Đề tài Pháp luật thuế nhập khẩu nhìn từ thực tiễn công ty TNHH IPC

v Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài: Trong những năm qua, nhất là từ khi thực hiện cải cách thuế bước 2, từ năm 1999 đến nay, cùng với việc sửa đổi, bổ sung và ban hành, áp dụng mới các sắc thuế nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, pháp luật về thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện nay, Việt Nam sẽ phải cắt giảm đáng kể hàng rào thuế nhập khẩu. Thuế nhập khẩu là loại thuế có liên quan đến yếu tố nước ngoài, đồng thời ảnh hưởng lớn đến vấn đề tự do hóa thương mại. Vì thế bất kỳ một quốc gia nào chấp nhận con đường hội nhập đều phải chấp nhận ràng buộc mình với các cam kết quốc tế, mà nội dung chủ yếu của các cam kết đó là dỡ bỏ hàng rào thương mại, đặc biệt là hàng rào thuế nhập khẩu. Ngoài WTO, Việt Nam còn phải thực hiện nhiều lộ trình cắt giảm thuế để tham gia các khu vực mậu dịch tự do như: khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc (ACFTA); khu vực mậu dịch tự do ASEAN với các đối tác khác như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc-Newzealand. Trong bối cảnh đó, pháp luật về thuế nhập khẩu là một vấn đề cần phải có sự quan tâm thích đáng. v Mục đích nghiên cứu đề tài. Trình bày những vấn đề pháp lý chung về thuế nhập khẩu. Từ đó, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu tại Việt Nam nói chung và đặc biệt là tại công ty TNHH IPC nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp đối với công ty và kiến nghị với nhà nước trong việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. v Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng: Pháp luật về thuế nhập khẩu. - Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật thuế nhập khẩu nhìn từ thực tiễn công ty TNHH IPC. v Phương pháp nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, các phương pháp được sử dụng chủ yếu là: phân tích, thống kê, so sánh, v Kết cấu: Chuyên đề được trình bày theo kết cấu ba phần như sau: - Chương I: Những vấn đề pháp lý chung về thuế nhập khẩu. - Chương II: Thực trạng áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu tại công ty TNHH IPC. - Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi luôn nhận được sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ và ThS. Vũ Văn Ngọc cũng như toàn thể cán bộ, nhân viên công ty TNHH IPC, đặc biệt là phòng kế toán và phòng kinh doanh. Tuy nhiên, do hiểu biết còn hạn chế, thời gian nghiên cứu không nhiều nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để và các bạn để đề tài hoàn thiện hơn. LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: NHỮNG ĐỀ PHÁP LÝ CHUNG VỀ THUẾ NHẬP KHẨU I. Khái quát chung về thuế nhập khẩu 1. Khái niệm và vai trò của thuế nhập khẩu 2. Tác động của thuế nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân II. Pháp luật Việt Nam về thuế nhập khẩu 1. Sự cần thiết phải ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2. Những điểm khác biệt về thuế nhập khẩu trong Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005 so với Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 1998 3. Nội dung pháp luật thuế nhập khẩu III. Những cam kết quốc tế của Việt Nam về thuế nhập khẩu 1. Cam kết của Việt Nam về thuế nhập khẩu trong khuôn khổ hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) 2. Cam kết của Việt Nam về thuế nhập khẩu trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại-Việt Nam Hoa Kỳ 3. Cam kết của Việt Nam về thuế nhập khẩu trong khuôn khổ WTO CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY TNHH IPC I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY TNHH IPC 1. Quá trình hình thành và phát triển 2. Chức năng, nhiệm vụ 3. Cơ cấu tổ chức 4. Các nguồn lực của công ty 4.1. Vốn 4.2. Công nghệ 4.3. Lao động 5. Những kết quả đạt được và phương hướng trong thời gian tới 5.1. Những kết quả đạt được 5.2. Phương hướng hoạt động trong thời gian tới II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHĨA VỤ NỘP THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY 1. Thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam 1.1. Vấn đề áp dụng pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1.2. Vấn đề thực hiện các cam kết 2. Thực trạng thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu tạicông ty 2.1. Nghiệp vụ nhập khẩu thép tại công ty TNHH IPC 2.2. Danh mục các mặt hàng chịu thuế nhập khẩu của công ty 2.3. Vấn đề kê khai thuế nhập khẩu 2.4. Vấn đề xác định giá tính thuế tại công ty 2.5. Về thuế suất thuế nhập khẩu của một số mặt hang chủ yếu của công ty 2.6. Vấn đề miễn, hoàn thuế nhập khẩu 2.7. Tình hình nộp thuế nhập khẩu tại công ty TNHH IPC CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU I. Những bất cập trong pháp luật thuế nhập khẩu và thực thi pháp luật thuế nhập khẩu 1. Những bất cập từ phía Nhà nước 2. Phía công ty TNHH IPC II. Giải pháp đối với công ty TNHH IPC 1. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực 2. Giải pháp về huy động vốn 3. Giải pháp về hoạt động thị trường 4. Giải pháp vận dụng chính sách giá linh hoạt 5. Giải pháp về tìm kiếm thị trường xuất khẩu 6. Giải pháp vận động hành lang trong thương mại quốc tế (lobby) 7. Giải pháp tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp với cơ quan hải quan và cộng đồng doanh nghiệp 8. Giải pháp nhằm tránh các vụ kiện thương mại III. Kiến nghị đối với cơ quan hải quan 1. Tổ chức bộ máy cán bộ thu thuế nhập khẩu 2. Hiện đại hoá ngành hải quan trước yêu cầu hội nhập 3. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát IV. Một số kiến nghị với nhà nước nhằm hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu 1. Kinh nghiệm quốc tế về hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu 2. Một số kiến nghị với nhà nước nhằm hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc107 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1644 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật thuế nhập khẩu nhìn từ thực tiễn công ty TNHH IPC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yền xử phạt của mỗi cấp có khoảng chênh lệch khá lớn. Cụ thể, Cục trưởng Cục hải quan được quyền phạt tiền đến 20 triệu đồng trong khi cấp trên, có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục hải quan được phạt tiền tối đa là 70 triêu đồng trong lĩnh vực hải quan và 100 triệu đồng trong lĩnh vực thuế. 2. Phía công ty TNHH IPC 2.1. Nguồn nhân lực. IPC có lợi thế là nguồn nhân lực trẻ, năng động, có những nhân viên có khả năng tham gia đàm phán tốt do có trình độ ngoại ngữ và khả năng chuyên môn cao. Tuy nhiên, do còn trẻ, đội ngũ nhân viên còn thiếu kinh nghiệm trong kinh doanh. Những kiến thức về hội nhập khu vực và quốc tế của ngành, của doanh nghiệp nói riêng, về chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, về hợp tác quốc tế, về luật pháp và thông lệ quốc tế và những quy định của WTO liên quan đến ngành, doanh nghiệp cũng như các cam kết quốc tế mà chính phủ Việt Nam đã ký kết, phê chuẩn còn hạn chế. 2.2. Vấn đề mở rộng thị trường. Hiện nay, hoạt động nghiên cứu thị trường, hoạt động Marketting của công ty chưa được triển khai có kế hoạch và hệ thống. Công ty chưa có phòng Marketting riêng để thu thập và dự báo thông tin, mà hoạt động này chủ yếu vẫn do một nhóm nhân viên đảm nhiệm. Mặt khác, thị trường tiêu thụ của công ty mới chỉ giới hạn ở một số khu vực nhất định. Công ty chưa có nhiều quầy hàng, cửa hàng để bầy bán sản phẩm nên sản phẩm của công ty chưa tiếp cận nhiều với người tiêu dùng trực tiếp. Đối với một công ty chuyên nhập khẩu thép như IPC thì vấn đề chủ động tìm kiếm thị trường, mở rộng và duy trì thị trường, đồng thời nắm rõ những biến động của hàng hoá cùng chủng loại trên thị trường quốc tế là những vấn đề cần phải được chú trọng. 