Vị trí, vai trò của hiến pháp và các đạo luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Vị trí của Hiến pháp, các đạo luật trong NNPQ XHCN ở Việt Nam Lịch sử phát triển của chủ nghĩa lập hiến và lịch sử phát triển của học thuyết NNPQ cho thấy sự phát triển gắn bó hữu cơ giữa Hiến pháp và NNPQ. Hiến pháp là bản văn ghi nhận ý chí của nhân dân, xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất sự lựa chọn chính trị của nhân dân. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định các vấn đề cơ bản nhất như chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước (CQNN). Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho các yếu tố cơ bản của NNPQ được tạo lập. Tuy nhiên, Hiến pháp cũng chỉ là một văn bản giới hạn, không thể quy định đầy đủ, chi tiết mọi vấn đề liên quan đến chế độ dân chủ, tổ chức bộ máy nhà nước, quyền, nghĩa vụ của công dân Do đó, trên cơ sở những quy định mang tính nguyên tắc của Hiến pháp, các đạo luật sẽ thực hiện chức năng của mình để điều chỉnh các vấn đề có liên quan. Cũng cần đề cập đến các quan điểm xung quanh mối quan hệ giữa Hiến pháp và các đạo luật. Quan điểm thứ nhất cho rằng, các đạo luật là văn bản thể chế hóa các quy định của Hiến pháp; quan điểm thứ hai cho rằng, các đạo luật điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội được xây dựng dựa trên cơ sở tuân thủ và tôn trọng các quy định trong Hiến pháp, có thể được ban hành theo quy định của Hiến pháp nhưng không phải là thể chế hóa các quy định của Hiến pháp. Chẳng hạn khi Hiến pháp quy định “công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của pháp luật”, có nghĩa là Hiến pháp ủy quyền cho các CQNN quy định về quyền tự do cư trú của công dân và các CQNN có trách nhiệm phải ban hành các quy định để bảo đảm công dân có thể thực hiện quyền tự do này. Chúng tôi cho rằng, loại quan điểm thứ hai là phù hợp với quy luật nói chung cũng như sự phát triển trình độ lập pháp ở nước ta hiện nay. Bởi vì, Hiến pháp không thể quy định mọi vấn đề liên quan đến đời sống xã hội mà chỉ nên quy định những nội dung mang tính nguyên tắc, nên các đạo luật điều chỉnh các mối quan hệ cụ thể dựa trên cơ sở những nguyên tắc chung đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Hơn nữa, nếu quan điểm các đạo luật là các văn bản thể chế hóa các quy định của Hiến pháp sẽ dẫn tới hệ quả là các nội dung không được đề cập đến trong Hiến pháp thì các đạo luật sẽ không được phép quy định. Trong khi, các quan hệ xã hội luôn ở trạng thái động, phát sinh từng ngày, từng giờ đòi hỏi các đạo luật cũng phải có sự vận động sao cho phù hợp. Ở một góc độ khác, Hiến pháp luôn đòi hỏi tính ổn định và bền vững một cách tương đối. Làm rõ mối quan hệ giữa Hiến pháp và các đạo luật cũng như xác định rõ tính thứ bậc trong hệ thống pháp luật sẽ góp phần làm rõ được vị trí, vai trò quan trọng của Hiến pháp và các đạo luật trong NNPQ XHCN ở Việt Nam, cụ thể như sau: 1.1. Vị trí, vai trò của Hiến pháp và các đạo luật trong việc xác định và quy định bản chất của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Cái gốc của chế độ NNPQ là xác lập dân chủ, tức là thừa nhận và bảo đảm thực hiện quyền lực của nhân dân. Mọi vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân đều phải được xác lập dựa trên cơ sở ý chí của nhân dân, chủ thể của quyền lực. Nói cách khác, việc ghi nhận của Hiến pháp và các đạo luật về tổ chức quyền lực nhà nước, việc thực thi quyền lực nhà nước, các thiết chế bảo đảm thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm thực thi các quyền dân chủ của nhân dân đều phải được phản ánh trong Hiến pháp và các đạo luật. Bởi vì, trong phương thức tổ chức quyền lực ở nước ta, mặc dù không theo chế độ tam quyền phân lập, không có sự đối trọng nhau giữa các nhánh quyền lực nhưng vẫn có sự phân công, phân nhiệm giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Và nhìn từ góc độ phân công, phân nhiệm này thì Quốc hội (cơ quan lập pháp) là chủ thể trực tiếp do nhân dân bầu ra. Nhân dân thực hiện quyền lực thông qua cơ quan đại diện trực tiếp của mình là Quốc hội. Như vậy, Hiến pháp và các đạo luật xét từ tính thứ bậc cũng như từ nguồn gốc, bản chất của nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là các văn bản có giá trị cao nhất ghi nhận nguyên tắc cơ bản của một nền dân chủ XHCN là xây dựng một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mặc dù lời văn và câu chữ khác nhau nhưng về cơ bản, tư tưởng chủ đạo của nguyên tắc này được ghi nhận xuyên suốt trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay. Điều 1 Hiến pháp 1946 khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà”, “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều tiếp tục khẳng định nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Năm 2001, với những sửa đổi bổ sung cơ bản quy định tại Điều 2, Hiến pháp 1992 đã chính thức thừa nhận chủ trương xây dựng NNPQ XHCN với nội dung: “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Việc xác định bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nền tảng được ghi nhận trong Hiến pháp. Xuất phát từ nguyên tắc mang tính nền tảng này, nhân dân với tư cách là người chủ của quyền lực không chỉ tạo lập nên Nhà nước của mình, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức và các quy định khác để tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước bằng các quy định cụ thể, chẳng hạn như:

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1991 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vị trí, vai trò của hiến pháp và các đạo luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định các vấn đề cơ bản nhất như chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước (CQNN). Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho các yếu tố cơ bản của NNPQ được tạo lập. Tuy nhiên, Hiến pháp cũng chỉ là một văn bản giới hạn, không thể quy định đầy đủ, chi tiết mọi vấn đề liên quan đến chế độ dân chủ, tổ chức bộ máy nhà nước, quyền, nghĩa vụ của công dân… Do đó, trên cơ sở những quy định mang tính nguyên tắc của Hiến pháp, các đạo luật sẽ thực hiện chức năng của mình để điều chỉnh các vấn đề có liên quan. Cũng cần đề cập đến các quan điểm xung quanh mối quan hệ giữa Hiến pháp và các đạo luật. Quan điểm thứ nhất cho rằng, các đạo luật là văn bản thể chế hóa các quy định của Hiến pháp; quan điểm thứ hai cho rằng, các đạo luật điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội được xây dựng dựa trên cơ sở tuân thủ và tôn trọng các quy định trong Hiến pháp, có thể được ban hành theo quy định của Hiến pháp nhưng không phải là thể chế hóa các quy định của Hiến pháp. Chẳng hạn khi Hiến pháp quy định “công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của pháp luật”, có nghĩa là Hiến pháp ủy quyền cho các CQNN quy định về quyền tự do cư trú của công dân và các CQNN có trách nhiệm phải ban hành các quy định để bảo đảm công dân có thể thực hiện quyền tự do này. Chúng tôi cho rằng, loại quan điểm thứ hai là phù hợp với quy luật nói chung cũng như sự phát triển trình độ lập pháp ở nước ta hiện nay. Bởi vì, Hiến pháp không thể quy định mọi vấn đề liên quan đến đời sống xã hội mà chỉ nên quy định những nội dung mang tính nguyên tắc, nên các đạo luật điều chỉnh các mối quan hệ cụ thể dựa trên cơ sở những nguyên tắc chung đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Hơn nữa, nếu quan điểm các đạo luật là các văn bản thể chế hóa các quy định của Hiến pháp sẽ dẫn tới hệ quả là các nội dung không được đề cập đến trong Hiến pháp thì các đạo luật sẽ không được phép quy định. Trong khi, các quan hệ xã hội luôn ở trạng thái động, phát sinh từng ngày, từng giờ đòi hỏi các đạo luật cũng phải có sự vận động sao cho phù hợp. Ở một góc độ khác, Hiến pháp luôn đòi hỏi tính ổn định và bền vững một cách tương đối. Làm rõ mối quan hệ giữa Hiến pháp và các đạo luật cũng như xác định rõ tính thứ bậc trong hệ thống pháp luật sẽ góp phần làm rõ được vị trí, vai trò quan trọng của Hiến pháp và các đạo luật trong NNPQ XHCN ở Việt Nam, cụ thể như sau: 1.1. Vị trí, vai trò của Hiến pháp và các đạo luật trong việc xác định và quy định bản chất của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Cái gốc của chế độ NNPQ là xác lập dân chủ, tức là thừa nhận và bảo đảm thực hiện quyền lực của nhân dân. Mọi vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân… đều phải được xác lập dựa trên cơ sở ý chí của nhân dân, chủ thể của quyền lực. Nói cách khác, việc ghi nhận của Hiến pháp và các đạo luật về tổ chức quyền lực nhà nước, việc thực thi quyền lực nhà nước, các thiết chế bảo đảm thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm thực thi các quyền dân chủ của nhân dân… đều phải được phản ánh trong Hiến pháp và các đạo luật. Bởi vì, trong phương thức tổ chức quyền lực ở nước ta, mặc dù không theo chế độ tam quyền phân lập, không có sự đối trọng nhau giữa các nhánh quyền lực nhưng vẫn có sự phân công, phân nhiệm giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Và nhìn từ góc độ phân công, phân nhiệm này thì Quốc hội (cơ quan lập pháp) là chủ thể trực tiếp do nhân dân bầu ra. Nhân dân thực hiện quyền lực thông qua cơ quan đại diện trực tiếp của mình là Quốc hội. Như vậy, Hiến pháp và các đạo luật xét từ tính thứ bậc cũng như từ nguồn gốc, bản chất của nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là các văn bản có giá trị cao nhất ghi nhận nguyên tắc cơ bản của một nền dân chủ XHCN là xây dựng một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mặc dù lời văn và câu chữ khác nhau nhưng về cơ bản, tư tưởng chủ đạo của nguyên tắc này được ghi nhận xuyên suốt trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay. Điều 1 Hiến pháp 1946 khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà”, “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều tiếp tục khẳng định nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Năm 2001, với những sửa đổi bổ sung cơ bản quy định tại Điều 2, Hiến pháp 1992 đã chính thức thừa nhận chủ trương xây dựng NNPQ XHCN với nội dung: “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Việc xác định bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nền tảng được ghi nhận trong Hiến pháp. Xuất phát từ nguyên tắc mang tính nền tảng này, nhân dân với tư cách là người chủ của quyền lực không chỉ tạo lập nên Nhà nước của mình, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức và các quy định khác để tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước bằng các quy định cụ thể, chẳng hạn như: Điều 53 của Hiến pháp quy định : “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội…”. Điều 74 của Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với CQNN có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của CQNN, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào...”. Ở một cấp độ khác, Hiến pháp và các đạo luật cũng quy định cụ thể việc các tổ chức đại diện cho người dân tham gia vào việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là những tổ chức để qua đó nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân (…), giám sát hoạt động của CQNN, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước (Điều 9 Hiến pháp); Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, cùng với CQNN (…) chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của CQNN…” (Điều 10 Hiến pháp). Thay mặt cho các tổ chức của mình, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan (Điều 111 Hiến pháp). Đến lượt mình, Chính phủ có trách nhiệm hiến định là phối hợp với các tổ chức đó trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả (Điều 112 Hiến pháp). Cá nhân công dân, song song với việc tham gia vào các hoạt động của Nhà nước với tư cách là thành viên của các tổ chức chính trị – xã hội, còn tham gia công việc của Nhà nước và xã hội ở cơ sở trong các hoạt động đa dạng nhằm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng (Điều 11 Hiến pháp). Trong các phạm vi khác nhau của hoạt động Nhà nước, pháp luật cũng đã tạo ra những điều kiện về mặt pháp lý để thu hút sự tham gia rộng rãi và sự đóng góp tích cực của công dân. Chẳng hạn như, trong công tác xét xử thì sự tham gia của Hội thẩm nhân dân là bắt buộc. Một trong những mục đích của các chế định như “phòng vệ chính đáng”, “tình thế cấp thiết”, “án treo” cũng là nhằm động viên sự tham gia của công dân vào việc thực hiện một chức năng quan trọng của Nhà nước là duy trì và bảo vệ trật tự pháp luật, phòng chống tội phạm, giáo dục, cải tạo người phạm tội. Ở những mức độ khác nhau, nhân dân có thể tác động một cách tích cực vào quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Điều này thể hiện qua các quyền được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin (Điều 69), quyền khiếu nại, quyền tố cáo với CQNN có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của các CQNN, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào (Điều 74 Hiến pháp). Việc khiếu nại, tố cáo phải được CQNN xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Chính phủ thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. Hiến pháp cũng quy định trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương (Điều 125 Hiến pháp). Đối với chúng ta vấn đề về tính pháp quyền của quyền lực nhà nước được xem xét ở bình diện khẳng định và bảo đảm quyền lực đó là của nhân dân, giữ cho nó luôn luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân thông qua