Đề tài Pháp Luật Việt Nam hiện hành thành lập doanh nghiệp

A. PHẦN MỞ BÀI: Đại hội đổi mới đất nước năm 1986 của Đảng cộng sản Việt Nam đặt bản lề vững chắc cho công cuộc phát triển toàn diện đất nước. Trong đó, nhiện vụ trọng tâm và cũng là vấn đề tiên quyết để giúp nền kinh tế xã hội của đất nước nhanh chóng thoát ra khủng hoảng là tập trung đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp lạc hậu chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với đa dạng các thành phần kinh tế. Với chủ trương đúng đắn đó đã giúp nền kinh tế của đất nước có những bước chuyển mình nhanh chóng, các thành phần kinh tế của đất nước trong quá trình hoạt động kinh doanh đã có những đóng góp quan trọng vào quá trình giải phóng thị trường, đồng thời tăng thêm quyền tự chủ kinh doanh cho các nhà đầu tư. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề đặt ra là để đảm bảo ngày càng tốt hơn về quyền tự do kinh doanh của mọi người dân, thì quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện những quy định của pháp luật về ĐKKD ( Đăng kí kinh doanh) cho doanh nghiệp là một vấn đề pháp lí lớn mà Đảng và Nhà nước ta phải đặc biệt quan tâm. LDN 2005 ( Luật doanh nghiệp 2005) được ban hành trong tình hình đất nước có những đổi mới và phát triển hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Đây thực sự là một bước tiến mới của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và bền vững và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội. Văn bản QPPL này đã tiếp tục thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng và tiếp thu những tinh hoa lập pháp của thế giới về vấn đề thành lập doanh nghiệp nói riêng và phát triển nền kinh tế thị trường nói chung. Đồng thời nó cũng khẳng định một chủ trương lãnh đạo phù hợp của Đảng, Nhà nước ta trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và của mọi công dân, cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp để sản xuất, kinh doanh. Từ quá trình học tập và nghiên cứu lí luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về vấn đề thành lập doanh nghiệp, kết hợp với việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng những quy định đó trong nền kinh tế xã hội. Tôi_ Sinh viên chuyên nghành luật năm thứ ba xin được chọn đề tài: “Pháp Luật Việt Nam hiện hành thành lập doanh nghiệp” để hoàn thành bài nghiên cứu khoa học cuối kì của mình môn Luật Thương Mại – Modul 1. Trong quá trình hoàn thành đề tài khoa học này, tôi xin gửi lời cảm ơn đến những Giáo sư, Tiến sĩ Luật học với những công trình nghiên cứu khoa học của họ đã xây dựng cho tôi một nền lí luận cho bài viết của mình. Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo giảng viên bộ môn Luật Thương Mại đã tư vấn và giúp đỡ tôi rất nhiều. A. PHẦN MỞ BÀI: 1 B_ PHẦN NỘI DUNG. 2 I. Những vấn đề lí luận chung về thành lập doanh nghiệp và đăng kí kinh doanh. 2 1. Cơ sở pháp lí: 2 2. Khái niệm về thành lập và đăng kí kinh doanh cho doanh nghiệp. 2 3.Ý nghĩa pháp lí của việc thành lập doanh nghiệp. 3 II. Chế độ pháp lí về thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành. 4 1. Điều kiện về ĐKKD. 4 2. ĐKKD 9 III. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thành lập doanh nghiệp 15 1. Một số phân tích, nhận xét, đánh giá. 15 2. Những tồn tại vướng mắc cơ bản. 17 3. Một số kiến nghị về giải pháp hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp và thực thi pháp luật về doanh nghiệp. 18 C. PHẦN KẾT LUẬN: 22 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. LDN 2005; 2. NĐ 88/2006/NĐ – CP ngày 29/8/2006 về ĐKKD; 3. NĐ 139/2007/NĐ – CP ban hành ngày 5/9/2007 và có hiệu lực ngày 5/10/2007 về hướng dẫn một số điều của LDN 2005; 4. Một số vấn đề pháp lý cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp : Luận văn tốt nghiệp. Lê Thúy Hằng. Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997. 5. Pháp Luật về thành lập doanh nghiệp – Những quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội: Khóa luận tốt nghiệp/ Đỗ Mai Trang.Trường Đại học Luật Hà Nội Hà Nội năm 2007

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp Luật Việt Nam hiện hành thành lập doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nghiệp 2005) được ban hành trong tình hình đất nước có những đổi mới và phát triển hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Đây thực sự là một bước tiến mới của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và bền vững và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội. Văn bản QPPL này đã tiếp tục thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng và tiếp thu những tinh hoa lập pháp của thế giới về vấn đề thành lập doanh nghiệp nói riêng và phát triển nền kinh tế thị trường nói chung. Đồng thời nó cũng khẳng định một chủ trương lãnh đạo phù hợp của Đảng, Nhà nước ta trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và của mọi công dân, cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp để sản xuất, kinh doanh.    Từ quá trình học tập và nghiên cứu lí luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về vấn đề thành lập doanh nghiệp, kết hợp với việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng những quy định đó trong nền kinh tế xã hội. Tôi_ Sinh viên chuyên nghành luật năm thứ ba xin được chọn đề tài: “Pháp Luật Việt Nam hiện hành thành lập doanh nghiệp” để hoàn thành bài nghiên cứu khoa học cuối kì của mình môn Luật Thương Mại – Modul 1.      Trong quá trình hoàn thành đề tài khoa học này, tôi xin gửi lời cảm ơn đến những Giáo sư, Tiến sĩ Luật học với những công trình nghiên cứu khoa học của họ đã xây dựng cho tôi một nền lí luận cho bài viết của mình. Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo giảng viên bộ môn Luật Thương Mại đã tư vấn và giúp đỡ tôi rất nhiều. B_ PHẦN NỘI DUNG. I.      Những vấn đề lí luận chung về thành lập doanh nghiệp và đăng kí kinh doanh. 1.     Cơ sở pháp lí: Trong quá trình tìm hiểu và đi nghiên cứu sâu vào đề tài khoa học này thì tôi đã có áp dụng và trích dẫn những văn bản QPPL cơ bản sau: + Luật Doanh Nghiệp năm 2005; + NĐ 88/2006/NĐ – CP  ngày 29/8/2006 về ĐKKD + NĐ 139/2007/NĐ – CP ban hành ngày 5/9/2007 và có hiệu lực ngày 5/10/2007 về hướng dẫn một số điều của LDN 2005; +  TTLT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ Tài Chính – Bộ Công An số 02/2007/TTLT – BKH – BTC – BCA ngày 27/2/2007 hướng dẫn cơ chế phối hợp giữa các cơ quan giải quyết ĐKKD, ĐK Thuế và cấp Giấy phép khắc dấu đối Với doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo LDN 2.     