Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần như hiện nay, mức độ cạnh tranh là rất quyết liệt. Sự tồn tại của cạnh tranh phải được chấp nhận nhưng không được lo sợ. Tôn trọng cạnh tranh không kể loại hình hay quy mô của nó là điều có lợi. Sự tôn trọng đó có thể tạo ra những suy nghĩ độc đáo, làm tăng hiệu quả sản xuất, tạo ra khả năng tiếp thị và nâng cao lợi nhuận. Có thể rút ra được những bài học từ cạnh tranh để phấn đấu và bảo đảm rằng sản phẩm và hoạt động của công ty mình tốt hơn đối thủ cạnh tranh.
Trong bối cảnh đó các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận cạnh tranh. Công ty dệt may Hà Nội không phải là một ngoại lệ. Trong thời gian qua, công ty đã tham gia canh tranh ở nhiều thị trường khác nhau. Công ty đã đạt được một số kết quả như KNXK không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước, mẫu mã chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, một số mặt hàng tạo được những vị trí nhất định trên những thị trường lớn là EU, Mỹ, Nhật Bản. Tuy nhiên, so với hàng hoá các đối thủ trong và ngoài nước đang hoạt động trong lĩnh vực này thì sức cạnh tranh hàng hoá của công ty còn thấp. Điều này gây ra nhiều thiệt hại cho công ty.
102 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 824 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty Dệt may Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à 8 chủng loại sợi cotton với các ký hiệu tương tự. Với việc đa dạng hoá chủng loại sản phẩm sợi giúp cho công ty tăng doanh thu từ đó tăng lợi nhuận và có thêm được nhiều bạn hàng mới kể cả ở trong nước và ngoài nước
Sao chép sản phẩm xuất khẩu và bán ở thị trường nội địa. Đây là một biện pháp có thể khắc phục được nhược điểm của phương án trên. Vì công ty không phải mất thêm chi phí và thời gian vào thiết kế mẫu mới cho nên khả năng rủi ro ở đây là rất thấp. Hơn nữa đây là những sản phẩm xuất khẩu đang được chấp nhận trên thị trường quốc tế cho nên kiểu dáng mẫu mã rất phù hợp với trào lưu hiện đại. Từ đó làm cho khả năng thành công trên thị trường nội địa là rất lớn.
Nghiên cứu tạo mốt (model) trên thế giới: dựa vào kiểu dáng của những nhà tạo mốt nước ngoài, công ty đưa ra những mẫu phù hợp với khả năng của mình để tạo ra chính sách về sản phẩm mới. Trong năm 1997 công ty đã dựa vào thị trường các kiểu áo mang nhãn hiệu Poloshirt, Navy, Big-star .... Đây là biện pháp khá đơn giản và tiết kiệm cho khâu thiết kế nhưng nó cũng chỉ là một biện pháp trước mắt chứ không mang tính chiến lược lâu dài .
4.5> Chính sách chất lượng
Trong cơ chế thị trường biến động và cạnh tranh ngày càng gay gắt, để có thể tồn tại và phát triển các nhà sản xuất phải có khả năng quản lý và tổ chức hiệu quả những sản phẩm có chất lượng cao bằng con đường kinh tế nhất.Vì lẽ đó Công ty Hanosimex luôn đề ra mục tiêu “Đảm bảo chất lượng sản phẩm và những đã điều cam kết với khách hàng là nền tảng cho sự phát triển lâu dài của Công ty’’. Để đạt được mục tiêu này Công ty đã xây dựng chính sách chất lượng nhằm :
Thoã mãn nhu cầu của khách hàng.
Tiết kiệm chi phí .
Phát huy mọi nội lực của doanh nghiệp .Đặc biệt là yếu tố con người
Tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp .
Hiện nay công ty có các qui trình kỹ thuật được qui định bằng văn bản cho mỗi loại sản phẩm và phòng kỹ thuật đầu tư chịu trách nhiệm xây dựng các tiêu chuẩn cho mỗi loại sản phẩm. Công ty cũng đã nhận được chứng chỉ ISO cho nhiều nhà máy, trung tâm thí nghiệm và kiểm soát chất lượng.
Bảng 13; Danh sách nhà máy đã có chứng nhận ISO 9002 (2002)
Tên nhà máy
Chứng nhận ISO
Hanosimex
Đã có chứng chỉ
Nhuộm , dệt kim . hoàn tất
Đã có chứng chỉ
Nhà Máy May số 1
Đã có chứng chỉ
Nhà Máy May số 2
Đã có chứng chỉ
Nhà Máy May số 3
Đã có chứng chỉ
Nhà Máy May Sợi tại Hà Nội
Đã có chứng chỉ
Nhà Máy Vải Denim
Đang thực hiện
Nhà Máy May Đông Mỹ
Đang thực hiện
Nhà Máy Khăn Hà Đông
Đang thực hiện
Nhà Máy Sợi Vinh
Đang thực hiện
Trung Tâm Thí Nghiệm Kiểm Soát Chất Lượng
Đã có chứng chỉ
(Nguồn: Phòng kế hoạch thị trường)
Tuy nhiên công ty vẫn còn một số điều cần khắc phục: số liệu được ghi chép thủ công, không thuận tiện và cản trở việc thực hiện những phân tích về xu hướng để có thể đưa ra những biện pháp cho các vấn đề chất lượng mang tính hệ thống; các phòng thí nghiệm tại các nhà máy không thuộc sự quản lý của Trung tâm kiểm soát chất lượng và không được trang bị giống như phòng thí nghiệm của trung tâm. Nếu hệ thống kiểm soát chất lượng và hỗ trợ quản lý có thể mở rộng hơn nữa so với việc theo dõi để tối ưu hoá các hoạt động thì Hanosimex sẽ có thể là một nhà sản xuất sản phẩm chất lượng cao trên thị trường thế giới.
III Đánh giá sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt may Hà Nội.
Những thành tựu.
Công ty dệt may Hà Nội (HANOISIMEX) đã có 20 năm làm công tác xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới. Sự thông thạo thị trường, uy tín quốc tế lâu năm, quan hệ bạn hàng mật thiết và có kinh nghiệm trong giao dịch, cộng với chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng là những lợi thế hết sức căn bản cho công ty trong việc đẩy mạnh và phát triển công tác xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Công ty đề ra chủ trương và biện pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng cơ chế và quy chế khen thưởng khuyến khích xuất khẩu. Do có sự chỉ đạo sát sao của công ty nên hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu luôn luôn hoàn thành kế hoạch đề ra. Công ty có chính sách ưu tiên trong việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ, có chương trình rõ ràng, dành những chi phí hợp lý và cần thiết cho đào tạo.
Công ty đã phát triển mạng lưói phân phối rộng khắp nhằm xây dựng hình ảnh cuả công ty tại thị trường trong nước và tăng mức xuất khẩu của công ty ở thị trường nước ngoài.
Công ty đã áp dụng các chiến lược giá cả một cách linh hoạt nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công ty.
Cùng với việc được cấp chứng chỉ ISO 9002, công ty cố gắng phấn đấu để có thể đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn của mỗi thị trường nơi công ty xuất khẩu hàng hoá. Đây cũng là công cụ cạnh tranh hữu hiệu của công ty. Với chính sách này giúp thị trường xuất khẩu của công ty ngày càng mở rộng, đặc biệt là các thị trường lớn, ổn định và hứa hẹn một tương lai sáng lạn của công ty như UE, Mỹ Nhật.