các quy định của Hiến pháp và các quy định tại các đạo luật có liên quan. Ở bình diện khác, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để nhân dân uỷ nhiệm cho Nhà nước thực hiện quyền lực của mình mà không bị mất quyền, không bị lạm quyền, sử dụng quyền lực để đi ngược lại với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Do đó, một trong những vấn đề cấp bách hiện nay là cần có những cải cách thích hợp để các quy định của Hiến pháp cũng như các quy định của các điều luật được thực hiện một cách trực tiếp, không qua các văn bản hướng dẫn, hạn chế tối đa sự “méo mó” trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng cũng như sự lạm dụng các quy định của pháp luật chung chung làm ảnh hưởng đến quyền làm chủ của nhân dân, chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước ở nước ta. 1.2. Vị trí, vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong việc xác định chế độ kinh tế và các thành phần kinh tế trong xã hội Trên cơ sở đánh giá sâu sắc thực tiễn cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra những hạn chế, bất cập cơ bản của cơ chế này là: quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu; Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với những quyết định của mình; cơ chế quản lý tập trung, bao cấp vì thế rất cồng kềnh và kém năng động, nhiều tầng nấc trung gian, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế thì  không thạo việc kinh doanh, nhưng lại quan liêu, cửa quyền, hệ quả của cơ chế quản lý kinh tế này làm cho sản xuất đình trệ, đất nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế nặng nề. Điều này tất yếu dẫn đến nhu cầu khách quan là Nhà nước phải thực hiện các biện pháp, mà trước hết là thay đổi tư duy, đường lối về phát triển kinh tế được quy định trong Hiến pháp để từ đó xây dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm cho quyền tự do sản xuất, kinh doanh, tự do hợp đồng, cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp, doanh nhân; theo nguyên tắc “cá nhân, doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”. Như vậy, nền kinh tế thị trường tự nó đã là một đòi hỏi tất yếu khách quan buộc Nhà nước phải thay đổi phương thức quản lý kinh tế, xã hội. Nhà nước phải quản lý kinh tế - xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và các đạo luật phải bảo đảm xây dựng thể chế kinh tế thị trường đủ ở mức tạo thành hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm công bằng, bình đẳng, hợp tác cùng phát triển lâu dài giữa các thành phần kinh tế, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Quá trình đổi mới và phát triển cũng đặt ra nhiều vấn đề về bảo đảm tính hiến định trong NNPQ cũng như bảo đảm các nguyên tắc trong xây dựng NNPQ XHCN. Tuy nhiên, cũng cần xem xét các vấn đề này dưới góc độ lịch sử - chính trị để có một cái nhìn toàn diện hơn về quá trình đổi mới kinh tế ở đất nước ta, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc về tính định hướng trong việc xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng để thể chế thành các quy định của Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. 1.3. Vị trí, vai trò của Hiến pháp và các đạo luật trong việc ghi nhận nguyên tắc về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với NNPQ Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền duy nhất. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và đối với xã hội là một tất yếu lịch sử khách quan. Nói theo cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “Đảng ta là Đảng cầm quyền”, hơn nữa là Đảng duy nhất cầm quyền. Điều này không phải là ngẫu nhiên mà có, đó là thành quả đấu tranh cách mạng đầy hy sinh, gian khổ của toàn Đảng, toàn dân ta trong hơn 80 năm qua. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII chỉ rõ “ở nước ta, không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không có độc lập dân tộc, không có quyền làm chủ thực sự của nhân dân, không có Nhà nước của dân, do dân và vì dân, không thể thực hiện được công bằng xã hội. Lúc bình thường, vai trò lãnh đạo của Đảng rất quan trọng, ở những bước chuyển giai đoạn, vai trò đó lại càng quan trọng”1. Sự lãnh đạo đó cần phải được thể hiện như một xu thế tất yếu trong Hiến pháp và trong các đạo luật. Bởi hơn ai hết, Đảng phục vụ lợi ích của nhân dân, ý chí và quyền lực nhân dân được thể hiện trong Hiến pháp và các đạo luật, vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng phải được ghi nhận trong Hiến pháp và thể hiện bằng các quy định cụ thể trong các điều luật. Mặt khác, các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng muốn đi vào đời sống cũng phải thông qua Hiến pháp và các đạo luật là chủ yếu. Bởi vì, cương lĩnh, nghị quyết của Đảng nếu chỉ được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng sẽ không thể phát huy hiệu lực đối với toàn xã hội, mà chỉ khi được ghi nhận bởi Hiến pháp, các đạo luật thì mới có giá trị thực thi đối với toàn xã hội. Chỉ thông qua Hiến pháp và các đạo luật, các chủ trương, đường lối, chính sách đó mới phát huy được hết giá trị. Đó cũng là phương thức chủ yếu để Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội của mình. Vấn đề cần xác định rõ về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước là việc phân định vai trò lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý của Nhà nước. Nhiều vấn đề cụ thể xung quanh vấn đề lớn này được đặt ra như: mối tương quan giữa cấu trúc tổ chức các cơ quan Đảng với cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ở các cấp từ trung ương đến địa phương; các tiêu chí phân định sự lãnh đạo chính trị của các cấp ủy đảng và quyền tự chủ, độc lập của các CQNN; cơ sở pháp lý xác định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức đảng trong các hoạt động lãnh đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động của các CQNN ở các cấp; vai trò, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng theo cấu trúc lãnh thổ như tỉnh ủy, huyện ủy, đảng ủy xã và của các cấp ủy trong bản thân các CQNN cần phải được xác định như thế nào. Các vấn đề này chỉ có thể được xác định một cách công khai, minh bạch và hiệu quả bằng các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Thông qua Hiến pháp và pháp luật, Đảng lãnh đạo xã hội, Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước, cũng không phải là một thiết chế “đứng trên Nhà nước”. Mọi tổ chức, cá nhân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Chỉ có như vậy, nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc Đảng lãnh đạo mới thực hiện một cách triệt để và hiệu quả. Một vấn đề nữa trong mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Hiến pháp và pháp luật là cần nhận thức rõ rằng, Đảng không phải là