Luận văn Một số vấn đề của pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 3 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN 3 CHỨNG KHOÁN 3 1. Khái niệm chứng khoán 3 1.1. Định nghĩa chứng khoán 3 1.2. Đặc điểm của chứng khoán 3 1.3. Phân loại chứng khoán 5 1.4. Vai trò của chứng khoán 7 2. Chào bán chứng khoán 9 2.1. Khái niệm về chào bán chứng khoán 9 2.2. Phương thức chào bán chứng khoán 10 2.3. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán 12 2.3.1. Đối với thị trường chứng khoán 12 2.3.2. Đối với chủ thể chào bán 12 3. Pháp luật về chào bán chứng khoán 14 3.1. Khái niệm pháp luật về chào bán chứng khoán 14 3.2. Nội dung pháp luật về chào bán chứng khoán 16 3.2.1. Pháp luật về chào bán chứng khoán của doanh nghiệp 16 3.2.2.Pháp luật về chào bán chứng khoán của Chính phủ và chính quyền địa phương 20 3.3. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán 20 CHƯƠNG II 23 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN 23 1. Chủ thể chào bán chứng khoán 23 1.1. Chính phủ 23 1.2. Chính quyền địa phương 24 1.3. Doanh nghiệp 24 1.3.1. Chủ thể chào bán chứng khoán vốn 24 1.3.1.1. Công ty cổ phần 24 1.3.1.2. Công ty Nhà nước cổ phần hoá 25 1.3.1.3. Công ty quản lý quỹ đầu tư 26 1.3.1.4. Công ty đại chúng 26 1.3.2. Chủ thể chào bán chứng khoán nợ 27 2. Các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán của doanh nghiệp 28 2.1. Các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng 28 2.1.1. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng 28 2.1.1.1. Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng 29 2.1.1.2. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng 31 2.1.1.3. Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng 32 2.1.2. Các quy định về thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng 33 2.1.2.1. Hồ sơ chào bán 33 2.1.2.2. Thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng 36 2.2. Quy định về chào bán riêng lẻ 37 2.2.1. Quy định về chào bán cổ phiếu 37 2.2.1.1. Chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần 37 2.2.1.2. Chào bán cổ phiếu của công ty Nhà nước cổ phần hoá 40 2.2.1.3. Phát hành cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần 44 2.2.2. Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu 45 2.2.2.1. Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp 45 2.2.2.2. Quy định về chào bán trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng 48 3. Chào bán chứng khoán của chính phủ và chính quyền địa phương 50 3.1. Trái phiếu Chính phủ 51 3.2. Trái phiếu Chính quyền địa phương 54 4. Quản lý Nhà nước về chào bán chứng khoán ở Việt Nam 55 CHƯƠNG III 58 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN 58 1. Căn cứ để hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán 58 1.1. Căn cứ vào chủ trương chính sách của Đảng về phát triển kinh tế thị trường 58 1.2. Căn cứ vào đặc điểm phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam 59 1.3. Căn cứ vào tình hình phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay 60 2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về chào bán chứng khoán 61 2.1. Bổ sung, sửa đổi một số quy định hiện hành về chào bán chứng khoán ra công chúng theo Luật chứng khoán 2006 61 2.2. Sửa đổi bổ sung Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương 63 2.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về cổ phần hoá công ty Nhà nước 65 2.4. Xây dựng một cơ chế giám sát thống nhất quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán đặc biệt là chào bán chứng khoán riêng lẻ 67 2.5. Hoàn thiện một số quy định khác liên quan đến chào bán chứng khoán 68 KẾT LUẬN 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO 72

doc77 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1992 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề của pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lệ. Tuy nhiên thủ tục xin phát hành còn rườm rà, mang nặng tính hành chính, quá chặt chẽ về hồ sơ. Điều này sẽ hạn chế khả năng huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần. Từ năm 2004 trở về trước đã có một số ngân hàng huy động thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu riêng lẻ như ngân hàng cổ phần Đông á, ngân hàng cổ phần quân đội( MBB), ngân hàng Sài gòn thương tín (STB). Tuy nhiên hiện nay, với ưu thế của việc chào bán cổ phiếu ra công chúng, các ngân hàng thường lựa chọn hình thức này để tăng vốn điều lệ. Vì vậy, các quy định về chào bán cổ phiếu riêng lẻ của ngân hàng thương mại cổ phần như trên sẽ không còn phù hợp nữa và cần thay đổi. 2.2.2. Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu 2.2.2.1. Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp Trước đây, hầu như pháp luật không có qui định về việc chào bán riêng lẻ trái phiếu của doanh nghiệp nói chung ngoài Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 17 tháng 9 năm 1994 ban hành quy chế tạm thời về việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy việc phát hành trái phiếu của công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn không có cơ sở pháp lý, từ đó hạn chế khả năng huy động vốn của chủ thể này. Điều này đã được khắc phục cùng với sự ra đời của Nghị định 52/2006/ NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Về đối tượng được quyền phát hành riêng lẻ trái phiếu để huy động vốn bao gồm công ty cổ phần, công ty Nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tổ chức tín dụng thuộc sở hữu Nhà nước. Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 đã có những quy định về hình thức trái phiếu nguyên tắc phát hành trái phiếu; điều kiện và thẩm quyền quyết định phát hành trái phiếu các loại trái phiếu doanh nghiệp; phương thức phát hành trái phiếu và về việc công bố thông tin. Về nguyên tắc phát hành trái phiếu, Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 đã đưa ra ba nguyên tắc tại điều 3 [9.6]. Những quy định này đều hướng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đồng thời đảm bảo một nguyên tắc rất quan trọng hiện nay là công khai minh bạch. Về điều kiện phát hành trái phiếu, được quy định tại điều 17 của Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006. Theo đó doanh nghiệp chỉ được phát hành trái phiếu khi có đủ các điều kiện sau: (i) Là doanh nghiệp thuộc đối tượng phát hành trái phiếu riêng lẻ (ii) Có thời gian hoạt động tối thiểu trong 1 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động. Quy định này là hoàn toàn hợp lý để đảm bảo quyền của nhà đầu tư. Với bản chất là chứng khoán nợ, khi nhà đầu tư sở hữu trái phiếu trong tay họ phải được đảm bảo về khả năng trả nợ. Việc quy định thời gian hoạt động tối thiểu như trên vừa thúc đẩy nhà đầu tư mua trái phiếu tăng khả năng về vốn cho doanh nghiệp vừa phù hợp với nguyên tắc phát hành trái phiếu doanh nghiệp “ Tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay”. (iii) Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán. Tuy nhiên để đảm bảo báo cáo tài chính của doanh nghiệp là một văn bản có tính trung thực cao cần có những quy định về tiêu chuẩn kiểm toán và tổ chức kiểm toán (iv) Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi. (v) Có phương án phát hành trái phiếu được các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua. Mục đích của những quy định này nhằm đảm bảo tính thanh khoản cũng như chất lượng của trái phiếu. Nếu so sánh với quy định về chào bán trái phiếu ra công chúng tại Luật chứng khoán 2006 thì điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ có một điểm khác cơ bản: không quy định mức vốn tối thiểu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Đây là một điểm khá phù hợp với thực tế ở Việt Nam: chủ yếu các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn điều lệ thấp. Nếu quy định điều kiện trên thì các chủ thể này khó có khả năng huy động nguồn vốn thông qua trái phiếu. Điều này sẽ ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh. Thêm nữa hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ chỉ được thực hiện trong một bộ phận dân chúng, không phải thông báo công khai nên chỉ cần doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả nợ cho nhà đầu tư là được. Về việc thông qua phương án phát hành trái phiếu, trước đây chỉ có một văn bản điều chỉnh vấn đề phát hành trái phiếu của doanh nghiệp Nhà nước. Theo văn bản này, Bộ Tài chính là cơ quan ra quyết định phát hành trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay, theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 quyền thông qua phương án phát hành trái phiếu thuộc nội bộ của doanh nghiệp. Cụ thể là, Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành trái phiếu chuyển đổi; Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc đại diện chủ sở hữu thông qua phương án phát hành trái phiếu không có khả năng chuyển đổi (Điều 19). Đây là quy định khá hợp lý bởi trên thực tế những người nắm quyền quản lý điều hành chính là những người hiểu nhất nhu cầu về vốn của doanh nghiệp để phát hành trái phiếu còn Bộ Tài chính chỉ là cơ quan quản lý ở tầm vĩ mô. Một điểm tiến bộ của Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 là đã quy định cho các tổ chức tín dụng Nhà nước được phát hành trái phiếu chuyển đổi. Loại trái phiếu này sẽ chuyển thành cổ phần khi các tổ chức tín dụng Nhà nước chuyển sang hình thức tổ chức tín dụng cổ phần. Điều này nào giải quyết được nhu cầu về vốn đồng thời thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các tổ chức tín dụng Nhà nước, cùng với lộ trình cổ phần hoá các công ty Nhà nước. Đây cũng là biện pháp vừa giảm bớt các thủ tục như định giá hay phát hành cổ phiếu ra ngoài, vừa tạo điều kiện thuận lợi để một số nhà đầu tư mua trái phiếu chuyển đổi có cơ hội trở thành cổ đông của tổ chức tín dụng. Về phương thức phát hành trái phiếu, Nghị định đã quy định 3 phương thức: bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành và đấu thầu. Có thể nói đây là lần đầu tiên pháp luật quy định các phương thức chào bán riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp. Đây cũng là những quy định rất mở, tạo cho doanh nghiệp cơ hội để lựa chọn các phương thức phát hành trái phiếu riêng lẻ phù hợp với điều kiện của mình. Với những quy định rất thông thoáng của Nghị định 52/2006/ NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 Chính phủ đã tạo ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp tham gia vào thị trường trái phiếu không chỉ với tư cách là nhà đầu tư mà còn là nhà phát hành. Văn bản này đã mở đường cho các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, giảm thiểu sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn từ tổ chức tín dụng. Một điển hình là EVN vào tháng 7 năm 2006 EVN đã phát hành trái phiếu và huy động tới 1000 tỷ đồng, tiết kiệm xấp xỉ một triệu đô tiền lãi [7] . 2.2.2.2. Quy định về chào bán trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng Ngoài việc phát hành cổ phiếu của một số ngân hàng thương mại cổ phần, thì việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu cũng là một trong những hình thức huy động vốn phổ biến của các tổ chức tín dụng hiện nay. Hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng được quy định tại Quyết định 02/2004/QĐ- NHNN ngày 4 tháng 1 năm 2004 của Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước. Giấy tờ có giá bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi dài hạn trong đó, nhưng chỉ có trái phiếu là chứng khoán. Theo quy định của pháp luật phạm vi chủ thể được phép phát hành trái phiếu là khá rộng. Ngoài Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng thương mại Nhà nước còn có quỹ tín dụng Nhân dân trung ương, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Về điều kiện phát hành trái phiếu, Pháp luật quy định khá mở, chỉ yêu cầu tổ chức tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện sau: (i) Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn và hoạt động theo quy định của Pháp luật về tổ chức tín dụng và của Ngân hàng nhà nước (ii) Có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra Ngân hàng. Những điều kiện này đã mở rộng khả năng cho các tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu để huy động vốn, giảm bớt áp lực về vốn cho các tổ chức tín dụng. Về hình thức phát hành, tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu theo hình thức chứng chỉ ghi danh, chứng chỉ vô danh và ghi sổ. Về phương thức phát hành, tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu theo hai phương thức là:trực tiếp phát hành trái phiếu; phát hành thông qua tổ chức tín dụng làm đại lý hoặc uỷ thác phát hành trái phiếu. Trên thực tế, phát hành trái phiếu thông qua đại lý là phương thức thông dụng vì trái phiếu được bán cho khách hàng một cách nhanh gọn có khả năng tổ chức tín dụng huy động được vốn như dự kiến là rất cao. Về thủ tục phát hành, tổ chức tín dụng muốn phát hành trái phiếu phải được sự đồng ý của thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Tổ chức tín dụng phải gửi hồ sơ đề nghị phát hành trái phiếu cho thống đốc Ngân hàng Nhà nước, bao gồm các tài liệu như đề nghị phát hành, giấy tờ có giá, phương án phát hành, báo cáo tài chính của 2 năm liên tục gần nhất, điều lệ và giấy phép hoạt động. Trên cơ sở xem xét hồ sơ đề nghị và điều kiện phát hành, thống đốc Ngân hàng nhà nước sẽ ra quyết định về việc phát hành trái phiếu. Trước thời điểm phát hành ít nhất 20 ngày, tổ chức tín dụng phải gửi thông báo kế hoạch đợt phát hành trái phiếu cho Ngân hàng nhà nước. Tổ chức tín dụng chủ động phát hành trái phiếu trong phạm vi kế hoạch năm tài chính. Như vậy, những quy định của quyết định 02/2004/ QĐ- NHNN