Đề tài Phát triển bền vững nông nghiệp Đà Nẵng

Đánh giá khái quát thực trạng phát triển nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng. Tìm hiểu các điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội tác động đến quá trình phát triển nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng. Phân tích các yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp thành phố đà nẵng một cách bền vững.Định hướng và đưa ra các giải pháp góp phẩn phát triển nông nghiệp thành phố bền vững trong tương lai. Bố cục của đề tài bao gồm: - Phần 1: Cơ sở lý luận chung về nông nghiệp và phát triển bền vững nông nghiệp - Phần 2: Thực trạng phát triển của nông nghiệp thành phố Đà Nẵng. - Phần 3: Những giải pháp và kiến nghị phát triển bền vững nông nghiệp Đà Nẵng. Mục lục Mở đầu 4 I. Lý do chọn đề tài. 4 II. Mục đích nghiên cứu. 4 III. Bố cục đề tài nghiên cứu. 4 IV. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. 5 Phần 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP. 6 I. Nông nghiệp. 6 1. Khái niệm. 6 2. Đặc điểm vai trò của nông nghiệp. 6 3. Tác động của nông nghiệp đến tăng trưởng và phát triển. 7 4. Tác động môi trường của nông nghiệp. 8 II. Phát triển bền vững và phát triển bền vững nông nghiệp. 8 1. Khái niệm. 8 2. Những nguyên lý của canh tác bền vững 12 2.1 Quản lý đất bền vững 12 2.2 Quản lý sâu bệnh bền vững 13 2.3 Quản lý công nghệ sinh học 16 2.4 Phát triển nông thôn bền vững 17 III. Xu hướng phát triển bền vững nông nghiệp. 19 IV. Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển bền vững nông nghiệp. 20 1. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Đài Loan 20 2. Bài học từ nông nghiệp Hà Lan 21 V. Những yêu cầu về phát triển nông nghiệp trong tương lai. 23 Phần 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 24 I. Giới thiệu về tình hình kinh tế xã hội Đà Nẵng. 24 1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. 24 2. Tài nguyên thiên nhiên. 24 2.1 Tài nguyên đất 24 2.2 Tài nguyên nước. 25 2.3 Tài nguyên rừng. 26 2.4 Tài nguyên khoáng sản. 26 3. Tình hình kinh tế - xã hội. 27 3.1 Tình hình kinh tế. 27 3.2 Tình hình xã hội. 31 II. Thực trạng phát triển nông nghiệp ở Đà Nẵng. 31 1. Thực trạng chung. 31 2. Các lỉnh vực chính. 35 2.1 Nông nghiệp. 35 2.2 Lâm nghiệp. 39 2.3 Thủy sản. 41 3. Thị trường tiêu thụ. 43 3.1 Thị trường đầu vào 43 3.2 Thị trường đầu ra. 45 4. Sự quản lý của chính quyền với phát triển nông nghiệp. 45 4.1 Công tác khuyến nông 45 4.2 Công tác dự báo thị trường nông sản 46 III. Các yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp bền vững ở Đà Nẵng. 47 1. Sự quản lý của chính quyền 47 2. Khoa học công nghệ. 49 3. Nguồn vốn cho phát triển. 51 4. Thị trường mục tiêu. 52 IV. Đánh giá về nông nghiệp thành phố Đà Nẵng 52 Phần 3 NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG 56 I. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng phát triển bền vững ngành nông nghiệp 56 1. Quan điểm. 56 2. Mục tiêu. 56 3. Phương hướng. 57 3.1 Về kinh tế. 57 3.2 Về xã hội. 58 3.3 Về môi trường. 58 II. Giải pháp phát triển bền vững ngành nông nghiệp ở Đà Nẵng. 59 1. Áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến phù hợp 59 2. Đổi mới tư duy phát triển nông nghiệp 60 3. Mở rộng thị trường tiêu thụ. 62 4. Kết hợp hiệu quả nông nghiệp với công nghiệp chế biến, du lịch dịch vụ. 63 5. Nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền. 64 III. Một số kiến nghị để nông nghiệp Đà Nẵng phát triển bền vững. 65 Kết luận. 67 Tài liệu tham khảo. 68

