hạp làm ăn thông qua bảo lãnh vay vốn, sau đó bỏ trốn:
Một nhóm người không có vốn hoặc ít vốn nhưng hùn nhau thành lập công ty, sau đó đánh bóng hình ảnh bằng cách khuếch trương thanh thế làm ăn, làm quen với cán bộ có thẩm quyền ở địa phương, thuê mướn mặt bằng khang trang, mướn xe hơi đi lại... Sau đó mời mọc kêu gọi những người có tài sản hùn vốn làm ăn bằng cách đưa tài sản bảo lãnh cho công ty vay vốn. Như vậy họ có thể đẩy trách nhiệm trả nợ sang người khác.
Thông qua hình thức bảo lãnh để trả nợ:
Một số người mắc nợ bên ngoài với lãi suất cao và không có nguồn để trả. Họ đưa tài sản bảo lãnh vay vốn Ngân hàng để trả nợ. Bằng cách này họ đã chuyển nợ cho Ngân hàng với lãi suất thấp hơn và kéo dài thời gian trả nợ.
Bên bảo lãnh và bên đi vay là bị hại do chiếm dụng vốn hoặc lừa đảo của bên thứ 3:
Trong thực tế có một số người làm ăn lương thiện nhưng thiếu vốn kinh doanh nhất thời. Lợi dụng điều đó, một số đối tượng thông qua quan hệ quen biết, thân tình thuyết phục bà con, bạn bè đưa tài sản bảo lãnh cho công ty vay vốn. Qua đó đối tượng này sẽ vay ké hoặc mượn tạm ít tiền đã vay của Ngân hàng, sau đó lẩn tránh trách nhiệm hoặc bỏ trốn.
CHƯƠNG 5: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG
Cấp tín dụng là nghiệp vụ quan trọng hàng đầu trong hoạt động của một Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng sẽ giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền trong một thời gian nhất định với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Khi Ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng, cũng tức là vì lý do nào đó khách hàng không thể trả nợ cho Ngân hàng đúng cam kết, phát sinh NQH, sẽ gây tác động xấu đến hoạt động cho vay, ảnh hưởng đến hoạt động chung và sự phát triển của Ngân hàng. Do đó để hạn chế rủi ro tín dụng, Ngân hàng sẽ vận dụng các biện pháp để hạn chế NQH, nâng cao chất lượng tín dụng, ổn định hoạt động.
5.1 Vận dụng hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng
5.1.1 Khái niệm
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng là hệ thống đánh giá khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng và ước lượng mức độ rủi ro trong cấp phát tín dụng.
5.1.2 Mục đích của hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng được xây dựng nhằm mục đích:
Dự đoán trên cơ sở định lượng và khách quan về rủi ro trong cấp phát tín dụng.
Là công cụ quan trọng trong ra quyết định cho vay, giúp cho công tác quản lý và kiểm soát tín dụng phát hiện kịp thời những dấu hiệu xấu về chất lượng khoản vay để có những biện pháp xử lý.
Cho phép liên tục rà soát và đánh giá tiêu chuẩn cho vay.
Giúp các cấp quản lý, điều hành dễ dàng theo dõi, điều chỉnh sách lược cho vay.
Công tác thẩm định, quyết định cho vay được thực hiện tự động hóa, rút ngắn thời gian cho vay và thống nhất cấp phát tín dụng trong toàn hệ thống, qua dó góp phần tăng doanh thu, tiết giảm chi phí.
Định lãi suất cho vay phù hợp với mức lỗ dự kiến trong cấp phát tín dụng.
Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng còn nhằm mục đích:
Phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới khách hàng có ít rủi ro hơn.
Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.
Quản lý tăng trưởng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế của Ngân hàng và nhu cầu của khách hàng.
5.1.3 Nguyên tắc xây dựng
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng được xây dựng trên các nguyên tắc:
Thông tin của khách hàng phải đầy đủ và đáng tin cậy.
Trong trường hợp có bảo lãnh toàn phần (lớn hơn hoặc bằng 100% giá trị khoản tín dụng) của một tổ chức (cá nhân) có năng lực tài chính mạnh hơn, thì khách hàng đó có thể được chấm điểm (xếp hạng) tín dụng tương đương điểm (hạng) tín dụng của bên bảo lãnh. Quy trình chấm điểm tín dụng của bên bảo lãnh cũng giống như quy trình áp dụng cho khách hàng. Trường hợp bảo lãnh một phần thì chỉ tiến hành chấm điểm và xếp hạng tín dụng cho chính khách hàng.