ngày 4 ngày 1 năm 2004 về phát hành trái phiếu của tổ chức tín dụng là tương đối chặt chẽ và phù hợp, từ điều kiện, phương thức và trình tự thủ tục phát hành. Quyết định đã tạo điều kiện tốt nhất cho các tổ chức tín dụng huy động vốn. 3. Chào bán chứng khoán của chính phủ và chính quyền địa phương Trên thị trường chứng khoán hiện nay, bên cạnh các loại chứng khoán của các doanh nghiệp, còn có loại chứng khoán do Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành: đó là trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương. Trong thời gian vừa qua, thị trường trái phiếu nói chung và thị trường trái phiếu Chính phủ nói riêng không có những hoạt động sôi nổi như thị trường cổ phiếu, nhưng trái phiếu Chính Phủ và trái phiếu chính quyền địa phương luôn là công cụ hữu hiệu để Chính phủ và chính quyền địa phương huy động vốn trong dân chúng; nhằm bù đắp sự thiếu hụt ngân sách cũng như để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển. So với các loại chứng khoán khác, trái phiếu Chính phủ có lẽ loại chứng khoán tiếp cận sớm nhất với người dân ( Năm 1994 Chính phủ ban hành nghị định số 72/CP ngày 26 tháng 7 năm 1994 về quy chế phát hành các loại trái phiếu Chính phủ). Đây chính là nguồn hàng cơ bản, đóng vai trò trung tâm cho sự khởi động của thị trường chứng khoán. Cho đến nay, trái phiếu Chính phủ vẫn giữ vai trò chủ đạo trên thị trường trái phiếu Việt Nam với hơn 90% tổng khối lượng trái phiếu [7]. Hiện nay, hoạt động chào bán trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương chịu sự điều chỉnh của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương. Theo Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 và pháp luật về chứng khoán: chứng khoán là công cụ huy động vốn trung và dài hạn ( có thời hạn trên 1 năm); chứng khoán do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành bao gồm trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ và trái phiếu chính quyền trung ương. 3.1. Trái phiếu Chính phủ Về tổ chức phát hành. Theo quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003, chủ thể phát hành các loại trái phiếu Chính phủ là Chính phủ. Tuy nhiên trên thực tế, Chính phủ không trực tiếp thực hiện các hoạt động và tiến hành các phương thức phát hành mà uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước (đối với trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương), Bộ Tài Chính (đối với trái phiếu ngoại tệ), các tổ chức tài chính nhà nước, tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính được Chính phủ chỉ định (đối với trái phiếu đầu tư) trực tiếp phát hành. Về mục đích phát hành. Cũng giống như việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, Chính phủ phát hành các loại chứng khoán này nhằm mục đích huy động vốn trong dân chúng. Tuy nhiên nếu như doanh nghiệp phát hành trái phiếu để mở rộng sản xuất kinh doanh thì Chính phủ phát hành trái phiếu để bù đắp thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước, cho các dự án thuộc vốn đầu tư của ngân sách trung ương đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm, để đầu tư phát triển kinh tế của quốc gia; tức là thực hiện các nhiệm vụ ở tầm vĩ mô. Về phương thức phát hành. Phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc sử dụng hợp lý phương thức phát hành sẽ đem lại hiệu quả cao cho đợt phát hành đó. Như chúng ta đã biết phát hành trái phiếu Chính phủ không phải là hoạt động được thực hiện một cách thường xuyên. Nó chỉ được thực hiện khi Nhà nước cho nhu cầu bù đắp bội chi ngân sách hoặc chi cho đầu tư phát triển. Vì vậy nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút nhanh chóng nguồn vốn trong dân chúng, giải quyết được những nhu cầu cấp bách và cần thiết về vốn của quốc gia, Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 đã quy định nhiều phương thức phát hành cho từng loại trái phiếu. Theo đó, đấu thầu và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước là hai phương thức được áp dụng cho cả bốn loại chứng khoán của Chính phủ. Đối với phương thức bán lẻ qua hệ thống kho bạc Nhà nước, ưu điểm là chứng khoán được bán trực tiếp đến tay nhà đầu tư. Đồng thời đây cũng là phương thức rất quen thuộc với người dân Việt Nam khi mà họ còn xa lạ với các phương thức phát hành khác. Phương thức đấu thầu được xem là phương thức đem lại hiệu quả cao cho đợt phát hành vì lãi suất được hình thành qua kết quả đấu thầu không bao giờ lớn hơn mức lãi suất chỉ đạo, hơn nữa lượng chứng khoán sẽ được bán gọn cho các đơn vị trúng thầu do vậy tốc độ thu hút vốn rất nhanh chóng. Đối với trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu đầu tư; Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 còn quy định phương thức bảo lãnh phát hành. Đây là phương thức phát hành mới được bổ sung vào Nghị định này so với Nghị định 72/CP ngày 26 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ trước kia. Ở nhiều nước trên thế giới, bảo lãnh phát hành là phương thức được sử dụng rất phổ biến vì nó đảm bảo được tính an toàn cho cả đợt phát hành. Đây cũng là phương thức có khả năng đem lại kết quả cao nhất cho đợt phát hành. Việc bổ sung “bảo lãnh” vào các phương thức phát hành trái phiếu của Chính phủ cũng sẽ làm cho thị trường trái phiếu nước ta bớt đơn điệu khi mà trên thị trường xuất hiện trên thị trường một chủ thể mới: công ty bảo lãnh phát hành. Ngoài ra, riêng đối với việc phát hành trái phiếu kho bạc, tổ chức phát hành có thể áp dụng phương thức đại lý phát hành. Với phương thức này kho bạc nhà nước có thể tiêu thụ một lượng lớn chứng khoán, vốn sẽ được huy động tương đối nhanh từ đó có thể nhanh chóng bù đắp được sự thiếu hụt của ngân sách Nhà nước. Về điều kiện phát hành. Pháp luật chỉ quy định điều kiện phát hành đối với trái phiếu công trình trung ương. Theo đó, điều kiện phát hành loại chứng khoán này được quy định tại điều 29 của Nghị định : (i) Công trình nằm trong danh mục đầu tư trọng điểm hàng năm của Chính phủ. Điều kiện này là phù hợp với mục đích của việc phát hành trái phiếu công trình Trung ương. Mục đích của việc phát hành trái phiếu công trình Trung ương là nhằm huy động vốn cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách trung ương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Đây chính là điều kiện cần và là điều kiện tiên quyết để phát hành loại chứng khoán này. Bởi vì, nếu không có “công trình nằm trong danh mục đầu tư..” thì Chính phủ không phải huy động vốn và từ đó không phải phát hành trái phiếu công trình trung ương. (ii) Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn trả nợ vay khi đến hạn được thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở đề án do Bộ Tài chính chủ trì xây dựng. Có thể nói, Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 ra đời đã thực sự tạo cơ hội thông thoáng cho việc phát hành chứng