Công ty đã tiến hành nghiên cứu sáng tạo nhiều sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Cùng với các hoạt động quảng cáo khuyếch trương sản phẩm đã góp phần nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của công ty.
Trong những năm qua, Công ty dệt may Hà Nội luôn là một trong những doanh nghiệp hoàn thành vượt mức chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, công ty luôn luôn quan tâm tới các cán bộ công nhân viên của mình bởi chính họ là người làm nên thành công của doanh nghiệp, thể hiện qua mức lương đảm bảo mức sống cho mỗi người. Mức thu nhập của CBCNV công ty không ngừng được cải thiện. Không những ở Hà Nội mà các khu vực khác của công ty cũng có sự gia tăng đáng khích lệ. Đây chính là một động lực thúc đẩy các thành viên trong công ty phấn khởi, tin tưởng vào sự thành công của công ty hiện tại và tương lai.
2 Những mặt còn tồn tại.
Trong những năm qua, công ty dệt may Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong cạnh tranh ở ngành dệt may và đã thành công đáng kể không chỉ ở trong nước mà còn ở thị trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được công ty cồn tồn tai một số mặt hạn chế sau:
Thứ nhất: Việc sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu và tài sản cố định chưa hiệu quả gây lãng phí và thất thoát làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Thứ hai: Công tác nghiên cứu, quản lý thị trường chưa được quan tâm đầy đủ, chưa có nhũng cải tiến đáng kể về công nghệ sản xuất, đầu tư cho hoạt động khuếch trương sản phẩm.
Thứ ba: Giá thành sản phẩm còn cao, khả năng cạnh tranh về giá cả công ty so với các đối thủ trong và ngoài nước còn yếu
Thứ tư: Công tác thiết kế mẫu mốt, thời trang của công ty còn yếu, công ty không có phòng thiết kế mẫu riêng mà chủ yếu làm hàng theo đơn đặt hàng của bạn hàng, dẫn đến không có mẫu nhiều, đa dạng để chào bán trên thị trường nước ngoài, do vậy hoạt động xuất khẩu chủ yếu của công ty là do phía bạn hàng đặt hàng( mẫu đối mẫu ) mà chưa có mặt hàng chào hàng chủ động.
Thứ năm: Do trang thiết bị của công ty còn khá lạc hậu so với nhu cầu ngày càng nâng lên của khách hàng, dẫn đến việc phải làm đi làm lại, thậm chí không ký kết được hợp đồng do năng lực có hạn (nhất là năng lực nhuộm hoàn tất rất yếu).
Trên đây là một số mặt còn hạn chế của công ty tuy rằng quy trình xuất khẩu của công ty đã khá hoàn thiện. Trong thời kỳ cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc không ngừng nâng cao quy trình xuất khẩu của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế là điều mà các doanh nghiệp đều quan tâm và cố gắng đạt được trong thời gian sớm nhất.
3.Nguyên nhân.
Công ty chưa đầu tư đúng mức tới khâu quan trọng đó là khâu thiết kế, kiểu dáng vẫn còn đơn điệu, mầu sắc kích cỡ chưa đa dạng phong phú chưa phù hợp với mọi lứa tuổi.
ý thức của người lao động chưa cao dẫn đến làm việc kém hiệu quả, năng xuất lao động thấp, tỉ lệ sản phẩm sai hỏng cao.
Công ty còn hạn chế trong chính sách đa dạng hoá sản phẩm, không đi sâu nghiên cứu thị trường mộ t cách đích đáng.
Máy móc thiết bị còn lạc hậu,chắp vá cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém
Nguyên vật liệu chính của công ty lại phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Do vậy công ty không linh hoạt trong chính sách phát triển để phù hợp với từng lứa tuổi, từng thị trường.
Cơ cấu vốn không hợp lý cùng với lãi suất ngân hàng và mức thếu động viên vào ngân sách còn quá lớn đã không khuyến khichs sản xuất, làm cho chi phí gián tiếp tăng cao. Nhiều khi doanh nghiệp bí các nguồn vốn trung và dài hạn đã phải dùng các nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư. Lãi suất cao thời gian vay ngắn đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất và cáckế hoạch đầu tư dài hạn của công ty.
Khả năng sáng tạo mẫu mốt của công ty còn yếu kém. Một sản phẩm sau khi đưa ra thị trường lại được duy trì trên thị trường trong một thời gian khá lâu. Chỉ khi nào thấy người tiêu dùng đã chán sản phẩm đó doanh nghiệp mới thôi không sản xuất nữa. Công ty chưa nắm bắt rõ được chu kỳ sống của sản phẩm.
Trong hoạt động kinh doanh XNK công ty phải nhập đa số nguyên vật liệu (NVL) từ nước ngoài. Việc nhập khẩu NVL này công ty phải tiến hành đóng thuế nhập khẩu. Mặc dù, sau khi hoàn tất hoạt động xuất khẩu các sản phẩm được sản xuất bằng NVL đó thì công ty được hoàn thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, thời gian từ khi nộp thuế đến khi hoàn thuế là khá dài, điều này ảnh hưởng tới việc sử dụng nguồn vốn của công ty một cách hiệu quả.
chương III
Đề xuất những giải pháp và kiến nghị để giải quyết những ách tắc phát sinh.
Định hướng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở công ty dệt may Hà Nội.
Nâng cao trình độ kết hợp với tinh giảm bộ máy quản lý và đào tạo đội ngũi lao động có tay nghề cao, đồng thời đầu tư cho các cơ sở chính của công ty đạt tới trình độ hiện đại tiên tiến và đa dạng về công nghệ. Lựa chọn sản xuất các sản phẩm tinh xảo có hàm lượng chất xám cao, nâng cao trình độ và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Thường xuyên hoàn thiện công nghệ dệt, nhuộm, may theo sát xu hưưóng phát triển của thế giới.
Duy trì và phát triển thị trường đã có từng bước mở rộng thị trường.
Với mục tiêu “Chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp” công ty đã và đang cải tiến bộ máy quản lý và sản xuất theo tiêu chuẩn ISO-9002 để thâm nhập vào thị trường quốc tế và tạo niềm tin cho khách hàng. Xác định mặt hàng chủ lực là sợi dệt kim công ty đã khai thác triệt để thế mạnh của sản phẩm sợi nhằm đáp ứng nhu cầu trong nuớc cũng như xuất khẩu. Theo dự báo, tốc độ tăng trưởng của thị trường sợi trong giai doạn 2000-2005 là từ 8%-10% và từ 5%-7% trong giai đoạn 2004-2010.
Phương hướng giải quyết lao động hiện nay.
Lao động là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của quá trình sản xuất, nó quyết định đến năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm. Dù máy móc thiết bị có hiện đại đến đâu mà thiết yếu tố con người thì khó có thể hoạt động được. Vì vậy công ty đang quan tâm phân tích tình hình sử dụng lao động, bố trí lao động dựa trên yêu cầu về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty và năng lực của cán bộ công nhân viên nhằm đảm bảo ddúng người đúng việc, khai thác tối đa năng lực của cán bộ công nhân viên.
Hiện nay, công ty đang quan tâm đến vấn đề đào tạo công nhân, trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể hoàn thành được công việc. Hàng năm công ty cử hàng trăm công nhân viên đi học tại trường cao đẳng công nghiệp nhẹ, và làm hồ sơ cho hàng chục cán bộ CNV học tại chức tại các trường đại học như: đại học KTQD, đại học Bách khoa...Ngoài ra công ty thường tổ chức các cuộc thi tay nghề nhằm khuyến khích động viên người lao động nâng cao tay nghề. Những năm gần đây, công ty đã đầu tư nhiều dây chuyền sản xuất hiện đại và tự động hoá nên có một bộ phận người lao động bị sa thải, đồng thời một số lao động không đảm bảo về năng lực và sức khoả đều bị sa thải hoặc chuyển đi lamf công việc khác.
