Như ta đã biết, nội dung cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới kỹ thuật và công nghệ, phát triển mạnh mẽ các ngành có hàm lượng khoa học hiện đại nhằm mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế cao lâu bền. Tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và tăng trưởng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng dựa trên khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại có mối quan hệ hữu cơ với nhau mà khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại là nền tảng của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
Trên đây là phân tích tác động của phát triển công nghệ đến chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Nội dung của cơ cấu công nghiệp phải khai thác một cách đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực, lợi thế của đất nước, đảm bảo công nghiệp có thể phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó thúc đẩy hơn nữa vai trò của khoa học công nghệ đối với chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp nhằm tạo cho VN một nền kinh tế mạnh một hướng đi đúng đắn. Công nghiệp như: “Đầu tầu” kéo “ đoàn tàu kinh tế ”đi theo hướng “đường ray” đã định và “ tăng tốc”.
25 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 962 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tác động của phát triển công nghệ tới chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp.
1.1 Cơ cấu ngành công nghiệp.
Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là tổng hợp các ngành công nghiệp hợp thành hệ thống công nghiệp và mối quan hệ tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ sản xuất giữa các ngành đó.
Các ngành công nghiệp hợp thành hệ thống công nghiệp được phân loại theo nhiều phương pháp khác nhau. Có thể phân loại thành các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất (công nghiệp nhóm A - CNA) và các ngành công nghiệp sản xuất vật phẩm tiêu dùng (công nghiệp nhóm B - CNB) . Hoặc phân loại thành nhóm các ngành công nghiệp khai thác và các ngành công nghiệp chế biến. Hoặc phân loại thành các ngành công nghiệp chuyên môn hóa. Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp bao gồm các loại hình tương ứng với các phương pháp phân loại nói trên. Trong các loại hình cơ cấu nói trên, cơ cấu nghành công nghiệp chuyên môn hóa có ý nghĩa quan trọng hơn cả. Mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong tổng thể công nghiệp được lượng hóa bằng tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng sản phẩm công nghiệp hay tổng số lao động, tổng thu nhập quốc dân do công nghiệp tạo ra.
Cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp không phải là cố định mà nó thay đổi theo từng thời kỳ. Sự biến đổi này phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu sau đây: nhu cầu của thị trường xã hội, tài nguyên thiên nhiên, tiến bộ khoa học - kỹ thuật, sự phát triển kinh tế đối ngoại, điều kiện lịch sử của sự phát triển công nghiệp...
Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự biến đổi về lượng và chất.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp phải dựa trên cơ sở hiện có. Bởi vậy, nội dung của việc chuyển dịch là cải tạo cái cũ, lạc hậu, xây dựng cái mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cái mới đang phát triển và hiện đại.
1.2 Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp.
Cơ cấu ngành công nghiệp là số lượng các bộ phận hợp thành công nghiệp và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy
Việc xác định số lượng các bộ phận hợp thành hệ thống công nghiệp hoàn toàn tuỳ thuộc vào các cách phân loại công nghiệp. Có bao nhiêu cách phân loại công nghiệp thì có bấy nhiêu cách xác định các bộ phận hợp thành hệ thống công nghiệp. Số lượng các bộ phận hợp thành công nghiệp, một mặt phản ánh trình độ phát triển phân công lao động xã hội, trình độ phát triển chung của công nghiệp, mặt khác phụ thuộc vào công tác quản lý công nghiệp. Điều đó có nghĩa là việc xác định các bộ phận hợp thành công nghiệp vừa phụ thuộc vào nhân tố khách quan vừa phụ thuộc vào nhân tố chủ quan
Mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận hợp thành công nghiệp phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và kỹ thuật giữa các bộ phận trong một hệ thống thống nhất. Về mặt lượng nó được xác định bằng tỷ trọng giá trị sản lượng (hoặc GDP) của từng bộ phận chiếm trong tổng giá trị sản lượng của toàn bộ công nghiệp. Tỷ trọng này phụthuộc vào vị trí của mỗi bộ phận trong hệ thống, những ngành then chốt, mũi nhọn thường chiếm tỷ trọng lớn vì chúng luôn được ưu tiên về đầu tư phát triển, những ngành công nghiệp mới lúc đầu thường chiếm tỷ trọng nhỏ, tỷ trọng này dần dần tăng lên cùng với sự trưởng thành của chúng. Để kiểm nghiệm và hoạch định cơ cấu công nghiệp có đảm bảo yêu cầu dành sự ưu tiên thoả đáng cho các ngành trọng điểm hay không, người ta có thể xác định hệ số vượt
Kvi =Vi/ Vcn
Trong đó Vki: hệ số vượt của bộ phận i
Vi : Tốc độ phát triển của bộ phận i
Vcn: Tốc độ phát triển chung của công nghiệp
Các ngành công nghiệp mũi nhọn thường có Kvi > 1 nghĩa là tốc độ phát triển của chúng phải lớn hơn tốc độ phát triển bình quân của công nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu ngành là sự thay đổi trạng thái, cấu trúc về ngành của công nghiệp theo trạng thái thời gian. Sự thay đổi trạng thái của công nghiệp được biểu hiện trên hai mặt cơ bản. Một là thay đổi số lượng các bộ phận hợp thành công nghiệp. Sự thay đổi này tất yếu kéo theo sự thay đổi tỷ trọng từng bộ phận trong toàn bộ công nghiệp. Hai là số lượng các bộ phận hợp thành không đổi, nhưng tỷ trọng của các bộ phận thay đổi do hệ số vượt của chúng khác nhau. Nhu cầu về sản phẩm cuối cùng ngày càng tăng, tiến bộ khoa học công nghệ, nguồn tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt một cách tương đối, do đó mà ngành khai thác ngày càng giảm so với ngành chế biến.
Ngành công nghiệp chế biến và chế tạo đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp, là những ngành taọ cơ sở cho việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu sản phẩm mà trong nước có tiềm năng.
2. Tác động của công nghệ tới chuyển dịch ngành công nghiệp
2.1 Phát trển công nghệ thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội:
Phát trển công nghệ thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội. ở mỗi trình độ công nghệ có những hình thức và mức độ phân công lao động thích ứng. Đồng thời, sự phân công lao đông xã hội hợp lý lại là môi trường thuận lợi thúc đẩy tiến độ khoa học công nghệ phát triển. Phân công lại lao động là tác nhân trực tiếp của sự hình thành công nghiêp và sự phân hóa nội bộ công nghiệp thành những phân hệ khác nhau. Bởi vậy, trình độ phát triển công nghiệp càng cao, phân công lao động xã hội càng sâu sắc, sự phân hóa công nghiệp diễn ra càng mạnh và cơ cấu công nghiệp diễn ra càng phức tạp.
Trong giai đoạn đầu của sự phát triển công nghiệp, công nghệ ở trìng độ chưa quá phức tạp, nguồn vốn tương đối eo hẹp, nguồn lao động dồi dào thì việc phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động là chủ yếu. Ngành công nghiệp trong giai đoạn này là giai đoạn tích lũy tri thức và kinh nghiệm cần thiết để tiến tới nấc thang công nghệ kĩ thuật cao hơn trong tiến trình công nghiệp hóa. Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn phát triển về tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ. công nghệ được áp dụng vào trong giai đoạn sản xuất giảm bớt lao động thủ công, tăng lao động chất xám lên, dẫn tới sự phân hóa lao động trong các ngành và trong nội bộ ngành. tiếp theo, phân công lao động làm hình thành công nghiệp và phân hóa nội bộ ngành, khi tách các phần của quá trình công nghệ, kĩ thuật nhiều lên, đòi hỏi sự chuyên sâu ngày càng cao, xuất hiện các ngành riêng tách ra từ ngành ban đầu tạo thành hệ độc lập so vối ngành cũ.