Việc đánh giá xếp hạng khách hàng được căn cứ vào số điểm của từng tiêu chí, trọng số của tiêu chí, điểm của từng tiêu chí, trọng số của tiêu chí sẽ do Tổng giám đốc quy định trong từng thời kỳ trên cơ sở tham mưu của Phòng Chính sách và pháp chế.
Đối với mỗi nhóm khách hàng, Ngân hàng sử dụng các bảng tiêu chí khác nhau để chấm điểm và xếp hạng.
Nguyên tắc cho điểm là chỉ số thực tế nào gần với đặc điểm trong tiêu chí nhất thì áp dụng cho tiêu chí đó, nếu nằm giữa 2 đặc điểm trong tiêu chí thì ưu tiên nghiêng về phía có đặc điểm tốt nhất.
Mỗi tiêu chí và các chỉ số tài chính chuẩn có một trọng số nhất định, thể hiện mức độ ảnh hưởng đến khả năng xảy ra rủi ro cho Ngân hàng.
5.1.4 Phân nhóm khách hàng và các chỉ tiêu đánh giá
Do tính chất khác nhau giữa các khách hàng, để chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng được chính xác, khoa học, Ngân hàng phân chia khách hàng thành 3 nhóm:
Nhóm khách hàng là doanh nghiệp.
Các tiêu chí định tính:
Thể hiện khả năng quản lý: số năm hoạt động, chất lượng công việc các phòng ban, độ tin cậy báo cáo tài chính...
Nhóm tiêu chí sản phẩm – thị trường: chiến lược kinh doanh, thị trường tiêu thụ, sức hấp dẫn của thị trường.
Nhóm tiêu chí phạt: phụ thuộc người bán, người mua, tồn lương nhân viên, tồn thuế Nhà Nước.
Các tiêu chí định lượng
Căn cứ trên báo cáo tài chính.
Nhóm khả năng thanh toán.
Nhóm tình hình nguồn vốn.
Nhóm tình hình hoạt động.
Nhóm khách hàng là cá nhân vay mục đích tiêu dùng.
Đặc điểm cá nhân: tuổi, trình độ, nơi ở...
Đặc điểm công việc.
Đặc điểm vay vốn.
Nhóm khách hàng là cá nhân vay mục đích sản xuất kinh doanh.
Đặc điểm cá nhân: tuổi, tình trạng hôn nhân, nơi ở, số người ăn theo...
Đặc điểm kinh doanh: lĩnh vực, tổng tài sản, nhân công...
Đặc điểm vay vốn: thời gian quan hệ với Ngân hàng, mục đích vay.
5.1.5 Ứng dụng kết quả chấm điểm tín dụng trong việc ra quyết định tín dụng
Xếp hạng khách hàng:
Sau khi chấm điểm tín dụng, Ngân hàng tiến hành xếp hạng khách hàng theo quy định. Trong quá trình xem xét cấp tín dụng cho khách hàng, những người có trách nhiệm xác minh, thẩm định và phán quyết cho vay phải xem kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng như là căn cứ quan trọng để quyết định tín dụng.
Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro:
Dựa vào kết quả xếp hạng kết hợp với khả năng trả nợ của khách hàng, Ngân hàng tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro cho từng khoản vay và toàn bộ danh mục cho vay của Ngân hàng.
Xác định khoản lỗ dự kiến (EL):
Căn cứ vào kết quả xếp hạng khách hàng, Ngân hàng tiến hành xác định xác suất vỡ nợ (PD) của khách hàng. Xác suất vỡ nợ, tỷ lệ lỗ khi thanh lý tài sản (LGD) và dư nợ tại thời điểm vỡ nợ (EAD) là các chỉ số cần thiết nhằm xác định lỗ dự kiến (EL), và được tính toán qua công thức:
EL = EAD * PD * LGD
Khoản lỗ dự kiến (EL) là một cơ sở xác định mức độ rủi ro của khoản vay và là một yếu tố cộng thêm vào giá thành sản phẩm. Chi nhánh căn cứ vào khoản lỗ dự kiến của khách hàng để xác định lãi suất cho vay phù hợp.