một chủ thể ban hành các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng được thể chế hoá trong các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nói như vậy cũng có nghĩa rằng, các chủ trương, đường lối, chính sách không chỉ nằm trong văn bản Hiến pháp và các đạo luật mà còn nằm ở trong các văn bản quy phạm pháp luật khác. Vậy tại sao Hiến pháp và các đạo luật lại giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng so với các văn bản khác? Để trả lời câu hỏi này phải trở lại nguyên lý xây dựng NNPQ, theo đó chủ thể ban hành văn bản và tính thứ bậc của các văn bản trong hệ thống pháp luật giữ vai trò quyết định. Nói một cách khác, nếu vì một lý do nào đó mà các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng trái với Hiến pháp, các đạo luật thì các văn bản đó cũng cần được coi là không có giá trị. Có như vậy mới bảo đảm được tính thứ bậc, tính pháp quyền, đồng thời cũng bảo đảm được sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng.     2. Một số hạn chế và kiến nghị trong quá trình xây dựng Hiến pháp và các đạo luật ở nước ta Thứ nhất, Hiến pháp và các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta đều thống nhất nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan đại diện của mình là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Tuy nhiên, sự phân công, phối hợp cũng như các nguyên tắc về phân công phối hợp chưa được Hiến pháp đề cập đến và cũng chưa được thể chế hoá trên phương diện luật pháp. Điều này dẫn đến tổ chức và hoạt động của các thiết chế quyền lực còn nhiều bất cập; đồng thời dẫn tới những vướng mắc trong quá trình xây dựng pháp luật như không phân biệt được rõ lĩnh vực nào thuộc thẩm quyền của Quốc hội và phải được quy định bằng luật, lĩnh vực nào thuộc về quyền điều hành của Chính phủ. Mặt khác, theo quy định của Hiến pháp thì Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Tính chất “cao nhất” được thể hiện bằng các quyền hiến định như: là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; có quyền giám sát tối cao. Tuy nhiên, bản thân Quốc hội lại là cơ quan hoạt động không thường xuyên. Hoạt động của Quốc hội vì thế chủ yếu là xem xét, cho ý kiến về các báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và thông qua các đạo luật do các cơ quan khác chuẩn bị. Thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước cũng như hoạt động giám sát tối cao cũng chưa được xác định rõ. Điều này dẫn tới hệ quả là hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất mang tính hình thức, thiếu hiệu quả. Trong khi đó, các thiết chế khác không được giao quyền lực lại có xu thế “lấn át” chủ thể được giao quyền lực. Ngoài ra, có thể nhận thấy địa vị pháp lý của Chính phủ trong mối quan hệ với Quốc hội và các cơ quan tư pháp cũng thiếu nhất quán và không thật sự rõ ràng. Chính phủ dường như rơi vào tình trạng “chông chênh”, vừa thiếu những quyền cần thiết để trở thành cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của đất nước, vừa phải thực hiện những quyền làm ảnh hưởng đến quyền hạn của cơ quan lập pháp. Hơn nữa, Chính phủ trong các bản Hiến pháp 1959, 1960, 1982 và kể cả Hiến pháp 1992 tuy đã có sự đề cao vai trò của cá nhân người đứng đầu nhưng vẫn mang hình bóng của một “hội đồng”. Và dù rằng tính chất “hội đồng” trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ trong bốn bản Hiến pháp quy định có khác nhau nhưng ở những mức độ khác nhau đều biến Chính phủ thành “cơ quan nghị bàn” hơn là một cơ quan hành động và quyết định. Tính chất “hội đồng” của Chính phủ đã không tạo ra được một chế độ trách nhiệm rõ ràng giữa các thành viên Chính phủ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ, của các thành viên của Chính phủ về thực chất vẫn bị quy định trong khuôn khổ của chế độ lãnh đạo, điều hành tập thể, chịu trách nhiệm tập thể. Do vậy, không thật sự phát huy được tính chủ động và khả năng tự chịu trách nhiệm của cá nhân mỗi thành viên. Về thiết chế quyền lực này, cần phải thấy rõ một điểm hạn chế nữa của Hiến pháp là không phân rõ thế nào là quyền hành pháp mà mới tập trung vào thẩm quyền hành chính của Chính phủ. Nếu là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất thì tính chấp hành và thừa hành phải được đề cao, mặc dù được quy định là cao nhất. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận dưới góc độ nguyên tắc phân công, phân nhiệm giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì cần xác định rõ các quyền của cơ quan hành pháp và đi kèm với nó là trách nhiệm độc lập của cơ quan hành pháp trước cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, trước nhân dân. Chỉ khi xác định cụ thể các lĩnh vực thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của các thiết chế quyền lực nào thì sự phân công, phân nhiệm mới phát huy hết tác dụng và hiệu quả của nó. Thứ hai, thực tiễn xây dựng và tổ chức thực hiện Hiến pháp và các đạo luật cho thấy việc áp dụng còn gặp rất nhiều khó khăn. Điều này có nhiều nguyên nhân, tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu nhất nằm ở chỗ Hiến pháp còn quy định dàn trải, các quy định chung chung và không mang tính cô đọng; trong khi đó, các đạo luật thì phần lớn không được áp dụng trực tiếp mà vẫn cần có những văn bản hướng dẫn dưới luật. Một vấn đề nữa cũng cần đặt ra ở đây là các quy định “uỷ quyền” trong Hiến pháp và các đạo luật. Có thể nói Hiến pháp và các đạo luật chưa có những nguyên tắc chung về uỷ quyền, trong khi đó, vấn đề này lại liên quan trực tiếp đến thẩm quyền của các thiết chế quyền lực được quy định trong Hiến pháp. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ khi có Hiến pháp năm 1992 cho thấy, giữa các quy định Hiến pháp về cơ cấu tổ chức, quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các thiết chế quyền lực với thực tiễn vận hành của cơ chế quyền lực nhà nước vẫn tồn tại một khoảng cách. Thứ ba, một trong những vấn đề còn vướng mắc về lý luận cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện Hiến pháp và các đạo luật hiện nay là sự vận hành của nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Để làm rõ được vấn đề này, cần phải giải quyết cho được cơ chế thực hiện nguyên tắc gốc là “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Cũng cần phải xem xét lại quan điểm về nguyên tắc tập quyền, bởi trong một thời gian dài chúng ta thường đặt nguyên tắc tập quyền để đối lập với nguyên tắc phân quyền của các nước tư bản chủ nghĩa. Trên thực tế, cần phải quán triệt nhận thức, bản thân quyền lực nhà nước là thống nhất. Sự thống nhất đó nằm trong chính nội tại của quyền lực nhà nước. Bởi vì, quyền lực nhà nước không phải là một tập hợp của các quyền của nhà nước hay quốc gia, cũng không phải là tập hợp