Khái niệm về thành lập và đăng kí kinh doanh cho doanh nghiệp. a. Khái niệm:           Theo nguồn tài liệu “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” thì thuật ngữ “thành lập” có nghĩa là việc lập nên một tổ chức.Nhưng xét dưới các góc độ xã hội thì thuật ngữ thành lập doanh nghiệp được hiểu theo các nghĩa sau: ·        Xét dưới góc độ kinh tế: thì thành lập doanh ngiệp là quá trình chuẩn bị các điều kiện vật chất cần và đủ cho việc hình thành một tổ chức kinh doanh, nhà đầu tư phải chuẩn bị các điều kiện về trụ sở, nhà xưởng, dây truyền sản xuất, thiết bị kĩ thuật, đội ngũ người công nhân, người quản lí... ·        Xét dưới góc độ pháp lí: Thành lập doanh nghiệp là một thủ tục pháp lí được thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước hay doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân, tuỳ thuộc vào mức độ cải cách hành chính và thái độ của Nhà nước đối với quyền tự do kinh doanh, thủ tục pháp lí này có tính đơn giản hay phức tạp khác nhau. Theo đó, thủ tục thành lập doanh nghiệp có thể bao gồm thủ tục cho phép ( hay quyết định ) thành lập doanh ngiệp và thủ tục đăng kí kinh doanh (ĐKKD) hoặc chỉ có một thủ tục duy nhất là ĐKKD. Với tư cách là thủ tục pháp lí để thành lập doanh nghiệp, ĐKKD có tính chất bắt buộc và cho phép xác lập tư cách pháp lí của chủ thể kinh doanh ( tức là xác định tư cách pháp lí của doanh nghiệp)    3.Ý nghĩa pháp lí của việc thành lập doanh nghiệp. Thành lập doanh nghiệp là một thủ tục “khai sinh” ra doanh nghiệp. Nói cách khác, thông qua việc thành lập doanh nghiệp thì tư cách của doanh nghiệp mới được thừa nhận và mới làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lí đối với doanh nghiệp. Như vậy, việc thành lập doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn không những đối với các cơ quan nhà nước mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh. ·        Đối với Nhà nước: Vấn đề quy định việc thành lập và ĐKKD cho doanh nghiệp là quá trình thực hiện sự bảo hộ của Nhà nước bằng pháp luật đối với các chủ thể hoạt động kinh doanh nói chung, các chủ doanh nghiệp nói riêng. Đồng thời, Nhà nước thực hiện chức nằn quản lí cơ cấu các thành phần kinh tế xã hội, kiểm soát các hoạt động kinh tế theo đường lối đã vạch ra. ĐKKD giúp các cơ quan quản lí Nhà nước nắm bắt được các yếu tố mới trong kinh doanh để từ đó có những chủ trương, chính sách, các biện pháp khuyến khích hoặc hạn chế phù hợp, giúp Nhà nước can thiệp một cách kịp thời và có mức độ vào nên kinh tế, đảm bảo xây dựng được một nền kinh tế hiện đại, nhưng không xa vời với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã đề ra. ·        Đối với chủ thể ĐKKD: Sau khi được cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp và ĐKKD, doanh nghiệp được thừa nhận về mặt pháp lí, có quyền tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh như đã đăng kí dưới sự bảo hộ của pháp luật ( tư cách chủ thể của doanh nghiệp được xác lập). Thành lập doanh nghiệp cũng chính là cơ sở pháp lí chắc chắn nhất để một doanh nghiệp yêu cầu các cơ quan Nhà nước bảo hộ các quyền, lợi ích và tài sản hợp pháp của mình cũng như bảo đảm tính pháp lí  đối với các hoạt động của mình trong quá trình doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. ·        Về mặt xã hội: ĐKKD còn nhằm công khai hoá các hoạt động của doanh ngiệp trước công chúng. Xã hội có được các thông tin và các bảo đảm về tư cách pháp lí của doanh nghiệp. Từ đó, nó tạo ra được niềm tin đối với các bạn hàng trong quá trình thực hiện việc giao kết hợp đồng hoặc các giao dịch khác. Đó cũng chính là điều kiện tiên quyết để cho doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. ·        Thành lập doanh nghiệp cũng có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế: Khi bước vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp với tư cách là một thành viên trong cơ cấu các thành phần kinh tế, các hoạt động của doanh nghiệp còn góp phần tác động vào sự phát triển kinh tế của toàn xã hội.        II.   Chế độ pháp lí về thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành. 1.     Điều kiện về ĐKKD.           Trước ngày Luật doanh nghiệp có hiệu lực thì việc thành lập và ĐKKD cho doanh nghiệp là hết sức phức tạp, gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém về tiền của, thời gian...So với Luật Công ty và Luật doanh nghiệp trước đây, Luật doanh nghiệp 2005 đã có những thay đổi căn bản về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp, nhất là vấn đề về thủ tục ĐKKD rất nhanh chóng và đã đơn giản hơn rất nhiều. Có thể nói, các quy định về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp là một trong những quy định quan trọng nhất trong Luật doanh nghiệp, thể hiện rõ quyết tâm đổi mới của Nhà nước mà đôt phá là cải cách hành chính nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân.           Kinh doanh là một hiện tượng kinh tế xã hội, hoạt động kinh doanh mang lại nhiều lợi ích trực tiếp cho chủ thể kinh doanh đồng thời nó cũng đáp ứng những nhu cầu cho sự vận động và phát triển của xã hội, cho đời sống của nhân dân. Để thực hiện tốt chức năng quản lí, điều tiết nền kinh tế xã hội của mình, Nhà nước cần pahỉ có những quy định chung để dung hoà được mọi xung đột về lợi ích giữa một bên là nhà kinh doanh với bên kia là người tiêu dùng và toàn thể xã hội.Thành lập doanh nghiệp và ĐKKD là quyền của chủ đầu tư, song để được cấp giấy chứng nhận ĐKKD cho doanh nghiệp, nhà đầu tư cần phải thoả mẫn các điều kiện cơ bản của pháp luật: ·        Thứ nhất. Điều kiện về chủ thể: Hệ thống quy phạm pháp luật Việt Nam quy định rất cụ thể là mọi Tổ chức, cá nhân đều có quyền tham gia kinh doanh, nhưng muốn được ĐKKD thì những tổ chức, cá nhân đó phải đảm bảo được một số điều kiện nhất định. Để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh và bảo vệ được các lợi ích của cộng đồng xã hội, pháp luật Việt Nam đã có những quy định rất cụ thể về quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần và quản lí doanh nghiệp. Theo quy định của Luật doanh nghiệp tại khoản 2 điều 13 thì các đối tượng không được thành lập và quản lí doanh nghiệp tại Việt Nam: “Tổ chức, cá nhân sau đây không được quyền thành lập và quản lí doanh nghiệp tại Việt Nam: + Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi nhuận riêng cho cơ quan, đơn vị mình; + Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; + Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan đơn vị thuộc Quân đội nhân dânViệt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam; + Cán bộ lãnh đạo, quản lí nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu Nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lí phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; + Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; + Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh; + Các trường hợp khác theo quy định của phápluật về phá sản.”           