2.3. Hoàn thuế nhập khẩu. Theo quy định của pháp luật, trong thời hạn 15 ngày kể ngày nhận đủ hồ sơ yêu cầu hoàn thuế theo quy định, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét hoàn thuế có trách nhiệm ra quyết định hoàn thuế. Công ty được hoàn thuế nhập khẩu trong trường hợp đã nộp thuế nhập khẩu nhưng thực tế lại nhập khẩu ít hơn hoặc hàng do phía nước ngoài cung cấp sai quy cách, tiêu chuẩn. Nhưng thời gian được hoàn thuế lại thường chậm hơn so với quy định. Nhiều khi do ngại thủ tục hoặc lo sợ chi phí cho việc làm thủ tục hoàn thuế nhập khẩu lớn hơn cả số thuế có thể được hoàn nên công ty ngại xin hoàn thuế. 2.4. Một vài bất cập khác. Những năm gần đây, với tốc độ phát triển kinh tế- xã hội để thực hiện mục tiêu công nghệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu tiêu thụ thép liên tục tăng cao. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào ngành thép đã có những dấu hiệu đáng mừng khi có những tập đoàn sản xuất thép lớn trên thế giới đã tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam. IPC là một công ty thương mại nhập khẩu thép từ nước ngoài, mặc dù cũng đang nỗ lực với mục tiêu xuất khẩu sản phẩm của mình ra thị trường thế giới nhưng hiện tại công ty vẫn nhập khẩu là chủ yếu. Do vậy, công ty không chủ động được nguồn hàng vì lệ thuộc vào đối tác nước ngoài, nếu không cẩn thận trong việc kiểm tra lô hàng có thể nhập hàng kém chất lượng, không tiêu thụ được trong nước. Hơn nữa, do cạnh tranh và kích cầu, công ty bán hàng theo phương thức trả chậm là phổ biến nên thường gặp khó khăn trong khâu thanh toán và tiêu thụ. Các biện pháp đòi nợ cũng chưa thực sự hiệu quả. Để khắc phục những bất cập trên thì đối nhà nước, cơ quan hải quan cũng như với doanh nghiệp cần phải có những giải pháp phù hợp. II. Giải pháp đối với công ty TNHH IPC. Thời gian qua, đất nước ta đã tích cực thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với tốc độ nhanh chóng và sâu rộng. Thông qua việc ký kết và thực hiện hàng loạt các thỏa thuận, hiệp định với các tổ chức, hiệp hội quốc tế đã tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội, có thể tham gia vào thị trường đa dạng, phát huy được những lợi thế riêng của mình, có điều kiện mở rộng quan hệ với các đối tác phù hợp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng sẽ phải chấp nhận đối mặt với những thách thức, chấp nhận rủi ro, nếu không nắm vững thị trường và nhạy bén trong kinh doanh, hiểu biết luật chơi thì nguy cơ thất bại là không thể tránh khỏi. Là một công ty thương mại với quy mô không lớn, IPC cần phải năng động hơn, nắm vững được các cam kết cũng như luật lệ làm ăn trong thương mại quốc tế. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như hiệu quả thực thi pháp luật thuế nhập khẩu tại công ty TNHH IPC. 1. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là nhân tố trung tâm, quyết định đến hiệu quả hoạt động của công ty. Vì vậy, công ty cần có kế hoạch cụ thể đào tạo nguồn nhân lực. Họ không chỉ là những người có trình độ chuyên môn mà còn phải là những người am hiểu kiến thức về hội nhập quốc tế. Đối với những nhân viên làm công tác kê khai, tính và nộp thuế nhập khẩu đòi hỏi phải được trang bị những kiến thức về các cam kết, các lộ trình giảm thuế nhập khẩu cuả Việt Nam, nắm vững Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ngoài ra, công ty cần xây dựng chế độ tiền lương, tiền thưởng theo hướng khuyến khích nhân viên đóng góp tích cực cho sự phát triển của công ty, kịp thời phát hiện những nhân tài và bồi dưỡng họ, bố trí, sắp xếp họ vào những vị trí phù hợp với năng lực của họ. Công ty có thể cử nhân viên đi học các lớp ngắn hạn và dài hạn về nghiệp vụ xuất nhập khẩu. 2. Giải pháp về huy động vốn. Hiện nay, nguồn vốn của công ty chủ yếu là vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Trong khi lại có một số lượng vốn không nhỏ đang bị khách hàng chiếm dụng do thanh toán trả chậm, và một lượng vốn chưa thu hồi được do hàng còn tồn kho chưa tiêu thụ hết. Do vậy, trong thời gian trước mắt, công ty cần có biện pháp giải quyết việc thu hồi vốn, bằng việc tăng cường hiệu quả của các công cụ đòi nợ, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng số vòng quay của vốn lưu động. Mặt khác, công ty cũng cần xây dựng mối quan hệ lâu dài và tốt đẹp với các ngân hàng và tổ chức tín dụng để được hưởng những ưu đãi của các ngân hàng như: hỗ trợ tín dụng trong hoạt động nhập khẩu, mở L/C, thanh toán, các thủ tục vay tiền, v.v…. 3. Giải pháp về hoạt động thị trường. Tại công ty, hoạt động nghiên cứu, khảo sát thực tế về nguồn hàng, nhà cung cấp, khách hàng, và đối thủ cạnh tranh chủ yếu do phòng kinh doanh đảm nhiệm. Một nhóm nhân viên trong phòng kinh doanh chịu trách nhiệm thu thập thông tin, xử lý chọn lọc những thông tin này rồi đưa lên Ban giám đốc, làm cơ sở cho việc ra quyết định kinh doanh. Hoạt động thị trường là một hoạt động vô cùng quan trọng, trong hoạt động này công ty cần tiến hàng phân loại thị trường để có những biện pháp khai thác và phát triển thị trường hợp lý. Thông thường, đối với khu vực thành thị, là nơi đông dân, và có nhiều khu công nghiệp, công trình giao thông nên nhu cầu tiêu thụ thép của thị trường này là khá lớn. Còn với khu vực nông thôn, nơi có các làng nghề kim khí, nhu cầu tiêu thị thép là không thường xuyên nên công ty cần giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài. Bên cạnh đó, công ty cũng cần phải tăng cường hỗ trợ khách hàng, bằng việc tổ chức một đội ngũ tư vấn cho khách hàng về tính năng, công dụng của sản phẩm, giúp khách hàng lựa chọn những sản phẩm có quy cách, tiêu chuẩn phù hợp với công trình của họ, giúp họ nhận biết được hàng kém chất lượng, sai quy cách. 4. Giải pháp vận dụng chính sách giá linh hoạt. Chính sách giá cả tác động trực tiếp đến lượng hàng tiêu thụ, đến lợi nhuận của công ty. Chính sách giá cả của công ty căn cứ vào các yếu tố như: giá bán của nhà cung cấp, quan hệ cung cầu trên thị trường, mức thuế của nhà nước, giá bán của đối thủ cạnh tranh. Thép xây dựng là loại mặt hàng đặc thù, được sản xuất theo những tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định nên các chủng loại sản phẩm của công ty kinh doanh có sự khác biệt không nhiều so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Do vậy, công ty có thể nghiên cứu, tham khảo giá của các đối thủ cạnh tranh để xác định giá bán của mình cho hợp lý, đáp ứng được tâm lý phức tạp của người tiêu dùng. Hiện nay, tâm lý của người tiêu dùng Việt Nam, họ ưa thích những sản phẩm có chất lượng, giá cả phải chăng, giá rẻ có thể gây tâm lý nghi ngờ về chất lượng sản phẩm. Công ty phải thường xuyên theo dõi tình hình cung cầu trên thị trường để có thể xác định mức giá linh hoạt cho từng thời điểm. 5. Giải pháp về tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Công ty IPC chỉ tiến hành xuất khẩu một số mặt hàng với số lượng ít ỏi, thị trường xuất khẩu còn hạn hẹp. Do vậy, vấn đề mở rộng thị trường xuất khẩu là một yêu cầu cấp thiết đang đặt ra. Đây là một vấn đề khó khăn, đòi hỏi phải mất nhiều thời gian và chi phí. Sự chủ động trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu sẽ giúp công ty chủ động tránh bị động khi vấp phải hàng rào bảo hộ thương mại của bất kỳ một quốc gia nào. Mặt khác, công ty cũng nên theo dõi những biến động của hàng hóa cùng chủng loại trên thị trường quốc tế để đưa ra giá bán cho hợp lý. Cần tính toán sao cho phía nhập khẩu cũng không gặp khó khăn trong việc tiêu thụ. Trong thời gian đầu, có thể chấp nhận giá bán thấp, lợi nhuận ít do sản phẩm chưa cạnh tranh và vượt trội so với cớngản phẩm của các nước trong khu vực và thế giới. Công ty nên có một đội ngũ chuyên Marketting xuất khẩu. Bộ phận này cần bố trí những cán bộ năng động, thông thạo chuyên môn nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu các mặt hàng kinh doanh, chủ động trong công tác tìm kiếm thị trường và đàm phán ký kết. 6. Giải pháp vận động hành lang trong thương mại quốc tế (lobby). Tham gia vào thương mại quốc tế đồng nghĩa với việc bước vào một sân chơi rộng lớn, nhiều cơ hội và nhiều thách thức, bất trắc dù muốn hay không cũng phải đối mặt. Trong bối cảnh đó, vận động hành lang (lobby) có vai trò đặc biệt quan trọng. Doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty TNHH IPC nói riêng cần nhận thức rõ hơn về vai trò, hiệu quả của lobby trong làm ăn kinh tế, đăc biệt là trong quan hệ với đối tác nước ngoài. Thời gian vừa qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã phải đối mặt với những vụ kiện bán phá giá cá da trơn, tôm, vào thị trường EU, và đã bộc lộ không ít lúng túng, bỡ ngỡ…Điều đó cho thấy hàng hoá Việt Nam đơn độc tiến vào thị trường ngoại quốc trong khi lobby phải đi trước một bước. Thực tế, nhiều doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có chú trọng đến lobby nhưng khi thực hiện lobby lại không hiệu quả như mong muốn. Lobby là việc cần phải làm thường xuyên và lien tục cả một quá trình, chứ không thể chỉ để xảy ra sự cố mới tiến hành lobby, vậy chẳng khác nào nước đến chân mới nhảy. Đối với công ty TNHH IPC hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu, và đang xúc tiến xuất khẩu thì vấn đê lobby càng phải được quan tâm. Việc này không chỉ phải được tiến hành thường xuyên mà còn phải có sự kết nối và thống nhất giữa doanh nghiệp, hiệp hội và nhà nước. Ví dụ, trong chiến lược phát triển của công ty, phải thống nhất với chiến lược phát triển ngành thép, chứ không thể có tình trạng chủ trương nhà nước thế này mà doanh nghiệp lại làm thế kia. Đó chính là tính không chuyên nghiệp của lobby. Đây là một quá trình lâu dài và chi phí cho nó là không nhỏ, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như IPC nên công ty cần phải có kế hoạch cụ thể trong quá trình phát triển của mình. Dĩ nhiên, công ty cần nỗ lực tự thân thực hiện tốt công việc quảng bá hình ảnh của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn cần đến sự hỗ trợ của nhà nước. Công tác lobby sẽ tốt hơn nếu các cơ quan ngoại giao các nước sở tại góp tiếng nói chung với công ty. Vai trò của báo chí cũng quan trọng. Việc sử dụng các báo điện tử, website để quảng bá hình ảnh ngành nghề để bên ngoài hiểu và có cách nhìn đúng đắn về công ty. Đây cũng là một kênh lobby có hiệu quả. Thực hiện tốt việc lobby sẽ giúp công ty ngừa những căn bệnh lớn, giúp "giảm đau" khi bị "bệnh". Không còn cách nào khác, thực hiện được việc này, công ty cần phải có một nền tảng "thể lực" tốt và đội ngũ "bác sỹ" lành nghề để cùng vượt qua bệnh tật. 7. Giải pháp tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp với cơ quan hải quan và cộng đồng doanh nghiệp. Một khi công ty tự nguyện chấp hành các quy định hướng dẫn của cơ quan hải quan, thì khối lượng công việc của cơ quan hải quan sẽ giảm xuống rõ rệt, mức độ tin cậy đối với công ty cao, tình trạng gian lận thương mại nói chung và gian lận qua giá nói riêng sẽ bị hạn chế. Bằng sự hợp tác của công ty, một mặt cơ quan hải quan sẽ thu thập được thông tin, dữ liệu, bằng chứng về các hành vi gian lận thương mại qua giá, một mặt nâng cao ý thức của công ty về việc tuân thủ các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, thực tiễn cạnh tranh và yêu cầu tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, trở thành bộ phận của chuỗi giá trị toàn cầu sẽ cho phép và buộc các doanh nghiệp phải mở rộng và tăng cường các quan hệ hợp tác với nhau, với hiệp hội thép. Hiệp hội sẽ trở thành trợ thủ đắc lực cho công ty trong việc cung cấp thông tin và liên kết các doanh nghiệp. 8. Giải pháp nhằm tránh các vụ kiện thương mại. Công ty TNHH IPC là công ty thường xuyên tiến hành các giao dịch trong thương mại quốc tế. Mà đặc thù của hoạt động kinh doanh này là có nhiều rủi ro, nhiều tranh chấp. Các vụ kiện thương mại ngày càng trở nên phổ biến trong giao thương quốc tế. Để tự bảo vệ mình, công ty cần phải lưu ý một số vấn đề sau: Nắm vững và thực thi nghiêm chỉnh các quy định, thủ tục pháp lý quốc tế của các nước có quan hệ nhập khẩu, xuất khẩu với công ty nhằm đề phòng nảy sinh các vụ kiện. Theo dõi sát xao, dự báo kịp thời động thái của các nước đó, cả về nhà nước và doanh nghiệp, để sớm có biện pháp phòng ngừa. Trong quá trình kinh doanh, cần phải đảm bảo nghiêm chỉnh các quy định về thống kê, kế toán, lưu trữ hồ sơ, chứng từ…phòng khi có kiện tụng thì có tư liệu để bảo vệ lợi ích của mình. Trường hợp công ty bị kiện đơn lẻ, nếu điều kiện và pháp luật cho phép công ty cần thương thảo với bên nguyên để đi tới thỏa hiệp, thông báo với Hiệp hội thép để được hỗ trợ, Hiệp hội sẽ phối hợp với Bộ ngoại giao, Bộ thương mại cung cấp thông tin cần thiết về pháp luật nước sở tại, trình tự tiến hành vụ kiện, v.v….. III. Kiến nghị đối với cơ quan hải quan. 1. Tổ chức bộ máy cán bộ thu thuế nhập khẩu. Hoàn thiện bộ máy tổ chức của ngành hải quan nói chung và của hệ thống quản lý thu thuế nhập khẩu nói riêng theo hướng, đảm bảo sự thống nhất, tập trung trong vấn đề hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện quy trình thu thuế nhập khẩu từ cơ quan Tổng cục đến các cục hải quan tỉnh, thành phố. Tuỳ theo tình hình thực tế của hoạt động nhập khẩu mà hình thành nên cơ cấu tổ chức cho phù hợp, đối với các Cục hải quan có mật độ hàng hoá nhập khẩu lớn như TP.HCM, Hải Phòng, Hà Nội nên thành lập các phòng ban: phòng tổ chức hành chính thanh tra, phòng nghiệp vụ, chi cục kiểm tra sau thông quan, phòng tham mưu xử lý chống buôn lậu,…. Đối với các đơn vị hải quan có mật độ hàng hoá nhập khẩu ít như: Hà Giang, Lai Châu,... thì chỉ cần thành lập phòng nghiệp vụ tổng hợp bao gồm tất cả các khâu công việc của quy trình thủ tục hải quan. Về công tác quản lý cán bộ: Cần phải quy định rõ trách nhiệm của từng loại cán bộ trên từng vị trí công tác, đánh giá cán bộ chủ yếu căn cứ vào kết quả công tác, vào số lượng và chất lượng công việc được giao, coi trọng phẩm chất chính trị, đạo đức, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Về công tác đào đạo: Cần đào tạo theo hướng chuyên môn hoá sâu theo từng chức năng