2.2 Phát triển công nghệ phát triển thúc đẩy các ngành:
Việc thực hiện nội dung của tiến bộ khoa học - công nghệ trong tất các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đòi hỏi phải phát triển mạnh một số ngành công ngiệp. nói cách khác, sự phát triển một số ngành công nghiệp then chốt trọng điểm là điều kiện vật chất thiết yếu để thực hiện manh mẽ và có hiệu quả các nội dung của tiến bộ khoa học - công nghệ. Chẳng hạn việc thực hiện điện khí hóa phụ thuộc trực tiếp vao sự phát triển ngành công nghiệp điện và màng lưới điện và mạng lưới truyền tải điện.
Phát triển ngành trọng điểm vì ngành có vai trò, vị trí quan trọng với nền kinh tế quốc dân, có khả năng và lợi thế phát triển có hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao, đáp ứng nhu cầu của ngành, trong nước, xuất khẩu có khả năng phát triển hiện tại và lâu dài. Đó là ngành tạo ra nhiều khả năng phát triển công nghệ, đưa công nghệ vào thực tiễn, tạo cơ sở để xây dựng các ngành khác.
Bên cạnh các ngành trọng điểm là các ngành mũi nhọn, đó là các ngành đại diện cho tiến bộ khoa hoc - công nghệ.
Ngày nay trong sự phát triển, các ngành luôn có mối quan hệ với nhau, việc phát triển ngành trong điểm làm cho các ngành có liên quan tới cũng phát triển kéo theo, tạo ra mối quan hệ càng ngày càng chặt chẽ do sự chuyên môn hóa ngày càng cao.
Tiến bộ khoa hoc - công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh nhịp dộ phát triển một số ngành, làm tăng tỉ trọng cuẩ chúng trong cơ cấu công nghiệp mà còn tạo ra nhu cầu mới. Chính những nhu cầu mới này đòi hỏi sự ra đời và phát triển mạnh một số ngành. Những ngành này được coi là đại diện của công nghệ tiên tiến, tuy là ngành non trẻ nhưng là sự khởi đầu của kỷ nguyên (hoặc thế hệ) công nghệ mới, nên có triển vọng phát triển công nghệ trong tương lai.
Tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lí, tiết kiệm nguyên liệu... Nhờ vậy sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng quy mô doanh nghiệp, phát triển một số ngành mới, quy mô ngành tăng lên và phát triển công nghệ, do đó cũng làm tăng tỷ trọng một số ngành trong cơ cấu công nghiệp.
Nhiều ngành có công nghệ mới xuất hiện, làm cho các ngành có liên quan đến công nghệ. Cũng xuất hiện theo và những ngành này là đại diện mới có triển vọng. Sự tác động này có tính hai chiều và với qui mô, chất lượng ngày càng cao, số lưọng vì thế cũng tăng lên. Ví dụ, nhờ có kiến thức của khoa học về chất bán dẫn xây dựng nên công nghiệp điện tử. Ngành công nghiệp điện tử, ngược trở lại cung cấp máy tính điện tử là một công cụ hết sức quan trọng để khoa học tiếp tục nghiên cứu và phát hiện ra các quy luật mới về cấu trúc của vật chất.
Trong điều kiện của tiến bộ khoa học – công nghệ ngày nay, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, sản xuất có mối liên hệ hữu cơ không tách rời và các nhu cầu mới không ngừng xuất hiện tạo nên một vòng tròn ngày càng lớn ra thể hiện cơ cấu ngành công nghiệp càng tăng lên. Điều này đã đã được C. Mác khẳng định “Công nghiệp hiện đại không bao giờ coi hình thức hiện có của quá trình sản xuất là hình thức cuối cùng. Vì vậy, cơ sở kỹ thuật của nó có tính chất cách mạng..”. (1)
Và tất nhiên cung, cầu chịu tác động của yếu tố khoa học – công nghệ, điêu này tác động đến mở rộng qui mô hay thu hẹp ngành cho phù hợp với thị trường.
2.3 Phát triển công nghệ hạn chế ảnh hưởng của tự nhiên, cho phép công nghiệp pháp triển ngay cả khi điều kiện tự nhiên không thuận lợi, các vật liệu mới đã xuất hiện vơi chủng loại, tính chất vô cùng phong phú, nhằm bổ sung thay thế cho vật liệu truyền thống, đáp ứng nhu cầu cao của kỹ thuật hiện đại mà vật liệu tự nhiên không thể đáp ứng được. Đó là các vật liệu có thể làm việc trong điều kiện cực đoan về nhiệt độ, áp suất ;là các chất bán dẫn mà thiếu chúng không thể nói đến máy tính điện tử như hiện nay ; là vật liệu siêu dẫn sẽ được sử rộng rãi, làm biến đổi tận gốc lĩnh vực phát điện, cấp điện, tin học, là vật liệu hỗn hợp (sợi các bon và sợi thủy tinh) ; là vật liệu gốm có thể thay thế cho kim loại. Động cơ làm vật liệu gốm vừa tiết kiệm năng lượng, vừa bền, có thể hoạt động trong nhiều năm không cần sửa chữa.
Do tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ, do yêu cầu khai thác, sử dụng hợp lí nguyên liệu và do sự hạn chế của nguồn năng lượng truyền thông mà cần đưa nguồn năng lượng mới - năng lượng sạch vào mục đích công nghệ.
Vì vậy mà các ngành công nghiệp chuyên môn hóa xuất hiện chủ yếu dựa vào nguyên liệu mới. đây là khối nghành mà sản phẩm của chúng có hàm lượng kĩ thuật - công nghệ cao nhưng sử dụng ít các dạng tài nguyên khác. Sự thịnh vượng của đất nước, khả năng phát triển bền vững của nó gắn chặt với và bị quyết định chủ yếu bởi sự phát triển của loại ngành hướng tới sự phát triển chủ yếu ưu thế về công nghệ cao.
2.4 Chính sách khoa học công nghệ ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành công nghệp, đây là cính sác tác động tực tiếp đến khoa học, công nghệ. Gắn khoa học công nghệ với sản xuất tăng đáng kể vốn đầu tư cho khoa học từ nhièu nguồn. Chính sách xác định các mục tiêu và các biện pháp nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở phát huy vai trò động lực và công cụ của tiến bộ khoa học công nghệ, thông qua hệ thống van bản, luật lệ, thể chế. Chính xác là cơ chế pháp lí, tạo môi trường và điều kiện, là khâu nối giữa mục tiêu phương hướng và kết quả đạt được.
Chính sách khoa học - công nghệ quy định lên việc hình thành và phát triển khoa học công nghệ của quốc gia và của doanh nghiệp; mua hay tự làm công nghệ, loại công nghệ mà quốc gia hay doanh nghiệp mua, nghiên cứu phù hợp với điều kiện phát triển hiện có, trong tương lai. Tiếp theo hình thành và phát triển năng lực công nghệ là nhân lực cơ chế quản lí, nghiên cứu thử nghiệm, triển khai công nghệ mới... Cơ cấu ngành thay đổi và phù hợp với chính sách.