khoán của Chính phủ. So với Nghị định 72/CP ngày 26 tháng 7 năm 1994 trước đây, Nghị định đã hoàn thiện một số nội dung như: đa dạng hoá các loại trái phiếu chính phủ (bổ sung hai loại trái phiếu ngoại tệ và trái phiếu đầu tư) từ đó tạo sự phong phú cho nguồn hàng của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Đồng thời Nghị định cũng bổ sung phương thức bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ, xoá bỏ điều kiện để phát hành trái phiếu Kho bạc. Trong thời gian qua, cùng với sự ra đời của VDB (ngân hàng phát triển Việt Nam) cộng một cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ rất “mở” theo Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003, một khối lượng vốn rất lớn đã được huy động thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Sáu tháng cuối năm 2006, VDB đã huy động được 8730 tỷ đồng. Năm 2006 là năm đầu tiên VDB hoàn thành nhiệm vụ huy động vốn để cấp tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và bảo lãnh tín dụng [7]. Vốn trái phiếu Chính phủ đã phát huy được vai trò quan trọng trong việc đầu tư các công trình, dự án lớn của Chính phủ. Với các quy định rất thông thoáng, trái phiếu Chính phủ trong thời gian tới sẽ thực sự trở thành công cụ nợ trên thị trường tài chính, trở thành hàng hoá được giao dịch thực sự sôi động trên thị trường chứng khoán sơ cấp. 3.2. Trái phiếu Chính quyền địa phương Trái phiếu chính quyền địa phương đang ngày càng trở thành một công cụ huy động vốn hiệu quả cho địa phương, phát huy tiềm lực về vốn của nhà đầu tư tại địa phương mình. Trái phiếu Chính quyền địa phương là loại trái phiếu có kỳ hạn trên 1 năm nên nó cũng được coi là một loại chứng khoán- hàng hoá của thị trường chứng khoán. Về tổ chức phát hành. Theo quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là chủ thể phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Tuy nhiên cũng giống như Chính phủ, Uỷ ban nhân dân không trực tiếp thực hiện các hoạt động phát hành mà uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trên địa bàn phát hành. Về phương thức phát hành. Trái phiếu chính quyền địa phương được phát hành theo phương thức đấu thầu, bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành. Về điều kiện phát hành. Trái phiếu chính quyền địa phương không phải là loại trái phiếu được phát hành một cách thường xuyên. Mục đích của việc phát hành loại chứng khoán này là nhằm huy động vốn cho các dự án công trình thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách địa phương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Vì vậy, việc phát hành phải tuân thủ các điều kiện sau: (i) Dự án, công trình thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch đầu tư 05 năm đã được Hội đồng nhận dân cấp tỉnh quyết định. (ii) Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn trả nợ vốn vay khi đến hạn được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng trình Hội đồng nhân dân thông qua và được Bộ trưởng Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản. (iii) Có quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn chịu trách nhiệm phát hành, thanh toán trái phiếu. Những điều kiện này một mặt đảm bảo cho chất lượng và tính thanh khoản của trái phiếu được phát hành một mặt hạn chế sự phát hành một cách bừa bãi loại chứng khoán này để huy động vốn trong dân chúng của chính quyền địa phương. Có thể nói, những quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 đã tạo ra một cơ sở pháp lý cho Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành trái phiếu, huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng vào những chương trình kinh tế của mình, qua đó cung cấp và tạo sự đa dạng về hàng hoá cho thị trường chứng khoán. 4. Quản lý Nhà nước về chào bán chứng khoán ở Việt Nam Như đã phân tích ở trên, việc chào bán chứng khoán có sự khác nhau từ điều kiện, phương thức và trình tự thủ tục chào bán giữa các chủ thể. Việc quản lý Nhà nước đối với các hoạt động này cũng rất phức tạp, đòi hỏi phải áp dụng đồng thời nhiều biện pháp khác nhau. Đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Luật chứng khoán 2006 đã thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc quản lý chứng khoán và thị trường chứng khoán trong đó có hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan thuộc Bộ Tài chính xem xét và cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng. Cụ thể là tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng phải đăng ký với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Bên cạnh việc cấp giấy chứng nhận trên, Uỷ ban chứng khoán còn có quyền đình chỉ và huỷ bỏ việc chào bán chứng khoán ra công chúng. Như vậy, khắc phụ hạn chế của Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003, Luật chứng khoán 2006 đã quy định rõ Uỷ ban chứng khoán là cơ quan thuộc Bộ Tài chính nhưng thực hiện một số chức năng và thẩm quyền nhất định liên quan đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng nhằm đảm bảo tính độc lập cần thiết và thực quyền của Uỷ ban chứng khoán trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ chứng khoán. Với chào bán riêng lẻ chứng khoán, hiện tại chưa có một cơ quan nào thống nhất quản lý Nhà nước đối với hoạt động này. Đối với hoạt động chào bán cổ phiếu để thành lập công ty cổ phần hoặc chào bán thêm để huy động vốn, hiện tại không có quy định nào về quản lý Nhà nước đối với hoạt động này. Đây chính là lỗ hổng của Luật doanh nghiệp, và sẽ dẫn đến hệ quả như các công ty cổ phần coi việc chào bán cổ phiếu là tự do, họ có thể tự quyết định mà không chịu một ràng buộc nào. Đối với việc chào bán cổ phần của công ty Nhà nước theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 do Bộ Tài chính quản lý. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện công tác cổ phần hoá theo quy định pháp luật của các công ty Nhà nước. Hoạt động chào bán chứng khoán của các tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước quản lý và giám sát theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật ngân hàng Nhà nước, Quyết định 02/2004/QĐ-NHNN này 04 tháng 01 năm 2004, Quyết định 1122/2001/QĐ-NHNN ngày 4 tháng 9 năm 2001. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hoặc người được thống đốc uỷ quyền sẽ xem xét và chấp thuận phương án phát hành cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần và trái phiếu để huy động vốn trong nước của các tổ chức tín dụng, đồng thời giám sát và kiểm tra các báo cáo tài chính của tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại cổ phần trước và sau khi phát hành. Đối với hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ, theo quy định của Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006, Bộ Tài chính là cơ quan thống nhất quản lý hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp, xem xét có ý kiến chấp nhận phương án phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp. Đối với chào bán trái phiếu của Chính phủ và chính quyền địa phương, theo quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003, quản lý Nhà nước đối với hoạt động này thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau. Tuỳ thuộc vào loại chứng khoán được phát hành mà hoạt động chào bán chịu sự quản lý của Bộ tài chính, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước hay Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương Với những quy định trên, có thể thấy quản lý Nhà nước về chào bán chứng khoán khoán nói chung không thuộc thẩm quyền của một cơ quan nào mà tuỳ thuộc vào từng loại chủ thể phát hành. Đặc biệt là chào bán chứng khoán riêng lẻ. Việc quy định các cơ quan quản lý Nhà nước khác nhau đối với hoạt động phát hành chứng khoán riêng lẻ là hợp lý song việc quy định như hiện nay còn có nhiều bất cập. Trước hết, cơ quan quản lý thiếu sự đồng bộ thống nhất; tiếp đến các quy định về quản lý còn quá chung chung chưa thể hiện cụ thể những nội dung quản lý nhà nước về chào bán chứng khoán như giám sát tình hình tài chính của doanh nghiệp chào bán, xử lý vi phạm trong chào bán. Như vậy, quản lý Nhà nước về chào bán chứng khoán mà đặc biệt là chào bán chứng khoán riêng lẻ đang là khoảng trống của pháp luật CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN 1. Căn cứ để hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán Cho tới nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động được 7 năm và đã khẳng định vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về thị trường chứng khoán nói chung và hoạt động chào bán chứng khoán nói riêng là một đòi hỏi cấp thiết. Tuy nhiên, để pháp luật về chào bán chứng khoán phát huy hiệu quả điều chỉnh thì việc hoàn thiện pháp luật phải dựa trên các căn cứ sau: 1.1. Căn cứ vào chủ trương chính sách của Đảng về phát triển kinh tế thị trường Như chúng ta đã biết, năm 1986 khi Đại hội Đảng VI diễn ra Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện trong đó có nền kinh tế. Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thay vì một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp như trước kia. Có thể nói, đây là mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế cũng như xã hội ở nước ta. Để thực hiện chủ trương đó, các văn kiện của Đảng tại Đại hội VII, VIII, IX, X về chiến lược phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của đất nước đều chú trọng chỉ đạo việc phát triển đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường trong đó có thị trường vốn. Tại Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, để thực hiện nhiệm vụ “ tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Đảng ta đã chủ trương“ phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Huy động mọi nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển” [tr80. 1]. Đồng thời về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 trong báo cáo tại Đại hội Đảng X, Đảng ta nhận định cần “phát triển mạnh thị trường vốn, đồng thời thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh thị trường chứng khoán thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế, kể cả các doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Hình thành đồng bộ thể chế về thị trường chứng khoán; tăng cường hỗ trợ của Nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tham gia thị trường này” [ tr242, 1]. Đường lối chỉ đạo của Đảng đã tạo cơ sở lý luận quan trọng cho việc ban hành các văn bản pháp luật về xây dựng một thị trường vốn dài hạn ở Việt Nam, trong đó liên quan trực tiếp đến hoạt động chào bán chứng khoán. Một yêu cầu đặt ra đối với thị trường chứng khoán là bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ, vì vậy việc hoàn thiện pháp luật phải là quá trình cụ thể hoá các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Có như vậy mới đảm bảo pháp luật về chào bán chứng khoán có cơ sở vững chắc để thực thi trên thực tế, phát huy hiệu quả điều chỉnh của mình. 1.2. Căn cứ vào đặc điểm phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam Đặc điểm đặc trưng nhất của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Đặc điểm này là yếu tố để căn cứ vào đó chúng ta xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chứng khoán nói chung và chào bán chứng khoán nói riêng. Nền kinh tế thị trường đã tạo ra cho các doanh nghiệp quyền tự do được thành lập, tự do hoạt động sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức và tình hình tài chính của mình. Như vậy, doanh nghiệp có quyền tự huy động vốn từ các tổ chức cá nhân- các nhà đầu tư. Đây là một tiền đề quan trọng cho việc chào bán chứng khoán để thu hút vốn từ các nhà đầu tư, cũng là căn cứ để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán. Một đặc điểm nữa của nền kinh tế Việt Nam là có xuất phát điểm thấp, vốn trước đây là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lại chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh. Vì vậy, vốn luôn là một nhu cầu “bức xúc” của các doanh nghiệp để cải tiến kỹ thuật, mở rộng quy mô sản xuất. Hiện nay các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các công ty Nhà nước- giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế chủ yếu dựa vào các nguồn vốn FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài), ODA (viện trợ phát triển chính thức) và vốn từ các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên số lượng FDI, ODA đã có chiều hướng giảm do việc có những vi phạm trong việc sử dụng nguồn vốn này tại một số doanh nghiệp. Thêm nữa, việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng sẽ ngày càng khó khăn do các tổ chức tín dụng đang bị quá tải và đứng trước yêu cầu tổ chức lại củng cố môi trường pháp lý. Bên cạnh đó Nhà nước và Chính phủ luôn có nhu cầu về một nguồn vốn lớn để đáp ứng yêu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đất nước. Khi đó, chào bán chứng khoán để thu hút vốn trong dân chúng sẽ trở thành công cụ huy động vốn rất hiệu quả cho các doanh nghiệp và cho Nhà nước. 1.3. Căn cứ vào tình hình phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay Như đã phân tích ở trên, chào bán chứng khoán là một cách huy động vốn rất hiệu quả của các doanh nghiệp. Tính đến đầu 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam đã hoạt động được gần 7 năm. Tham gia vào thị trường chứng khoán vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, quy mô lớn. Như vậy tỷ lệ các doanh nghiệp đó là khá ít bởi vì các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này cũng có nhu cầu rất lớn về vốn nhưng họ thường không lựa chọn phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng- một phương thức huy động vốn rất hiệu quả, mà chỉ lựa chọn phương thức chào bán riêng lẻ. Lý