doc71 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển bền vững nông nghiệp Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng: 51.598,1 ha + Rừng tự nhiên: 36.462,2 ha + Rừng trồng 15.135,9 ha - Đất chưa có rừng 5.597,5 ha Phân theo 3 loại rừng thì: - Rừng đặc dụng: 33.165,3 ha - Rừng phòng hộ: 8.578,5 ha - Rừng sản xuất: 15.351,8 ha Bảng 9. Giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp (triệu đồng) Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Lâm nghiệp 22700 24934 23601 23465 25412.6 Lâm sinh 6351 5588 5615 6029 7299.595 -Khai thác gỗ, lâm sản 16349 19346 17986 17832 18113 Nguồn: niên giám thống kê 2007 và báo cáo tổng kết năm 2008 của Sở Nông Nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đà Nẵng. Giá trị lâm nghiệp năm 2008 đạt 25412.6 triệu đồng, tăng 8.3% so với năm 1997. Trong đó tốc độ tăng của lâm sinh là cao hơn rất nhiều so với lỉnh vực khai thác gổ và lâm sản (gần 21% so với 1.5%) đó là do thành phố đả có chủ trương chú trọng vào trồng và nuôi dưỡng rừng bên cạnh đó thực hiện đóng cửa rừng để bảo vệ nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này. Bảng 10. Giá trị đóng góp vào ngành lâm nghiệp. Có thể thấy giá trị đóng góp trong lâm nghiệp có sự tăng dần của lỉnh vực lâm sinh, điều này chứng tỏ thành phố đả có chủ trương đúng đắn trong việc phát triển lâm nghiệp đó là giảm dần khai thác rừng và tăng cường phục hồi và trồng mới rừng để tăng giá trị rừng trong tương lai không vhir về mặt kinh tế mà còn lợi ích rất lớn về mặt sinh thái, môi trường. Trong lỉnh vực lâm sinh thành phố đã chú trọng tới việc phát triển rừng một cách hiệu quả bằng các phương pháp như: khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng rừng tập trung... bên cạnh đó thành phố đả thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ rừng, và phòng cháy chửa cháy trong mùa khô. 2.3 Thủy sản. Giá trị sản xuất ngành thủy sản tăng liên tục qua các năm 1997 – 2007 mặt dù diện tích đất nuôi trồng thủy sản giảm đáng kể do công tác quy hoạch đất nuôi trồng thủy sản chưa hợp lý. Bảng 11. Giá trị sản xuất ngành thủy sản (triệu đồng) Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Thủy sản 395407 438278 412089 444619 451288.3 -Nuôi trồng 42940 42478 20017 25214 25592.21 -Khai thác hải sản 333644 38 825 378537 406376 412471.6 -Khai thác thủy sản nước ngọt 1123 701 595 709 719.635 -Dịch vụ thủy sản 17700 13 274 12940 12320 12504.8 Nguồn: niên giám thống kê 2007 và báo cáo tổng kết năm 2008 của Sở Nông Nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đà Nẵng. Giá trị sản xuất ngành thủy sản năm 2008 tăng 1.5% so với cùng kỳ năm trước. Xét trong cả thởi kỳ 2004-2008 giá trị của ngành thủy sản tăng trung bình 2.67%. Trong đó lỉnh vực nuôi trồng lại có chiều hướng giảm suốt chứng tỏ thành phố đã không có định hướng hợp lý cho lỉnh vực này bởi vì Đà Nẵng có tiềm năng lớn trong lỉnh vực này với đường bờ biển dài và hệ thống sông lớn. Hoạt động khai thác một số lỉnh vực chính như: nghề lưới cản, nghề câu mực, nghề giả đôi... hoạt động có chuyển biến tích cực về tổ chức sản xuất, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Đến nay, thành phố có 90 tổ đội khai thác với 585 tàu, trong đó tàu công suất 90 Cv trở lên là 180 chiếc. Cơ cấu trong các tổ theo nghề khai thác như xau: Giả cào 32 tổ, lưới cản 23 tổ, câu mực 11 tổ, lưới vây 8 tổ, nghề khác 16 tổ... Về lỉnh vực nuôi trồng thì tập trung nuôi một số giống chính như: nuôi tôm (tôm sú, tôm hùm, tôm chân trắng ba ba,)140 ha; các loại các như: điêu hồng, rô pho đơn tính, cá trôi, mè, chép...ngoài ra còn có nuôi ếch, ba ba... Ngành thủy sản Đà Nẵng còn rất nhiều hạn chế: Trong lỉnh vực khai thác thủy sản thì có diển biến phức tạp hơn do ngư dân có nguồn vốn hạn chế cho những chuyến đi biển xa, dài ngày. Mặc khác do tác động của giá nhiên liệu tăng cao trong những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008 làm cho số lượng tàu nằm bờ rất nhiều chiếm tới 40 – 50%. Bên cạnh đó đầu ra cho sản phẩm còn bị nhiều hạn chế, chưa có được đầu ra ổn định, dể dàng bị tư thương ép giá. Ví như ở Quận Sơn Trà có gần 1.500 tàu thuyền các loại. Tùy theo cỡ tàu và loại hình khai thác mà mỗi tàu có số thuyền viên khác nhau, nhưng khó khăn chung hiện nay là đa số tàu cá trong quận đang thiếu thuyền viên để ra khơi, sản phẩm bán ra bị tư thương ép giá. Ngư trường thì không ổn định do công tác dự báo ngư trường ít được quan tâm, ngư dân chỉ dựa vào kinh nghiệm là chính trong việc xác đinh ngư trường