Chính sách công nghệ, xác định được tốc độ, bước đi, phương hướng tiến hành và kết hợp các hướng phát triển, các yếu tố và các nguồn lực, biện pháp nhằm đạt được mục tiêu các nhiệm vụ phát triển đặt ra với nhiệm vụ kinh tế cao nhất. Việc thực hiện chính sách này chính là điều kiện vận dụng nhân tố tiến bộ khoa học – công nghệ vào việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu công nghiệp.
Phần ii: Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành công nghiệp và những thách thức lớn với
công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1. Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khác với các nước trong khu vực, việc hình thành cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở nước ta được bắt đầu bằng việc phát triển ngành công nghiệp có sự viện trợ của các nước XHCN. Trong quá trình phát triển, nhiều ngành công nghiệp gần như hoàn toàn phụ thuộc vào các nước đó về thiết bị công nghệ, nguyên liệu, nhiên liệu cho sản xuất, phụ tùng thay thế (chẳng hạn như sản xuất cơ khí, kéo sợi, dệt, in, nhuộm...) Do có sự thay đổi trong phân công lao động quốc tế và những nhu cầu cần thiết trong sự phát triển đất nước, nên thời kì sau đó đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp sang phát triển các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, tận dụng tài nguên của đất nước, sử dụng nhiều lao động và hướng về xuất khẩu, trong đó đáng chú ý là các ngành công nghiệp, công nghiệp lương thực, thực phẩm, công nghiệp dệt - da - may, công nghiệp hóa chất, tiêu dùng, công nghiệp sản xuất đồ dùng gia đình...
Ngành chế biến lương thực, thực phẩm. Trong thời kì từ năm 1989 - 1993, ngành này vẫn giữ được tỉ trọng 25 - 30% trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Nhưng trong những năm gần đây từ 1994 - 1998 giá trị sản lượng của ngành thực phẩm giảm từ 30, 7% xuống còn 26, 24% (1998) , còn ngành lương thực chiếm tỉ trọng thấp hơn, xu thế tỉ trọng của ngành này trong toàn bộ ngành công nghiệp giảm dần.
Ngành công nghiệp dệt - may, ngành này chiếm khoảng 12 - 15% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Trong thời gian qua tuy có gặp khó khăn về nguyên liệu, phụ tùng và thị trường tiêu thụ tình hình sản xuất có xu hướng giảm, song hiện nay bắt đầu hồi phục. Ngành may giảm dần với tốc độ đều, từ năm 1985 - 1998 là 14% tới 5, 16%. Ngành dệt năm 1985 là 2, 13% giá trị tổng sản lương công nghiệp năm 1998 là 3, 05% (theo giá cố định năm 1989) . Mặc dù còn bị phụ thuộc vào nguyên liệu nước ngoài song ngành này cũng có thế mạnh của nó. Hơn nữa nó còn là ngành có khả năng phát triển quan hệ gia công quốc tế, xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu tại chỗ.
Các ngành công nghiêp chủ yếu ở nước ta qua các thời kì phát triển ít có sự thay đổi. về cơ bản vẫn là các ngành chế biến lương thực nhưng ngành này có xu hướng hoạt động cầm chừng và giảm dần. ngoài ra còn có các ngành dệt, cơkhí, chế tạo. bên cạnh đó các ngành có xu hướng tăng lên về giá trị sản lượng hay xu hướng vươn lên thành ngành công nghiệp chủ yếu trong tưong lai. Đáng chú ý là ngành hoá chất, những năm gần đây đang có xu hướng chững lại và giảm dần do có khó khăn cề thị trường tiêu thụ, công nghệ và vốn đầu tư. Ngành công nghiệp trước đây là ngành còn chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng gía trị sản lương công nghiệp, và những năm gần đây nó là ngành quan trọng.
Ngành công nghiệp năng lượng (theo giá cố định 1998)
Ngành
công nghiệp
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Điện năng
Nhiên liệu
7, 47
11, 07
7, 12
13, 94
6, 41
16, 35
6, 28
16, 38
6, 37
16, 37
6, 95
16, 22
5, 99
13, 47
6, 22
13, 52
6, 18
13, 62
Ngành điện năng chiếm tỷ trọng giảm dần, nhưng về giá trị tuyệt đối thì nó tăng lên. Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp Việt Nam quá khứ cũng như hiện tại là một cơ cấu tương đối hỗn tạp, bao gồm nhiều mô hình, nhiều trình độ phát triển, nhiều ngành nghề thoả mãn nhiều yêu cầu khác nhau (nhu cầu cơ bản, xuất khẩu, khai thác tài nguyên, giải quyết việc làm...) đang hướng tới một cơ cấu có lựa chọn để phát triển. Sự lựa chọn bắt đầu từ nhưng năm 1980, đáng chu ý là năm 1986 trở laị đây. Biểu hiện rõ nét nhất là vị trí, tầm quan trọng của các ngành công nghiệp trong nền kinh tế không còn là ổn định lâu dài, mà biến đổi theo từng thời kì phát triển, lấy định hướng theo thị trường là chủ yếu.
Một xu hướng lành mạnh đáng quan tâm trong chuyển dich cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là xu hướng biến đổi cơ cấuvà phát triển các ngành công nghiệp dựa trên cơ sở ưu tiên phân bổ vốn đầu tư và ưu tiên các điũu kiện khác sang sử dụng các chính sách đòn bẩy, tăng cường lên doanh liên kết, cải tiến nội dung hoạt động của ngành và tăng cường quyền tự chủ, tự quản của các doanh nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn đầu cho sự phát triển.
Các ngành công nghiệp dựa trên cơ sở ưu tiên phân bổ vốn đầu tư thì khối ngành công nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên thuộc loai ngành sử dụng nhiều vốn. Song, còn những ngành khai thác sử dụng nhiều vốn nhưng sử dụng tương đối ít tài nguyên thiên nhiên hơn, thuộc loại ngành này là các ngành cơ khí, chế tạo lắp ráp máy công cụ, đóng tàu, chế tạo máy và lắp ráp ô tô, xe máy, sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp. Tình hình chuyển dich cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp phu thuộc vào khả năng tài chính và sức mua (biểu hiện ở thu nhập quốc dân tính theo đầu người) sự chuyển dịch ấy gắn liền với quá trình thay đổi lợi thế so sánh khi giá lao động cao và khai thác tài nguyên phát triển mạnh, khi công nghệ và trình độ lao động được nâng cao, các ngành có hàm lượng công nghệ và hàm lượng vốn cao sẽ phát triển mạnh.
Các ngành thuộc nhóm thứ nhất là các ngành nhẹ, các ngành thuộc nhóm thứ hai là các ngành nặng.
2. Thách thức lớn đối với công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
ã Thứ nhất, thách thưc bao trùm hiện nay là tỉ lệ tăng trưởng sản xuất công nghiệp đang trong chiều hướng giảm sút, nhất là công nghiệp nội địa, trong đó đặc biệt là công nghiệp địa phương và tiểu thủ công nghiệp.
ã Thách thức thứ hai là sức cạnh tranh của công nghiệp đang rất kém ngay trên thị trường nội địa và lợi thế so sánh cũng đang mất dần, thể hiện rõ nhất ở chất lượng sản phẩm kém giá thành cao, thậm chí rất cao. Đa số các ngành công nghiệp sống nhờ vào bảo hộ của nhà nước để cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên thị trường nội địa. Sai lầm lớn nhất là ở khâu lựa chọn cơ cấu đầu tư. Vấn đề cấp bách là phải cơ cấu đầu tư trong nội bộ công nghiệp theo hướng ưu tiên lựa cơ cấu đầu tư chiều sâu cho các sản phẩm còn có lợi thế cạnh tranh (công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp mà sản phẩm còn có thị trường có lợi thế canh tranh, công nghiệp nặng chỉ chọn các ngành có vai trò cấp bậc, có điều kiện tài nguyên, tìm nguồn vốn đầu tư và có hiệu quả kinh tế) .