công việc phù hợp với cơ chế quản lý đối tượng thuế tự khai, tự tính và tự nộp thuế. 2. Hiện đại hoá ngành hải quan trước yêu cầu hội nhập. Trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, công tác cải cách, phát triển và hiện đại hoá phải càng được ngành hải quan quan tâm. Trước mắt, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong nội bộ ngành cũng như với các cơ quan bên ngoài và đặc biệt là đối với doanh nghiệp về hiện đại hoá hải quan như: Nâng cấp hoàn thiện trang Web của ngành, phát hành các tài liệu, mở chuyên mục về hiện đại hoá hải quan trên báo chí, tổ chức các Hội thảo,…triển khai một chương trình quản lý thay đổi phù hợp để đảm bảo sự đồng tình, ủng hộ của trong và ngoài ngành về tiến trình hiện đại hoá cũng như giảm thiểu các tác động tiêu cực. Đồng thời, thường xuyên rà soát lại kế hoạch hiện đại hoá để điều chỉnh, bổ sung kịp thời đảm bảo tính khả thi và tính mục tiêu ngắn hạn, trung và dài hạn; cần sớm hoàn thiện quy trình, mô hình thông quan điện tử cũng như xử lý các tồn tại bộc lộ trong giâi đoạn thí điểm để mở rộng cả về số lượng lẫn loại hình để thông quan điện tử thực sự là bước tập dượt ban đầu cho cả hải quan và doanh nghiệp trong giai đoạn sau. Điều này là một bước đi cần thiết, thể hiện thính chủ động, tích cực của Việt Nam nhằm góp phần nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đap ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của quá trình hội nhập. 3. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát. Ngành hải quan cần phải tăng cường kiểm tra, thanh tra làm trong sạch nội bộ để tăng cường hiệu lực của cơ quan thực thi pháp luật trong đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Ngành hải quan phải xác định phương hương nhiệm vụ chung là tập trung trí tuệ, phát huy mọi nguồn lực trong ngành, tranh thủ sự hỗ trợ bên ngoài, kết hợp giữa công tác cải cách, hiện đại hoá với nhiệm vụ thường xuyên của ngành. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cũng như hệ thống công nghệ thông tin để hỗ trợ triển khai Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, và Luật hải quan cũng như Luật quản lý thuế khi có hiệu lực, đặc biệt là hoàn thiện cơ chế vận hành quản lý rủi ro, đẩy mạnh thông quan điện tư theo lộ trình của Quyết định 149 của Thủ tướng chính phủ. Công tác hiện đại hoá nói chung giai đoạn 2007-2008 tập trung làm công tác về tái thiết kế quy trình thủ tục, hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, triển khai mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng mô hình tổ chức, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật. Sang giai đoạn 2009-2010 tập trung cho công tác triển khai tại các Cục hải quan trọng điểm và cho toàn ngành. IV. Một số kiến nghị với nhà nước nhằm hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu. 1. Kinh nghiệm quốc tế về hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu. Với bất kỳ một quốc gia nào, chính sach thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng, dù hoàn hảo nhất, sau một thời gian triển khai thực hiện trong thực tế, luôn phát sinh những vấn đề không còn phù hợp do trình độ kinh tế-xã hội thường xuyên biến động. Yêu cầu nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật thuế nhập khẩu cho phù hợp với biến chuyển của mỗi nước, đặc biệt trong xu thế hội nhập, đã trở thành đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan. Từ những bài học kinh nghiệm của thế giới, có thể thấy rằng một hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu có hiệu quả phải đạt được 4 mục tiêu sau: Về kinh tế: Có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất. Về tài chính: Tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách. Về xã hội: Thực hiện được công bằng hợp lý. Về kỹ thuật: Mang tính khả thi, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm cả cho tổ chức quản lý và đối tượng nộp thuế. Những mục tiêu này có thể dung hòa nhưng có lúc lại mâu thuẫn với nhau. Ví dụ, muốn đơn giản thì khó công bằng, muốn khuyến khích kinh tế lại ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách. Vì vậy, vấn đề tiên quyết là phải biết phân tích, lựa chọn mục tiêu chủ yếu, thích hợp nhất trong từng giai đoạn. Không thể cầu toàn, đòi hỏi hoàn thiện, đáp ứng ngay một lúc cả 4 mục tiêu, mà phải nên chọn mục tiêu nào cần thiết phải đạt được, các mục tiêu khác có thể giảm bớt trong mức độ nhất định. Tại nhiều nước trên thế giới, họ xây dựng nhiều mức thuế suất nhập khẩu khác nhau nhằm đạt được mục tiêu công bằng xã hội. Tuy nhiên, việc sử dụng nó như một công cụ điều hòa thu nhập không phải lúc nào cũng được thành công ở mọi lúc mọi nơi. Biện pháp này đòi hỏi nhà nước phải có đủ khả năng để kiểm soát một cách hiệu quả nguồn thu của các đối tượng nộp thuế khác nhau, bởi một khi chính phủ không thu đủ thuế thì việc đảm bảo công bằng xã hội thông qua thuế cũng không thể thực hiện được.Thông thường, chỉ có các chính phủ tại các nền kinht tế phát triển mới có khả năng kiểm soát một cách hiệu quả nguồn thu thuế nhập khẩu. Tại nhiều nước đang phát triển hoặc các nước có nền kinh tế chuyển đổi, do trình độ quản lý nền kinh tế và quản lý thuế nhập khẩu còn phức tạp với nhiều mức thuế suất sẽ khó có thể mang lại hiệu quả cao trong việc tái phân phối thu nhập. Điều này có thể học hỏi từ Liên bang Nga, với việc xây dựng một chính sách thuế nhập khẩu đơn giản, thu gọn các mức thuế suất vừa giảm các chi phí liên quan đến việc tính thuế, kê khai thuế cũng như kiểm soát thuế và truy thu thuế. Từ đó, hiệu quả cuả công tác thuế sẽ được nâng cao, tạo điều kiện cho Chính phủ tăng thu ngân sách trong khi vẫn có thể giảm thuế nhập khẩu đáp ứng nhu cầu hội nhập. Thông qua điều chỉnh thuế nhập khẩu, nhà nước có thể điều tiết, hướng dẫn tiêu dùng, bảo hộ sản xuất trong nước, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế thay thế nguyên liệu nhập khẩu bằng nguyên liệu sẵn có, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước, đặc biệt trong tiến trình hội nhập hiện nay, làm cho hàng hoá trong nước có sức cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập, thì vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu sẽ bị hạn chế do thực hiện cam kết quốc tế và khu vực. Hơn nữa, nếu các quốc gia quá dựa vào vai trò bảo hộ từ thuế nhập khẩu đối với một số ngành sản xuất trong nước, không những không thực hiện được chính sách đối ngoại của nhà nước trong bối cảnh mới, mà còn làm cho nền sản xuất trong nước trì trệ, kém phát triển. Trung Quốc chính là một ví dụ để chúng ta học hỏi kinh nghiệm. Từ khi tiến hành đàm phán gia nhập WTO, việc cắt giảm thuế nhập khẩu của Trung Quốc đã được thực hiện một cách nhất quán và liên tục, vừa làm cho hệ thống thuế quan phù hợp với chuẩn mực chung của nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế, vừa nhằm mục tiêu giảm thuế suất bình quân, đáp ứng yêu cầu của việc gia nhập WTO. Lịch trình giảm thuế của Trung Quốc từ năm 1992 đến thời điểm trở thành thành viên của WTO (2001) gồm: - Ngày 1/1/1992: Giảm 225 dòng thuế, chiếm 4,1% tổng số. - Ngày 1/4/1992: Loại bỏ thuế nhập khẩu đối với 18 nhóm sản phẩm, trong đó 16 nhóm sản phẩm với 168 dòng thuế có mức thuế suất nhập khẩu giảm 28,6%-68%. - Ngày 1/1/2000: Giảm 819 dòng thuế với các sản phẩm dệt, giảm 202 