Quản lý danh mục cho vay và phát triển khách hàng:
Trên cơ sở xếp hạng khách hàng, các bộ phận nghiệp vụ có liên quan tiến hành thiết lập hệ thống quản lý danh mục cho vay và thực hiện công tác kiểm tra, giám sát sau khi cấp tín dụng.
Công tác tăng trưởng tín dụng và phát triển khách hàng phải căn cứ vào kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng để xây dựng kế hoạch tăng, giảm dư nợ, mở rộng khách hàng cho phù hợp với quy mô phát triển, khẩu vị rủi ro của từng Chi nhánh và toàn hệ thống trên nền tảng ổn định, an toàn và hiệu quả.
Bảng xếp hạng khách hàng theo mức độ rủi ro:
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp:
Hạng
Mức độ rủi ro
Cấp tín dụng
Giám sát sau khi cho vay
1
Thấp nhất
Uư tiên đáp ứng tối đa nhu cầu tín dụng với mức uư đãi về lãi suất, phí, thời hạn và biện pháp đảm bảo tiền vay (có thể cho vay tín chấp)
Kiểm tra khách hàng định kỳ nhằm cập nhật thông tin và tăng cường mối quan hệ với khách hàng
2
Thấp nhưng về dài hạn cao hơn khách hàng hạng 1
Uư tiên đáp ứng tối đa nhu cầu tín dụng với mức uư đãi về lãi suất, phí, thời hạn và biện pháp đảm bảo tiền vay
Kiểm tra khách hàng định kỳ nhằm cập nhật thông tin và tăng cường mối quan hệ với khách hàng
3
Thấp
Uư tiên đáp ứng nhu cầu tín dụng, đặc biệt là các khoản tín dụng từ trung hạn trở xuống
Kiểm tra khách hàng định kỳ nhằm cập nhật thông tin
4
Khá
Có thể mở rộng tín dụng, đánh giá kỹ về chu kỳ kinh tế và tính hiệu quả khi cho vay dài hạn
Kiểm tra khách hàng định kỳ nhằm cập nhật thông tin
5
Trung bình
Tập trung vào các khoản tín dụng ngắn hạn với các biện pháp bảo đảm tiền vay hiệu quả, đánh giá kỹ về chu kỳ kinh tế, tính hiệu quả và khả năng trả nợ
Kiểm tra khách hàng định kỳ nhằm cập nhật thông tin
6
Dưới trung bình
Tập trung vào các khoản tín dụng ngắn hạn với các biện pháp bảo đảm tiền vay hiệu quả, đánh giá kỹ về chu kỳ kinh tế, tính hiệu quả và khả năng trả nợ
Chú trọng kiểm tra việc sử dụng vốn, tình hình tài sản đảm bảo
7
Cao
Hạn chế mở rộng tín dụng
Tăng cường kiểm tra khách hàng để thu hồi nợ và giám sát hoạt động
8
Cao
Hạn chế mở rộng tín dụng, tập trung thu hồi nợ
Tăng cường kiểm tra khách hàng, tìm cách bổ sung tài sản đảm bảo
9
Rất cao
Không mở rộng tín dụng, tìm mọi biện pháp để thu hồi nợ, kể cả việc xử lý sớm tài sản đảm bảo
Tăng cường kiểm tra khách hàng, xem xét phương án phải đưa ra toà
10
Đặc biệt cao
Không mở rộng tín dụng, tìm mọi biện pháp để thu hồi nợ, kể cả việc xử lý sớm tài sản đảm bảo
Xem xét phương án phải đưa ra toà
- Đối với khách hàng là cá nhân:
Hạng
Mức độ rủi ro
Cấp tín dụng
Giám sát sau khi cho vay
A
Thấp nhất
Đáp ứng tối đa nhu cầu tín dụng
Kiểm tra khách hàng định kỳ nhằm cập nhật thông tin và tăng cường mối quan hệ với khách hàng
B
Thấp
Cấp tín dụng với hạn mức tuỳ thuộc vào phương án đảm bảo tiền vay
Kiểm tra khách hàng định kỳ nhằm cập nhật thông tin
C
Trung bình
Có thể cấp tín dụng nhưng phải xem xét kỹ lưỡng hiệu quả phương án vay vốn và tài sản đảm bảo tiền vay
Kiểm tra khách hàng định kỳ nhằm cập nhật thông tin
D
Dưới trung bình
Cấp tín dụng hạn chế, thường xuyên kiểm tra, giám sát vốn vay
Chú trọng kiểm tra việc sử dụng vốn, tình hình tài sản đảm bảo
E
Cao
Không khuyến khích mở rộng tín dụng mà tập trung thu nợ
Tăng cường kiểm tra khách hàng, tìm cách bổ sung tài sản đảm bảo
<E
Từ chối cấp tín dụng
5.2 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng (CBTD)
Mỗi CBTD là cầu nối liên kết giữa Ngân hàng với khách hàng, là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng ngay từ khi tiếp nhận, thẩm định hồ sơ đến lúc theo dõi việc sử dụng vốn, nhắc nhở, đôn đốc và thu nợ. Bên cạnh ý thức chấp hành tốt các quy định, trung thực trong việc lập tờ trình, đề xuất cho vay thì kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức tổng quát trong kinh doanh là rất quan trọng bởi CBTD là người nắm rõ nhất về tình trạng của khách hàng, là người trực tiếp quyết định các khoản cho vay.