của các thực thể riêng lẻ. Sự thống nhất đó cũng thể hiện ở chỗ chủ thể duy nhất của nó là nhân dân. Vì vậy, không thể quan niệm quyền lực nhà nước là tổng của phép cộng đơn thuần giữa các số hạng quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Điều đó có nghĩa là việc phân chia các quyền chỉ mang ý nghĩa tương đối, là phương thức để tổ chức quyền lực nhà nước chứ không nhằm xác định một chế độ là tư bản hay XHCN. Xuất phát từ quan điểm đó cần phải đẩy mạnh sự phân công, phân nhiệm, đề cao tính độc lập, tính chịu trách nhiệm của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chỉ khi có các quy định rạch ròi, minh bạch thì các thiết chế của quyền lực đó mới có thể phát huy hết hiệu quả hoạt động của mình. Tuy nhiên, sự phân công, phân nhiệm giữa các thiết chế không có nghĩa là kiềm chế, đối trọng mà đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam - thông qua việc thể chế các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành các quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, cũng cần xác định rõ “tính trội” của thiết chế được phân công quyền lập pháp mà cụ thể là Quốc hội. Bởi vì, đó chính là thiết chế do chính nhân dân, chủ thể của quyền lực nhà nước trực tiếp bầu ra. Thứ tư, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong lãnh đạo nhà nước và xã hội nên thể chế hoá trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp, và tiếp sau đó là các đạo luật. Chấp hành Hiến pháp và luật cũng cần được hiểu là chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Nói thế không có nghĩa là các văn bản pháp luật khác không mang trong mình đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Nhưng theo chúng tôi, đã là đường lối, chủ trương, chính sách thì cần thiết phải được thể hiện ở văn bản pháp lý có giá trị cao để bảo đảm tính thống nhất trong quá trình thực hiện và áp dụng. Đồng thời, cũng cần quán triệt chủ trương về việc sửa đổi Hiến pháp theo hướng chỉ quy định những nguyên tắc quan trọng và cơ bản nhất mà không quy định cụ thể. Các quy định của Hiến pháp cần có hiệu lực áp dụng trực tiếp, hạn chế sự uỷ quyền trong các quy định của Hiến pháp. Hệ thống pháp luật và chế độ pháp quyền 17:34' 21/2/2011 Bước vào năm mới Tân Mão, người dân nước ta chỉ còn một thập kỷ để thực hiện ước mơ trở thành một quốc gia công nghiệp. Vẫn biết, cảng biển, khu công nghiệp, tàu cao tốc... và mọi văn minh vật chất khác đều có thể dựa trên tiền vay mà dựng lên chóng vánh. Song, một quốc gia công nghiệp còn cần tới phong cách ứng xử công nghiệp; ứng xử giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải dựa trên một hệ thống pháp luật bền vững. Trong một thập kỷ tới, diện mạo hệ thống pháp luật Việt Nam sẽ ra sao, những tác nhân nào góp phần định hình hệ thống pháp luật ấy là một đề tài rất lớn, cần được thảo luận. Bài viết dưới đây góp vài thiển ý mạo muội dự báo một số thách thức trong xây dựng hệ thống pháp luật ở Việt Nam trong khoảng thời gian không còn dài tiến tới năm 2020. Xây dựng hệ thống luật pháp phải gắn với chế độ pháp quyền Nhà kinh tế học nổi danh Milton Friedman khi nhìn lại hơn một thập kỷ chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) trước kia, đã bộc bạch rằng: “Lời khuyên của tôi cho các quốc gia này chỉ gồm có ba chữ: tư nhân hóa, tư nhân hóa, tư nhân hóa… Nhưng tôi đã lầm. Hóa ra xây dựng một chế độ pháp quyền xem ra là một nền tảng còn quan trọng hơn cả tư nhân hóa”1. Những thế hệ công dân thời chuyển đổi ở Liên Xô cũ và nhiều nước Đông Âu đã khó mà nhận ra quốc gia của họ sau hơn một thập kỷ thực hiện “liệu pháp sốc” theo lời khuyên của những người theo chủ nghĩa tân tự do. “Ông chủ” đã thay khuôn mặt mới, song trong hoang tàn của nền pháp chế XHCN bị quên lãng, một trật tự của cường lực, tiền bạc và những đặc quyền mới được thiết lập. Một nền công lý đáng tin cậy với bất kỳ ai trở nên ngày càng xa vời. Nhận biết cải cách thể chế cần cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thay vì hối thúc tư nhân hóa, các nhà tài trợ chuyển sang hỗ trợ xây dựng nhà nước, hỗ trợ xây dựng các nền tảng của quản trị quốc gia và chế độ pháp quyền. Tại Việt Nam, sự giúp đỡ từ bên ngoài cũng bắt gặp những nỗ lực nội tại nhằm xây dựng một trật tự xã hội được quản lý bằng pháp luật. Sửa Hiến pháp, ghi nhận định hướng xây dựng Việt Nam thành một Nhà nước pháp quyền XHCN, thập kỷ đã qua chứng kiến cuộc xây dựng pháp luật mạnh mẽ, có lẽ là thập kỷ xây dựng pháp luật mạnh mẽ nhất trong lịch sử nước ta cho đến nay. Có thể so sánh phần nào với thời Minh Trị canh tân ở Nhật Bản cuối thế kỷ XIX, hơn 100 năm sau, Việt Nam cũng bắt tay vào xây dựng những nền móng pháp luật quan trọng cho một xã hội công nghiệp bằng việc ban hành kế tiếp những bộ luật đồ sộ chịu ảnh hưởng từ phương Tây. Ban hành văn bản pháp luật là một trong vô số những nỗ lực lớn hơn nhằm xây dựng một chế độ pháp quyền, nơi mà quyền tự do sở hữu, tự do khế ước và quyền tiệm cận công lý của mọi người dân được đảm bảo. Tự do cạnh tranh dựa trên những chuẩn mực ứng xử đáng tin cậy, đó là sự khác biệt cơ bản giữa một quốc gia công nghiệp và những nước nghèo. Luật pháp dày đặc, song nếu chúng chỉ nhằm thay thế những “ông chủ” giữ độc quyền, thì danh tước được đổi tên một cách tân thời nhưng nguồn lực trong quốc gia vẫn bị kiểm soát bởi những nhóm lợi ích đặc quyền. Khi ấy, hệ thống luật pháp trở thành pháo đài, chiến lũy bảo vệ người có quyền và thế lực, ngăn cản quyền tiệm cận nguồn lực và cơ hội thi thố tài năng của người dân. Nếu điều ấy xảy ra, cũng tựa như vô số nước đang phát triển khác, chúng ta có nhà máy lọc dầu và có thể có đường sắt cao tốc, song chưa có nền pháp quyền cần cho một xã hội công nghiệp. Vì lẽ ấy, từ lời tự vấn của M. Friedman, nên nhìn nhận quá trình xây dựng hệ thống pháp luật ở Việt Nam với một tầm nhìn lớn hơn, tức là xây dựng một chế độ pháp quyền, bảo đảm công lý cho bất kỳ ai. Dự báo thứ nhất là: Hệ thống pháp luật nếu chỉ giúp nhà nước quản lý xã hội thì chưa đủ, hệ thống pháp luật phải gắn với chế độ pháp quyền, đảm bảo công lý cho bất kỳ ai, không phân biệt họ thuộc nhóm xã hội nào. Nếu pháp luật là những chuẩn mực, thì trong chế độ pháp quyền cần loại bỏ chuẩn mực kép, mọi người dân trong xã hội đều có cơ hội được tiệm cận công lý. Thập kỷ đã qua đánh dấu nhiều thành tựu lập pháp to lớn, song việc xây dựng chế độ pháp quyền ở Việt Nam vẫn còn là một mục đích xa vời. Hướng về một hệ thống pháp luật với đa dạng các nguồn luật Như một hệ thống, luật pháp có thể được hiểu gồm hàng triệu quy phạm pháp luật được sắp đặt đôi khi duy lý và máy móc trong các chế định pháp luật, các chế định ấy tùy theo cách phân loại mà hình thành nên vô tận các lĩnh vực pháp luật. Theo học thuyết về