dòng thuế với các sản phẩm hoá chất, máy móc và các sản phẩm khác. - Ngày 1/1/2001: Giảm 3462 dòng thuế, chiếm 49% trong tổng số. Với một lộ trình cắt giảm thuế quan như trên, thuế suất bình quân với hàng nhập khẩu của Trung Quốc đã liên tục giảm xuống và tới thời điểm trở thành thành viên của WTO, mức thuế này chỉ còn 1/3 so với thời điểm khi Trung Quốc bắt đầu đàm phán gia nhập. Với Việt Nam chúng ta, không thể xem chính sách thuế nhập khẩu của Liên bang Nga hay của Trung Quốc cũng như của bất kỳ một quốc gia nào khác như một “chìa khoá vạn năng” để áp dụng một cách máy móc, vì mỗi quốc gia có hoàn cảnh khác nhau, tình hình kinh tế- chính trị, xã hội khác nhau, không thể xây dựng một chính sách thuế không phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nước mình. 2. Một số kiến nghị với nhà nước nhằm hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu. 2.1. Đảm bảo thực hiện đúng các cam kết và thông lệ quốc tế. Chính sách thuế nhập khẩu phải phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng cải cách của thế giới, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện hội nhập kinh tế và thu hút nguồn lực tài chính có lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Về nguyên tắc, mức thuế nhập khẩu không đổi, khi giảm mức thuế suất nhập khẩu sẽ làm giảm nguồn thu từ thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, mức thuế nhập khẩu thấp hơn có thể làm tăng nhu cầu nhập khẩu, và sẽ có tác động thuần tới nguồn thu. Tác động này, phụ thuộc vào độ co giãn theo giá của nhu cầu nhập khẩu. Độ co giãn càng cao thì càng có tác động tích cực đến các khoản thu ngân sách. Hơn nữa, cắt giảm thuế nhập khẩu là nhân tố làm tăng kim ngạch xuất khẩu và thúc đẩy sản xuất trong nước, từ đó tạo ra khả năng tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Đồng thời, việc cắt giảm thuế nhập khẩu làm giảm giá hàng nhập khẩu đối với các nguyên vật liệu, giảm chi phí đầu vào của các ngành sản xuất, góp phần hạ giá thành sản phẩm, tăng sản lượng sản xuất. Điều này dẫn đến khả năng tăng thu ngân sách ở một số loại thuế khác. Để việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế không làm biến động quá lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước đến thu ngân sách, nên cần có sự nghiên cứu cắt giảm thuế nhập khẩu theo các Hiệp định đã cam kết theo hướng có lợi cho nền kinh tế trên cơ sở đánh giá năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế hiện có, tính đến khả năng phát triển của ngành trong tương lai. Do vậy, cần chấp nhận từ bỏ một số ngành kinh tế kém phát triển để tạo cơ hội cho một số ngành có lợi thế so sánh hơn, có kế hoạch và biện pháp cụ thể để chủ động kích ứng và vượt lên. Nếu một nước đã thực hiện cải cách thương mại đáng kể, tại thời điểm nào đó, việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm nguồn thu, ít nhất trong ngắn hạn. Tuy nhiên, với những lợi ích tăng trưởng dài hạn của cải cách thương mại, hành động thích hợp nhất là bù đắp sự giảm sút nguồn thu bằng các loại thuế khác ít bóp méo và có cơ sở tính thuế rộng hơn. 2.2. Giảm bớt mức độ phân tán của thuế nhập khẩu. Ở các nước có mức thuế nhập khẩu cao, hành động trốn thuế thông qua việc áp mã sai, buôn lậu hoặc tránh nộp thuế diễn ra khá phổ biến. Do vậy, việc giảm thuế nhập khẩu có khả năng tạo ra nguồn thu cao hơn vì đã làm giảm chi phí thực thi và tăng lượng hàng hóa nhập khẩu chịu thuế do các hoạt động buôn lậu giảm bớt. Nói rộng hơn, sự giảm bớt mức độ phân tán của thuế nhập khẩu sẽ có xu hướng làm tăng nguồn thu vì giảm các động cơ trốn thuế. Một hệ thống thuế nhập khẩu đồng nhất hoặc chỉ vài nhóm thuế suất sẽ giảm thiểu việc trốn thuế, giảm chi phí hành thu do giảm bớt khả năng áp mã sai và các sai sót khi định giá. Đồng thời, việc đơn giản hóa cấu trúc thuế nhập khẩu có thể làm tăng tính minh bạch và làm giảm sự méo mó trong thương mại và sản xuất. Đa số các thành viên của WTO đều áp dụng mức thuế suất thấp cho nguyên liệu thô, những hàng hóa chưa qua chế biến và máy móc là công cụ sản xuất, thuế suất cao hơn cho thành phẩm. Điều này làm tăng tính hiệu quả của chính sách thuế nhập khẩu, thúc đẩy thương mại và sản xuất. Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của Chile, Estonia, Hồng kông đều có mức thuế quan đồng nhất. Hay một số nước có mức thuế quan tương đối đồng nhất như: Bolivia, Cộng hòa Kyrgyz có bảng thuế suất khoảng 10%. Singapore có mức thuế đơn giản trung bình 0.5 % và một khoảng giao động chuẩn ít hơn 3%. Một số nước gồm Brunei Darussalam, Ecuador, Hondura và Mexico có mức thuế bình quân dưới 135 với giao động nhỏ (dưới 6%). 2.3. Điều chỉnh thuế suất của một số mặt hàng thép. Thực tế trong những năm qua, do tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm tăng nhu cầu về thép, từ 4.386 ngàn tấn/năm 2001 lên 7.458 ngàn tấn/ năm 2005. Việt Nam cam kết đến năm 2009 mới mở cửa thị trường sắt thép. Trong thời gian tới nhu cầu về thép của Việt Nam vẫn ở mức cao, nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 giảm xuống ước khoảng 9%/ năm. Mặt khác, sản xuất thép trong nước vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng. Năm 2001 sản xuất phôi chỉ đáp ứng được 20,7% nhu cầu, sản xuất thép cũng chỉ đáp ứng được 48,9% nhu cầu. Năm 2005, tỷ lệ này có nâng lên nhưng không nhiều, sản xuất phôi đáp ứng 27,5% nhu cầu, sản xuất thép đáp ứng 51,1% nhu cầu. Chính điều này dẫn đến sự lệ thuộc vào thị trường thế giới của thị trường thép Việt Nam. Nguyên nhân là do chi phí sản xuất thép cao hơn giá nhập khẩu. Hơn nữa, chính sách thuế nhập khẩu để bảo hộ chưa hợp lý, chưa hỗ trợ cho ngành thép phát triển và giảm bớt mức độ phụ thuộc vào thị trường thế giới. Thuế nhập khẩu phôi thép áp dụng cho năm 2001 là 7%và từ tháng 8/2004 đến nay thì giảm xuống 5%. Thuế nhập khẩu thép xây dựng áp dụng cho năm 2001 là 40% và từ tháng 10/2005 đến nay thì giảm xuống 10%. Thuế nhập khẩu thép tấm, thép lá từ tháng 10/2005 là 7%. Thép lá mạ kẽm duy trì ở mức 10%, còn thép tốt luôn ở mức 0%. Với mức độ bảo hộ như vậy, chưa đủ sức cho ngành thép đối phó được những biến động về giá thép và phôi thép trên thị trường thế giới. Để đảm bảo cho ngành thép phát triển, có thể đối phó được những biến động về giá trên thị trường thế giới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thuế nhập khẩu cần được nghiên cứu điều chỉnh theo hướng tích cực hơn. - Thứ nhất, thuế nhập khẩu phôi thép phải đảm bảo tỷ lệ bảo hộ thực tế cao hơn hiện nay, góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước, đáp ứng được 50% nhu cầu về phôi thép như mục tiêu quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam đến năm 2010 đã được phê duyệt. - Thứ hai, bổ sung ngành sản xuất phôi thép vào Danh mục A- ngành nghề, lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư, Đưa ngành sản xuất phôi thép và diện được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Thu hút vốn đầu tư vào lĩng vực sản xuất phôi thép, giảm bớt khó khăn về tài chính cho doanh nghiệp sản xuất sản phẩm này, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong xu thế hội nhập, góp phần khuyến khích phát triển ngành thép. - Thứ ba, thuế nhập khẩu thép xây dựng cần phân biệt giữa các nước thành viên ASEAN và các nước khác để duy trì mức độ thời gian áp