Sự quy định rõ ràng, cụ thể các điều kiện về chủ thể trên đây cũng đã góp phần làm minh bạch hoá pháp luật về vấn đề ĐKKD, từ đó mà giúp các nhà đầu tư tự nhận thức được những quyền hạn của mình để có thể tiến hành ĐKKD một cách đúng pháp luật.Tuy nhiên, đối với mỗi loại hình doanh nghiệp cụ thể  thì còn có một số quy định riêng và điều kiện thành lập và quản lí doanh nghiệp. Nó hạn chế việc các chủ thể có quyền thành lập và quản lí doanh nghiệp cụ thể một loại hình doanh nghiệp đó,chứ không có ý nghĩa loại trừ toàn bộ khả  năng thành lập và tham gia quản lí quản lí doanh nghiệp của các đối tượng này. ·        Thứ hai. Điều kiện về vốn: Mục đích của thành lập doanh nghiệp là kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, doanh nghiệp phải có vốn, vốn kinh doanh của doanh nghiệp hình thành từ các nguồn khác nhau: do các thành viên góp vốn, do doanh nghiệp tích luỹ được trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh.           Vốn của doanh nghiệp là cơ sở vật chất, tài chính quan trọng nhất. Là công cụ để doanh nghiệp triển khai các hoạt động sản xuất, kinh doanh cụ thể.Vốn có thể bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ hoặc các loại tài sản khác...Mục đích của việc quy định về vốn pháp  định là giúp cho doanh nghiệp sau khi ra đời có thể hoạt động được, đồng thời là cơ sở để đảm bảo các khoản vay vốn ngân hàng và các khoản thanh toán với các chủ nợ khác. Với ý nghĩa này, việc quy định về vốn pháp định của Nhà nước là phù hợp với mục tiêu bảo vệ lợi ích của các chủ thể khi tham gia vào các giao dich dân sự, kinh tế trên thương trường. Song về cơ sở khoa học của vấn đề vốn pháp định lại chưa được quy định rõ ràng. VD: Lấy căn cứ nào để xác định mức vốn pháp định? Công cụ và cơ chế nào có thể được sử dụng để đảm bảo chắc chắn rằng mức vốn thực có của công ti luôn luôn duy trì ở mức không thấp hơn ở mức vốn pháp định?... Trên thực tế thi hành pháp luật, quy định về vấn đề vốn pháp định không những không phát huy được tác dụng của nó mà còn có nhiều điểm bất cập và nhiều vấn đề đang đặt ra: + Một là, qua những năm thực hiện áp dụng đăng kí về vốn pháp định cho thấy không có căn cứ xác đáng để xác định mức vốn pháp định với tất cả các ngành nghề kinh doanh. + Hai là,quy định phải có vốn tối thiểu bằng vốn pháp định mới có đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp, trong nhiều trường hợp không những gây hại cho bản thân nhà kinh doanh mà còn phương hại cho nền kinh tế nói chung, đồng thời, trái với chủ trương huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước + Ba là, trên thực tế vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn, quy định rõ về  vấn đề các cơ quan có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định, quản lí và giám sát mức vốn pháp định của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Đồng thời, Nhà nước chưa có quy định thống nhất trong một văn bản về ngành,nghề kinh doanh đòi hỏi phải có vốn pháp định.           Hiện nay, vốn pháp định không phải là điều kiện bắt buộc đối với mọi ngành nghề . Việc xác định ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định và mức vốn pháp định cụ thể của từng ngành nghề được thực hiện theo Nghị định của Chính phủ, trong đó có nhiều nghị định được ban hành trước khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực: - Kinh doanh bảo hiểm ( Nghị định 43/CP ngày 1/8/2001 quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm)           Đối với doanh nghiệp bảo hiểm thì gồm có doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phia nhân thọ cần có vốn pháp định là 70 tỷ, hoặc 5 triệu USD; và kinh doanh bảo hiểm  nhân thọ cần có vốn pháp định là 140 tỷ đồng hoặc 10 triệu USD .           Đối với doanh nghiệp mua giới bảo hiểm thì vốn pháp định là 3 tỷ đồng  hoặc 300 nghìn USD. - Ngành nghề kinh doanh liên quan đến chứng khoán (Nghị định 144/CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán).           Môi giới chứng khoán, quản lí doanh mục đầu tư, tư vấn đầu tư chứng khoán là 3 tỷ đồng           Bảo lãnh phát hành là 22 tỷ đồng. - Kinh doanh vàng theo Nghị định số 174/CP ngày 9/12/1999 về quản lí hoạt động kinh doanh vàng và Nghị định 44/CP ngày 11/6/2003 sửa đổi, bổ sung 174 về hoạt động quản lí kinh doanh vàng.           Mặc dù có những hạn chế nhưng cũng phải thấy rằng với việc pháp luật hiện hành quy định vốn chỉ áp dụng đối với một số ngành nghề kinh doanh đã giảm thiểu được các chi phí và thủ tục phiền hà cho nhà đầu tư. Từ đây các nhà đầu tư sẽ yên tâm tập trung    trong sản xuất, kinh doanh không phải lo toan về vốn, các chủ nợ cũng cẩn thận hơn khi hợp tác cho vay phải dựa trên cơ sở tình hình sản xuất kinh danh và báo cáo tài chính hàng năm là biểu hiện của khả năng thanh toán chứ không phải là vốn pháp định. ·        Thứ ba. Điều kiện về ngành, nghề kinh doanh Đây là những ngành nghề mà nếu cho phép tự do kinh doanh thì sẽ xâm hại đến những giá trị, lợi ich mà pháp luật đã và đang bảo vệ. Thực hiện sự đổi mới phương pháp quản lí từ cơ chế doanh nghiệp “chỉ làm những gì cho phép” sang cơ chế “được làm những gì mà pháp luật không cấm”, các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được ĐKKD ở hầu hết các ngành nghề,trừ một số ngành nghề liên quan đến an ninh,xã hội mà nhà nước cấm kinh doanh. Việc quy định, xác định ngành, nghề không chỉ nhằm đảm bảo cho lợi ích của cộng đồng không bị xâm hại mà Nhà nước còn định hứong doanh nghiệp phát triển trong các ngành nghề mà nhu cầu xã hội đang đặt ra , qua đó đảm bảo sự giám sát của nhà nước đối với sự định hướng, phát triển nói chung. Để quản lí ĐKKD có hiệu quả, Nhà nước quy định cụ thể về ngành nghề kinh doanh với các loại hình: Ngành nghề cấm kinh doanh; ngành nghề kinh doanh có điều kiện;ngành nghề phải có vốn pháp định; ngành nghề kinh doanh phải có giấy phép hoặc chứng chỉ ngành nghề.             Pháp luật hiện hành đã quy định khá đầy đủ và chi tiết các ngành nghề bị cấm kinh doanh; bao gồm: Kinh doanh vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kĩ thuật chuyên dùng trong các lực lượng vũ trang. Kinh doanh chất nổ, chất phóng xạ, chất độc; Kinh doanh mại dâm, dịch vụ tổ chức mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em. Kinh doanh tổ chức gá bạc, đánh bạc.v.v... Bằng hình thức quy định cụ thể các ngành nghề cấm kinh doanh, Nhà nước chính thức thừa nhận doanh nghiệp có quyền làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Phạm vi các ngành nghề cấm kinh doanh nói trên là phù hợp với yếu cầu và đòi hỏi của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ta trong giai đoạn hội nhập hiện nay.           Ngành nghề kinh doanh có điều kiện: Đây là những ngành nghề kinh doanh mà ít nhiều cũng đe doạ đến lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của Nhà nước và cộng đồng. Theo pháp luật hiện hành thì để được kinh doanh các ngành nghề này, các doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện nhất định, ĐKKD phải được thể hiện  dưới một hình thức: + Giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp: Giấy phép kinh doanh là công cụ pháp lí quan trọng để nhà nước quản lí một số ngành nghề kinh doanh nhất định. Nhưng việc cơ quan nào cs quyền đặt ra giấy phép kinh doanh và đó là loại giấy gì thì cũng lại cần có sự quản lí của nhà nước. + ĐKKD không cần giấy phép: Đó là những ngành nghề kinh doanh tuy không đòi hỏi phải có giấy phép nhưng phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định về phòng cháy, chữa cháy, trật tự an toàn xã hội, giao thông...           Ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ ngành nghề: Chứng chỉ ngành nghề là văn bản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc hội nghề nghiệp cấp cho các cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm về một ngành nghề nhất định. Việc pháp luật quy định chứng chỉ ngành nghề để nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong những trường hợp cần thiết. Thực chất điều kiện về chuyên môn xuất phát từ yêu cầu về bảo vệ lợi ích xã hội trên cơ sở từng ngành nghề kinh doanh nhất định. Đối với ngành nghề kinh doanh đặc thù: Kinh doanh trong lĩnh vực Y tế, Dược, Tư vấn pháp luật...Là những ngành nghề mà sản phẩm của nó khi “bán ra thị trường khách hàng không có khả năng kiểm tra được chất lượng”. Mặt khác, đây cũng là những ngành nghề không phải lúc nào cũng có khả năng đáp ứng cho khách hàng, mà chúng đòi hỏi nhà cung cấp phải có trình độ chuyên môn nhất định thì mới đảm bảo được dịch vụ “bán ra”. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì những ngành nghề sau đây đòi hỏi người kinh doanh phải có những chứng chỉ hành nghề: - Kinh doanh dịch vụ pháp lí. - Kinh doanh dịch vụ khám chữa bệnh, kinh doanh dược phẩm. - Kinh doanh dịch vụ thú y, kinh doanh thuốc thú y. - Kinh doanh dịch vụ thiết kế công trình; - Kinh doanh dịch vụ kiểm toán; - Kinh doanh dịch vụ mua giới chứng khoán. Với việc quy định cụ thể vấn đề ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ ngành nghề, Nhà nước không chỉ tạo ra môi trường đầu tư minh bạch cho sự lựa chọn ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp mà còn dựa vào đó mà có cơ sở để xử lí khi có vi phạm.    ·        Các điều kiện khác Ngoài các điều kiện như đã nêu ra và phân tích ở trên, thì các chủ thể thành lập doanh nghiệp để được ĐKKD còn pahỉ thoả mãn một số điều kiện nhất định khác: + Điều kiện về trụ sở: Trụ sở của doanh nghiệp phải là một địa điểm có thực trong bản đồ hành chính Việt Nam + Điều kiện về tên của doanh nghiệp: Tên của doanh nghiệp không được trùng lặp hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng kí kinh doanh, không đuợc vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.           Tóm lại. Luật doanh nghiệp đã có sự tiến bộ vượt bậc trong việc quy định về các ngành nghề kinh doanh, đã thực hiện sự đột phá vào lĩnh vực hành chính vốn lâu nay đang bị xem là “vật cản”trong tiến trình phát triển, khắc phục được tình trạng lạm dụng giấy phép làm công cụ trong quản lí nhà nước. Các quy định này đã góp phần mở rộng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời cũng làm tăng hiệu lực quản lí của Nhà nước. 2. ĐKKD a. Hồ sơ ĐKKD:           Hồ sơ ĐKKD là điều kiện cần và đủ để Nhà nước xem xét, quyết định cho một doanh nghiệp có được ra đời hay không. Để đáp ứng yêu cầu của quyền tự do kinh doanh mà trực tiếp là quyền tự do thành lập doanh nghiệp, pháp luật hiện hành đã quy định theo hướng đơn giản hoá và đề cao trách nhiệm của nhà đầu tư. Về cơ bản việc thành lập doanh nghiệp là do các nhà đầu tư tự quyết định và thành lập, Nhà nớc chỉ can thiệp vào quá trình thành lập doanh nghiệp ở giai đoạn ĐKKD. Do vậy, hồ sơ ĐKKD chủ yếu là các giấy tờ tài liệu do nhà đầu tư tự xây dựng. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, thì tuỳ vào loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước có những quy định về nội dung về hồ sơ ĐKKD là khác nhau. + Hồ sơ ĐKKD của Doanh nghiệp Tư nhân bao gồm: - Giấy đề nghị ĐKKD theo mẫu thống nhất do cơ quan ĐKKD có thẩm quyền quy định. - Bản sao giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác. - Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan tổ chức có thẩm quyền đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định. - Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề mà theo quy địn của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. + Hồ sơ ĐKKD của công ty Hợp danh: - Giấy đề nghị ĐKKD theo mẫu thống nhất do cơ quan ĐKKD có thẩm quyền quy định. - Dự thảo Điều lệ công ty; - Danh sách thành viên, bản sao giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp của mỗi thành viên. - Văn bằng xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty Hợp danh kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định - Chứng chỉ hành nghề của thành viên hợp danh và các thành viên khác đối với công ty hợp danh kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật quy định phải có chứng chỉ hành nghề; + Hồ sơ ĐKKD của công ty Trách nhiệm hữu hạn bao gồm: - Giấy đề nghị ĐKKD theo mẫu thống nhất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định; - Dự thảo Điều lệ công ty; - Danh sach thành viên và các giấy tờ kèm theo sau đây:           Đối với thành viên là Tổ chức: Bản sao quy định thành lập; giấy chứng nhận ĐKKD hoặc tài liệu tương ứng khác của tổ chức;văn bản uỷ quyền; giấy chứng minh thư nhân dân; hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của đại diện theo uỷ quyền của công ty. Đối với thành viên là tổ chức nước ngoài thì bản sao giấy chứng nhận ĐKKD phải có chứng thực của cơ quan nơi tổ chức đó đã đăng kí không quá 3 tháng trước ngày nộp hồ sơ ĐKKD. Văn bản xác định vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định; Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân khác đối với công ty kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. + Hồ sơ ĐKKD của công ty Cổ phần. Đối với công ty Cổ phần thì hồ sơ ĐKKD đựoc quy định tại điều 19 Luật doanh nghiệp 2005, Bao gồm: - Giấy đề nghị ĐKKD theo mẫu thống nhất do cơ quan ĐKKD có thẩm quyền quy định; - Dự thảo Điều lệ công ty; - Danh sách cổ đông sáng lập và các giấy tờ kèm theo sau đây:           Đối với cổ đông là cá nhân: bản sao giấy chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác;           Đối với cổ đông là tổ chức: bản sao quyết định thành lập, giấy chứng nhận ĐKKD hoặc tài liệu tương đương khác của tổ chức; văn bản uỷ quyền, giấy chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo uỷ quyền.           Đối với cổ đông là tổ chức nước ngoài thì bản sao giấy chứng nhận ĐKKD phải có chứng thực của cơ quan tổ chức đó đã đăng kí không quá ba tháng trước ngày nộp hồ sơ ĐKKD. - Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định. - Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân khác đối với công ty kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề.           