Đội ngũ CBTD phải luôn tự mình cập nhật thông tin, bổ sung kiến thức, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp... để tự hoàn thiện năng lực của mình. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động mang tính chất đào tạo, có hình thức khen thưởng và xử lý phù hợp.
Về hình thức đào tạo: thông qua các hình thức tập trung, tại chức… hoặc hội thảo, tập huấn, thi tay nghề… nhằm qua đó nâng cao tay nghề, bản lĩnh, kinh nghiệm trong từng công tác cụ thể của họ, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro ở mỗi lĩnh vực.
Về nội dung đào tạo:
• Nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ Ngân hàng.
• Nâng cao khả năng sử dụng tin học để quản lý hồ sơ, nhất là hồ sơ tín dụng, việc làm này có ý nghĩa thiết thực, giúp cho Ngân hàng quản lý và truy cập số liệu nhanh chóng.
• Nâng cao kiến thức hiểu biết về pháp luật, đặt biệt là phải có kiến thức tối thiểu về các luật có liên quan đến hoạt động của Ngân hàng như: Luật các tổ chức tín dụng, luật đất đai, luật doanh nghiệp, luật dân sự… nhằm giúp cho từng cán bộ tín dụng trong quá trình tác nghiệp không có sai phạm khách quan mang tính chất vi phạm pháp luật.
• Nâng cao kiến thức tổng quát về các ngành nghề kinh tế kỹ thuật. Những kiến thức này có ý nghĩa kinh tế rất quan trọng đối với từng cán bộ tín dụng, nó ảnh hưởng đến việc quyết định cho vay, nhất là trong cho vay SXKD. Việc nắm vững các đặc tính kỹ thuật, tập quán trong kinh doanh... sẽ giúp cho cán bộ tín dụng quyết định khối lượng tín dụng nên đầu tư là bao nhiêu, thời hạn đầu tư bao lâu được dễ dàng chính xác hơn.
• Nâng cao năng lực tiếp xúc với khách hàng.
Ngoài ra, Ngân hàng cần phải củng cố và tăng cường mối quan hệ tốt đẹp với các cấp chính quyền, nhất là hệ thống chính quyền cơ sở bởi vì chính những người này là nguồn cung cấp thông tin chính về khách hàng. Thực tế trong thời gian qua, những người này rất năng nổ nhiệt tình giúp cán bộ tín dụng trong khâu thẩm tra, thẩm định. Cán bộ tín dụng rất khó hoàn thành hết công việc và trở nên quá tải nếu như không có sự giúp đỡ của lực lượng này.
5.3 Công tác thẩm định tín dụng trước khi cho vay
Đây là công tác then chốt trong việc ra quyết định cấp tín dụng đối với từng khoản vay khác nhau, quá trình thẩm định tín dụng càng được tiến hành kỹ lưỡng và chặt chẽ thì nguy cơ phát sinh NQH, dẫn đến việc Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng sẽ càng được giảm thiểu. Để có thể hạn chế được những rủi ro tiềm ẩn trong việc cấp tín dụng mà cụ thể hơn là việc phát sinh NQH thì mỗi CBTD khi tiến hành xem xét một hồ sơ vay thông thường nên chú ý vào các vấn đề như:
Giá trị và hiện trạng của tài sản đảm bảo (TSĐB):
CBTD nên thực hiện việc đánh giá tài sản, nhất là bất động sản theo sát khung giá do Sở Tài Chính công bố, bên cạnh cũng có thể tham khảo tình hình giá cả thực tế trên thị trường tuy nhiên nguồn thông tin không nên được khai thác từ chính địa bàn có TSĐB để tránh tình trạng tự nâng giá đồng loạt. Mặt khác CBTD cũng nên thận trọng trong việc xác định thực trạng sử dụng của TSĐB tránh xảy ra tranh chấp về sau, nhất là tại các vùng nông thôn, khi mà việc mua bán đất ruộng vẫn còn được thực hiện qua hình thức viết giấy tay, lúc này CBTD phải trực tiếp tìm thông tin xung quanh nơi cư trú và nơi có tài TSĐB của khách hàng.