Công ty dệt may Hà Nội đã đặt ra mục tiêu từ nay đến năm 2005 phải nâng tỉ lệ lao động qua đào taọ lên 45% và đến năm 2010 phải đua tỉ lệ này nên 85% trong đó đặc biệt chú trọng đến đào tạo công nhân có trình độ lành nghề cao. Có nhưu vậy mới nâng cao được chất lượng người lao động, mới đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh trong giai đoạn mới.
II Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở công ty dệt may Hà Nội.
2.1 Những giải pháp từ phía công ty.
Vấn đề huy động vốn để nâng cao năng lực sản xuất
Công ty dệt may Hà Nội đang được đánh giá là công ty có tiềm năng trong ngành dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, trong một số hợp đồng của công ty, việc giao hàng chậm, không đúng tiến độ vẫn còn, gây ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp với bạn hàng. Sử dụng hiêụ quả những gì mà công ty đang có trong tay là một yêu cầu tất yếu khác quan khi mà công ty không thể một sớm một chiều có thể thay toàn bộ trang thiết bị song chưa thể hiện đại hoá trang thiết bị của mình.
Để huy động vốn, hiện nay lãi suất ngân hàng đã giảm nhiều so với trước nhưng tỷ lệ cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ thấp nên các doanh nghiệp không có điều kiện vay vốn để đầu tư chiều sâu. Các khoản vay tín dụng ưu đãi của nhà nước hay nước ngoài với lãi xuất thấp lại không dễ dàng có được nên khả năng đầu tư đổi mới công nghệ dệt may là rất hạn chế. Có nhiều doanh nghiệp vì không có nguồn vay dài hạn đã phải vay trung hạn và ngắn hạn để đầu tư, lãi không kịp trả dẫn đến tình trạng nợ lớn có nguy cơ phá sản. Như vậy, huy động vốn từ nguồn đi vay là không mấy khả thi đối với các doanh nghiệp dệt may.
Một nguồn vốn khác có thể huy động là vốn tự có của doanh nghiệp được tích luỹ từ lãi của hoạt động sản xuất kinh doanh thì cũng còn nhỏ, chỉ có thể cải tiến, nâng cấp điều kiện lao động chứ để đầu tư chiều sâu là khó. Để huy động nội lực, công ty có thể tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp song công ty chưa có kế hoạch thực hiện kế hoạch này mà hiện nay việc huy động vốn của công ty vẫn chủ yếu là đi vay.
Công ty cũng có thể huy động vốn bằng cách hợp tác với người nước ngoài. Đầu tư nước ngoài trực tiếp sẽ mang lại không chỉ vốn mà kèm theo đó còn là công nghệ tiên tiến và công nghệ quản lý hiện đại, hứa hẹn một sự phát triển vượt bậc nếu theo hướng đầu tư này.
Song song với công tác thiết kế, việc đầu tư đổi mới công nghệ cũng rất quan trọng trong vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty cần có những kế hoạch cụ thể trong việc đầu tư đổi mới công nghệ cũng như việc cải tiến nâng cấp máy móc thiết bị nhằm có thể khai thác tối đa công suất thiết kế, nâng cao năng suất lao động. Đây là một yếu tố giúp công ty có thể giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Cùng với việc đầu tư đổi mới máy móc kỹ thuật công ty nên dành một phần nguồn vốn của mình để đâù tư vào đội ngũ lao động của công ty. Bởi người tiêu dùng thường không quan tâm tới việc sản phẩm đó được sản xuất ra bằng dây chuyền công nghệ nào mà quan trọng là sản phẩm đó như thế nào. Sức sáng tạo của con người là vô hạn nên công ty phải khuyến khích kịp thời khả năng sáng tạo và lòng nhiệt tình của người lao động. Hay nói cách khác đầu tư cho con người là rất quan trọng. Cùng với việc tăng năng suất lao động, mở rông sản xuất, thay đổi thiết kế sản phẩm phù hợp với thị hiếu, tạo ra các sản phẩm khác biệt, phát triển các dịch vụ sau bán hàng công ty sẽ giảm được giá thành sản phẩm tăng sức cạnh tranh sản phẩm của công ty.
Nâng cao trình độ đội ngũ CBCNV và hoàn thiện bộ máy tổ chức của doanh nghiệp.
Hiện nay, điều mà các doanh nghiệp nói chung và Hanosimex nói riêng thiếu nhất là đội ngũ CBCNV có trình độ, năng lực thực sự và bộ máy quản lý hoạt động có hiệu quả. Nêu các doanh nghiệp làm tốt điều này sẽ góp phần làm cho hoạt động xuất khẩu được trôi chảy, nhịp nhàng hơn và do đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Vì vậy, Hanosimex cần phải chú trọng nâng cao trình độ đội ngũ CBCNV và hoàn thiện bộ máy tổ chức công ty.
Nâng cao trình độ đội ngũ CBCNV.
Đối với những người làm công tác XNK ở công ty hiện nay còn tồn tại một nghịch lý là những người làm việc lâu năm có kinh nghiệm chuyên môn vững vàng thì lại yếu về ngoại ngữ, trong khi những người trẻ giỏi về ngoại ngữ lại thiếu kinh nghiệm sử lý công tác chuyên môn. Do vậy, trong thời gian tới, công ty phải thường xuyên gửi các cán bộ trẻ đi đào tạo nhằm nâng cao kiến thức về kinh doanh quốc tế, củng cố nghiệp vụ XNK tại các trường đại học ở trong và ngoài nước. Đồng thời có kế hoạch đào tạo lại số cán bộ ở phòng XNK để họ có điều kiện nâng cao nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ.
Đối với đọi ngũ công nhân trực tiếp sản xuất là những người ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm của công ty, do đó công ty cần có kế hoạch nâng cao tay nghề cho đội ngũ này. Công ty có thể gửi những công nhân trẻ, tay nghề thấp đi đào tạo tại các trung tâm dạy nghề hoặc các trường đào tạo chuyên ngành dệt may. Hoặc có thể đào tạo tại chỗ bằng cách tổ chức các lớp học thuê các chuyên gia kỹ thuật đến giảng dạy, công ty có thể nâng cao tay nghề cho các lao động trẻ bằng các cử các công nhân kỹ thuật bậc cao kèm cặp, hướng dẫn ngay tại nơi làm việc, điều này có thê giúp cho người có tay nghề thấp nhanh chóng tiến bộ.
Hoàn thiện bộ máy tổ chức.
Việc hoàn thiện bộ máy tổ chức, nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý cần được tiến hành theo các hướng sau:
Học tập các phương pháp quản lý tiên tiến trên thế giới.
Tổ chức học tập các nội quy, quy định cho toàn thểt cán bộ công nhân và giám sát chặt chẽ việc thực hiện, dần dần đưa sản xuất vào nề nếp, chính quy và hiện đại.
Bố trí cán bộ đúng vị trí công tác sở trường và phù hợp với năng lực của họ, làm tăng hiệu quả công tác của mỗi người trong công ty.
Có những biện pháp thưởng phạt nghiêm minh để khuyến khích tinh thần làm việc, đồng thời để nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động.
Thắt chặt sự đoàn kết, hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau của cán bộ công nhân toàn công ty
Nâng cao chất lượng sản phẩm .
Chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố hàng đầu trong mối quan tâm của khách hàng ở trên bất cứ thị trưòng nào. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ đơn thuần là việc làm cho sản phẩm của doanh nghiệp bền hơn mà còn bao gồm việc làm cho sản phẩm đẹp hơn, đa dạng phong phú hơn, phù hợp với yêu cầu sở thích của khách hàng. Do tính chất thời trang của mình, nếu một sản phẩm dệt may chỉ bền, rẻ không thì khách hàng vẫn không thích mua nó bàng việc mua một sản phẩm có độ bền tuơng tự, mẫu mã đẹp nhưng giá cả cao hơn một chút, đây là điều thường xảy ra ở các thị trường mà mức sống của người dân cao như ở các thị trường mà doanh nghiệp đang kinh doanh.
Chất lượng của sản phẩm mặc dù được quyết định bởi nhiều yếu tố, bao gồm các chỉ tiêu đo đếm được (như độ nhẵn đẹp, mịn mượt cùa vải, sự chắc đều của đuờng kim mũi chỉ...) và những tính chất không đo đếm được (thẩm mỹ, mốt thời trang, cảm giác thoải mái trong khi sử dụng...). Công ty dệt may Hà Nội đã có đủ khả năng đảm bảo chất lượng của sản phẩm xét theo các tiêu chuẩn định lượng, nhưng với tiêu chuẩn định tính thì lại là cả một vấn đề. Công tác thiết kế của công ty hiện nay đang là một khâu yếu, nhiều sản phẩm không phải do trình độ không thiết kế được mà do chưa chú trọng đầu tư cho công tác này. Vì vậy, công ty cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tạo ra nhiều chủng loại với màu sắc, kiểu dáng đẹp và độc đáo bám sát thị hiếu của khách hàng. Để nâng cao chất lượng sản phẩm công ty cần tiến hành các công việc sau:
Không ngừng ứng dụng các thiết bị khoa học mới, hiện đại hoá trang thiết bị cho doanh nghiệp dệt may để từng bước nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, giữ chữ tín với khách hàng.
Kiểm tra chặt chẽ chất lượng NPL đầu vào, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng.
Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên liệu, quá trình sản xuất, tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình kiểm tra chất lượng hàng trước khi xuất khẩu qua hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc.
Đảm bảo yêu cầu về thời gian giao hàng, chủ động trong vận chuyển bốc xếp hàng hoá.
Về vấn đề giá cả sản phẩm.
Doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược giá hợp lý, linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng khách hàng, phù hợp với từng sản phẩm. Công ty hiện nay đang sản xuất các mặt hàng quần áo tương tự như hàng của đối thủ cạnh tranh. Đối với những mặt hàng này khi bán ở thị trường trong nước thì giá cả lại cao hơn giá mặt hàng cùng loại của đối thủ cạnh tranh rất nhiều trong khi chất lượng lại không cao hơn là mấy và mẫu mã lại tương tự thì khi người tiêu dùng trong nước lựa chọn với một số tiền có hạn thì rõ ràng họ sẽ không chọn hàng của doanh nghiệp.
Vì vậy, doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh thị trường trong nước cũng như xuất khẩu thì doanh nghiệp phải lựa chọn sản xuất các mặt hàng có thể có chất lượng thấp hơn, bán với giá rẻ hơn theo hình thức giá thấm dần hoặc là sản xuất các sản phẩm cao cấp hơn hẳn với các nhãn hiệu nổi tiếng, có uy tín trên thế giới và bán với mức gia cao hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh khác theo chính sách hớt váng sữa.
Đối với các khách hàng quen thuộc, doanh nghiệp nên giảm giá để giữ được lượng khách hàng ngày một ổn định. Doanh nghiệp cũng có thể đưa ra các chính sách khuyến khích khách hàng tuỳ thuộc vào từng thời điểm, mục tiêu và khả năng của mình. Đồng thời công ty nên tiến hành đổi mới máy móc thiết bị nâng cao năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm.
Làm được điều này, doanh nghiệp có thể tăng dần được tỷ trọng xuất khẩu trong doanh thu của mình, thu được nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
Vấn đề hình ảnh uy tín của sản phẩm.
ở công ty dệt may Hà Nội hiện nay, sản phẩm chỉ được biết là được sản xuất tại Việt Nam thông qua vài dòng chữ ghi trên conteiner, mà đặc biệt không có chút thông tin nào về sản phẩm. Nhưng trong tương lai, để làm cho hình ảnh của sản phẩm (bán FOB) và công ty có trong tiềm thức của quảng đại người tiêu dùng, sản phẩm của công ty phải mang nhãn hiệu, tên hoạc biểu tuợng của công ty. Việc ghi nhãn và bao bì giúp nguời tiêu dùng có đủ thông tin trung thực về chất lượng và nguồn gốc của sản phẩm. Trong thực tiễn, nhãn hiệu hàng hóa là một công cụ cạnh tranh đảm bảo lợi thế trên thị trường nước ngoài. Việc gắn tên mác vào sản phẩm không chỉ đơn thuần để xác nhận sản phẩm của công ty và để phân biệt với sản phẩm của công ty khác, mà còn để duy trì một danh tiếng.
Đối với công ty, việc sản xuất gia công và gắn tên, mác nuớc ngoài có thể có thuận lợi cho công ty không phải lo lắng trong khâu tiêu thụ trực tiếp với ngưòi tiêu dùng, nhưng có bất lợi là về lâu dài công ty không khẳng định được mình trên thị trường. Tuy nhiên, điểm bất lợi này có thể được khắc phục trong ngày một ngày hai. Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nhất là thị trường các nước công nghiệp phát triển, việc tạo uy tín qua nhãn hiệu hàng hoá sẽ gặp phải những khó khăn nhất định và công ty cần phải khắc phục những khó khăn đó trong phạm vi cố thể.
Kỹ thuật: hàng hoá đã đăng ký nhãn hiệu phải đảm bảo chất lượng ổn định, công ty không nên để tính chất lao động thủ công ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm.
Tài chính: chi phí cho các hoạt động quảng cáo, xúc tiến ...là rất cao, do đó công ty cần sử dụng và kết hợp chi tiêu một cách hợp lý và có hiệu quả.
Cung cấp: sản phẩm đã có nhãn hiệu phải đảm bảo lúc nào cũng cung cấp đủ nhu cầu thị trường, nếu chỉ vắng bóng trên thị trường một thời gian vì một lý do nào đó sẽ bị lu mờ và bị sản phẩm khác thế chỗ.
Vị trí của những người đến sau thường thấp và không có được thị phần lớn. Nhưng khi đã có đủ điều kiện, công ty cần mạnh dạn gắn nhãn mác riêng của mình lên sản phẩm, bước đầu có thể gặp khó khăn do chưa được người mua tin tưởng, song nếu không có bước đầu đó công ty sẽ không bao giờ đến được với khách hàng bằng chính tên tuổi của mình .
Nâng cao hiệu quả của hoạt động Marketing.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt thì hoạt động Marketing góp phần không nhỏ vào việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Trong thời gian qua việc thực hiện các hoạt đông Marketing của công ty chưa tốt do vậy mà hàng hoá chưa tạo được chỗ đứng vững chắc trên các thị trường xuất khẩu, bạn hàng chưa ổn định. Do đó, yêu cầu cấp bách đặt ra cho công ty là phải nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing, muốn vậy công ty cần làm tốt các mặt sau:
Quảng cáo.