ã Thách thức thứ ba là trình độ kĩ thuật và công nghệ của nhiều ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp địa phương còn lạc hậu trong khi vốn đầu tư quá thiếu thốn. chỉ có ít doanh nghiệp nhà nước trung ương huy động được vốn để đẩu tư theo chiều sâu con đa phần không có vốn nên khó có khả năng đổi mới nhanh công nhanh công nghệ và kĩ thuật để đáp ứng đỏi hỏi cạnh tranh trong thời gian tới.
ã Thách thức thứ tư là mâu thuẫn giữa công nghiệp nội địa và tăng cường sức cạnh tranh của nó. nếu không bảo hộ thì không nghiệp nội địa sẽ bị lụi bại vì canh tranh của hang ngoại. Chúng ta đã có những bài hoc đắt gía liên quan ngành chế tạo xe máy, quạt điện những năm 1990 - 1994 khi toàn bộ thị trường nội địa của chúng bị rơi vào tay nươc ngoài
ã Thách thức thứ năm là tình trạng tiền lương đã trở nên quá cao trong nhiều ngành công nghiệp trong khi năng xuát lao đong lại rất thấp làm cho các ngành ngày càng mất dần lơị thế so sánh nhờ lao đông rẻ tiền
ã Thách thức thứ sáu là cầu sản phẩm hiện nay rất thấp trong khi hiện nay công nghiệp cần mở rông thị trường để tiêu thụ sản phẩm. đến nay, nhu cầu mua sắm sản phẩm của bộ phận dan cư có tiền đã hầu như được thoả mãn, trong khi bộ phận dân cư khác, nhất là nông dân, lại có thu nhập cực kì thấp và sức mua có xu hướng đi xuống cùng với sự suy giảm của tỉ lệ suy giảm kinh tế
Phần iii: phân tích tác động của phát triển công nghệ tới chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp
Đổi mới công nghệ tác động đến nhiều mặt của ngành công nghiệp trong đó về mặt phân công lao động xã hội là tác nhân trực tiếp của sự hình thành công nghiệp và phân hóa nội bộ công nghiệp thành những phân hệ khác nhau hay nói cách khác cơ cấu ngành công nghiệp thay đổi. Phân công lao động xã hội cao làm cho cơ cấu lao động thay đổi tỷ trọng lao động trí tuệ lao động phức tạp cao hơn so với tỷ trọng của lao động giản đơn. Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều chất xám dần dần chiếm tỷ trọng lớn hơn, tốc độ cũng tăng
Theo niên giám thống kê năm 1996 - 1998 thì cơ cấu lao động của sản xuất công nghiệp theo ngành công nghiệp như sau:
Ngành công nghiệp
Cơ cấu lao động sản xuất công nghiệp (%)
Công nghiệp khai thác
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp điện ga, nước
1995
1996
1997
8. 5
88. 5
2. 9
8. 2
89. 4
2. 4
8. 2
89. 6
2. 2
Ta thấy rằng ngành công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lao động cao hơn rất nhiều so với công nghiệp khai thác, công nghiệp điện ga nước lao động trong ngành khai thác và các ngành khác dần dần chuyển vào lao động công nghiệp chế biến do đây là ngành tạo cơ sở cho việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của toàn bộ nền kinh tế cơ cấu ngành công nghiệp thay đổi được biểu hiện qua tốc độ phát triển của từng ngành và số lượng các ngành công nghiệp trong tổng thể ngành công nghiệp. Tỷ lệ tăng trưởng của ngành công nghiệp không ngừng tăng lên. nếu như năm 1989 là - 3. 3% và chỉ đạt 3. 15% năm 1990 thì năm 1992 đã là 10% và năm 1995 đạt 14. 5%. Bên cạnh đó cũng cần nhận thấy rằng giá trị sản lượng công nghiệp tăng trưởng bình quân thời kỳ 1991 - 1995 là thời kỳ công nghiệp có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất kể từ trước tới nay giai đoạn 1996 - 1999 bình quân mỗi năm tăng 12. 7%
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Tỷ lệ tăng trưởng qua các năm toàn ngành công nghiệp
6. 2
10
14. 3
- 3. 3
3. 1
10. 4
17. 1
12. 7
13. 7
14. 5
14. 1
13. 2
12. 1
Nguồn: niên giám thống kê 1994 - 1998
Nếu như trong giai đoạn 1990 - 1995 sản xuất công nghiệp có hướng tăng lên rõ rệt thì từ năm 1996 tỷ lệ tăng trưởng công nghiệp đã chững lại và đi vào giai đoạn giảm sút.
Thực hiện nội dung của phát triển công nghệ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kỹ thuật xã hội đòi hỏi phải phát triển mạnh một số ngành công nghiệp. Nói cách khác sự phát triển một số ngành công nghiệp then chốt trọng điểm là điều kiện vật chất thiết yếu đêt thực hiện mạnh mẽ và có hiệu quả các nội dung của tiến bộ khoa học công nghệ
Việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất làm thay đổi cơ bản tốc độ phát triển các ngành. Khoa học và công nghệ làm thay đổi số lượng sản phẩm cung cấp cho thị trường sản phẩm sản lượng ngày càng nhiều lên chất lượng sản phẩm ngày càng tốt lên rút ngắn chu kỳ sống của sản phẩm tạo ra những khả năng mới cho sản xuất Việc áp dụng các công nghệ mới vào sản xuất cũng khác nhau ở mỗi ngành, tuỳ theo quy mô tính chất của sản phẩm tính chất nguyên liệu chiến lược phát triển... Mà từng ngành có trình độ công nghệ khác nhau. Nhưng trước hết quyết định bởi nhu cầu thị trường về sản phẩm mà xác định nhu cầu đổi mới công nghệ. Nhu cầu chế biến, chế tạo ngày càng cao do vậy mà ngành công nghiệp chế biến chế tạo có vị trí quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp
Thực tế, trong 4 năm gần đây 1996 - 1999 phần lớn các ngành đều giảm nhanh về tỷ lệ tăng truởng chỉ một vài ngành công nghiệp như sản xuất dầu thô, xi măng, giầy, khai thác than và một số sản phẩm thuộc công nghiệp chế biến và công nghiệp hàng tiêu dùng còn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Những lúc đang khó khăn vì hàng tồn kho lâu đang phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khâủ từ các nước Châu á đang khủng hoảng. Nhưng nhìn chung tỷ lệ tăng trưởng của công nghiệp khai thác (13. 33%) cao hơn tỷ lệ tăng trưởng của công nghiệp chế biến (12. 3%) dẫn tới một quá trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp kém hiệu quả hiên nay chúng ta đang phát triển dựa vào quá nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, trong khi nguồn tài nguyên thiên nhiên bao giờ cũng có giới hạn và bản thân việc bán các tài nguyên thiên nhiên thô có giá trị gia tăng thấp. Việc thay đổi công nghệ phát triển công nghệ chưa được áp dụng chặt chẽ trong các ngành chế biến. Bên cạnh đó một số ngành trang thiết bị máy móc cũ kỹ ít có khả năng cạnh tranh. nếu như trước năm 1992 các ngành công nghiệp điện và điện tử chế biến lương thực thực phẩm dệt sản phẩm từ da và giả da luyện kim màu và một số loại hàng tiêu dùng hàng phục vụ công nghiệp đã tăng lên. Ngược lại các ngành công nghiệp nặng nhất là luyện kim đen, cơ khí sản xuất máy móc thiết bị và các sản phẩm khác bằng kim loại, vật liệu xây dựng, giấy, sành sứ thuỷ tinh, có tỷ trọng giảm nhanh (tỷ trọng công nghiệp nhiên liệu tăng vọt là nhờ vào vai trò của dầu khí, tỷ trọng công nghiệp điện tăng là nhờ đưa vào sử dụng các công trình đầu tư trong quá khứ) . Những ngành phát triển trên là những ngành sử dụng nhiều lao động
Giai đoạn sau năm 1992, do hậu quả của chính sách ồ ạt nhập khẩu vốn nước ngoài và đánh giá cao tỷ gia thực dùng vốn nhập ngoại này để cho phép Việt Nam nâng cao đưa tỷ lệ tăng nhanh đầu tư cho công nghiệp và toàn nền kinh tế làm cho tỷ lệ tăng trưởng của công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế tăng nên rất nhanh trong những năm 1992 –1995. Trên thực tế một tỷ lệ quan trọng vốn nước ngoài được đã được sử dụng để nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến công nghệ mới và các vật tư cần thiết phục vụ cho chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu và một phần thay thế nhập khẩu làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp nội địa đồng thời khai thác và sử dụng được nhiều tiềm năng của đất nước và cơ sở vật chất sẵn có trong công nghiệp. Đây chính là nguyên nhân cơ bản cho phép công nghiệp công nghiệp Việt Nam đạt được những tỷ lệ tăng trưởng rất cao trong những năm 1992 - 1995.