Như vậy, hồ sơ ĐKKD như hiện nay đã có sự đơn giản hoá tối đa về mặt thủ tục hành chính nhưng lại tương đối chặt chẽ và là cơ sở để tăng cường công tác quản lí Nhà nước và tính tự chịu trách nhiệm của người thành lập doanh nghiệp. Việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn thời gian qua đã phát huy nhiều tác dụng tích cực trong đời sống kinh tế xã hội. b. Trình tự, thủ tục ĐKKD. - Hồ sơ ĐKKD theo quy định trên đây sẽ nộp tại phòng ĐKKD cấp Tỉnh ( Phòng ĐKKD thuộc Sở kế hoạch và đầu tư), nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của hồ sơ ĐKKD. Theo quy định của pháp luật trước đây, để thành lập công ty hoặc doanh nghiệp tư nhân thì nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục qua hai giai đoạn: Xin phép thành lập và ĐKKD, mà trong mỗi giai đoạn nhà đầu tư cần phải làm rất nhiều cac khác nhau. Cho đến khi Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời và gần đây nhất là Luật doanh nghiệp 2005, thì thủ tục thành lập doanh nghiệp đã trở nên hết sức đơn giản, nhà đầu tư chỉ cần thực hiện một thủ tục duy nhất là ĐKKD tại các cơ quan có thẩm quyền. Thành lập doanh nghiệp là do tự bản thân nhà đầu tư quyết định, đó là quyền của họ mà không một cơ quan tổ chức nào có quyền ngăn cản. Ngoài việc giản lược các quy trình thành lập doanh nghiệp, trong thủ tục ĐKKD cũng có nhiều thay đổi theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng, tạo ra một cơ chế thông thoáng trong thủ hành chính và là động lực thúc đẩy sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp. Trình tự, thủ tục ĐKKD được pháp luật quy định cụ thể tại điều 15 LDN 2005, theo đó , việc ĐKKD được tiến hành tại cơ quan ĐKKD (Phòng ĐKKD cấp Tỉnh) qua các bước sau: “1. Người thành lập doanh nghiệp nộp đủ hồ sơ ĐKKD theo quy định của Luật doanh nghiệp tại cơ quan ĐKKD có thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ sơ ĐKKD. 2.Cơ quan ĐKKD có trách nhiệm xem xét hồ sơ ĐKKD và Giấy chứng nhận ĐKKD trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ; nếu từ chối cấp giấy chứng nhận ĐKKD thì thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết. Thông báo phải nêu rõ lí do và các yêu cầu sửa đổi, bổ sung. 3.Cơ quan ĐKKD xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ khi cấp giấy chúng nhận ĐKKD; không được yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ khác không quy định trong Luật này. 4.Thời hạn cấp Giấy chứng nhận ĐKKD gắn với dự án đầu tư cụ thể thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư.” - Nộp hồ sơ ĐKKD.           Hồ sơ ĐKKD là những khai báo về bản thân chủ đầu tư và do chính họ lập ra, do đó, pháp luật quy định cho họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung hồ sơ ĐKKD trong quá trình ĐKKD và trong suốt thời gian doanh nghiệp hoạt động.   - Tiếp nhận hồ sơ ĐKKD           Tiếp nhận hồ sơ ĐKKD được thực hiện bằng việc cơ quan ĐKKD ghi vào sổ tiếp nhận hồ sơ ĐKKD của cơ quan mình, đồng thời trao giấp biên nhận về việc nhận hồ sơ cho người nhận hồ sơ. Thời điểm tiếp nhận hồ sơ được coi là có căn cứ để xác định thời hạn thực hiện trách nhiệm ĐKKD của cơ quan ĐKKD. Cũng chính vì thế mà giấy biên nhận về việc tiếp nhận hồ sơ là cơ sở pháp lí để nhà đầu tư có thể thực hiện quyền khiếu nại của mình trong trường hợp cơ quan ĐKKD không tiến hành việc ĐKKD theo đúng thời hạn. - Cấp Giấy chứng nhận ĐKKD.           Cơ quan ĐKKD cấp Giấy chứng nhận ĐKKD cho doanh nghiệp nếu: Ngành nghề ĐKKD không thuộc lĩnh vực cấm kinh doanh. Tên doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định của pháp luật; Có trụ sở chính theo quy định của pháp luật; Có hồ sơ ĐKKD hợp lệ theo quy định của pháp luật.           Như vậy, doanh nghiệp sẽ không được cấp giấy chứng nhận ĐKKD trong trường hợp nếu ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp thuộc danh mục ngành nghề cấm kinh doanh. Trường hợp người nộp hồ sơ nhưng không nộp đủ hoặc nộp không đủ lệ phí thì   coi như không nộp hồ so ĐKKD và vì vậy cũng không được ĐKKD. Lệ phí ĐKKD được xác định căn cứ vào số lượng ngành nghề ĐKKD; mức lệ phí do Chính phủ quy định.           Sau khi được cấp giấy chứng nhận ĐKKD, doanh nghiệp sẽ được khắc con dấu và được sử dụng con dấu của mình, được quyền thực hiện các hoạt động kinh doanh theo đúng nội dung mà mình đã đăng kí, trừ trường hợp kinh doanh ngành nghề có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được tiến hành kinh doanh sau khi được cơ quan có thẩm quyền   cấp giấy phép kinh doanh kinh doanh hoặc sau khi đã thoả mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc cấp giấy chứng nhận ĐKKD đã hoàn toàn thừa nhận tư cách chủ thể của doanh nghiệp trên thương trường. Đồng thời, với việc cấp giấy chứng nhận ĐKKD đã chấm dứt vai trò Nhà nước trong giai đoạn “Tiền kiểm” để chuyển sang giai đoạn mới_ giai đoạn “Hậu kiểm”.           Theo  khoản 1 Điều 28 LDN2005: “Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận ĐKKD, doanh nghiệp phải đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan ĐKKD hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp về các nội dung chủ yếu sau đây: a. Tên doanh ngiệp... g. Nơi ĐKKD”. Việc đăng báo vừa là để quảng bá sự xuất hiện của doanh nghiệp trên thương trường, vừa là để dảm bảo sự quản lí của Nhà nước đối với hoạt đông của doanh nghiệp. Do vậy, nó vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của doanh nghiệp. c.      Cơ quan có thẩm quyền ĐKKD.           Với quan điểm: vấn đề không phải ở chỗ là nên giao chức năng thẩm quyền cho riêng bộ, ngành nào mà là làm thế nào để nâng cao được hiệu quả giám sát hoạt động của doanh nghiệp,cũng như trong việc tập hợp, lưu trữ và cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, việc quy định thẩm quyền ĐKKD thuộc về nhiều cơ quan khác nhau như hiện nay có những ưu điểm nhất định.           Theo điều 6 NĐ 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về ĐKKD thì cơ quan có thẩm quyền ĐKKD được tổ chức ở Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Bao gồm: + Ở cấp Tỉnh: Phòng ĐKKD thuộc sở Kế hoạch và đầu tư (gọi chung là Phòng ĐKKD cấp Tỉnh). + Ở cấp huyện: Thành lập phòng ĐKKD tại các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc Tỉnh, có số lượng Hộ kinh doanh và Hợp tác xã đăng kí thành lập mới hàng năm trung bình từ 500 trở lên trong 2 năm gần nhất.           Nhưng bên cạnh những ưu điểm đó thì việc quy định thẩm quyền ĐKKD cho các doanh nghiệp thuộc về nhiều cơ quan khác nhau như vậy sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho công tác quản lí Nhà nước về ĐKKD, đặc biệt là khó khăn cho công tác tổng hợp, nắm bắt, theo dõi hoạt động của các chủ thể kinh doanh trên phạm vi toàn quốc. Chẳng hạn, với tình trạng kết hợp giữa các trong bộ máy nhà nước như hiện nay thì sẽ rất khó khăn để thiết lập được một hệ thống mạng thông tin về ĐKKD trong toàn quốc, phục vụ yêu cầu quản lí cũng như nhu cầu tìm hiểu của người dân. Không những thế, việc phân tán đầu mối cơ quan ĐKKD còn gây ra khó khăn các nhà đầu tư khi muốn kinh doanh.           Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan ĐKKD là tiếp nhận hồ sơ, xem xét tính hợp lệ của hồ sơ ĐKKD và cấp giấy chứng nhận ĐKKD cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, theo quy định tại điều 163 LDN2005 thì cơ quan này còn có những nhiệm vụ và quyền hạn sau: “a. Giải quyết việc ĐKKD và cấp Giấy chứng nhận ĐKKD theo quy định của pháp luật; b. Xây dựng, quản lí hệ thống thông tin doanh nghiệp; cung cấp thông tin cho cơ quan  Nhà nước,tổ chức và cá nhân có có yêu cầu theo quy định của pháp luật... g. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.”           Tóm lại, việc quy định nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan ĐKKD như trên là điều hợp lí, bởi trong cơ chế mới không còn sự kiểm soát chặt chẽ ở khâu đầu vào như trước kia mà Nhà nước chỉ thực hiện ĐKKD sau đó thực hiện “Hậu kiểm”.           III. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thành lập doanh nghiệp 1. Một số phân tích, nhận xét, đánh giá. Cho đến nay, vẫn chưa có đầy đủ các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của Luật doanh nghiệp. Do vậy, đã gây trở ngại không chỉ cho cá nhân các doanh nghiệp mà còn làm giảm hiệu lực quản lí của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực: - Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu tên doanh nghiệp, thương hiệu...Nhưng chưa có quy định cụ thể hoá chế định tên doanh nghiệp;mạng thông tin doanh nghiệp vẫn chưa được hình thành đồng bộ. Vì vậy, vấn đề chống trùng tên nhầm tên doanh nghiệp mới chỉ hạn chế trong phạm vi nhỏ - Luật doanh nghiệp quy định phù hợp với nội dung điều 16 Hiến Pháp 1992 về quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Tuy vậy, vẫn còn có trường hợp do pháp luật chuyên ngành chưa có quy định về điều kiện kinh doanh, đã dẫn đến cách xử lí khác nhau của các cơ quan nhà nước trước các ngành nghề kinh doanh mới phát sinh trong thực tiễn của nền kinh tế của đất nước. - Về cơ cấu doanh nghiệp theo địa bàn: Các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận ĐKKD có sự phân bố không đều giữa các quận, huyện…Các doanh nghiệp ĐKKD chủ yếu đặt trụ sở tại các quận, huyện nội thành. Trong giai đoạn hiện nay, với tốc độ đô thị hóa ở các quận, huyện ngoại thành và đang có xu thế hình thành, thành lập nhiều đơn vị hành chính. Vì thế, bước đầu đã làm tăng số lượng các doanh nghiệp đặt trụ sở ở các huyện ngoại thành. Tuy vậy, số lượng và mật độ các doanh nghiệp đăng kí trụ sở ở trong các quận, huyện nội thành vẫn cao, chiếm tỉ lệ khá lớn. Do đó, nhiều vấn đề khó khăn vướng mắc lien quan đến doanh nghiệp vẫn chưa được chỉ đạo và có phương hướng giải quyết kịp thời.Việc xây dựng, quản lí và cung cấp thông tin về doanh nghiệp cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân còn mang tính hình thức; việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện tham gia quản lí doanh nghiệp theo địa bàn còn bị hạn chế do thiếu tổ chức, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên trách, hay cán bộ còn thiếu chuyên môn nghiệp vụ. - Do chưa có hệ thống cơ quan ĐKKD thống nhất từ trung ương xuống địa phương, nhiều vấn đề nghiệp vụ trong ĐKKD còn chưa được thông suốt, nhất là vấn đề: Đăng kí bảo hộ tên doanh nghiệp; đăng kí về người quản lí và thành lập doanh nghiệp; đăng kí chi nhánh; văn phòng đại diện…Trong ba loại nghiệp vụ này, về bản chất phải được xử lí trên cơ sở thống nhất thông tin trong phạm vi cả nước. Nhưng các quy định pháp luật hiện hành mới chỉ giải quyết một phần ở phạm vi cấp tỉnh. Đồng thời, những tồn tại này  đã và sẽ tạo nên những tranh chấp khiếu nại giữa các doanh nghiệp với cơ quan ĐKKD; giữa các doanh nghiệp với nhau mà không có cơ quan có thẩm quyền và có cơ sở pháp lí để giải quyết.           Đến nay, trên thực tế các cơ quan ĐKKD mới chỉ hoàn thành được một nhiệm vụ là cấp giấy chứng nhận ĐKKD. Hầu hết ở các phòng ban ĐKKD, quá trình cấp giấy phép ĐKKD vẫn thực hiện theo lối thủ công và phương thức truyền thống, nghĩa là cho người ĐKKD phải trực tiếp giao dịch với cán bộ phụ trách ĐKKD với một bộ hồ sơ bằng giấy. Chưa xác định được một hệ thống thông tin về doanh nghiệp đầy đủ, cập nhật và có thể truy cập, kể cả ở cấp quốc gia và ở địa phương. Do vậy. thông tin về các doanh nghiệp đã ĐKKD vẫn chưa được cung cấp một cách có hiệu quả và đầy đủ. Đây là một hạn chế lớn nhất đối với môi trường kinh doanh, hạn chế tính minh bạch, tăng cường độ rủi ro cho thị trường…Đi ngược lại với nguyên tắc “Tiền đăng, hậu kiểm”.          Mặc dù các cải cách về cấp giấy phép kinh doanh mang lại những kết quả thật đáng ghi nhận, song một làn sóng về cấp giấy phép kinh doanh mới đang hình thành và xuất hiện, có nguy cơ làm tổn hại tiêu cực tới môi trường kinh doanh.           Giấy phép thực ra là một hình thức pháp lí cần thiết, không chỉ riêng Việt Nam mà hầu hết tại các quốc gia trên thế giới đều áp dụng để quản lí nền kinh tế phát triển theo những mục tiêu nhất định và vẫn đảm bảo môi trường kinh doanh tốt. Với 300 giấy phép kinh doanh chưa phải là nhiều so với khoảng 2000 giấy phép kinh doanh của Auxtralia, 3000 giấy phép của Mĩ…Nhưng điều quan trọng là những giấy phép đó phải hợp lí để tránh những phiền hà, tiêu cực trong quá trình thực thi, áp dụng rộng rãi.           Như vậy, có thể nói về thực trạng hiện nay là tất cả những nỗ lực có hệ thống, có tổ chức trong cải cách các quy định về cấp giấy phép, ĐKKD khác hầu như đã không còn hoạt động. Trong khi đó, một xu hướng và quán tính tạo ra giấy mới, tạo ra điều kiện áp đặt đối với hoạt động kinh doanh làm công cụ quản lí nhà nước đang phục hồi và đang có xu thế trỗi dậy khá mạnh mẽ. 2.     Những tồn tại vướng mắc cơ bản. Thực tiễn áp dụng Luật doanh nghiệp 2005 trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt là ở các quy định về quản lí Nhà nước đối với doanh nghiệp: chưa có quy định rõ rang và cụ thể về thực hiện và giám sát các điều kiện về ĐKKD__ một khâu trọng tâm của công tác hậu kiểm. - Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ĐKKD chưa được quy định rõ ràng về vị trí, địa vị pháp lí trong hệ thống cơ quan Nhà nước. Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho các cơ quan ĐKKD trên phạm vi cả nước chưa tạo thành một hệ thống thống nhất, vì thế mà hiệu quả hoạt động của các cơ quan ĐKKD chưa cao. - Theo quy định của pháp luật, hiện nay chế định ĐKKD chưa đề cập tới vấn đề cơ quan nào sẽ có trách nhiệm theo dõi, nắm bắt quá trình diễn biến hoạt đọng của doanh ngiệp. Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp ĐKKD cho các doanh nghiệp là xong, mà khong có cơ quan nào thường xuyên kiểm tra những biến động về quy mô hoạt động, ngành nghề kinh doanh, tình hình tài chính, lao động, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác của các doanh nghiệp và người lao động. Chính vì vậy, có những doanh nghiệp ĐKKD một ngành, nhưng lại kinh doanh ngành nghề khác có lợi hơn cho doanh nghiệp, mà Nhà nước hầu như là không nắm được. Có những doanh nghiệp sau khi  được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD nhưng lại không đi vào hoạt động, còn một số doanh nghiệp đã tiến hành hoạt động nhưng vì có lí do nào đó đã ngừng hoạt động kinh doanh trong một khoảng thời gian dài, nhưng các cơ quan chức năng thì không quản lí được. Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế thì không thể khắc phục được tình trạng này bằng cách tăng cường khâu cấp ĐKKD, mà quan trọng nhất và hơn hết là phải tập trung chú trọng vào khâu “Hậu kiểm”, tức là phải có các cơ quan tiến hành kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp sau khi được cấp giấy chứng nhận ĐKKD, hay sau khi doanh nghiệp đó được thành lập. - Ngoài ra, năng lực quản lí điều hành hoạt động của các doanh nghiệp còn biểu hiện nhiều hạn chế. Nhiều chủ doanh nghiệp do thiếu kinh nghiệm và thiếu bản lĩnh trong môi trường kinh doanh nên chưa có cái nhìn sâu sắc về thị trường, chưa có sự tìm hiểu sâu về thị trường, hay chưa có sự chuẩn bị kĩ lưỡng và đầy đủ về năng lực kinh doanh…Nhưng đã tiến hành ĐKKD, dẫn đến việc lúng túng trong việc xác định phương hướng kinh doanh đúng đắn ngay từ những ngày đầu mới thành lập. Đặc biệt, còn chưa kể đến một số doanh nghiệp khác đã lợi dụng sự quy định thông thoáng của pháp luật doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh trái pháp luật, hay mượn pháp nhân để kinh doanh nhưng lại không thông báo nội dung thay đổi ĐKKD để nhằm trốn lậu thuế; Tình trạng doanh nghiệp không nộp báo cáo tài chính theo quy định còn khá phổ biến. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng ngay cả quy định về trách nhiệm nhận và xử lí, khai thác, lưu trữ báo cáo tài chính của doanh nghiệp đối với cơ quan ĐKKD còn chưa rõ ràng, thiếu sự chỉ đạo thống nhất trên phạm vi cả nước.            Đó còn là chưa kể đến tình hình vi phạm các quy định của pháp luật lao động còn phổ biến. Nhiều doanh nghiệp chỉ kí hợp đồng ngắn hạn ( Từ 1- 3 năm, hoặc dưới 1 năm), chứ không kí hợp đồng không xác định thời hạn đối với các công việc có tính chất thường xuyên ổn định theo Nghị định của Chính phủ đã hướng dẫn. Nhiều hợp đồng lao động còn thiếu nội dung, điều khoản bắt buộc theo hướng dẫn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Nhất là vấn đề tiền lương và thời gian làm việc... Ở hầu hết các doanh nghiệp thường không thực hiện chế độ trợ cấp thôi việc cho người lao động, không thực hiện đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cho người lao động. 3.     Một số kiến nghị về giải pháp hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp và thực thi pháp luật về doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp ra đời thực sự là một bước đột phá, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho chủ thể tham gia vào thị trường ngay từ khâu đầu tiên gia nhập. Những quy định này phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời cũng phù hợp với các thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường qua thực tế áp dụng Luật doanh nghiệp nói chung và pháp luật về ĐKKD nói riêng đã bộc lộ một số điểm hạn chế cần khắc phục và sửa đổi để pháp luật luôn là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Như trên đã phân tích, một khi cá nhân hoặc tổ chức đã được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD, thì cá nhân hoặc tổ chức đó đã có đầy đủ tư cách của một chủ thể hoặc một pháp nhân, đồng thời cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ khi tham gia thực hiện các giao dịch trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Nếu khâu thẩm định để cấp Giấy chứng nhận ĐKKD làm tốt, đúng với các quy định của pháp luật thì tất yếu sẽ cho ra đời những doanh nghiệp có khả năng hoạt động hiệu quả, và ngược lại. Trong những năm qua, nhìn chung ở các địa phương trong cả nước đã tổ chức xét duyệt hồ sơ thành lập doanh nghiệp một cách chặt chẽ, đầy đủ, có hệ thống và đúng quy định của pháp luật. Tránh gây ra những phiền hà, từ đó mà tạo ra những điều kiện thuận lợi để người kinh doanh có nguyện vọng thành lập một doanh nghiệp thể hiện được đúng ý muốn của mình. Tuy nhiên, do những quy định thiếu chặt chẽ cảu pháp luật về thủ tục, điều kiện thành lập doanh nghiệp, cùng với những mặt yếu kém của các cơ quan nhà nước trong việc quản lí các mặt hoạt động của doanh nghiệp nên đã có nhiều doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật…Những hiện tượng tiêu cực này có thể chỉ chiếm một tỉ lệ nhất định nào đó nhưng đã để lại những dư luận xấu trong đời sống kinh tế xã hội. Theo đánh giá khách quan của các chuyên gia kinh tế “ Hiện nay, thủ tục gia nhập thị trường của các doanh nghiệp được thực hiện ở nhiều cơ quan khác nhau. Một doanh nghiệp muốn khởi sự kinh doanh phải ĐKKD tại một cơ quan ĐKKD, sau đó đăng kí mã số thuế tại các cơ quan thuế và sau đó đăng kí khắc dấu tại công an ” ( Lê Quang Mạnh_Trưởng phòng ĐKKD, cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)… Và trong hồ sơ doanh nghiệp phải thực hiện còn có quá trình trùng lặp, đồng thời doanh nghiệp cũng chưa có được một mã số thuế duy nhất. Năng lực hoạt động của bộ máy ĐKKD còn hạn chế, điều dễ nhận thấy nhất là chất lượng, tiêu chuẩn và cách thức thực hiện việc ĐKKD ở nhiều địa phương còn có những điểm khác nhau,, thậm chí việc trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lí nhiều khi cũng không thực hiện được do thiếu sự chuẩn hóa về thông tin mà quan trọng nhất là chưa có một mã số thuế xác định thống nhất cho mỗi doanh nghiệp.           Để khắc phục tình trạng này, vấn đề nâng cao hiệu quả quản lí Nhà nước đối với các doanh nghiệp là cần phải xây dựng được cơ chế “hậu kiểm” phù hợp với nội dung cơ bản là: tăng cường cơ chế giám sát quá trình thực hiện ĐKKD, tăng cường năng lực hoạt động của hệ thống các cơ quan ĐKKD; phân cấp và quy định rõ thẩm quyền thanh tra, kiểm tra của cơ quan Nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp.           Với tất cả những tồn tại, vướng mắc cùng với quá trình phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn ở trên, tôi cũng xin đưa ra một số kiến nghị mang tính chất tham khảo, góp ý kiến về những giải pháp để hoàn thiện hơn nữa những quy định của pháp luật về vấn đề thành lập doanh nghiệp và quá trình thực thi pháp luật về doanh nghiệp:           Thứ nhất, cần phải tăng cường công tác chuyên ngành đối với doanh nghiệp theo hướng: Phổ biến, tuyên truyền pháp luật, thường xuyên kiểm tra để có thể phát hiện nhanh chóng và xử lí kịp thời các doanh nghiệp có hành vi vi phạm, đồng thời tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động từng vùng đã có quy hoạch phát triển.           