pháp chế XHCN từ Liên Xô cũ, người ta chia hệ thống pháp luật thành các ngành luật, đôi khi tương ứng với các ngành quản lý của bộ máy nhà nước. Theo cách nhìn ấy, Đảng và Nhà nước dùng pháp luật như một công cụ để cai quản xã hội, (chữ Đảng và Nhà nước thường được viết hoa, trong đó Đảng đồng nghĩa với một Đảng cộng sản lãnh đạo trong quốc gia XHCN). Sau hai thập kỷ đổi mới, tuy có nhiều cách tân, song cách hiểu của người Việt Nam về hệ thống pháp luật về cơ bản vẫn tập trung vào hệ thống các quy phạm được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Chưa tính tới các hình thức VBQPPL của chính quyền địa phương, tổng số loại văn bản theo Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 đã lên tới 18 loại khác nhau. Nếu nhìn nhận hệ thống pháp luật chỉ là một thành tố trong chế độ pháp quyền, hướng tới thượng tôn pháp luật, thì dường như góc nhìn kể trên chưa thật đầy đủ. Khi ấy, pháp luật không chỉ là công cụ của nhà nước, luật thành văn được ghi trong VBQPPL chỉ là một phần nổi của những gì được gọi là luật cai trị trật tự con người. Điều mà con người hiểu, nhận ra, thỏa thuận với nhau và ghi thành luật (luật thế tục, do con người làm ra, positive law) chỉ là một phần trong vô tận quy luật tất nhiên, ung dung tự tồn tại trên đời này (luật tự nhiên, natural law). Trong cuộc ganh đua trí tuệ khám phá ra luật ở đời, quy phạm cũ không hợp lý bị loại bỏ, thay thế bằng điều mới hơn, hệ thống pháp luật vì thế không tĩnh, mà động, vô tận, không ngừng nghỉ, đào thải cái cũ, nhận ra cái mới tiến dần đến những quy luật này càng hợp với công lý của tự nhiên. Góp phần vào hệ thống pháp luật, vì lẽ đó, ngoài VBQPPL còn có học lý của giới nghiên cứu luật học, lẽ công bằng mà người thẩm phán cảm nhận được. Những nguồn pháp luật đa dạng này tựa như lá cành thân rễ, tất cả tạo nên một hệ thống pháp luật vững chãi khởi nguyên từ pháp luật tự nhiên. Ngoài ra, nếu hiểu pháp luật là một thể chế xã hội, thay cho con người ghi nhớ lại những chuẩn mực ứng xử, khi ấy hệ thống pháp luật còn bao gồm những thiết chế góp phần thực thi pháp luật, ví dụ cơ quan chấp pháp bảo đảm thực thi pháp luật, cơ quan bảo đảm và giữ gìn công lý trong thực hiện quy phạm pháp luật. Khi ấy, xây dựng hệ thống pháp luật không thể tách rời xây dựng hệ thống tòa án, cơ quan điều tra, công tố và các cơ quan bổ trợ tư pháp khác. Nếu nhìn nhận như vậy, Việt Nam đã qua một thập kỷ xây dựng văn bản pháp quy với tốc độ gia tăng một cách dày đặc dần, song cuộc “du nạp” các tòa án độc lập và những thiết chế thực thi pháp luật vẫn còn rất dang dở. Cuộc tranh luận về án đụng trần, về quyền giám sát của Quốc hội đối với các bản án của tòa án, thậm chí những cuộc tiến thoái không rõ chủ đích trong tầm nhìn cải cách đối với Viện kiểm sát nhân dân cho thấy một thái độ chưa thật dứt khoát, chưa đủ quyết tâm xây dựng một hệ thống tư pháp độc lập, đủ mạnh. Trong tương quan với sức mạnh của Chính phủ, ngành tòa án của Việt Nam đang có một vị thế khiêm tốn hơn rất nhiều. Dự báo thứ hai là: Ngoài xây dựng hệ thống VBQPPL trên giấy, sự đa dạng các nguồn luật trở nên quan trọng, tòa án phải có đủ quyền lực để phát triển và giải thích pháp luật. Trong một thập kỷ tới, cân bằng quyền lực giữa Chính phủ và hệ thống tòa án cần được cải thiện, giúp cho hệ thống tòa án nước ta được độc lập và hoạt động chuyên nghiệp hơn là một thách thức rất lớn trong quản trị quốc gia. Khi nguồn luật trở nên đa dạng, nhu cầu pháp điển hóa, làm cho hệ thống pháp luật tiện dùng cho người dân trở nên bức bách. Luật pháp cũng được “đóng gói” một cách hợp thời, tiện dùng với người dân.     Những cản trở từ văn hóa pháp luật và ý thức hệ tư tưởng Không thể xây dựng một chế độ pháp quyền ở một nước nghèo như Việt Nam bằng cách “thả dù” một toán cố vấn từ các nước giàu hoặc vay tiền nước ngoài để làm luật và du nhập các thể chế thực thi pháp luật. Nhà nước và pháp luật hiệu quả (rational Staat, rationales Recht) theo ngôn ngữ của Max Weber cần cho một xứ công nghiệp là những thể chế khan hiếm, chỉ xuất hiện và thành công ở một số nơi trên trái đất này dưới những điều kiện nhất định2. Quyền tư hữu và mơ ước làm giàu có ở mọi nơi, mọi lúc, đúng với mọi giống người, song điều gì đã làm cho chủ nghĩa tư bản đã ra đời ở Hà Lan và Anh lan dần sang Bắc Mỹ và Tây Âu, giúp họ sớm trở thành các quốc gia công nghiệp giàu có, trong khi phần còn lại của trái đất thuở đó vẫn chìm đắm trong đói nghèo? Một chế độ pháp quyền cần tới những tiền đề nhất định để xuất hiện và được duy trì một cách bền vững. Những điều này liệu đã có ở Việt Nam trong thập kỷ tới đây? Trong truyền thống pháp luật phong kiến phương Đông cũng như theo tư duy của nền pháp chế XHCN, người ta đều quan niệm pháp luật là công cụ của nhà nước nhằm thiết lập kỷ cương và trật tự xã hội theo ý chí của người cầm quyền. Một thập kỷ qua, Việt Nam đã du nhập đáng kể các văn bản pháp luật trên giấy cần cho Chính phủ để điều hành đất nước. Tuy nhiên, nếu quan niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN” nặng về tư duy “pháp trị” với chữ “Nhà nước” viết hoa còn chữ “nhân dân” thì viết thường, người Việt Nam vẫn thượng tôn nhà nước, chúng ta đã gắng du nhập những công cụ quản lý mới, tiện và hợp thời cho nhà nước cai trị xã hội, song cái gọi là chế độ thượng tôn pháp luật có thể vẫn còn xa vời. Văn hóa pháp luật Việt Nam, một cuộc hôn nhân lịch sử giữa tư tưởng pháp luật thời phong kiến bén duyên nhanh với quan niệm pháp chế XHCN, quan niệm thuần túy dùng pháp luật như một công cụ để Nhà nước quản lý được xã hội, có thể sẽ là một cản trở đáng kể để du nhập chế độ pháp quyền, nơi mọi công dân, mọi nhóm lợi ích đều bình đẳng về cơ hội tiệm cận các nguồn tài nguyên và quyền lực trong quốc gia, nếu chúng ta không có được những giải pháp tốt. Một sự bình đẳng về cơ hội như vậy chỉ có được dựa trên những quan niệm phổ quát như công dân hay doanh nghiệp, không phân biệt nguồn gốc, lý lịch, giống nòi, tôn giáo, quan hệ cá nhân, vây cánh hay thành phần sở hữu3. Từ quan niệm cần có pháp luật như công cụ để quản lý, không ngạc nhiên khi Chính phủ nước ta đã là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy toàn bộ quy trình làm luật. Chính phủ đã đứng sau tất cả những thành tựu lập pháp đồ sộ trong một thập kỷ qua, bởi Chính phủ có nhu cầu cần pháp luật để thể hiện các chính sách điều hành quốc gia. Chính phủ đã trở nên mạnh mẽ, có trong tay nhiều quyền lực điều hành quốc gia, tất cả các quyền lực ấy đều được hợp pháp hóa bằng pháp luật. Đó là một mặt của tấm huy chương. Song nếu không có sự gia tăng quyền lực một cách hợp lý cho cơ quan dân cử và tòa án, sẽ không có lực lượng nào đủ sức mạnh để giám sát và ép buộc được trách nhiệm giải trình của Chính