Thay đổi cơ cấu một số ngành công nghiệp (% giá cố định 1989 thời kỳ 1990 - 1994 và thời kỳ 1995 - 1997) .
Ngành công nghiệp
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Luyện kim đen
Sản xuất máy móc thiết bị
Vật liệu xây dựng
Xenlulô và Giấy
Thực phẩm
May
1. 41
3. 75
7. 84
1. 83
30. 76
7. 04
1. 27
3. 77
8. 43
1. 9
27. 19
7. 0
1. 42
3. 68
8. 1
1. 16
27. 7
3. 7
3. 54
1. 3
1. 88
26. 7
5. 97
2. 73
1. 32
1. 94
26. 15
5. 4
2. 9
1. 36
- -
2. 01
26. 24
5. 16
Nguồn: Niên giám thống kê 1995 - 1998
Các ngành công nghiệp nặng sử dụng nhiều vốn ít lao động như luyện kim đen sản xuất máy móc thiết bị vật liệu xây dựng, Xenlulô và giấy đã phục hồi và phát triển rất nhanh trong khi các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động (thực phẩm, may, lương thực, dệt, sản phẩm từ da và giả da) đã làm giảm đi nhanh chóng.
Một trong những nguồn vốn trên đáng chú ý là nguồn vốn đàu tư trực tiếp từ nước ngoài trong khu vực đàu tư trực tiếp nước ngoài (FDi) các dự án liên doanh chiếm 70% dự án 100% vốn nước ngoài chiếm trên 20% và các hợp đồng kinh tế hợp tác liên doanh chiếm 10% tổng vốn đàu tư đăng ký. Tổng số vốn FDi đăng ký đầu tư vào công nghiệp và xây dựng có su hướng tăng lên chiếm 41. 5% trong thời kỳ 1998 - 1990, 52, 7% thời kỳ 1991 - 1995 và khoảng 62. 5% thời kỳ 1996 - 1998, về vốn FDi thực hiện công nghiệp và xây dựng chiếm 61. 4% thời kỳ 1991 - 1995 và 66. 4 % thời kỳ 1996 - 1998. Vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu là máy móc thiết bị quy trình công nghệ dây chuyền sản xuất các sản phẩm
- Các ngành có sự hiện diện của vốn FDi là điện, dầu khí, hoá chất, điện tử, ôtô xe máy, dệt may, da giầy, chất tẩy rửa.
Khu vực FDi đang chiếm vị trí áp đảo trong công nghiệp khai thác trong đó 99. 7% công nghiệp dầu thô và khí tự nhiên có sự tham gia của nước ngoài. Những điều này cho thấy tỷ trọng công nghiệp chế biến có xu hướng giảm dần và tỷ trọng ngành khai thác có xu hướng tăng lên
Thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp (% giá so sánh 1994)
Ngành công nghiệp
1995
1996
1997
1998
Công nghiệp khai thác
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp điện, ga, nước
4. 65
83. 48
11. 87
4. 72
82. 7
12. 58
4. 97
82. 00
13. 03
4. 6
81. 73
13. 67
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp này vẫn chưa phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH nền kinh tế nói chung
Trong năm 1990 phần lớn những ngành mũi nhon vẫn duy trì được nhịp độ tăng trưởng cao như khai thác dầu khí 19 % chế biến thựcphẩm 10. 7%sản xuất vật liệu xây dựng tăng 11. 5% sản xuất phân bón hoá học tăng 14. 1% công nghiệp điện tử tăng 5. 6% ngành dệt may da giầy gặp nhiều chao đảo về thị trường song cũng tăng từ 2 - 12%. Bên cạnh sự tiếp tục tăng truởng cao là sự khẳng định về sức cạnh tranh mới của ngành công nghiệp nước ta là kả năng chiếm lĩnh thị trường và tiềm năng kỹ thuật công nghệ được tăng lên. Nhiều doanh nghiệp được trang bị kỹ thuật công nghệ khá và trung bình khá so với các nước trong khu vực và thế giới, điển hình như ngành xi măng gốm sứ may mặc sản xuất đồ, chế biến thực phẩm xuất khẩu. Một số ngành công nghệ cao kỹ thuật chính xác được hình thành trong các lĩnh vực sản xuất thiết bị bưu điện diện tử thiết bị y tế đo lường chính xác. Nguyên nhân là do cơ cấu đầu tư tập trung chủ yếu cho đổi mới công nghệ chiếm 60. 7% cho tăng thêm năng lực mới chiếm 24. 1% cho các mục đích khác không đáng kể 3. 5% đây là sự thay đổi tích cực đưa lại kỹ thuật công nghệ cho một số ngành, một số doanh nghiệp mới tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm giảm chi phí sản xuất nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường
Phát triển công nghệ sẽthúc đẩy sự hình thành và phát triển các ngành mới đại diện cho tiến bộ khoa học – công nghệ. Dưới sự tác động cuả phát triển công nghệ cơ cấu ngành sẽ đa dạng và phong phú phức tạp hơn các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao sẽ phát triển nhanh hơn so với các ngành sử dụng công nghệ truyền thống hao mòn nguyên liệu năng lượng ...Phát triển công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm tạo ra nhiều sản phẩm mới đa dạng hoá sản phẩm tăng sản lượng tăng năng suất lao động sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên liệu
Một trong những ngành theo hướng công nghệ tiên tiến là cơ khí hoá điện tử tin học. Với việc sử dụng máy móc thiết bị và hệ thống máu móc thiết bị ngày càng có trình độ kỹ thuật hiện đại đồng thời với việc chế tạo những máy chuyên dùng có năng suất cao người ta cũng chế tạo những máy đảm nhận nhiều chức năng mà thiết bị chế tạo ngày càng hiện đại hơn
Việt Nam ngành sản xuất thiết bị điện điện tử phát triển mạnh. Bên cạnh đó ngành sản xuất máy móc thiết bị tăng với tốc độ chậm hơn so với năm 1995 thì năm 1996 tốc độ tăng của ngành này là 15% năm 1998 là 27. 04%. Đây là ngành quan trọng nhưng do chậm đổi mới công nghệ nên nó chưa phát huy là ngành chủ đạo trong chế biến sản xuất
Đơn vị: tỷ đồng
Ngành công nghiệp
1995
1996
1997
1998
Công nghiệp sản xuất máy móc thiết bị
1345. 1
1560. 2
1675. 8
1716. 9
Nguồn: Niên giám thống kê 1998