do là khi thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng, họ gặp phải rất nhiều khó khăn như trở ngại về hồ sơ đăng ký chào bán trong đó bao gồm cả bản cáo bạch và báo cáo tài chính, về nghĩa vụ công bố thông tin. Vì vậy, chào bán chứng khoán riêng lẻ là phương thức phổ biến của các doanh nghiệp khi họ quyết định phát hành chứng khoán huy động vốn. Với phương thức này, các doanh nghiệp không phải công bố rộng rãi trong đại chúng, không phải đáp ứng các điều kiện khắt khe khi chào bán. Tuy nhiên, phương thức này lại chưa phát huy hết khả năng về vốn của nhà đầu tư trong nền kinh tế. Do đó, một yêu cầu được đặt ra là phải hình thành một chế độ chào bán chứng khoán đồng bộ, hợp lý. Một mặt đảm bảo đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, cho Ngân sách Nhà nước, mặt khác bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư mà đặc biệt là các nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu hiểu biết trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán. Hoàn thiện chế độ chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể chào bán lựa chọn một phương thức thích hợp để giải quyết nhu cầu về vốn kinh doanh, còn nhà đầu tư có thể lựa chọn các phương án phục vụ cho hoạt động đầu tư tài chính của mình. Do vậy, một đòi hỏi bức xúc đặt ra là hệ thống pháp luật chào bán chứng khoán cần phải được hoàn thiện để các chủ thể chào bán có cơ sở và căn cứ pháp lý. 2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về chào bán chứng khoán 2.1. Bổ sung, sửa đổi một số quy định hiện hành về chào bán chứng khoán ra công chúng theo Luật chứng khoán 2006 Luật chứng khoán 2006 ra đời đã tạo là cơ sở pháp lý cho các hoạt động liên quan đến chứng khoán, trong đó có hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Luật đã quy định rất cụ thể về điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng của từng loại chứng khoán, về hồ sơ đăng ký chào bán, về thủ tục phân phối chứng khoán. Tuy mới có hiệu lực từ 1/1/2007 nhưng Luật chứng khoán 2006 đã bộc lộ một số điểm bất cập cần sửa đổi hoặc bổ sung. Luật chứng khoán không quy định về phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng. Có thể nói, việc quy định phương thức chào bán chứng khoán là rất cần thiết để đảm bảo cho sự ổn định của thị trường và giảm chi phí cho các nhà phát hành. Sự thành bại của một đợt phát hành rất quan trọng. Chính vì vậy, để đảm bảo sự thành công của đợt chào bán đòi hỏi tổ chức chào bán phải lựa chọn một phương thức phát hành tối ưu nhất. Trong các phương thức phát hành chứng khoán, bảo lãnh phát hành được xem là phương thức hiện đại và an toàn hơn cả. Phương thức này có thể sử dụng cho việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Trên thế giới, bảo lãnh phát hành đã được sử dụng từ rất lâu. Tại Việt Nam, phương thức này đã được quy định tại Nghị định 48/1998 ngày 11 tháng 7 năm 1998, sau đó là Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật chứng khoán 2006 lại không có quy định này. Vì vậy, trong thời gian tới, cần bổ sung những quy định về phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng. Đồng thời, cũng cần có thêm những quy định cụ thể về điều kiện thành lập tổ chức bảo lãnh phát hành, cơ cấu tổ chức, hoạt động của tổ chức bảo lãnh và những vấn đề khác liên quan đến việc thành lập và giải thể nó. Có như vậy, các tổ chức chào bán chứng khoán có thể yên tâm phát hành chứng khoán với số lượng lớn, các nhà đầu tư cũng có cơ sở để đặt niềm tin vào các dự án đầu tư chứng khoán của mình. Bên cạnh phương thức bảo lãnh phát hành, cần quy định thêm một số phương thức phát hành chứng khoán như đại lý phát hành hay đấu thầu để các tổ chức chào bán có cơ hội chọn lựa phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng phù hợp với điều kiện của mình nhất. Về hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng. Hiện nay hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng vẫn còn khá cầu kỳ. Đặc biệt là yêu cầu báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp nhận. Hiện nay pháp luật chưa quy định về tiêu chuẩn đối với tổ chức kiểm toán thực hiện kiểm toán, chưa đưa ra các tiêu chí cụ thể để đánh giá nội dung hoạt động kiểm toán của tổ chức đó như khi tổ chức kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp thì những tiêu chí bắt buộc nào phải có để doanh nghiệp được xem là có đủ điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng. Vì vậy, Luật chứng khoán cần cân nhắc về vấn đề này. Bên cạnh đó, Luật cũng cần có những quy định để gắn trách nhiệm của tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên đối với kết quả hoạt động kiểm toán trong báo cáo tài chính của chủ thể chào bán. Nếu một tổ chức kiểm toán hoặc kiểm toán đưa ra những thông tin sai lệch trong báo cáo tài chính, thì các nhà đầu tư phải gánh chịu những thiệt hại rất lớn. Mặt khác, những điều kiện của tổ chức kiểm toán hiện nay là quá khắt khe. Điều này sẽ dẫn đến một tất yếu là sự độc quyền của các tổ chức kiểm toán và chi phí kiểm toán vượt quá sức của tổ chức chào bán chứng khoán ra công chúng mới lần đầu bước vào thị trường chứng khoán. Vì vậy pháp luật cần nới lỏng các điều kiện của tổ chức kiểm toán, thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua chào bán chứng khoán ra công chúng. Riêng đối với hồ sơ đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng, có ý kiến cho rằng những yêu cầu của hồ sơ là quá khắt khe. Pháp luật cần có những hướng dẫn bổ sung hoặc sửa đổi. Bởi vì việc đòi hỏi quá cao, quá chặt chẽ về nội dung của bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ như trong Luật chứng khoán 2006 sẽ gây ra nhiều khó khăn cho các chủ thể khi tiến hành chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng- phương thức đầu tư và loại chứng khoán đang còn khá mới mẻ ở Việt Nam. 2.2. Sửa đổi bổ sung Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương Trên thị trường trái phiếu hiện nay, trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán rất phổ biến, chiếm hơn 90% tổng khối lượng trái phiếu. Ngay từ khi hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam xác định trái phiếu Chính phủ là nguồn hàng cơ bản, có vai trò trung tâm cho sự khởi động của thị trường do trái phiếu Chính phủ đã quen thuộc với công chúng, không có rủi ro thanh toán và giúp cho thị trường có tính thanh khoản cao. Vì vậy, cần có những bổ sung sửa đổi các quy định hiện thời để có một quy chế phát hành loại chứng khoán này có hiệu quả hơn. Trước hết cần quy định lại thời hạn của tín phiếu kho bạc, kéo dài thêm thời hạn của tín phiếu để loại chứng chỉ này trở thành hàng hoá lưu thông trên thị trường chứng khoán, tạo nên sự đa dạng về hàng hoá cũng như đây sẽ là nguồn cung hàng cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Thêm nữa, cần quy định khi tổ chức từng đợt phát hành, chủ thể phát hành có thể nâng thời hạn của trái phiếu lên 7- 10 năm để tăng khả năng lưu chuyển của trái phiếu trên thị trường thứ cấp, tạo ra nguồn hàng ổn định cho thị trường chứng khoán. Vì trên thực tế, đa số trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ 3-5 năm, điều này đã làm hạn chế rất nhiều hiệu quả sử dụng vốn của chủ thể phát hành cũng như giảm khả năng mua bán lại chứng khoán. 