phủ. Sự thiếu vắng của trách nhiệm giải trình là một trong những điểm yếu rõ rệt cho thấy một hệ thống pháp luật ngày càng dày đặc tuy là cần, song chưa hẳn đã đủ, để tiến tới một chế độ thượng tôn pháp luật. Dự báo thứ ba là: Song song với xây dựng hệ thống pháp luật, một thập kỷ tới phải là san sẻ và phân bổ quyền lực nhằm xác lập trách nhiệm giải trình của Chính phủ. Không chỉ là công cụ quản lý quốc gia trong tay Chính phủ, pháp luật phải trở thành công cụ trong tay người dân để giám sát, ép buộc Chính phủ phải làm việc minh bạch hơn, hiệu quả hơn. Vì lẽ ấy, hệ thống pháp luật phải được thiết kế để trao quyền cho những lực lượng có đủ sự chính danh để kiểm soát Chính phủ. Lỗ đen trong thiết chế chấp pháp: Yếu kém trong thực thi pháp luật Ông bà Seidman khi viết cuốn Đánh giá pháp luật vì sự phát triển (WB, 2003) đã bàn luận nhiều rằng, sự yếu kém của cơ quan dân cử, thiếu văn hóa tranh luận đa chiều về các lựa chọn chính sách quốc gia có thể là những nguyên nhân chính dẫn đến các đạo luật có mục đích chính sách không rõ ràng, các can thiệp của nhà nước không trúng và không đúng cũng như khả năng thực thi của luật thấp4. Như vậy, một hệ thống VBQPPL phình nhanh về số lượng, song mâu thuẫn về mục đích và chính sách can thiệp, tự nó đã tước bỏ cơ hội trở nên khả thi, trước khi được tổ chức triển khai trên thực tế. Năng lực phản biện chính sách của toàn xã hội và khả năng nói “không” của cơ quan dân cử trước các lựa chọn chính sách chưa hợp lý của Chính phủ có lẽ cần là một điểm then chốt giúp hệ thống pháp luật được khả thi, sớm nhất là từ quá trình đề xuất sáng kiến và soạn thảo luật. Sau khi pháp luật được ban hành, pháp luật phải được đảm bảo thi hành bởi các cơ quan chấp pháp. Đây chính là điểm chưa được bàn luận nhiều trong một thập kỷ qua. Ngoài đề xuất tách dần chức năng lập chính sách của Chính phủ, nội các và các bộ trưởng, cần một tư duy xây dựng một hệ thống hành chính chuyên nghiệp, quan liêu - theo nghĩa tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực về quy trình của một tổ chức và có năng lực thực thi pháp luật cao. Tách các chính khách hoạt động chính trị ra khỏi đội ngũ công chức hành chính chuyên nghiệp có lẽ là một điều kiện cần thiết để bắt đầu xây dựng những thiết chế chấp pháp có hiệu quả. Tuy nhiên, như Fukuyama (2004) đã thừa nhận, các thiết chế hành chính công có hiệu quả cũng đầy bí ẩn như các lỗ đen trong tổ chức nội bộ các công ty, người ta có thể mau chóng du nhập mô hình của thiết chế, tựa như du nhập mau chóng Cục Quản lý cạnh tranh hay Kiểm toán Nhà nước, song các thiết chế chấp pháp này có hoạt động hiệu quả được hay không lại là một bài toán đầy ẩn số. Dự báo thứ tư là: Trong thập kỷ tới, Việt Nam có thành công trong xây dựng chế độ pháp quyền cần cho một nền công nghiệp hay không, phụ thuộc đáng kể vào việc chất lượng xây dựng các thiết chế đảm bảo thực thi pháp luật. Một hệ thống pháp luật dày đặc quy phạm được tạo ra trong thập kỷ qua sẽ ít ý nghĩa, kể cả trong thập kỷ tới, nếu thiếu những thiết chế thực thi pháp luật hoạt động hiệu quả. Phân biệt chức năng lập chính sách của Chính phủ với chức năng chấp pháp của bộ máy hành chính, xây dựng đội ngũ công chức mẫn cán, chuyên nghiệp và có kỷ luật chấp pháp cao (hiểu theo nghĩa tích cực của từ quan liêu) có thể sẽ là những ưu tiên chính sách gắn liền với xây dựng hệ thống pháp luật.         Người ta bảo “con người nô lệ pháp luật là con người tự do”. Trong chế độ pháp quyền, nơi pháp luật minh bạch, dễ tiên liệu, tạo nên những chuẩn mực đáng tin cậy, con người sẽ đỡ run sợ trước cường quyền, thần thế và sức mạnh tiền bạc. Công lý được đảm bảo cho bất kỳ ai có lẽ vẫn chỉ là một giấc mơ, ở cả nước giàu lẫn nước nghèo. Tuy vậy, nếu không sớm đặt những nền móng kiến tạo công lý thì mười năm sẽ trôi qua rất nhanh, hệ thống pháp luật giúp nhà nước cai quản xã hội có thể phình nhanh, song dân tộc chúng ta không tiến xa trên con đường tiến tới chế độ pháp quyền. Kiểm soát nhà nước, nâng cao trách nhiệm giải trình của các thiết chế quản trị quốc gia, đặc biệt là của Chính phủ và nền hành pháp, có thể nên là một chủ đề cần nhấn mạnh gắn liền với xây dựng hệ thống pháp luật ở Việt Nam trong thập kỷ tiếp theo. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM PHẦN 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG Nghiên cứu về hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật Việt Nam nói riêng cần được bắt đầu từ việc nhận thức về những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật, trong đó có những vấn đề như: Bản chất của pháp luật; giá trị xã hội của pháp luật; chức năng của pháp luật; hình thức của pháp luật; hiệu lực của pháp luật và những mối quan hệ cơ bản của pháp luật. Bởi vì, khi tìm hiểu những vấn đề của Hệ thống pháp luật dù ở những góc độ khác nhau thì chúng ta cũng phải trở về với các vấn đề này. 1. Bản chất của pháp luật. 1.1. Một số quan điểm về pháp luật: - Quan điểm về pháp luật tự nhiện; - Quan điểm về tính ý chí được thể hiện trong pháp luật; - Quan điểm về tính quy phạm của pháp luật; - Quan điểm về tính xã hội của pháp luật. 1.2. Học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật: Có thể khái quát một số điểm chính như sau: - Pháp luật là hiện tượng của kiến trúc thượng tầng, vì vậy một mặt nó chịu sự tác động mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng, nhưng mặt khác pháp luật có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng; - Pháp luật có quan hệ mật thiết với Nhà nước. Nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và ngược lại pháp luật chỉ phát huy được hiệu lực của mình nếu nó được bảo đảm bằng sức mạnh của bộ máy Nhà nước; - Pháp luật luôn thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền; - Tính quy phạm phổ biến là một thuộc tính đặc thù của pháp luật. Như vậy, cần phải xem xét bản chất của pháp luật một cách toàn diện để tránh cực đoan. Khi nói về bản chất của pháp luật thì cần chú ý tới các thuộc tính của pháp luật trong một thể thống nhất, đó là: Tính quy phạm phổ biến, tính ý chí, tính quyền lực và tính xã hội của pháp luật. Những thuộc tính này hợp thành bản chất, quy định nội dung của pháp luật và từ đó yêu cầu phải có sự chặt chẽ về hình thức của pháp luật. Từ đây, khái niệm pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng và hẹp tuỳ theo yêu cầu tiếp cận và giải quyết các vấn đề của hệ thống pháp luật. - Theo nghĩa hẹp: Pháp luật là tổng thể các quy tắc xử sự, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của Nhà nước và phản ánh những nhu cầu xã hội khách quan, điển hình, phổ biến để điều chỉnh các quan hệ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội (Pháp luật thực định); - Theo nghĩa rộng: Pháp luật là tổng thể các quy tắc xử sự và các nguyên tắc, định hướng, mục đích pháp luật, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của Nhà nước và phản ánh những nhu cầu xã hội khách quan, điển hình, phổ biến để điều chỉnh các quan hệ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. 