Quảng cáo cho sản phẩm và cho công ty tại các thị trường mục tiêu như EU, Nhật Bản, Mỹ. Ngoài quảng cáo giới thiẹu chung về công ty, cần phải có nội dung quảng cáo chi tiết về sản phẩm mũi nhọn. Tuỳ vào yêu cầu khuyếch trương sản phẩm và khả năng tài chính có thể có các phương thức quảng cáo thích hợp từ các ấn phẩm, các của hàng đại lý đến các phương tiện phát thanh truyền hình...
Về hoạt động yểm trợ sản phẩm.
Đây là những hoạt động có liên quan đến các dịch vụ sản phẩm và các thông tin mà công ty cung cấp thêm cho khách hàng. Các dịch vụ sản phẩm chủ yếu là catalogue, xuất bản phẩm về công ty, phim ảnh (cung cấp thông tin bằng những hình ảnh sống cho khách hàng nước ngoài).
Các công tác xúc tiến bán hàng.
Công ty cần duy trì và phát huy tác dụng của hoạt động xúc tiến bán hàng thông qua các hội chợ thời trang tiêu dùng trong nước và quốc tế bằng những mẫu mã luôn thay đổi, phong phú nhưng thích hợp với thị hiếu tiêu dùng từng thời kỳ. Hoạt động này thực sự có ý nghĩa đối với công ty trong việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, vì thị trường dệt may đang có sức cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất, các sản phẩm tương đối giống nhau về chất lượng giá cả, khối lượng hàng bán lại phụ thuộc vào mức độ quen biết giữa công ty với khách hàng. Các hình thức chủ yếu của xúc tiến bán hàng là thay đổi hình thức mẫu mã sản phẩm, khuyến khích mua hàng (giảm giá, tạng quà, bán trả góp...), trưng bày catalogue tại điểm bán hàng. Ngoài ra các của hàng bán lẻ của công ty phải được trang hoàng đẹp, đầy đủ về mẫu mã, việc thử hoặc đổi hàng phải được tạo điều kiện thuận lợi nhất. Khi đã có đủ tiềm lực về tài chính, ngoài việc tham gia trình diễn thời trang hay các cuộc giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ, công ty có thể tự tổ chức địng kỳ các buổi trình diễn thời trang trong nước và tại các hội chợ trong và ngoài nước để tạo ra phong cách và ấn tượng riêng của công ty và sản phẩm.
Về các kênh phân phối sản phẩm.
Vấn đề tìm kênh tiêu thụ sản phẩm cũng là vấn đề hết sức quan trọng đối với công ty, bởi vì sau khi loại bỏ hình thức gia công theo đơn đặt hàng, công ty sẽ phải lỗ lực hoàn toàn từ khâu tìm nguyên liệu đến khâu sản xuất sản phẩm. Việc thâm nhập thị trường quốc tế lại rất khó khăn vì khả năng tiếp xúc trực tiếp bằng sản phẩm và con người của công ty với khách hàng mục tiêu sẽ gặp phải những hạn chế về tập quán giao dịch quốc tế, ngôn ngữ. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần phối hợp với các công ty dệt may trong nước và ngoài nước để tạo lập các kênh phân phối trên các thị trường chủ yếu bằng cách lập các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các nước EU, Nhật Bản, Mỹ, hoặc thông qua các hãng, các tập đoàn dệt may lớn đã có quan hệ làm ăn lâu dài để phân phối sản phẩm tiêu dùng của mình tới người tiêu dùng quốc tế, hoặc thông qua các thương nhân Việt Nam ở nước ngoài để tạo lập từng bước, quan hệ với từng khu vực thị trường - đặc biệt là các thị trường mới đầy tiềm năng như Bắc Mỹ.
Đa dạng hoá sản phẩm và xây dựng mặt hàng chiến lược.
Hiện nay, khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là tìm được đầu ra cho sản phẩm. Để giải quyết khó khăn đó, doanh nghiệp chỉ có con đường là đa dạng hoá sản phẩm.
Lý do khiến doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm là vì nhu cầu dệt may trên thế giới vô cùng đa dạng và phong phú, mỗi một dân tộc, một quốc gia, một tôn giáo, một giới tính, một mức thu nhập, một lứa tuổi... khác nhau lại có những nhu cầu ăn mặc rất khác nhau. Tại các quốc gia Châu Phi, những bộ quần áo có mầu sắc sặc sỡ rất được ưa thích nhưng ở Châu Âu lại đòi hỏi những bộ quần aó trang nhã lịch sự. Những trang phục thể thao, mạnh mẽ thu hút được sự quan tâm của tầng lớp thanh niên nhưng lại không được những người lớn tuổi chấp nhận. Cùng một bộ quần áo như nhau, nhưng chất liệu bình dân thích hợp với những người có thu nhập trung bình, thì với người có thu nhập cao phải là chất liệu cao cấp. Những ví dụ như vậy còn rất nhiều, do vậy, để tiêu thụ được nhiều sản phẩm nhất, các doanh nghiệp phải làm ra nhiều sản phẩm khác nhau để đáp ứng nhu cầu không giống nhau của thị trường.
Hiện nay, hàng dệt may của công ty xuất khẩu chủ yếu sang thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ, Đông Âu...Những yêu cầu về sản phẩm khác nhau của các thị trường này cũng là một yếu tố khách quan đòi hỏi doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm. Nhật bản và EU là những thị trường có đòi hỏi cao về chất lượng. Thị trường Nhật có yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm, chỉ một vết xước nhỏ trên mặt vải cũng đủ để coi sản phẩm là hỏng tại thị trường này, nên cần hết sức chú trọng đến chất lượng sản phẩm, tập trung xuất khẩu hàng cao cấp có giá trị lớn. Tại thị trường EU, do phải sản xuất theo hạn ngạch nên cũng cần thiết phải chú trọng đến chất lượng để nâng cao giá trị sản phẩm nhưng có thể đưa vào các sản phẩm bình dân phục vụ những người có thu nhập trung bình thấp. Hơn nữa, khi EU xoá bỏ chế độ hạn ngạch với Việt Nam 1/1/2005 thì việc đưa vào thị trường này những sản phẩm bình dân bên cạnh các sản phẩm cao cấp là hợp lý nhằm tận dụng khả năng sản xuất trong nước và khai thác ttriệt để thị trường. Với thị trường Mỹ, đa dạng hoá sản phẩm là cần thiết vì đây là thị trường có nhu cầu hết sức đa dạng. Mỹ là một đất nước đa sắc tộc, người Mỹ có phong cách thoải mái, sống thực dụng nên thị trường này chấp nhận từ những trang phục sang trọng phục vụ các nhà tư bản giàu có đến những bộ quần áo bình dân phục vụ những người dân lao động. Do vậy, đây là thị trường rất lớn để doanh nghiệp khai thác với nhiều mặt hàng khác nhau, từ cao cấp đến bình dân.
Tuy nhiên, đa dạng hoá sản phẩm không phải là mỗi doanh nghiệp có thể sản xuất tất cả các mặt hàng. Tại mỗi doanh nghiệp, bên cạnh khả năng sản xuất đa dạng, cần phải xây dựng lấy một vài sản phẩm mũi nhọn để làm đầu tầu kéo các sản phẩm khác của doanh nghiệp phát triển theo. Sản phẩm mũi nhọn còn có tác dụng như một vũ khí mang tính chiến lược, đặc biệt là khi xâm nhập một thị trường mới. Trong xây dựng một sản phẩm mũi nhọn, cần chú trọng nghiên cứu, lựa chọn xây dựng các sản phẩm dựa trên truyền thống sản xuất, nhu cầu thị trường và lợi thế so sánh của doanh nghiệp, tạo dựng được nhãn hiệu hàng hoá, xây dựng được hình tượng của đơn vị. Ngoài ra, cần chú ý nghiên cứu các nguyên liệu mới, công nghệ sản xuất mới nhằm tìm ra được các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, có tính độc đáo. Trên cơ sở đó mà chiếm lĩnh được thị phần nhất định trên thị trường. Khi có sản phẩm mới ra, cần bắt tay ngay để nghiên cứu tiếp tục có những sản phẩm mới, làm hậu phương vững chắc trong tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường
Đẩy mạnh nghiên cứu thiết kế mẫu mốt, sản xuất thử mặt hàng mới.