Phát triển khoa học công nghệ cho phép các ngành công nghiệp phát triển nhanh hơn do nguyên liệu mới tạo ra có tính năng đáp ứng nhu cầu phát triển cuả sản xuất kỹ thuật khắc phục tình trạng lệ thuộc vào nguyên liệu truyền thống. Ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu truyền thống dần dần chuyển sang hay thay thế bằng các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu mới tạo đà cho cơ cấu công nghiệp thay đổi cả về chất cũng như về lượng. Năng suất lao động cao hơn, các ngành sử dụng nguyên liệu mới này giảm được các bước sơ chế nguyên thuỷ nguyên liệu phù hợp với yêu cầu kỹ thuật sản xuất đamr bảo chất lượng sản phẩm. Ngành công nghiệp điện tử tin học phát triển nhanh nhờ vào sự phát triển kiến thức về công nghệ bán dẫn. công nghiệp hóa dầu phát triển mạnh mẽ tạo ra những loại nguyên liệu phong phú bổ sung cho nguồn nguyên liệu tự nhiên. ở Việt Nam trong ngành hoá dầu chưa phát triển nhưng ngành sản xuất hoá dầu đóng góp cực kỳ quan trọng, điều này phần nào thúc đẩy ngành sản xuất sản phẩm cao su và plástic. Năm 1995 giá trị sản xuất công nghiệp ngành này là 2272 tỷ đồng thì năm 1998 là 4014. 9 tỷ đồng
Phát triển công nghệ cũng phụ thuộc vào chính sách công nghệ. Việc thực hiện chính sách này chính là điều kiện vận dụng nhân tố phát triển công nghệ vào việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp. Chính sách khoa học công nghệ xác định phương hướng phát triển công nghệ, tập trung phát triển công nghệ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Ngay từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng và Nhà Nước ta đã quan tâm hoàn thiện và đổi mới quan điểm, các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Nghị quyết 26 của Bộ chính trị (khoá Vi) đã nêu rõ: “ Đại hội lần thứ Vi của đảng đề ra đường lối đổi mới coi khoa học công nghệ là một dộng lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới ổn định tình hình và phát triển kỹ thuật – xã hội theohướng xã hội chủ nghĩa coi những người làm khoa học và công nghệ là đội ngũ cán bộ tin cậy, quý báu của đảng, nhà nước và nhân dân ta” đén nghị quyết của hội nghị lần thứ Vii của ban chấp hành trung ương (khoá Vii) trong phần về chủ trương phát triển công nghiệp và công nghệ đến năm 2000 đã nêu rõ quan điểm: “ khoa học, công nghệ là nền tảng của CNH, HĐH. kết hợp với công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại” các khâu quyết định.
Chính sách đổi mới công nghệ, công nghiệp nâng cao trình độ công nghệ của khu vực sản xuất công nghiệp đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế mở theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những vấn đề quan trọng trong chính sách khoa học – công nghệ là đàu tư cho công nghệ. Tuy nhiên, cơ chế và chính sách đàu tư áp dụng cho công nghệ còn chưa hoàn toàn hợp lý, thiếu đồng bộ và không được tính bán ở tầm dài hạn nên đồng thời cũng là nguyên nhân tạo ra chuyển dịch cơ cấu công nghiệp kém hiệu quả, dẫn tới tỷ lệ tăng trưởng công nghiệp giảm sút
Trong giai đoạn 1991 - 1995, tổng vốn đàu tư toàn xã hội khoảng 20. 8 tỷ USD, trong đó riêng đầu tư cho công nghiệp là 38. 4%. Giai đoạn 1996 - 2000, tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 39 tỷ USD, trong đó riêng đàu tư cho công nghiệp chiếm 45. 9%. Tăng trưởng công nghiệp lên đến 41. 1% /năm. Giai đoạn từ năm 1991 - 1995 là mức cực kỳ cao phần lớn số vốn đầu tư cho công nghiệp vào đổi mới công nghệ nhưng tỷ lệ thiết bị hiện đại tính chung cho cả nước chỉ khoảng 10% hệ số đổi mới thiết bị thời gian qua đạt 7%: hệ số sử dụng công suất thiết bị còn thấp
Cơ chế, chính sách khoa học công nghệ tạo ra môi trường công nghệ phong phú, dồi dào sôi động hơn nhiều so với thời kỳ trước năm 1986. Lượng hàng hoá công nghệ có mặt trên thị trường nhiều hơn, đa dạng hoá cả về trình độ và nguồn. Nhu càu về hàng hoá công nghiệp là rất lớn chính sách khoa học công nghệ tác động đến các vấn đề như công cụ lao động phương pháp công nghệ, khoa học quản lý. Do đổi mới công nghệ kinh doanh chuyển hướng chất lượng sản phẩm thay đổi đi liền với phân biệt sản phẩm đa dạng hoá sản phẩm, tăng sản lượng chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng cạnh tranh với hàng nhập ngoại.
Nếu không có chính sách khuyến khích nâng đỡ bảo hộ cần thiết đối với sản xuất công nghệ từ trong nước thì không chỉ làm cho công nghệ nước ta phụ thuộc vào nước ngoài mà còn không phát huy được lợi thế về lao động của nước ta cũng như sẽ tăng lãng phí năng lực hiện có của các ngành kích thích nhập công nghệ và khuyến khích đúng tạo sản xuất công nghệ tronmg nước là hai mặt thống nhất.
Giá trị nhập khẩu hàng hoá 1995 - 1997
Đơn vị: triệu USD
Năm
Nhập khẩu
1995
1996
1997
Tư liệu sản xuất
Thiết bị toàn bộ dầu khí máy móc thiết bị
Nguyên nhiên vật liệu
6917. 6
2096. 9
4820. 7
9759. 9
3075. 0
6684. 9
10421. 3
3511. 5
6909. 7
Phát triển công nghệ thông qua việc phát triển về công cụ lao động, năng lượng, vật liệu, phương pháp công nghệ, khoa học quản lý làm cho cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch, thông qua tốc độ phát triển, tỷ trọng của từng ngành trong cơ cấu công nghiệp.
PHần iV: một số kiến nghị và biện pháp chuyển
cơ cấu ngành công nghiệp
1. Một số kiến nghị:
ã Mục tiêu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là hiệu quả kinh tế xã hội. Có đạt được hiệu quả kinh tế – xã hội cao mới có cơ sở phát triển và tăng trưởng sản xuất công nghiệp.