dụng. Từ 2006-2010, thuế nhập khẩu thép xây dựng với các nước thành viên ASEAN giảm xuống 5%. Đối với các nước khác, nên duy trì ở mức 10% như năm 2005. Có như vậy, doanh nghiệp cán thép mới có khả năng sử dụng phôi thép sản xuất trong nước. - Thuế nhập khẩu thép tấm nên giảm dần xuống 5% vào năm 2008 và 3% vào năm 2010. Với sản phẩm này, nếu bảo hộ quá mức, dễ mang lại rủi ro cho nền kinh tế. Hiện nay, nhà máy cán nguội Phú Mỹ chỉ đáp ứng được trên 30% nhu cầu từ năm 2005. Trong khi đó, ngành công nghiệp đóng tàu, chế tạo máy và xây dựng nhà xưởng của các công ty nước ngoài đều có nhu cầu sử dụng thép ngày càng tăng. Vì vậy, chỉ nên duy trì mức bảo hộ thích hợp. - Thứ năm, thuế nhập khẩu thép ống nên duy trì ở mức 5% cho đến 2010. Hiện nay, thép ống sản xuất trong nước mới đáp ứng được 45.1% nhu cầu, nhưng chủ yếu là ống thép cỡ nhỏ phục vụ xây dựng, chưa sản xuất được thép ống cỡ to, ống thép hợp kim dùng cho chế tạo. Vì vậy, cần duy trì mức độ bảo hộ thích hợp để nâng đỡ lĩnh vực này. Đảm bảo đến năm 2010 sản xuất thép trong nước có thể đáp ứng được trên 80% nhu cầu nội địa. 2.4. Thu hẹp diện miễn thuế, giảm thuế. Một chính sách thuế nhập khẩu nhiều ưu đãi sẽ thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực cần ưu tiên khuyến khích như sản xuất hàng xuất khẩu, sản phẩm thay thế nhập khẩu mà trong nước chức sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu. Song, chính sách thuế nhập khẩu mà còn lồng ghép nhiều khoản miễn, giảm thuế để thực hiện chính sách xã hội, có thể làm lu mờ động lực khuyến khích trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời gây khó khăn cho công tác hành thu. Để phát huy mạnh mẽ tác động của thuế nhập khẩu đến tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng trong xã hội thì thời gian tới cần tiếp tục đơn giản hoá luật thuế theo hướng giảm dần các mức thuế suất và điều khoản miễn giảm thuế nhằm thực hiện chính sách xã hội. Chuyển dần các quy định về chính sách ưu tiên xã hội đã được lồng ghép trong Luật thuế sang thực hiện thông qua chi ngân sách nhằm đảm bảo tính trung lập của thuế. Như vậy, xét về quyền lợi của người được hưởng chính sách ưu đãi từ thuế sẽ không thay đổi, bởi lẽ thay vì được hưởng lợi từ miễn giảm thuế thì họ sẽ được bù đắp thông qua nhận trợ cấp từ chi ngân sách. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao tính công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế nhập khẩu giữa những người nộp thuế, nên động lực ưu đãi thuế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sẽ có hiệu lực mạnh hơn, đảm bảo tăng thu vững chắc trong dài hạn. Theo quy định của WTO, trong 5 năm kể từ ngày gia nhập tổ chức này, các nước thành viên mới phải dỡ bỏ hết chính sách ưu đãi thuế. Vậy thì tại sao Việt Nam không tận dụng cơ hội này trong khi hầu hết các doanh nghiệp trong nước còn nhỏ và yếu? Đúng là chúng ta có quyền tiếp tục kéo dài, nhưng phải nghĩ đến hình ảnh của Việt Nam. Nếu tiếp tục bảo hộ, các doanh nghiệp được ưu đãi vẫn sẽ tiếp tục ỷ lại, tình trạng trì trệ vẫn kéo dài trong khi đại bộ phận các doanh nghiệp đang vươn lên để hội nhập. Do đó, không thể vì vài trăm doanh nghiệp mà kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. 2.5. Đẩy mạnh việc triển khai các biện pháp về thuế trong nhập khẩu hàng hoá. Hiện nay, nhà nước mới chỉ ban hành Pháp lệnh Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội số 22/2004/PL-UBTVQH 11 ngày 20 tháng 8 năm 2004 về chống trợ cấp hàng nhập khẩu; Pháp lệnh của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội số 42/2002/PL-UBTVQH 10 ngày 25 tháng 5 năm 2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài vào Việt Nam; mà chưa có Luật thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các văn bản hướng dẫn thực thi nên nhà nước cần sớm ban hành các văn bản này tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi Hiệp dịnh GATT. 2.6. Giải pháp nhằm chống gian lận thương mại. Nhà nước cần xây dựng Biểu thuế theo bản chất, tính chất lý, hoá của sản phẩm chứ không thể như hiện nay, vừa đánh theo bản chất vừa theo mục đích sử dụng của hàng hoá nhập khẩu, đồng thời xem xét lại chế độ ưu đãi về ân hạn nộp thuế, tăng cường lực lượng kiểm tra sau thong quan cả về số lượng lẫn chất lượng nhằm hạnc chế tới mức thấp nhất việc gian lận qua khia báo giảm số lượng, chất lượng của hàng hoá nhập khẩu; kiểm tra kỹ (có thể kiểm tra tới 100%) hàng. Về chống gian lận đối với hàng hoá thông qua biên giới: Nhà nước cần quy định cho lực lượng hải quan được phép kiểm tra tất cả hàng hoá nhập khẩu vào lãnh thổ Việt Nam, vấn đề này phù hợp thông lệ quốc tế với doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoâ. Mặt khác, nhà nước cũng cần tăng cường hiện đại hoá cơ sở vật chất cho ngành hải quan. Đẩy mạnh tin học hoá các quy trình quản lý thu thuế nhập khẩu. Bên cạnh đó là đầu tư trang thiết bị hiện đại để giám định kỹ thuật hàng hoá. Theo quy định của biểu thuế nhập khẩu hiện hành thì có rất nhiều hàng hoá nhập khẩu đòi hỏi phải thông qua các công tác giám định về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật thì mới đảm bảo áp mã số thuê được chính xác. Do đó, để hạn chế thất thu thuế nhập khẩu qua công tác giám định, Tổng cục hải quan cần phải được trang bị kỹ thuật hiện đại, đáp ứng được yêu cầu giám định hàng hoá và cơ quan chức năng cần sớm có quy định thống nhất về công tác giám định, tăng cường quản lý công tác giám định. Hiện nay, Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình tự do hoá thương mại, trong đó có cam kết thực hiện xác định trị giá hải quan theo quy định của WTO/GATT. Theo đó, trị giá tính thuế của hàng nhập khẩu được xác định theo trị giá giao dịch thực tế của lô hang hoặc là giá mà với mức giá ấy, hàng hoá đó hoặc hàng hoá tương tự được bán trong kỳ kinh doanh bình thường với các điều kiện cạnh tranh không hạn chế và được xác định tuần tự theo các phương pháp xác định trị giá của Hiệp định GATT. Vì vậy. nhà nước cần đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống kiểm tra sau thông quan đủ mạnh từ Tổng cục đến Cục hải quan địa phương. Hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý như: Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy để triển khai Nghị định 155/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của chính phủ, chuẩn hoá quy trình nghiệp vụ, xây dựng cẩm nang về kiểm tra sau thông quan chuyển đổi cơ chế kiểm tra theo từng lô hàng sang cơ chế theo doanh nghiệp, áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong công tác kiểm tra sau thông quan. 2.7. Quy định cụ thể, rõ ràng chế tài áp dụng đối với hành vi gian lậnvà nộp chậm tiền thuế. Pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta cần quy định những biện pháp chế tài nghiêm khắc, rõ ràng, cụ thể để đảm bảo tính răn đe các đối tượng nộp thuế. Khi quy định một hình thức xử phạt nào đó đối với hành vi gian lận thuế hay nộp chậm thuế cần phải quy định rõ các điều kiện áp dụng để tránh sự ngộ nhận và tùy tiện. Đối với cơ quan hải quan, pháp luật thuế nhập khẩu cần quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn trong việc đấu tranh, phát hiện kịp thời các hành vi gian lận thuế, chây ỳ nợ thuế kéo dài nhằm chiếm đoạt tiền thuế từ ngân sách. Với những hành vi sai phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hinh sự theo quy định của pháp luật hình sự thì cơ quan quản lý thuế nhập khẩu phải chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để điều tra, khởi tố, xét xử theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Về vấn đề này, pháp luật thuế nhập khẩu của các nước thường quy định xử phạt rất nghiêm khắc các trường hợp dây dưa, nợ thuế khai man trốn lậu thuế. Như pháp luật thuế của Cộng hòa Sec quy định : “ Thuế nộp không đúng hạn sẽ bị phạt 0.1%/ngày/trên số thuế phải nộp; không nộp tờ khai, nộp tờ khai thiếu sẽ tăng 105 số thuế phaỉ nộp, ngoài ra có thể sẽ bị xử hình sự từ 6-12 tháng tù”, (theo báo cáo khảo sát thuế tại Cộng hòa Sec của Tổng cục thuế), pháp luật Thụy Điển quy định: “ trường hợp đối tượng nộp thuế lập tờ khai đã nộp thiếu so với số thuế phải nộp, khi cơ quan thuế kiểm tra, phát hiện, họ phải nộp bổ sung số thuế thiếu, đồng thời còn bị tính lãi trên số thuế nộp thiếu theo tỷ lệ 2%. Nếu kéo dài sẽ bị tính theo tỷ lệ 7%hoặc 9%” (theo Báo cáo khảo sát tại Thụy Điển của Tổng cục thuế)…..Do vậy, pháp luật về thuế nhập khẩu của nước ta cũng cần phải có những quy định xử lý nghiêm khắc các trường hợp khai man, trốn lậu thuế, chây ỳ, nợ thuế kéo dài nhằm đảm bảo pháp luật thuế nhập khẩu được thực hiện nghiêm. Đồng thời, cần có chế tài xử lý nghiêm khắc đối với các sai phạm của cán bộ hải quan, cơ quan hải quan. Nếu có căn cứ cho thấy cơ quan hải quan, cán bộ hải quan đã tính sai số thuế, số tiền phạt phải nộp gây thiệt hại cho đối tượng nộp thuế thì tổ chức, cá nhân đó phải chịu trách nhiệm bồi hoàn thiệt hại đã gây ra. Mặt khác, những cán bộ sai phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nếu có căn cứ cho thấy đã cố ý vi phạm pháp luật thuế nhập khẩu hay có ý định giúp đỡ đối tượng nộp thuế trốn thuế, hay tiếp tay thông đồng với đối tượng nộp thuế để chiếm đoạt tiền thuế phải nộp cho ngân sách nhà nước. 2.8. Luật hóa các nội dung quản lý thuế nhập khẩu. Các nội dung quản lý thuế nhập khẩu phải được luật hóa, cụ thể là: - Luật hóa các thủ tục hành chính về thuế nhập khẩu, thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế nhập khẩu, thủ tục cưỡng chế thuế một cách cụ thể, rõ ràng để nâng cao tính pháp lý và đảm bảo sự thống nhất. - Xây dựng luật quản lý thuế trong đó phải quy định rõ nghĩa vụ, quyền hạn của người nộp thuế; trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan hải quan; trách nhiệm, quyền hạn của các tổ chức và cá nhân khác có liên quan trong quản lý thuế nhập khẩu. - Áp dụng cơ chế và kỹ thuật quản lý thuế hiện đại vào công tác quản lý thuế nhập khẩu. Muốn vậy cần: +Quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin về đối tượng nộp thuế cho cơ quan hải quan. +Chế tài xử lý vi phạm hành chính về thuế nhập khẩu phải rõ ràng, phù hợp với thực tiễn và mang tính khả thi. +Quy định cụ thể các trường hợp bị cưỡng chế thuế, thẩm quyền cưỡng chế thuế, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc cưỡng chế thuế đảm bảo thu đủ nợ thuế. +Cơ quan hải quan phải được trang bị các phương tiện hiện đại phục vụ cho công tác quản lý thuế, nhất là thiết bị thông tin để áp dụng trong các khâu quản lý như tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế kê khai, tính thuế, tiếp nhận và xử lý tờ khai, thanh tra, kiểm tra thuế, lưu trữ số liệu và thông tin về đối tượng nộp thuế. +Kiện toàn bộ máy quản lý theo chức năng và nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức cán bộ hải quan theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp; xây dựng phong cách ứng xử văn minh, lịch sự. 2.9. Xây dựng có cơ quan điều tra thuế. Thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước nhưng hiện nay đang có tình trạng trốn thuế thất thu thuế rất lớn. Điều tra thuế là một nghiệp vụ chỉ điều tra khi phát hiện gian lận thuế, trốn thuế có tổ chức, móc nối có hệ thống nhiều cá nhân với nhau, nghĩa là khi thanh tra không đủ sức thì điều tra thuế mới vào cuộc. Như vậy, có ý kiến lại cho rằng, điều tra thuế dẫm chân lên điều tra hình sự? Điều tra hình sự là điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự, còn điều tra thuế ở đây là điều tra hành chính về thuế, mà trong thực tế đã có tiền lệ rồi, Luật cạnh tranh đã cho cơ quan điều tra chống bán phá giá rồi. Điều tra thuế sẽ không phủ định các điều tra khác, nghĩa là vẫn tồn tại các cơ quan điều tra chống buôn lậu, gian lận của hải quan, điều tra của hình sự, đồng thời còn hỗ trợ các cơ quan điều tra này. Luật hình sự quy định cứ trốn thuế từ 50 triệu trở lên là khởi tố nhưng làm thế nào để phát hiện ra trốn thuế 50 triệu thì phải qua cơ quan điều tra thuế, cơ quan này phát hiện và chuyển sang điều tra hình sự. Ngược lại, nếu điều tra hình sự phát hiện không phải trốn thuế 50 triệu trở lên thì trả lại cho cơ quan điều tra thuế xử lý ở mức độ hành chính. Mặt khác, khi Việt nam gia nhập WTO, việc cơ quan điều tra thuế sẽ chống được tình trạng mà các doanh nghiệp hiện nay rất lo sợ, đó là, hình sự hóa các quan hệ kinh tế giữa nhà nước với doanh nghiệp. Ở nhiều nước trên thế giới đều có cơ quan điều tra thuế riêng, thậm chí có cả cảnh sát thuế, tòa án thuế. 2.10. Tăng cường phối hợp chống trốn lậu thuế quốc tế. Trong xu thế mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập hiện nay, hoạt động buôn bán trốn lậu thuế không chỉ dừng lại trong phạm vi một nước mà đã mở rộng ra nhiều nước. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế các nước để ngăn chặn, hạn chế được tình trạng trốn lậu thuế. Những biện pháp chủ yếu cần quan tâm là: Giữa các nước lân cận cần xây dựng các chế độ thường xuyên trao đổi tin tức về hoạt động buôn bán qua lại, đặc biệt là tình hình trốn lậu thuế, cần bàn bạc thống nhất về chế độ, thủ tục khai thuế, kiểm soát hàng xuất nhập khẩu, tránh tình trạng ở nước này cho là xuất hàng hợp pháp, đến nước khác lại kết luận là nhập lậu. Cơ quan hải quan cũng cần phối hợp với cơ quan ngoại giao để khai thác thêm về tình hình hoạt động kinh doanh ở các nước khác và trao đổi thêm tài liệu, tin tức từ nơi đi và nơi đến để hạn chế tình trạng lợi dụng các quyền ưu đãi ngoại giao để trốn lậu thuế hoặc để phát hiện tổ chức buôn bán trốn lậu thuế qua các nước. 2.11. Phổ biến cho doanh nghiệp kiến thức về các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực thuế nhập khẩu. Khi tiến hành đàm phán song phương và đa phương để gia nhập các điều ước quốc tế thì hầu như các doanh nghiệp đứng ngoài cuộc, song thực tế lại do doanh nghiệp thực hiện. Đây là một nghịch lý. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, nếu trước khi đàm phán, có thời gian để doanh nghiệp thảo luận hay tiến hành “hỏi ý kiến doanh nghiệp” thì e rằng cơ hội sẽ bị tuột mất bởi thời gian không cho phép, vả lại, nếu gia nhập muộn thì điều kiện sẽ càng khắt khe hơn. Do vậy, cần có biện pháp phổ biến các cam kết đó một cách rộng rãi, cần có “chiến dịch tập huấn” cho các doanh nghiệp, đã đến lúc các doanh nghiệp cần phaỉ biết rằng đội ngũ luật sư, tư vấn là không thể thiếu được. Trong quá trình hội nhập quốc tế, việc tuân thủ các điều ước quốc tế và tham gia dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan có tính chất bóp méo thương mại là yêu cầu tất yếu. Việc thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác động không nhỏ đến thị trường trong nước, mức bảo hộ đối với nhiều ngành nghề sẽ giảm, nhiều doanh nghiệp sản xuất trong nước rơi vào tình trạng khó khăn. Do vậy, nhà nước cần lường trước được những khó khăn mà doanh nghiệp sẽ gặp phải để giúp họ có thế đứng vững, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ví dụ, có thể có chính sách ưu đãi hơn nữa đối với các doanh nghiệp trong việc huy động vốn, hoặc cho doanh nghiệp để lại 50% đầu tư công nghệ cho mình, v.v….. Kết luận chương 3: Để Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 thực sự đi vào cuộc sống, nhà nước, cơ quan hải quan cũng như doanh nghiệp phải phối hợp chặt chẽ với nhau. Cơ quan hải quan cần tạo điều hiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, không sách nhiễu, gây cản trở hoạt động kinh doanh của với doanh nghiệp, cần thực hiện cải cách hành chính triệt để trong tất cả các khâu của hải quan để doanh nghiệp được làm thủ tục hải quan và giải phóng hàng hoá nhanh chóng. Về phía công ty phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của luật, kê khai trung thực, chính xác số lượng, giá hàng xuất nhập, nộp thuế đúng hạn quy định, không được khai man, trốn lậu, hối lộ hải quan. Đồng thời, công ty cần năng động hơn và có sự chuẩn bị trước chơ những tình huống khó khăn có thể xảy ra trong tương lai, ví dụ như đầu tư công nghệ, đổi mới thiết bị, hợp tác, lien doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác để tăng hiệu quả kinh doanh, tiết kiệm chi phí nhưng vẫn phải đảm bảo yếu tố chất lượng. Các cơ quan nhà nước cần điều chỉnh cơ chế, chính sách theo hướng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng và thuận lợi cho doanh nghiệp. KẾT LUẬN Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã chính thức “chơi” trên một sân chơi mới, vừa có nhiều cơ hội vừa có nhiều thách thức. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, và đã có những cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ. Đối với mặt hàng là thép, Việt Nam đến năm 2009 mới mở cửa thị trường này. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa các doanh nghiệp kinh doanh thép trong hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam không có chỗ đứng trong thị trường vô cùng sôi động như hiện nay. Công ty TNHH IPC không phải là một công ty có tiềm lực tài chính mạnh nhưng trong 6 năm hoạt động vừa qua, công ty đã có những thành công lớn trong việc mở rộng quy mô cũng như kết quả hoat động kinh doanh của mình. Nhân tố quyết định thành công đó không phải là nguồn vốn hay một sự tài trợ nào mà là tư duy chiến lược đúng đắn dựa trên sự tiếp cận nhanh chóng và chính xác các thông tin cần thiết cũng như biết ứng dụng khoa học công nghệ, thu hút trọng dụng, phát triển nhân tài… Kết thúc giai đoạn thực tập ở công ty, tôi đã có được những hiểu biết tổng hợp về công ty, từ quá trình thành lập, cơ cấu tổ chức, quản lý, các hoạt động pháp lý cũng như hiệu quả kinh doanh trong thời gian hoạt động của công ty, đặc biệt là tình hình thực hiện nghĩ vụ thuế nhập khẩu của công ty. Đồng thời, có cơ hội vận dụng kiến thức đã học vào thực tế công việc và bổ sung kiến thức cho bản thân. Vì vậy, có thể nói giai đoạn thực tập là một khoá học rất bổ ích đối với mỗi sinh viên trước khi ra trường như chúng tôi. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Văn bản pháp luật. 1. Luật thuế xuất nhập khẩu 1991, 1993, 1998, 2005. 2. Luật doanh nghiệp 2005. 3. Luật thương mại 2005. 4. Nghị định 12/ 2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. 5. Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005 của chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 6. Nghị định 155/2005/NĐ-CP của chính phủ quy định việc xác định trị giá hải quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu. 7. Thông tư số 113/2005/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 8. Quyết định số 39/2006/QĐ-BTC ban hành biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. II. Giáo trình. 1. Giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế. Nhà xuất bản GTVT Hà Nội- 2002. 2. Luật thương mại quốc tế. Nhà xuất bản Lao động- xã hội- 2005. 3. Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà xuất bản Thống kê (kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia). III. Báo, tạp chí. 1. Báo đời sống và pháp luật. Số tháng 12/2006. 2. Tạp chí Thuế nhà nước. Số 21/2006; số 8/2006; số 1+2/ 2006; số kỳ II/2005. 3. Tạp chí Thông tin tài chính. Số 18/2006; 21/2006. 4. Tạp chí Tài chính. Số 7/2005; 10/2005; 3/2005; 8/2006; 4/2006. 5. Tạp chí Thanh tra tài chính. Số 49/2006. 6. Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Số 9/2006. 7. Tạp chí Thương mại. Số 10/2006. 8. Tạp chí Cộng sản. Số 12/2006. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT. TNHH : Trách nhiệm hữu hạn. VNĐ : Việt Nam Đồng. USD : Đồng Đô La Mỹ. BHXH : Bảo hiểm xã hội. TCHQ : Tổng cục hải quan. GEL : Danh mục loại trừ hoàn toàn. TEL : Danh mục loại từ tạm thời. IL : Danh mục cắt giảm thuế ngay. SL : Danh mục nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao. WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới. ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á. WB : Ngân hàng thế giới. IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế. AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN. ACFTA : Khu vực mậu dich tự do ASEAN-Trung Quốc. IFC : Tổ chức Tài chính quốc tế. APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương. CEPT : Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung. GATT : Hiệp định chung về thuế quan và thương mại. MFN : Tối huệ quốc. NT : Đãi ngộ quốc gia. TBTs : Rào cản kỹ thuật thương mại. NTBs : Rào cản phi thuế. CIF : Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí. CFR : Tiền hàng và cước phí. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ. Bảng 1.1: Danh mục các nước có thoả thuận đối xử ưu đãi đặc biệt trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Bảng 1.2: Cam kết về thuế nhập khẩu của WTO. Bảng 2.1: Tỷ trọng vốn lưu động trong tổng nguồn vốn của công ty TNHH IPC. Bảng 2.2: So sánh một số chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật sản xuất thép của Việt Nam và thế giới. Bảng 2.3: Tình hình lao động của công ty qua các năm. Bảng 2.4: Tình hình thu nhập của nhân viên công ty Bảng 2.5: Bảng kê khai các hợp đồng cung cấp thép tấm cán nóng giai đoạn 2002-2006. Bảng 2.6: Nhu cầu tiêu thụ thép theo chủng loại sản phẩm. Bảng 2.7: Lộ trình cắt giảm thuế khẩu theo CEPT/AFTA 2003-2006. Bảng 2.8: Thống kê mức thuế suất trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Bảng 2.9: Tinh hình nhập khẩu thép giai đoạn 2001-2006. Bảng 2.10: Kế hoạch nhập khẩu thép giai đoạn 2007-2010. Bảng 2.11: Danh mục các mặt hàng nhập khẩu và thuế suất nhập khẩu ưu đãi của công ty TNHH IPC. Bảng 2.12: Tình hình nộp thuế nhập khẩu theo mặt hàng tại công ty TNHH IPC. Bảng 2.13: Tình hình nộp thuế nhập khẩu theo quý tại công ty TNHH IPC. Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của công ty TNHH IPC. Sơ đồ 2.2: Hệ thống phân phối sản phẩm thép tại công ty TNHH IPC. Biểu: Doanh thu của công ty TNHH IPC giai đoạn 2003-2006. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc-Luat-7.doc
Tài liệu liên quan