Tình hình kinh doanh và nguồn thu nhập trả nợ của khách hàng:
Việc xác định quy mô, thực tế kinh doanh của khách hàng phải được thực hiện ngay tại nơi sản xuất kinh doanh để có thể xem xét chính xác tính khả thi trong phương án của khách hàng, hạn chế được tình trạng khách hàng đang kinh doanh không hiệu quả hoặc đã ngưng trệ, nguồn vốn vay chủ yếu được dùng để trả nợ bên ngoài. Đối với những phương án mang tính chất đầu tư mới hoàn toàn, CBTD phải linh hoạt trong việc xem xét khả năng thực hiện của khách hàng và việc kinh doanh thực tế của những đơn vị cùng ngành có quy mô tương ứng.
Riêng việc xác định hiệu quả kinh doanh, thu nhập để trả nợ sẽ giúp cho việc chọn lựa cách thức, thời hạn trả nợ được phù hợp, hình thức vốn và lãi được trả đều khi mà chủ thể đi vay có nguồn thu ổn định, liên tục, và hình thức dư nợ giảm dần khi sản xuất mang tính mùa vụ, thu nhập tăng giảm theo chu kỳ.
Đối với cho vay CBCNV, loại hình chủ yếu xảy ra NQH tại Chi nhánh, khi thực hiện thủ tục cho vay, các đơn vị liên kết đều phải cam kết thực hiện trích lương cán bộ nhân viên để trả cho Ngân hàng thông qua Kho Bạc, tiến tới chấm dứt tình trạng cán bộ nhân viên tự nhận lương sau đó mới nộp lại cho Ngân hàng hoặc CBTD phải đến tận đơn vị để thu. Cách thức này sẽ hạn chế được việc cán bộ nhân viên thiếu ý thức trong việc trả nợ Ngân hàng, gia tăng NQH, tăng rủi ro tín dụng cho Ngân hàng.
5.4 Theo dõi, giám sát khoản vay
Việc theo dõi, giám sát khoản vay sẽ giúp cho Ngân hàng phát hiện kịp thời những biến cố phát sinh trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, kịp thời đề xuất hướng giải quyết thích hợp.
Công tác giám sát sử dụng vốn được thực hiện ngay từ khi khách hàng đã nhận được vốn, CBTD sẽ xác định xem mục đích sử dụng vốn có đúng với thỏa thuận ban đầu hay không. CBTD nên thường xuyên đến tận nơi ở hoặc nơi kinh doanh của khách hàng để xác định lại những thông tin như: tiến trình thực hiện dự án, nguồn thu nhập, thực trạng TSĐB… và được lập thành văn bản để thuận tiện hơn trong việc quản lý tín dụng. Hiện tại ở Chi nhánh định kỳ mỗi tháng đều phải có lập báo cáo kiểm tra sau cho vay, và được chia thành 2 loại là cho vay sản xuất kinh doanh và cho vay phục vụ đời sống.
5.5 Một số biện pháp hạn chế NQH
Tổ chức khảo sát, phân tích đánh giá lại địa bàn cho vay, từ đó xác định địa bàn nào tiếp tục đầu tư để phát triển dư nợ, địa bàn nào hạn chế cho vay, địa bàn nào NQH phát sinh cao và tiềm ẩn, chứa đựng nhiều rủi ro thì ngưng ngay việc cho vay và cử CBTD chuyên trách xử lý thu hồi NQH.