Đối với hàng dệt may, ngoài tiêu chuẩn tốt, bền, giá rẻ thì tính thời trang, kiểu dáng của sản phẩm có vai trò rất quan trọng. Thực tế ở nhiều thị trường, cả trong nước và thế giới, người tiêu dùng rất coi trọng đến mẫu mã hàng dệt may, họ sẵn sàng bỏ nhiều tiền hơn để chi trả cho một sản phẩm có chất lượng như các sản phẩm khác nhuưng có kiểu dáng vượt trội.
Hiện nay, tại Việt Nam, nghiên cứu thiết kế mẫu thời trang còn mới mẻ, chưa có kinh nghiệm, giao lưu với các nhà tạo mẫu thời trang quốc tế còn hạn chế, tiếp cận với thị trường thế giới còn quá ít, chưa đáp ứng được yêu cầu trong nước và xuất khẩu. Sản phẩm may mặc chủ yếu được làm theo mẫu do khách hàng nước ngoài đưa sẵn, hoặc làm theo kiểu sao chép- cắt dán từ những mẫu có sẵn của nước ngoài. Các cơ sở thiết kế mẫu trong nước là viện mẫu thời trang hay các nhà nghiên cứu tạo mẫu thời trang, các nhà may nổi tiếng ở Hà Nội, Tp HCM với cơ sở vật chất và đội ngũ nhân lực còn yếu, thiếu kiến thức về sáng tác, thiết kế mẫu thời trang, thiếu thông tin nên chỉ đáp ứng được khoảng 10-20% yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Để cải thiện khả năng thiết kế mẫu thời trang, doanh nghiệp cần chủ động phối hợp với các cơ sở nghiên cứu thông qua đặt các đơn hàng, vừa tạo điều kiện để các cơ sở này nâng cao năng lực của mình, vừa đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp vì làm mẫu tại cơ sở chuyên nghiệp chắc chắn sẽ rẻ hơn tự doanh nghiệp xây dựng cho mình một đội ngũ thiết kế mẫu. Bởi lẽ các cơ sở này nắm bắt thường xuyên hơn nhu cầu, thị hiếu trên thị trường, có đội ngũ nhân lực lành nghề trong lĩnh vực tạo mốt, có những thiết bị chuyên dụng...Ngoài ra, khi có được mẫu mốt cần mạnh dạn tổ chức triển khai sản xuất thử và khi thành công thì nhanh chóng đưa ra để chiếm lĩnh thị trường. ở đây, cũng cần có sự hỗ trợ tích cực của chính phủ trong việc bảo hộ bản quyền, kiểu dáng công nghiệp, chống hàng giả... nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp phải bỏ ra nhiều kinh phí vào việc tìm ra một sản phẩm mới nhưng chỉ sau khi lô hàng đầu tiên được đưa ra thì đã bị làm giả, làm nhái, gây thiệt hại không nhỏ. Đây có lẽ cũng là một lý do khiến doanh nghiệp ngại không đầu tư vào thiết kế mẫu. Song trong tương lai, doanh nghiệp nên có kế hoạch xây dựng một phòng thiết kế mẫu cho riêng mình. Bởi lẽ, trong cơ chế thị trường, một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại bằng chính thực lực và sự am hiểu thị trường của chính mình, tránh những thông tin giả của đối thủ cạnh tranh tung ra.
2.2. Kiến nghị đối với nhà nước.
Để nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, bên cạnh những lỗ lực của doanh nghiệp cần có những sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
Chính sách về thị trường.
Để có được chính sách thị trường thích hợp, thúc đẩy sự phát triển để xuất khẩu của ngành dệt may trước hết cần thấy được các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường. Đó là:
Uy tín của sản phẩm. Việc tạo được uy tín cho một sản phẩm trên một thị trường là cực kỳ khó khăn. Nó bao gồm từ việc xây dựng mẫu mã chất lượng, chủng loại, kiểu cách sản phẩm đến các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng. Đối với công ty, có được uy tín với khách hàng không những nâng cao doanh số tiêu thụ mà còn có nghĩa là đã có khả năng chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp. Khi đó, bên cạnh sự phát triển của ngành dệt may và các ngành có liên quan, hiệu quả thu ngoại tệ cũng tăng nên đáng kể.
Quan hệ chính trị ảnh hưởng tới quan hệ thương mại. Quan hệ thương mại chỉ là một bộ phận trong quan hệ kinh tế đối ngoại nhưng lại là một bộ phận thu ngoại tệ trực tiếp cho đất nước. Sự tham gia phân công lao động quốc tế trên phạm vi toàn cầu và khu vực thông qua ngoại thương đã đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân và thu ngoaị tệ đáp ứng nhu cầu vốn ở giai đoạn đầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Sự phát triển của ngoại thương không thoát khỏi ảnh hưởng của quan hệ chính trị. Quan hệ chính trị tốt tạo đà cho việc hợp tác, tương trợ về đầu tư, chuyển giao công nghệ, là tiền đề để ký kết các hiệp định về thương mại, về thông tin, về cấp phát hạn ngạch; là cơ sở pháp lý đảm bảo cho doanh nghiệp hai bên tiến hành làm ăn với nhau, tạo tiền đề thuận lợi trong thanh toán, giải quyết tranh chấp...
Từ sự phân tích về những yếu tố ảnh hưởng trên, để nâng cao hiệu quả cạnh tranh cho hàng dệt may Việt Nam, Nhà Nước cần có các chính sách về thị trường như:
Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương Mại cầng xây dựng được tiến trình gia nhập WTO có hiệu quả
Nhà nước tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực để Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên của WTO.
Quan hệ tốt với các thị trường lớn nhhư EU, Bắc Mỹ, tạo dựng được khuôn khổ pháp lý tốt đối với các thị trường này để sản xuất hàng tiêu dùng Việt Nam nói chung và hàng dệt may nối riêng được hưởng các ưu đãi đặc biệt như hạn ngạch, tối huệ quốc... và có điều kiện để xuất khẩu với khối lượng lớn.
Tạo điều kiện cho ngành dệt may tham gia vào các hoạt động quốc tế, các diễn đàn chuyên ngành của khu vực để có điều kiện tham gia vào sự phân công lao động quốc tế.
Thực hiện nghiêm túc công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ công nghiệp để các sản phẩm dệt may có chất lượng cao mang nhãn hiệu " made in Việt Nam" giữ được uy tín ,trên thị trường.
Có quy chế phù hợp (bao gồm trách nhiệm và quyền lợi) về hoạt động của các nhân viên thương vụ của các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung, cấp thông tin, giúp ngành dệt may mở rộng thị trường.
Chính sách tài chính
Để đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư, các chính sách tài chính cần có là:
Nhà nước đảm bảo cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước theo đúng luật định.
Cho phép ngành dệt may được sử dụng một phần quỹ bảo hiểm rủi ro của nhà nước ở những công trình trọng điểm
Kéo dài thời gian miễn thuế thu nhập cho các công trình đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng tạo tiền đề cho việc trả lãi vay.
Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu.
Nguyên liệu dành cho ngành công nghiệp dệt may được chia thành 2 loại: một loại có nguồn gốc từ thiên nhiên như bông, đay, tơ tằm...; một loại có nguồn gốc từ các quá trình hoá học như sợi tổng hợp, nhân tạo. Trên thế giới, nhiều nước đã biết phát huy lợi thế về từng chủng loại nguyên liệu để phát triển ngành công nghiệp dệt may của mình như Nhật, Trung quốc...là những nước phải nhập khẩu gần như toàn bộ số nguyên liệu thiên nhiên nhưng nhờ tự túc dược nguồn nguyên liệu hoá học nên công nghiệp dệt may cũng hết sức phát triển. Ngược lại, nhiều quốc gia trên thế giớ là các nước xuất khẩu bông nhưng công nghiệp dệt may lại kém phát triển như: Pakisttan, Uzbekistan...Do vậy, có thể thấy rằng có được nguồn nguyên liệu chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ để phát triển ngành dệt may. Việt Nam thuận lợi về điều kiện tự nhiên để phát triển nguồn nguyên liệu thiên nhiên nhưng để phát triển ổn định và bền vững cần có những điều kiện sau:
Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng nguyên liệu các loại sơ thiên nhiên cho ngành dệt may bao gồm vùng trồng bông, vùng trồng dâu nuôi tằm, vùng trồng đay...Từ đó, có các chính sách hợp lý trong việc bảo đảm cung cấp lương thực và các nhu yếu phẩm khác cho nông dân các vùng này, đồng thời có cơ chế thích hợp trong việc khai thác, bảo toàn và phát triển vùng nguyên liệu lâu dài.
Cho phép trích tỷ lệ % trong doanh thu để lấy nguồn bù đắp cho quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu.
Giảm hoặc miễn thuế GTGT đối với sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu trong nước ( bông, đay, tơ tằm) để ngành dệt may dùng số tiền đó đầu tư cho các hộ cung cấp nguyên liệu.
Đẩy nhanh qua trình xây dựng các khu công nghiệp hoá dầu, làm tiền đề cho việc sản xuất các loại sơ sợi tổng hợp, góp phần tạo thế chủ động về nguyên liệu cho ngành.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập được quy bảo hiểm xuất khẩu cũng như quỹ hỗ trợ xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia hoạt động này, nhất là trong điều kiện thị trường thế giới đầy biến động. Các doanh nghiệp nhỏ, vốn ít vẫn không giám mạo hiểm bán hàng theo phương thức bán trả chậm, trả góp...mặc dù đủ điều kiện ký kết hợp đồng xuất khẩu. Vẫn chưa có hiệp hội ngành may mặc xuất khẩu để hỗ trợ trong việc nghiên cứu thị trường, hỗ trợ về giá cả...Tuy nhiên, đã có quỹ thưởng xuất khẩu. Vừa qua, bộ thương mại đã ban hành quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu nhằm khen thưởng, động viên và khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có thành tích xuất sắc và đạt hiêụ quả cao trong hoạt động xuất khẩu. Để hỗ trợ tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nnghiệp, nhà nước cần sớm thực hiện các giải pháp sau:
Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước và cho phép công ty doanh nghiệp Hà Nội thành lập quỹ hỗ trợ khi giá cả thị trường thế giới có nhiều biến động, gặp nhiều rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng ngoại thương, trong quá trình vận chuyển hàng xuất khẩu.
Chính Phủ sớm ra quyết định thành lập hiệp hội dệt may Việt Nam nhằm tập hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu. Đồng thời nhanh chóng xúc tiến việc thành lập cơ quan xúc tiến thương mại chuyên về thị trường xuất khẩu, trong đó có thị trường hàng dệt may
Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu như: hỗ trợ vốn, cho vay vốn với lãi xuất thấp đối voí các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất hoặc thực hiện hợp đồng khi đã có thị trường và đối tác để xuất khẩu hoặc doanh nghiệp mở rộng hoặc tham gia vào thị trường mới...
Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các vệ tinh cung ứng dịch vụ, nguyên phụ liệu cho hàng dệt may xuất khẩu: chính sách cho vay vốn, trợ giúp về mặt KHKT đối với nông dân vùng nguyên liệu, với các hộ gia đình sản xuất phụ liệu...
Đổi mới hoàn thiện chính sách thuế.
Hệ thống thuế Việt Nam trong những năm qua mặc dù đã được sửa đổi song còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lý có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Do đó, vấn đề đặt ra là phải bổ sung và sửa đổi một số luật thuế:
Thuế xuất khẩu:
Cũng như các ngành xuất khẩu khác, ngành dệt may xuất khẩu cũng phải chịu thuế xuất khẩu. Hiện nay, ngành dệt may xuất khẩu chịu thuế xuất khẩu là 0%. Như vậy trên thực tế, hàng dệt may xuất khẩu được miễn thuế xuất khẩu. Tuy có lợi thế là nguyên vật liệu nhập khẩu sau khi xuất khẩu được sản phẩm sẽ được hoàn thuế nhập khẩu nhưng thuế xuất nhập khẩu quá cao, thời gian hoàn thuế lâu làm cho giá thành sản xuất cao lên, dẫn tới không có lợi thế cạnh tranh về giá. Đối với các doanh nghiệp thì đây là một khó khăn lớn vì hầu hết nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt may đều phải nhập khẩu. Thuế xuất của nhiều loại nguyên liệu nhập khẩu lên đến 40-60%, chỉ có một số ít nguyên liệu chính là có thuế suất thấp hoặc được miễn thuế.
Đối với ngành dệt may, quy định thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu cho sản xuất hàng xuất khẩu là 9 tháng cho hàng gia công may mặc là tương đối dài, phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, việc hoàn thuế nhập, tái xuất và thuế nhập khẩu nguyên liệu lại quá chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục rườm rà, cơ quan thu thuế và cơ quan hoàn thuế không phối hợp với nhau gây thiệt hại và mất thời gian cho doanh nghiệp. Để khắc phục những vướng mắc và toạ điều kiện cho ngành dệt may phát triển hoạt động xuất khẩu, về thuế xuất nhập khẩu có một số kiến nghị sau:
áp dụng thuế suất 0% đối với các nguyên liệu chính như bông, các loại sợi, phụ kiện...
Phải hoàn thuế cho các doanh nghiệp tham gia cung ứng nguyên phụ kiện đầu vào
Đối với vải nhập khẩu thì thuế suất 40-60% là rất cao. Chính phủ nên xem xét vấn đề này
Việc hoàn thuế tái xuất cần tiến hành nhanh hơn.
Thuế GTGT: Từ 1/1/1999, hệ thống thuế doanh thu không được sử dụng mà thay vào đó là thuế GTGT nhăm tránh đánh thuế trùng lặp và chấn trỉnh công tác hạch toán kế toán.
Hàng dệt may xuất khẩu thuộc dạng khuyến khích xuất khẩu, chịu thuế GTGT ở mức 0%, đồng thời còn được thoái thuế GTGT các khâu sản xuất trước.
Chính sách về hạn ngạch và giấy phép xuất khẩu hàng dệt may.