2.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về cổ phần hoá công ty Nhà nước Ngày 16 tháng 11 năm 2004, Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần được ban hành thay thế cho Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 . Nghị định đã có nhiều điểm mới tạo ra cơ chế thông thoáng cho hoạt động cổ phần hoá công ty Nhà nước. Trên thực tế, quá trình cổ phần hoá trong thời gian qua vẫn diễn ra chậm chạp. Năm 2006, kế hoạch cổ phần hoá không đạt mục tiêu đề ra. Nguyên nhân là Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 vẫn chưa thực sự gỡ bỏ các rào cản để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá. Như vậy, vấn đề đặt ra là pháp luật cần hoàn thiện một số quy định trong hoạt động cổ phần hoá công ty Nhà nước. Đó cũng chính là biện pháp thúc đẩy hoạt động phát hành chứng khoán của doanh nghiệp cổ phần hoá đồng thời đảm bảo chất lượng chứng khoán phát hành và thực sự là một trong những biện pháp kích cung nguồn hàng cho thị trường chứng khoán. Nội dung cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cổ phần hoá công ty Nhà nước là phải phân định rõ chức năng quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp, nghiên cứu ban hành chế độ cổ phần hợp lý một mặt vừa bảo vệ lợi ích cho người lao động, mặt khác giảm bớt được sự chênh lệch giá cổ phần giữa người lao động và nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp, bổ sung thêm các quy định về giá trị doanh nghiệp và xử lý tài sản... Cụ thể, cần sửa đổi bổ sung một số nội dung sau: Về đối tượng cổ phần hoá, nên mở rộng đối tượng công ty Nhà nước được phát hành cổ phần để chuyển thành công ty cổ phần nhằm hạn chế việc chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ- con, tránh cổ phần hoá toàn bộ bằng cổ phần hoá bộ phận doanh nghiệp. Bổ sung thêm các đối tượng cần phải được cổ phần hoá: công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, hai thành viên; tổng công ty Nhà nước, công ty Nhà nước hoạt động độc lập theo mô hình công ty mẹ con, các đơn vị sự nghiệp. Về phương thức bán cổ phần, cần mở rộng phương thức bán cổ phần lần đầu: ngoài phương thức bán đấu giá công khai còn có thể thực hiện các phương thức bảo lãnh phát hành và bán thoả thuận trực tiếp. Thực tế hiện nay, phương thức đấu giá đã bộc lộ một số hạn chế: trung tâm giao dịch chứng khoán quá tải khi phục vụ các nhà đầu tư trong khi đó phương thức bảo lãnh là một phương thức phát hành rất được ưa chuộng trên thế giới. Đây là một phương thức phát hành an toàn. Đồng thời sự tham gia của công ty bảo lãnh phát hành, sẽ đảm bảo sự thành công của đợt phát hành chứng khoán, tạo động lực cho quá trình cổ phần hoá diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả. Khuyến khích doanh nghiệp áp dụng hình thức bảo lãnh phát hành nhưng giá bán không được thấp hơn giá bảo lãnh đã ghi trong hợp đồng. Để khắc phục tình trạng thông thầu, xử lý số cổ phần không bán hết, phải quy định một tỷ lệ nhất định cổ phần không bán hết và các biện pháp được áp dụng khi xảy ra trường hợp này. Hơn thế nữa, để thúc đẩy hoạt động chào bán cổ phần để cổ phần hoá, nên có quy định cho phép để lai doanh nghiệp một phần khoản chênh lệch tăng do bán đấu giá cổ phần phát hành thêm để thực hiện các dự án đầu tư theo phương án cổ phần Để đảm bảo sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư, cần xoá bỏ phân biệt giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài để phù hợp với xu hướng hội nhập. Sửa đổi theo hướng mở rộng đối tượng nhà đầu tư chiến lược bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời xoá bỏ cơ chế ưu đãi giảm giá bán cổ phần cho đối tượng này. Một bất cập trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là việc xác định trị giá và xử lý tài sản của công ty Nhà nước. Việc định giá doanh nghiệp quá thấp hoặc quá cao đều khiến cho việc bán cổ phần gặp nhiều khó khăn. Thêm nữa việc xử lý các tài sản ứ đọng, chờ thanh lý sẽ làm chậm tiến độ cổ phần hoá. Vì vậy, cần quy định việc xử lý loại tài sản này để tăng cường trách nhiệm của các công ty Nhà nước, giảm thiểu thủ tục hành chính liên quan đến việc bàn giao khối tài sản; và quy định rõ việc xử lý trong trường hợp phát sinh lỗ từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp đến thời điểm bàn giao. Đồng thời tránh thất thoát ngân sách Nhà nước, tạo quyền chủ động cho các tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp; bổ sung quy định áp dụng các phương pháp khác nhau trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, để khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược góp vốn mua cổ phần và tham gia quản lý doanh nghiệp đảm bảo điều kiện về số lượng cổ đông đại chúng khi tham gia thị trường chứng khoán; nâng tỷ lệ cổ phần bán đấu giá công khai từ 20% lên trên 30% vốn điều lệ vì hiện tại có ý kiến cho rằng 20% là con số nhỏ, không thu hút được nhà đầu tư có tiềm lực về vốn lớn, kinh nghiệm và trình độ quản lý. Điều này sẽ gây trở ngại cho mục tiêu cổ phần hoá của công ty Nhà nước. 2.4. Xây dựng một cơ chế giám sát thống nhất quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán đặc biệt là chào bán chứng khoán riêng lẻ Như chúng ta đã biết quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán hiện nay không thuộc thẩm quyền của duy nhất một cơ quan nào. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm giám sát hoạt động chào bán chứng khoán (mà cụ thể là trái phiếu) của Chính phủ và chính quyền địa phương. Đối với hoạt động chào bán chứng khoán của doanh nghiệp, theo quy định của Luật chứng khoán 2006, hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng chịu sự giám sát của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Còn hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ hiện có đến ba cơ quan chịu trách nhiệm quản lý: Bộ tài chính, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Ngân hàng Nhà nước. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán hiện nay, sự thiếu vắng một cơ chế giám sát thống nhất khiến cho hoạt động chào bán chứng khoán không phát huy được hết vai trò của mình đối với tổ chức chào bán, với nhà đầu tư và với thị trường chứng khoán. Đặc biệt do không có một cơ quan quản lý thống nhất đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ mà hoạt động này chưa phát huy được hết khả năng về vốn từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ trong nền kinh tế. Đồng thời, doanh nghiệp khi tiến hành chào bán cùng một lúc các loại chứng khoán khác nhau sẽ gặp nhiều lúng túng, gây mất thời gian, dễ bỏ lỡ cơ hội huy động vốn trong khi hoạt động chào bán riêng lẻ thường xuyên diễn ra. Chính vì vậy, cần thành lập ngay một cơ quan có chức năng chuyên quản lý, giám sát và thực hiện các thủ tục liên quan đến quản lý như cho phép, chấp nhận ..đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Tiến tới thành lập một cơ quan thống nhất quản lý việc chào bán chứng khoán của doanh nghiệp và xa hơn nữa là chào bán chứng khoán nói chung. Bên cạnh một cơ quan chuyên quản lý hoạt động chào bán chứng khoán, cần ban hành một nghị định về xử phạt trong lĩnh vực chào bán chứng khoán. Nghị định này sẽ là cơ sở pháp luật để cơ quan quản lý áp dụng khi tiến hành xử lý các vi phạm phát sinh trong việc chào bán chứng khoán. Hơn thế nữa cần hoàn thiện các quy phạm pháp luật về giám sát thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo liên quan đến chào bán chứng khoán. 2.5. Hoàn thiện một số quy định khác liên quan đến chào bán chứng khoán Trong thời gian qua, hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán của các tổ chức tín dụng tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh, tạo khung pháp lý quan trọng cho việc huy động vốn của các định chế tài chính này. Tuy nhiên, như đã phân tích ở chương 2 thủ tục xin phép phát hành cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần còn mang nặng tính chất hành chính, quá chặt chẽ về hồ sơ. Vì vậy, để tạo ra một cơ chế thông thoáng trong việc huy động vốn bằng phát hành chứng khoán trong đó có phát hành cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng Nhà nước cần xem xét đơn giản hoá hồ sơ, loại bỏ bớt một số thủ tục xin phép phát hành không cần thiết đối với các tổ chức tín dụng đặc biệt là phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ của các Ngân hàng thương mại cổ phần. Như vậy mới khuyến khích được các ngân hàng thương mại hiện nay tham gia phát hành cổ phiếu để huy động vốn, không ngừng mở rộng vốn điều lệ, đủ đáp ứng nhu cầu về vốn cho toàn xã hội. Bên cạnh việc hoàn thiện một số quy định về việc phát hành chứng khoán của các tổ chức tín dụng, cần bổ sung một số quy định về phát hành trái phiếu. Theo quy định của Luật doanh nghiệp, công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Như vậy, pháp luật không cấm công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành trái phiếu để huy động vốn. Điều đó đồng nghĩa với việc công ty trách nhiệm hữu hạn có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn. Tuy nhiên, cả Luật doanh nghiệp 2005 và Nghị định 52/2006 ngày 19 tháng 5 năm 2006 về việc phát hành trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp đều không có quy định về phát hành trái phiếu của chủ thể này. Mặt khác, theo Luật chứng khoán 2006, công ty trách nhiệm có quyền chào bán trái phiếu ra công chúng ( Luật quy định chủ thể là doanh nghiệp khi có đủ điều kiện được quyền chào bán trái phiếu ra công chúng mà theo Luật doanh nghiệp 2005 khái niệm “doanh nghiệp” bao gồm cả công ty trách nhiệm hữu hạn). Vì vậy cần bổ sung những quy định pháp luật cụ thể để công ty trách nhiệm hữu hạn có cơ sở thực hiện hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ để huy động vốn, đảm bảo đầy đủ các quyền của chủ thể này. Điều này cũng tạo nên sự đồng bộ giữa các văn bản pháp luật mà đặc biệt là Luật chứng khoán 2006 và Luật doanh nghiệp 2005. KẾT LUẬN Pháp luật về chào bán chứng khoán là cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp, Chính phủ và chính quyền địa phương chào bán chứng khoán để huy động vốn vì vậy việc xây dựng cũng như hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động này thực sự là một đòi hỏi cấp thiết. Nhất là trong thời điểm hiện nay, Nhà nước đẩy mạnh phát triển kinh tế cùng với các hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, việc xây dựng một thị trường vốn ổn định và có hiệu quả là một vấn đề đặc biệt quan trọng bởi vì đó chính là biểu hiện sức sống của nền kinh tế đất nước. Luận văn “ Một số vấn đề của pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam” đã nghiên cứu thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam, từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện để nhằm xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể chào bán có thể huy động vốn hiệu quả qua hình thức chào bán chứng khoán. Tuy đã có nhiều cố gắng trong qua trình nghiên cứu cũng như khi đưa ra các kiến nghị nhưng do nhiều lý do khách quan khác nhau mà khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong các thầy cô giáo, các bạn sinh viên giúp đỡ góp ý để nội dung khoá luận được hoàn thiện sâu sắc hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X- Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2006. 2. Một số vấn đề pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam – Phạm Thị Giang Thu- NXB Chính trị quốc gia- 2004. 3. Pháp luật về chào bán chứng khoán của doanh nghiệp – Trường đại học Luật Hà Nội- Nguyễn Minh Hằng, Luận án thạc sĩ luật học, năm 2001. 4. Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán –Trường Đại học kinh tế quốc dân-2002. 5. Tạp chí Luật học-Số tháng 8 năm 2006- Trường đại học Luật hà Nội. 6. Doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường chứng khoán- Phòng thương mại công nghiệp VCCI - Nhà xuất bản chính trị quốc gia- 2005. 7. Báo đầu tư chứng khoán ( các số 41, 43, 44,45, 46, 48 năm 2006 : số 1, 2,3, 5, 7, 8, 9, 10, 12, 13-17 năm 2007). 8. Các văn bản pháp luật. 8.1. Luật chứng khoán 2006. 8.2. Luật doanh nghiệp 2005. 8.3.Luật doanh nghiệp 1999 ( đã hết hiệu lực) 8.4. Luật Ngân sách Nhà nước. 8.5. Luật các tổ chức tín dụng 1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng 2001. 9. Các văn bản dưới Luật. 9.1. Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. 9.2. Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. 9.3. Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. 9.4. Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính Phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương. 9.5. Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần. 9.6. Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. 9.7. Quyết định 1297/2002/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 11 năm 2003 về việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước. 9.9. Quyết định 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04 tháng 01 năm 2004 về việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước. 9.10. Quyết định 1122/20010QĐ-NHNN ngày 04 tháng 09 năm 2001 về việc ban hành quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại cổ phần của Nhà nước và nhân dân. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (106).doc
Tài liệu liên quan