Củng cố lại hoạt động tín dụng và dần nâng cao chất lượng tín dụng, cơ cấu dư nợ theo hướng hạn chế tối đa việc cho vay sản xuất nông nghiệp ở các địa bàn vùng sâu xa, nhiều rủi ro, phân tán rộng, đi lại khó khăn và khó quản lý, NQH cao, diện tích sản xuất nhỏ hơn 1 ha, đẩy mạnh dư nợ ở những địa bàn trọng điểm, trung tâm thành thị, tập trung cho vay các đối tượng sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa, phục vụ đời sống.
CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
Tuy chỉ mới thành lập và đi vào hoạt động một thời gian rất ngắn, thế nhưng hoạt động tín dụng tại Sacombank An Giang đã có bước tăng trưởng rất đáng kể cả về lượng và về chất. Tổng dư nợ tăng liên tục với tốc độ tương đối cao, DSCV và DSTN tuy có sự biến động nhưng nhìn chung vẫn có sự tăng trưởng cao cả trong hình thức cho vay ngắn hạn lẫn trung – dài hạn, trong đó đáng kể nhất phải nói đến tình hình NQH đã được giảm xuống còn rất thấp, đây là một nỗ lực rất đáng tự hào thể hiện chất lượng tín dụng ở mức cao. Bên cạnh đó cũng phải kể dến một số mặt còn hạn chế như tỷ lệ thu nợ chỉ đạt mức khá và vẫn có sự biến động, tổng DN trên tổng tài sản có của ngân hàng ở mức cao đồng nghĩa với rủi ro ngân hàng có thể gặp phải là tương đối lớn
Để có thể đạt được những mục tiêu đặt ra trong năm 2007 và cả trong thời gian sau, Sacombank An Giang vẫn cần phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng, từ khâu thẩm định đến quản lý và thu hồi nợ, xử lý NQH... thu hút thêm tiền gửi, cân đối tỷ trọng các loại tài sản... có như vậy sẽ có thể hạn chế được những rủi ro, nâng chất trong việc cấp tín dụng, tạo điều kiện để Sacombank An Giang tiến tới trở thành một ngân hàng bán lẽ đa năng - hiện đại trong vùng.
Trong khoản thời gian sắp tới, sẽ có thêm nhiều Ngân hàng nữa bắt đầu hoạt động tại địa bàn tỉnh An Giang, do đó ngoài những việc đang thực hiện thì tôi kiến nghị Sacombank An Giang nên thực hiện thêm một số công việc để hoạt động của Ngân hàng ngày càng hiệu quả, công tác tín dụng ngày càng được lành mạnh.
Tại Sacombank An Giang tỷ lệ rủi ro tín dụng hiện ở mức cao, Ngân hàng có thể gặp khó khăn nếu đồng thời có nhiều yêu cầu được cấp tín dụng hoặc rút tiền từ phía khách hàng. Ngân hàng có thể phòng ngừa được tình huống này với biện pháp chủ yếu là tăng lượng ngân quỹ và điều chỉnh tỷ lệ trong cấu trúc tài sản có của Ngân hàng, tăng thêm đầu tư vào các chứng khoán vốn mang tính thanh khoản nhưng có độ rủi ro thấp hơn. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng có thể tăng vốn huy động bằng nhiều hình thức như khuyến mãi, linh động lãi suất... để cùng với việc tăng vốn tự có sẽ giúp Ngân hàng chủ động hơn trong việc thanh toán hay cấp tín dụng.
Ngân hàng có thể bố trí CBTD tiếp nhận hồ sơ, quản lý địa bàn vay theo địa bàn sinh sống của mình, có như vậy việc thẩm tra trước cho vay và kiểm tra sử dụng vốn đều được thực hiện thuận lợi và chính xác hơn. Tuy nhiên mỗi CBTD phải tự ý thức được công việc của mình, nếu gặp phải hồ sơ những người khá thân quen thì nên chuyển cho CBTD khác để bảo đảm được tính khách quan trong quá trình cho vay.
Định kỳ hàng tuần hàng tháng nên triệu tập cuộc họp tất cả nhân viên tín dụng và các bộ phận có liên quan để phân tích đánh giá tiến độ thực hiện và kết quả đạt được của tháng trước, nêu lên những việc chưa làm được, những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện và biện pháp tháo gỡ, giao chỉ tiêu nhiệm vụ kế hoạch và công việc một cách chi tiết cho từng nhân viên tín dụng, phải có báo cáo cụ thể tiến độ thực hiện và hiệu quả đạt được của từng công việc đã giao theo ngày, tuần và tháng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT27.doc