ã Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp nhất thiết phải theo định hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân mà nội dung cơ bản của có là chuyển từ trạng thái công nghệ lạc hậu với năng suất lao động thấp lên công nghệ tiên tiến với năng suất lao động cao trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa trong điều kiện ngày nay đòi hỏi phải đi liền với hiện đại hoá, đẩy nhanmh việc thực hiện cuộc cách mạnh khoa học và công nghệ, hướng nền kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều sâu. Tuy vậy trong thập kỷ tới nước ta còn ở giai đoạn thấp của quá trình công nghiệp hoá nên cân kết hợp giữa kỹ thuật, công nghệ hiện đại với kinh nghiệm truyền thống và công cụ cải tiến kết hợp phát triển công nghiệp theo chiều rộng và chiều sâu
ã Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp đặt trong mối quan hệ hữu cơ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu kinh tế các ngành nhất là nông nghiệp giao thông vận tải, xây dựng, thương mại và dịch vụ..bởi vì nền kinh tế quốc dân nói chung, các ngành sản xuất và dịch vụ nói riêng vừa là đối tượng phục vụ vừa là điều kiện để phát triển các ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá.
ã Về lâu dài việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở nước ta cần lấy mô hình cơ cấu kinh tế hướng ngoại làm chính. Đó là cách tốt nhất để tăng thu nhập giải quyết việc làm và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. tuy nhiên cần có sự lựa chọn phương hướng phát triển ngành công nghiệp phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, cần kết hợp cả hướng nội và hướng ngoại việc hướng ngoại cần tập trung vào các ngành mà ta có nguồn lực (hoặc liên doanh với nước ngoài) và có điều kiện phát triển. Cả hướng nội và hưóng ngoại đều đặt trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế để phát triển.
ã Việc chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp nhất thiết phải góp phần phá vỡ cơ cấu kém hiệu quả trước đây sang cơ cấu năng động phát triển theo xu thế biến đổi của thị trường đồng thời phải phát triển một số ngành có tốc độ tăng cao dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ và vị trí của các ngành nhất là các ngành mũi nhọn để đạt được mục tiêu cuối cùng là hiệu quả kinh tế xã hội cao.
ã Nhanh chóng và không ngừng thay đổi kỹ thuật và công nghệ lạc hậu bằng kỹ thuật và công nghệ mới thích hợp đối với mọi loại hình và quy mô sản xuất kinh doanh. Mặc dù mức độ và khả năng khác nhau nhưng bất cứ quy mô nào cũng đều có nhu cầu về khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
ã Các ngành lựa chọn để khuyến khích phát triển cần phải là một số ngành thay thế nhập khẩu và ngành xuất khẩu có sử dụng nhiều lao động. Bên cạnh đó một số ngành công nghiệp nặng có nhức năng cung cấp máy móc và nguyên vật liệu cơ bản cũng cần được ưu tiên phát triển. nước ta có lợi thế so sánh lớn về lao động với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Trong khuôn khổ của quá trình chuyển dịch cơ cấu đang diễn ra nhanh chóng thì việc khuyến khích phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động trở thành động lực chủ đạo của sự tăng trưởng nhanh, lâu bền của nền kinh tế. Vân đề này chỉ đạt được khi nó gắn liền với sự phát triển của một số ngành công nghiệp nặng then chốt, như luyện thép, sản xuất phân bón vật liệu xây dựng... Với những ngành này nước ta có những điều kiện thuận lợi để phát triển với nguồn tài nguyên trong nước (dầu khí, quặng sắt đá vôi) cộng với khả năng tiếp nhận công nghệ kỹ thuật và vốn nước ngoài.
ã Tranh thủ thu hút nguồn vốn như ODA để xây dựng kết câu hạ tầng kinh tế xã hội, tiếp tục chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDi, có chính sách cởi mở và ưu tiên hơn đối với tư nhân trong nước. Trong giai đoạn đầu thì vốn nước ngoài là quan trọng nhưng trong giai đoạn sau thì vốn trong nước, nội lực là quyết định, tránh nợ nước ngoài nhiều
2. Các biện pháp
2.1 Dự báo xu thế phát triển thị trường và nhu cầu thị trường
Đây là giải pháp có vị trí quan trọng đối với việc chuyển dịch cơ cấu bởi vì thị trường là nhân tố khách quan tác động nhiều mặt tới cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp như nhu cầu cụ thể về sản phẩm của một doanh nghiệp công nghiệp, chất lượng sản phẩm, giá cả thị trường và thời gian đáp ứng dự báo nhu cầu thị trường định hướng phát triển sản xuất của ngành công nghiệp từ đó thúc đẩy tăng trưởng ngành đó để đủ đáp ứng cầu thị trường. Nó chỉ ra xu thế phát triển công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu sản phẩm công nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của sản xuất kinh doanh. cần sử dụng các phương pháp dự báo, phương pháp maketting, phương pháp toán kinh tế để dự báo đúng xu thế phát triển đó. Cần chú ý đầy đủ tới các loại thị trường trong đó đặc biệt là dự báo xu thế vận động của nhu cầu thị trường về sản phẩm công nghiệp như: sức chứa của thị trường, khách hàng, sự biến động về giá cả và lượng hàng theo thời gian, tính cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường trong nước và quốc tế.
2.2 Tạo nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả
Nguồn vốn và khối lượng vốn đầu tư cơ cấu đầu tư hiệu quả đầu tư có quan hệ mật thiết với nhau và tác động mạnh mẽ trực tiếp tới chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, do khả năng tích luỹ vốn trong nước còn hạn chế, thì việc tạo vốn phải hướng trọng tâm vào các hình thức thu hút vốn nước ngoài vào công nghệ hiện đại phù hợp với điều kiện cụ thể. Trong các giai đoạn sau khi mà nguồn vốn tích luỹ bên ngoài đã đủ lớn cần có chính sách tài chính đúng đắn nhằm tập trung vần đề mở rộng sản xuất trên cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng một cách hợp lý. Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư trong nước qua chính sách tiết kiệm trong dân và khuyến khích đầu tư trong sản xuất, nâng cao vốn tự có của các doanh nghiệp, phát triển các nguồn vốn liên doanh liên kết vốn cổ phần, phát hành trái phiếu. Trong giai đoạn từ năm 1991 - 1995 tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 20. 8 tỷ USD trong đó riêng đầu tư cho công nghiệp chiếm 38. 4%. Giai đoạn 1996 - 2000 tổng số vốn đầu tư toàn xã hội vào khoảng 39 tỷ USD. Trong đó riêng đầu tư cho công nghiệp chiếm 45. 9% tỷ lệ tăng trưởng lên đến 41. 1% /năm giai đoạn từ 1991 - 1995 là mức cực kỳ cao (nghiên cứu kinh tế số 254 tháng 7 - 99) bên cạnh phát huy nguồn vốn trong nước cần tận dụng nguồn vốn nước ngoài như ODA, FDi đến ngày 31 - 12 - 1998 tổng vốn FDi lên đến 35. 3 tỷ USD trong đó vốn pháp định là 17. 9 tỷ USD. Vốn thực hiện đến năm 1998 là 14. 2 tỷ USD trong đó 11. 8 tỷ là gía trị vốn đưa từ nước ngoài vào tổng vốn FDi đăng kí cho công nghiệp và xây dựng chiếm 41. 5% thời kỳ 88 - 90 ;52. 7% thời kì 91 - 95 và khoảng 65. 2% thơì kì 96 - 98. Về FDi thực hiện trong công nghiệp và xây dựng chiếm 61. 4% thời kì 91 - 95 và 66. 4% thời kì 96 - 98 (nghiên cứu kinh tế số 7 tháng 7 - 99) . Tỷ trọng vốn FDi đầu tư vào công nghiệp tăng lên, các ngành công nghiệp có sự hiện diện của FDi như hoá chất dầu khí điện tử giày dép... rất phát triển.
Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng: đầu tư có trọng điểm, tránh tràn lan. ưu tiên đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng và các ngành mũi nhọn chuyển từ đầu tư chiều rộng sang chiều sâu đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật máy móc thiết bị mới vào sản xuất nhằm năng cao chất lượng sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. “Nâng cao hiệu quả đầu tư, nhờ đầu tư có trọng điểm và dứt điểm, lựa chọn đúng công nghệ, chống thất thoát, lãng phí tham nhũng trong xây dựng” (nghiên cứu kinh tế số 254 tháng 7 - 99)
Tiến triển của cơ cấu đầu tư đi liền với thay đổi cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp nặng đã tăng từ 70% năm 1986 lên 76. 9% năm 1988 cùng với sự đi lên của sản xuất công nghiệp trong thời gian này đầu tư cho công nghiệp nặng giảm nhanh, chỉ còn 67. 4% năm 1991 trong đó tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp nhẹ tăng lên và hậu quả là các ngành công nghiệp nặng suy thoái còn công nghiệp nhẹ thì phát triển. Nhưng từ năm 1992 vốn lại chuyển hướng (chỉ khoảng 20 - 30% được giành cho công nghiệp nhẹ) dẫn tới đảo nghịch tình hình tăng trưởng của hai khu vực này.
2.3. Lựa chọn công nghệ và các yếu tố đầu vào
Việc lựa chọn công nghệ mới và thực hiện tốt quá trình chuyển giao công nghệ cần theo hướng ưu tiên có lựa chọn có trọng điểm tập trung đổi mới công nghệ cho một số ngành kinh tế mũi nhọn như dàu khí điện tử tin học chế biến thuỷ sản, dệt may. Đi ngay vào công nghệ tiên tiến hiện đại với một số ngành có điều kiện và khả năng cạnh tranh như: bưu chính viễn thông công nghệ sinh học vật liệu mới. Nỗ lực đối với công nghệ trong các ngành phục vụ khai thác tài nguyên thiên nhiên. Đầu tư thích đáng vào đổi mới công nghệ với các lĩnh vực gia công chế biến lắp ráp, nâng cao giá trị gia tăng trong ngành dệt may, lắp ráp ô tô, điện tử. Hiện đại hóa công nghiệp hiện có kết hợp với khai thác công nghệ truyền thống, nhằm đạt tốc độ nhanhvà có hiệu quả vừa đảm bảo tính hiện đại vừa tạo việc làm, vừa khai thác và sử dụng tốt các tiềm năng về nguyên nhiên liệu của đất nước vừa tăng năng lực sản xuất của các ngành
2.4 Xây dựng kết cấu hạ tầng
Ngày nay việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cần đi trước và mở đường cho đầu tư phát triển sản xuất kết cấu hạ tầng phaỉ thích ứng với yêu cầu phát triển sản xuất, tạo điều kiện và môi trường để đảm bảo hiệu quả sản xuất va kinh doanh sau này cần đặc biệt chú ý tới hệ thống cung ứng điện năng, hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, khả năng phát triển nhà ở... việc chú ý tới các ngành này đòi hỏi cần phải đầu tư hơn nữa để làm cho các ngành khác có điều kiện phát triển
2.5 Đào tạo nhân lực
Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định cho phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Trên thực tế chúng ta chưa ưu tiên cho đào tạo và sử dung nguồn nhân lực cả về số ượng cơ cấu và chất lượng. Cả nước chỉ có 12% tổng số ngưòi lao động đã qua đào tạo vì vậy cần điều chỉnh cơ cấu đào tạo nhất là đào tạo công nhân kỹ thuật và cán bộ khoa học công nghệ. Tổ chức lại mạng lưới các trưòng ĐH và THCN, dạy nghề, hình thành các trường trọng điểm nâng cao chất lượng... Có như vậy mới làm cho công nghiệp phát triển mạnh mẽ đáp ứng nhu cầu xã hội
2.6 Tăng cường quản lý vĩ mô công nghiệp
Đây là một giải pháp có tác dụng chi phối mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Công tác này được tiến hành trên nhiều mặt trong đó cần hoàn thiện phương án phân bổ công nghiệp theo lãnh thổ, theo hướng kết hợp phát triển chuyên môn hoá với phát triển tổng hợp công nghiệp trong từng vùng. Tổ chức mối liên hệ sản xuất giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau trên cơ sở hình thành những khu công nghiệp, trên cơ sở liên kết công nghệ giữa các chuyên ngành để giảm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Xây dựng phương án phân bổ sức lao động theo lãnh thổ và theo ngành công nghiệp chuyên môn hoá phù hợp với chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá. Trong quá trình đó cần chú ý phương án phân bổ sức lao động cho các ngành cả về số lượng và chất lượng. Cần có những chính sách kinh tế xã hội nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện phân bổ sức lao động giữa các ngành.
Tăng cường và hoàn thành công tác quản lý công nghiệp theo hướng tập trung, thống nhất về mặt kỹ thuật của sản xuất, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật ngành, quy hoạch phát triển ngành, kiểm tra chất lượng sản phẩm. Tiếp tục xác định rõ chức năng quản lý nhà nước của cơ quan quản lý ngành với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh cuả các doanh nghiệp.
kết luận
Như ta đã biết, nội dung cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới kỹ thuật và công nghệ, phát triển mạnh mẽ các ngành có hàm lượng khoa học hiện đại nhằm mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế cao lâu bền. Tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và tăng trưởng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng dựa trên khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại có mối quan hệ hữu cơ với nhau mà khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại là nền tảng của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
Trên đây là phân tích tác động của phát triển công nghệ đến chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Nội dung của cơ cấu công nghiệp phải khai thác một cách đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực, lợi thế của đất nước, đảm bảo công nghiệp có thể phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó thúc đẩy hơn nữa vai trò của khoa học công nghệ đối với chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp nhằm tạo cho VN một nền kinh tế mạnh một hướng đi đúng đắn. Công nghiệp như: “Đầu tầu” kéo “ đoàn tàu kinh tế ”đi theo hướng “đường ray” đã định và “ tăng tốc”.
mục lục
Mở đầu
Nội DUNG
PHầN i Thực chất và quan hệ của phát triển công nghệ với chuyển dịch cơ cấu ngành
Thực chất của chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp
1. 1Cơ cấu ngành công nghiệp
1. 2 Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp
Tác động của phát triển công nghệ tới chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp
Phát triển công nghệ thúc đẩy phân công lao động xã hội
Phát triển công nghệ thúc đẩy các ngành công nghiệp phát triển
Phát triển công nghệ hạn chế ảnh hưởng tự nhiên
Chính sách khoa học công nghệ với phát triển công nghiệp
PHần ii. TìNH HìNH CHUYểN DịCH CƠ CấU NGàNH CÔNG NGHiệP Và NHữNG THáCH THứC LớN Với CÔNG NGHiệP TRONG GiAi ĐOạN HiệN NAY.
1. Tình hình chuyển dịch cơ cấu nghành công nghiệp.
2. Các biện pháp.
2. 1 Dự báo xu thế phát triển và nhu cầu thị trường.
2. 2 Tạo nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
2. 3 Lựa chọn công nghệ và cấc yếu tố đầu vào.
2. 4 Xây đựng kết cấu hạ tầng.
2. 5 Đào tạo nhân lực.
2. 6 Tăng cường quản lí vĩ mô công nghiệp.
KếT LUậN.
Tài LiệU THAM KHảO.
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0305.doc