Thứ hai, tiếp tục tăng cường quá trình đào tạo bồi dững cán bộ, từ đó mà có thể hình thành nên đội ngũ đăng kí viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có ý thức chấp hành và thực thi đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, cũng cần phải tăng cường hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị khoa học kĩ thuật để có thể phục vụ tốt cho quá trình ĐKKD tại các phòng, ban, tạo điều kiện cho quá trình thiết lập và lưu trữ một hệ thống cơ sở dữ liệu chính xác, đầy đủ về việc ĐKKD,phục vụ công tác quản lí của Nhà nước.           Thứ ba, việc có nhiều cơ quan cùng có thẩm quyền ĐKKD như hiện nay tạo ra sự chồng chéo về chức năng, thẩm quyền. Điều này cũng gây nên khó khăn nhất định cho công tác quản lí Nhà nước. Vì thế, vấn đề đặt ra là phải có chính sách xây dựng nên một hệ thống cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ĐKKD tập trung, thống nhất liên thông từ trung ương xuống các địa phương, có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong quá trình tiến hành thành lập doanh nghiệp, và sự thống nhất trong của nước của mạng lưới thông tin phục vụ quản lí Nhà nước về ĐKKD.           Thứ tư, cần phải tiến tới hoàn thiện các quy định của pháp luật về ngành nghề kinh doanh. Hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều ngành nghề mới ra đời, nhưng chưa được bổ sung kịp thời. Nhiều loại giấy phép con không còn cần thiết nhưng vẫn chưa bị loại bỏ, vì thế mà gây khó khăn cho quá trình ĐKKD của các chủ doanh nghiệp. Việc vi phạm về ĐKKD không còn hoàn toàn vào ý thức chấp hành pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ĐKKD, của chủ thể kinh doanh mà còn do những thiếu xót của chính các quy định của pháp luật. Cụ thể là: + Đối với các nghành nghề kinh doanh đòi hỏi phải có giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề: Thực tế cho thấy hiệu quả của công tác quản lí bằng Giấy phép kinh doanh không cao, thậm chí còn tồn tại nhiều loại giấy phép chỉ mang tính hình thức. Vì thế, cần phải kiên quyết bãi bỏ những giấy phép không có tác dụng trong thực tiễn, góp phần thúc đẩy quá trình thành lập doanh nghiệp và ĐKKD được nhanh chóng và có hiệu quả cao. Đồng thời, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần phải ban hành ngay quy chế về việc cấp chứng chỉ hành nghề và những quy định về điều kiện kinh đối với các ngành nghề đó một cách chặt chẽ và thống nhất. + Đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì cần phải được quy định cụ thể và rõ ràng hơn, đồng phải cũng phải có những quy định chi tiết về điều kiện để kinh doanh các nghành nghề đó và nên tập hợp hóa chúng vào trong một văn bản pháp luật thống nhất, từ đó mà để các nhà đầu tư dễ dàng tra cứu và áp dụng. Ngoài ra, việc quy định về các ngành nghề kinh doanh có điều kiện phải đúng và đủ trên cơ sở bảo vệ lợi ích cho số đông cộng đồng chứ không được xuất phát từ lợi ích của một nhóm các chủ thể. Và việc quy định về điều kiện kinh doanh các ngành nghề đó phải được cụ thể và rõ ràng hơn để phù hợp với thực tiễn sự phát triển của các ngành nghề . + Thứ năm, việc xác định trùng tên doanh nghiệp phải được tiến hành trên phạm vi cả nước, chứ không thể chỉ áp dụng trong phạm vi nhỏ hẹp ở mỗi tỉnh như quy định hiện nay. + Thứ sáu, Sở Kế hoạch và Đầu tư cần phải phối hợp chặt chẽ với cục Thuế và các cơ quan hữu quan khác để tăng cường công tác và rà soát thông tin về các doanh nghiệp, từ đó mà hoàn thiện mạng thông tin doanh nghiệp thống nhất trên địa bàn địa phương mình. + Thứ bảy, cần thành lập nên một cơ quan đầu mối để các doanh nghiệp có thể thực hiện ĐKKD và thành lập doanh nghiệp.Hơn nữa,  việc sử dụng một bộ hồ sơ để doanh nghiệp có thể cung cấp mọi thông tin cần thiết cho các cơ quan chức năng cũng như việc cung cấp một mã số chung cho mỗi doanh nghiệp đăng kí thành lập. VD: cấp mã số ĐKKD đồng thời là mã số Thuế…cũng là điều nên làm đối với các cơ quan chức năng. + Cuối cùng là cần phải tăng cường công tác “hậu kiểm” sau khi doanh nghiệp đã được ĐKKD của cơ quan Nhà nước. Bởi vì, trong tình hình hiện nay, việc trốn Thuế, kinh doanh trái phép, kinh doanh không dung với nội dung đã đăng kí…của doanh nghiệp đang xảy ra rất phổ biến. Việc tăng cường công tác “hậu kiểm” sẽ là cơ chế để các doanh nghiệp đề cao trách nhiệm của mình. Do đó, bản than các doanh nghiệp cũng phải tự tìm hiểu và nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.           Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng đã có văn bản chỉ đạo UBND các Tỉnh, Thành phố chỉ đạo các các cơ quan chức năng phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc ĐKKD để thành lập doanh nghiệp và phát triển sản xuất của các nhà đầu tư. Theo đó: UBND các Tỉnh, thành phố phải có biện pháp kịp thời giải quyết các vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp theo thẩm quyền. Phải xác lập cơ chế phối, kết hợp giữa các cơ quan quản lí Nhà nước trong giải quyết các thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, nhất là giữa cơ quan ĐKKD với cơ quan ĐK đầu tư.           Thủ tướng giao cho Bộ Kế hoạch_ Đầu tư nhiệm vụ ban hành ra những văn bản pháp luật để hướng dẫn việc giải quyết các quy định về Giấy phép kinh doanh. C.               PHẦN KẾT LUẬN: Văn bản quy phạm pháp luật: LDN 2005 ra đời trong xu thế hội nhập của đất nước không những đã đánh dấu một bước đi mới trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế nói chung, và pháp luật quy định về doanh nghiệp nói riêng. Ngoài ra, với tính chất là một đạo luật quy định về cách thức tổ chức và hoạt động của mọi doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam thay thế cho 2 văn bản pháp luật trước kia: Luật công ti Luật doanh nghiệp tư nhân,  thì văn bản pháp luật này đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế tư nhân – một bộ phận không nhỏ trong nền kinh tế phát triển.        LDN 1005 và quá trình thực hiện văn bản pháp luật này vào trong thực tiễn nền kinh tế đất nước hiện nay đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra “Một sân chơi bình đẳng, không phân biệt đối xử” đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp. Vì thế, ngày càng có nhiều loại hình doanh nghiệp với các loại sở hữu khác nhau chuyển sang hoạt đọng theo quy định của LDN.           Hiện nay, LDN còn góp phần không nhỏ trong quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền XHCN., đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc trên con đường CNH, HĐH.  DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1.     LDN 2005; 2.     NĐ 88/2006/NĐ – CP  ngày 29/8/2006 về ĐKKD; 3.     NĐ 139/2007/NĐ – CP ban hành ngày 5/9/2007 và có hiệu lực ngày 5/10/2007 về hướng dẫn một số điều của LDN 2005; 4.     Một số vấn đề pháp lý cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp : Luận văn tốt nghiệp. Lê Thúy Hằng. Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997. 5.     Pháp Luật về thành lập doanh nghiệp – Những quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội: Khóa luận tốt nghiệp/ Đỗ Mai Trang.Trường Đại học Luật Hà Nội Hà Nội năm 2007 Table of Contents

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT.doc
Tài liệu liên quan