Về hạn ngạch
Đối với hạn ngạch xuất khẩu nhằm đưa việc giao hạn ngạch hàng năm vào nề nếp và khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, Liên Bộ Công Nghiệp- Kế hoạch đầu tư-Thương mại đã ban hành thông tư số 29/1999/TTLB về việc giao hạn ngạch năm 2000. Chính sách này đã sự linh hoạt, mang nhiều tính ưu tiên cho những doanh nghiệp có khả năng sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước song vẫn có những kiến nghị cần giải quyết sau:
Cần phân bổ hạn ngạch sớm từ đầu năm để các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất kinh doanh chủ động
Việc phân bổ hạn ngạch phải căn cứ vào năng lực sản xuất kinh doanh thực sự của các doanh nghiệp, đảm bảo công bằng nghiêm minh không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp
Nâng tỷ lệ hạn ngạch phân bố theo hình thức thưởng lên 50% vào năm 2003 và tiến tới 100% hạn ngạch sẽ được phân bổ theo thành tích xuất khẩu vào thị trường phi hạn ngạch. Đồng thời đưa mặt hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường phi hạn ngạch vào danh sách các mặt hàng được trợ cấp nóng.
Theo dõi chặt chẽ thường xuyên việc thực hiện hạn ngạch ở các doanh nghiệp đảm bảo cho việc thực hiện hạn ngạch có hiệu quả.
Về việc cấp giấy phép.
Đây là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý và điều tiết hoạt động xuất khẩu. Trong những năm qua, nhờ cải cách trong thủ tục hành chính, cũng như điều kiện được cấp hạn ngạch song việc xin cấp giấy phép cho từng chuyến hàng làm các doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó là nạn quan liêu, cửa quyền trong khi làm thủ tục hải quan cũng làm cho doanh nghiệp tốn không ít thời gian chi phí tiền bạc.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần như hiện nay, mức độ cạnh tranh là rất quyết liệt. Sự tồn tại của cạnh tranh phải được chấp nhận nhưng không được lo sợ. Tôn trọng cạnh tranh không kể loại hình hay quy mô của nó là điều có lợi. Sự tôn trọng đó có thể tạo ra những suy nghĩ độc đáo, làm tăng hiệu quả sản xuất, tạo ra khả năng tiếp thị và nâng cao lợi nhuận. Có thể rút ra được những bài học từ cạnh tranh để phấn đấu và bảo đảm rằng sản phẩm và hoạt động của công ty mình tốt hơn đối thủ cạnh tranh.
Trong bối cảnh đó các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận cạnh tranh. Công ty dệt may Hà Nội không phải là một ngoại lệ. Trong thời gian qua, công ty đã tham gia canh tranh ở nhiều thị trường khác nhau. Công ty đã đạt được một số kết quả như KNXK không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước, mẫu mã chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, một số mặt hàng tạo được những vị trí nhất định trên những thị trường lớn là EU, Mỹ, Nhật Bản. Tuy nhiên, so với hàng hoá các đối thủ trong và ngoài nước đang hoạt động trong lĩnh vực này thì sức cạnh tranh hàng hoá của công ty còn thấp. Điều này gây ra nhiều thiệt hại cho công ty.
Đề tài “Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở công ty HANOSIMEX” đựoc nghiên cứu với mong muốn làm rõ các giải pháp chủ yếu để giúp công ty HANOSIMEX nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung nâng cao sức cạnh trạnh của hàng hoá xuất khẩu.
Với khả năng của công ty và sự hỗ trợ từ phía nhà nước, chúng ta tin rằng, trong thời gian tới, sức cạnh tranh các mặt hàng chủ yếu của công ty sẽ tăng lên
Mục lục các hình tham khảo.
STT
Nội Dung
Trang
1
Mô hình 5 sức mạnh của M.Porter
9
2
Sơ đồ bộ máy quản lý của Hanosimex
33
3
Kim ngạch xuất khẩu theo các năm
47
4
Quy trình phân phối sản phẩm của công ty
66
Mục lục bảng số liệu tham khảo.
STT
Nội Dung
Trang
1
Cơ cấu lao động trong công ty qua các năm
39
2
Phân tích khái quát tình hình tài chính của công ty
42
3
Máy móc thiết bị tại nhà máy sợiI và nhà máy sợi II
44
4
Kim ngạch xuất khẩu theo thị trường nội địa và xuất khẩu
46
5
Kết quả kinh doanh xuất khẩu theo thị trường của công ty
49
6
Doanh thu theo sản phẩm qua các năm
50
7
Cơ cấu sản phẩm mũ xuất khẩu
51
8
Các thông số so sánh khả năng cạnh tranh của một số công ty thuộc TCT dệt may Việt Nam
53
9
Thực trạng cung ứng nguyên vật liệu
60
10
Giá cả sản phẩm xuất khẩu của công ty tên thị trường Nhật Bản
61
11
Danh mục mặt hàng sợi của công ty
69
12
Danh sách nhà máy đã có chứng nhận ISO 9002
71
Tài liệu tham khảo.
Giáo trình kinh doanh quốc tế, TS. Nguyễn Thị Hường (chủ biên), NXB thống kê - 2001.
Giáo trình quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, GS. PTS. Tô Xuân Dân (chủ biên), NXB thống kê - 1998.
Chiến lược cạnh tranh, M.E. Porter, NXB khoa học kỹ thuật, 1996.
Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức mạnh cạnh tranh các doanh nghiệp Việt Nam, Trần Xuân Kiên, NXB thống kê, 1998.
Báo cáo xuất nhập khẩu của công ty dệt may Hà Nội các năm.
Báo cáo đại hội công nhân viên chức năm 2002 của công ty.
Báo cáo kết quả kinh doanh một số công ty thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam năm 2002.
Tạp chí công nghiệp Viêt Nam, tháng 4 năm 2002
Thời báo kinh tế Việt Nam, số 75 năm 2001.
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I: Lý luận về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá 1
I. Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá 1
1. Khái niệm về cạnh tranh và sức cạnh tranh 1
2. Vai trò của việc nâng cao sức cạnh tranh 4
3. Phân loại cạnh tranh 4
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hoá và các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá 9
1. Các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hoá 9
2. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá 17
III. Các công cụ và phương thức nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 19
1. Các công cụ cạnh tranh phổ biến 19
2. Các phương thức nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 23
IV. Tính tất yếu của việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu 26
1. Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 26
2. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm 27
Chương II: Thực trạng hoạt động nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu Công ty dệt may Hà Nội 29
I. Tổng quan về công ty 29
1. Lịch sử hình thành và phát triển 29
2. Cơ cấu tổ chức của công ty, chức năng nhiệm vụ của các phòng ban 31
3. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của công ty 36
3.1. Các nhân tố bên ngoài 36
3.2. Các nhân tố bên trong 39
II. Thực trạng hoạt động nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu ở Công ty dệt may Hà Nội 45
1. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty qua các năm 46
2. Phân tích khả năng cạnh tranh của Công ty 52
3. Sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở Công ty dệt may Hà Nội 58
4. Các biện pháp công ty đã áp dụng để nâng cao cạnh tranh 63
4.1. Hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty 63
4.2. Hoạt động phân phối 64
4.3. Chính sách giá cả 66
4.4. Chính sách sản phẩm 68
4.5. Chính sách chất lượng 70
III. Đánh giá sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu Công ty dệt may Hà Nội 72
1. Những thành tựu 72
2. Những tồn tại 73
3. Nguyên nhân 74
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Công ty dệt may Hà Nội 76
I. Định hướng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở Công ty dệt may Hà Nội 76
II. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở Công ty dệt may Hà Nội 77
1. Những giải pháp từ phía công ty 77
2. Kiến nghị với nhà nước 87
Kết luận
Tài liệu tham khảo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9507.doc