2. Giá trị xã hội của pháp luật. 2.1. Pháp luật là biểu hiện của văn minh và văn hoá; 2.2. Pháp luật là cơ sở để đảm bảo an ninh và an toàn xã hội; 2.3. Pháp luật là cơ sở để đảm bảo tự do của con người; 2.4. Pháp luật là cơ sở để đảm bảo bình đẳng và công bằng xã hội; 2.5. Pháp luật có giá trị nhân văn và nhân đạo; 2.6. Pháp luật là yếu tố quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. 3. Chức năng của pháp luật. 3.1. Chức năng phản ánh; 3.2. Chức năng quy định; 3.3. Chức năng điều chỉnh; 3.4. Chức năng giáo dục. 4. Hình thức của pháp luật (nguồn của pháp luật). 4.1. Tập quán pháp; 4.2. Tiền lệ pháp; 4.3. Văn bản quy phạm pháp luật. 5. Hệ thống pháp luật. 5.1. Một số quan điểm về khái niệm Hệ thống pháp luật: - Quan điểm 1: Hệ thống pháp luật bao gồm 2 bộ phận là Công pháp và Tư pháp; - Quan điểm 2: Quan điểm truyền thống của phần lớn các nhà luật học Xô viết trước đây cho rằng cần phải phân biệt 2 khái niệm: Hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định; - Quan điểm 3: Chỉ có 01 khái niệm Hệ thống pháp luật, không thể phân biệt rõ nét hai khái niệm Hệ thống pháp luật và Hệ thống pháp luật thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật có nội dung rất rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác nữa của pháp luật tồn tại trên thực tế mà dựa trên cơ sở đó tính hiện thực của pháp luật đựơc bảo đảm và pháp luật phát huy hiệu lực. - Quan điểm của các nhà luật học Việt Nam: Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định. Theo quan điểm này hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao gồm hai mặt cụ thể là: Hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật (hệ thống nguồn của pháp luật). 5.2. Hệ thống cấu trúc của pháp luật: 5.2.1. Quy phạm pháp luật: - Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất (tế bào) trong hệ thống cấu trúc của pháp luật. Nó vừa có tính khái quát, vừa có tính cụ thể. - Xét về tính chất, quy phạm pháp luật mang đầy đủ các yếu tố thể hiện bản chất của pháp luật nhưng ở mức độ hẹp nhất, cụ thể nhất. - Xét theo quan điểm hệ thống, quy phạm pháp luật cũng là một tiểu hệ thống bao gồm 3 bộ phận hợp thành: Giả định, quy định và chế tài. 5.2.2. Chế định pháp luật. 5.2.3. Ngành luật. 5.3. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật: 5.3.1. Khái niệm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; 5.3.2. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật; 5.3.3. Các loại văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay; 5.3.4. Vấn đề hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. - Hiệu lực theo thời gian; - Hiệu lực theo không gian; - Hiệu lực theo đối tượng tác động. 5.4. Những tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật: - Tính toàn diện; - Tính đồng bộ; - Tính phù hợp; - Trình độ kỹ thuật pháp lý. 6. Xây dựng pháp luật và hệ thống hoá pháp luật. 6.1. Xây dựng pháp luật; 6.2. Hệ thống hoá pháp luật. PHẦN 2 GIỚI THIỆU CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1. Ngành luật Hiến pháp; 2. Ngành luật Hành chính; 3. Ngành luật Hình sự; 4. Ngành luật Tố tụng hình sự; 5. Ngành luật Dân sự; 6. Ngành luật Tố tụng dân sự; 7. Ngành luật Lao động; 8. Ngành luật Kinh tế; 9. Ngành luật Tài chính; 10. Ngành luật Ngân hàng; 11. Ngành luật Đất đai; 12. Ngành luật Hôn nhân và Gia đình; 13. Giới thiệu Luật Quốc tế, đặc biệt phần sở hữu trí tuệ. * Lưu ý: Trong các ngành luật kể trên chủ yếu giới thiệu những ngành luật đã được in nghiên và đậm. PHẦN 3 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN (3 TIẾT) 1. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam. 1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1959: Đây là thời kỳ Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mới ra đời, pháp luật là công cụ bảo vệ chính quyền non trẻ, phục vụ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1955-1957), cải tạo và phát triển kinh tế (1958-1960), 1.2. Thời kỳ từ năm 1959 đến năm 1980: Đây là thời kỳ pháp luật phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chuẩn bị cho cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. 1.3. Thời kỳ từ năm 1980 đến năm 1992: Đây là thời kỳ pháp luật phục vụ cho sự nghiệp cả nước bước đầu quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bước đầu thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.4. Thời kỳ từ năm 1992 đến nay: Đây là thời kỳ pháp luật phục vụ cho việc tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của dân, do dân và vì dân. 2. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. 2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay: - Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; - Yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; - Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; - Yêu cầu củng cố và mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; - Yêu cầu mở rộng hợp tác quốc tế và chủ động hội nhập. 2.2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: - Thể chế hoá kịp thời và đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải bảo đảm phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm và chuẩn mực quốc tế, bảo đảm tính truyền thống và tính hiện đại của hệ thống pháp luật Việt Nam. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, dân chủ và công bằng xã hội. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải kịp thời vững chắc và cơ bản, bảo đảm cho pháp luật tương đối ổn định, kế thừa và phát triển liên tục. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải đảm bảo tính khả thi, tính hiệu lực và hiệu quả của pháp luật trong thực tiễn cuộc sống. 2.3. Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. - Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý để cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách, chiến lược pháp luật, hình thành các chương trình, kế hoạch xây dựng và hoàn thiện pháp luật. - Xây dựng chiến lược phát triển hệ thống pháp luật gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. - Tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội. - Tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đối với công tác xây dựng các dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. - Tăng cường năng lực của các cơ quan pháp chế Bộ, ngành. - Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ làm công tác pháp luật.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_2633.doc
Tài liệu liên quan