dẩn đến hiệu quả không cao Khai thác thủy sản ở gần bờ là chủ yếu do đội tàu còn nhỏ, thiều những tàu công suất lớn có khả năng bám biển lâu dài. Việc khai thác gần bờ diển ra tràn lan hầu như không có tiêu chuẩn nào trong việc khai thác dể dản đến tình trạng cạn kiệt nguồn lợi thủy sản. một tác động không nhỏ trong thời gian qua là nạn ô nhiểm do các sự cố tràn dầu diển ra liên tiếp làm tổn hại nghiêm trọng tới môi trường, gây thiệt hại cho sinh vật biển và lỉnh vực nuôi trồng thủy hải sản. Trong lỉnh vực nuôi trồng thủy hải sản thì quy mô không lớn, kỹ thuật nuôi trồng còn lac hậu chưa có nhiều nơi áp dụng công nghệ cao vào việc sản xuất. con giống cho nuôi trồng thì vẩn đang là bức xúc của người dân, nguồn con giống tại chổ không đủ đáp ứng nhu cầu. Vấn đề ô nhiểm do nuôi trông thủy hải sản chưa được quan tâm. Thị trường tiêu thụ. 3.1 Thị trường đầu vào Thành phố đà nẵng là trung tâm kinh tế lớn của Miền Trung – Tây nguyên, có lợi thế về giao thông nên hệ thống cung ứng dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp rất phong phú và đa dạng. Thức ăn cho gia súc gia cầm, thuốc phòng trừ sâu bệnh, các loại máy móc trng thiết bị phục vụ sản xuất... được cung ứng khá đầy đủ, và đa dạng về số lượng củng như chất lượng bởi hệ thống các công ty thương mại, các đại lí phân phối. trong những năm vừa qua trên địa bàn thành phố chưa diển ra tình trạng khan hiếm thức ăn gia súc gia cầm , thuốc thú ý, bảo vệ thực vật... Tuy nhiên thời gian qua với diển biến phức tạp của thị trường nông sản trong nước củng như của thế giới, giá các loại thức ăn chăn nuôi, đặt biệt là thức ăn gia súc gia cầm tăng lên nhiều so với trước đây. Đó là do tác động của các loại dịch bệnh liên tục xuất hiện trong những năm vừa qua, tuy thành phố đã khống chế khá tốt tình hình dịch bệnh tuy vậy vẩn không tránh khỏi tác động của nó. Mặt khác củng đã xuất hiện tình trạng phân bón giả, thuốc trừ sâu giả làm gây ra không ít khó khăn và bức xúc cho bà con nông dân. Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ sinh học thì con giống, cây giống ngày càng đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò sản xuất. chi phí cho giống chiếm từ 20% trở lên trong tổng chi phí sản xuất. Con giống, cây giống là tiền đề gia tăng năng suất của cây trồng vật nuôi, là nhân tố quyết định nâng cao năng suất, giảm giá thành cho sản phẩm và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, quyết định đến kết quả và hiệu quả sản xuất. Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chỉ có một cơ sở sản xuất giống heo của nhà nước nên chưa thể đáp ứng nhu cầu rất cao về con giống của bà con nông dân. Ngoài ra đối với các loại giống mà bà con rất cần để nâng cao năng suất trồng trọt chăn nuôi như các loại cá giống, rau giống, lúa... thì hầu như trên địa bàn thành phố chưa có cơ sở sản xuất hoặc chưa đủ khả năng đáp ứng để phục vụ nhu cầu cầu của bà con. Các loại giống không có tại địa phương thì phải nhập từ các tỉnh miển bắc hoặc ở các tỉnh phía nam với chi phí cao. Một số giống do bà con nông dân tự áp dụng kinh nghiệm của mình để sản xuất thì không đảm bảo về chất lượng dẩn đến năng suất kém, hiệu quả thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. 3.2 Thị trường đầu ra. Thị trường đầu ra cho nông sản nói chung vẩn đang là nổi lo lắng của người sản xuất. Hầu hết giá cả của sản phẩm nông nghiệp đều rất bấp bênh, khi được mùa thì lại mất giá và ngược lại khi được giá lại mất mùa, ngoài ra còn các nguyên nhân làm cho giá cả không có lợi cho người sản xuất là do: Sản phẩm làm ra chất lượng chưa đạt yêu cầu, chất lượng còn kám do vậy tính cạnh tranh của sản phẩm thấp. Do mối liên hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp chế biến còn lỏng lẻo, chưa thể nâng cao giá trị cho nông sản qua sản phẩm đả chế biến. Sản xuất chưa gắn liền với phân phối, tiêu thụ sản phẩm, phụ thuộc quá nhiều vào tư thương nên dể bị ép giá. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn thành phố chủ yếu vẩn là đáp ứng nhu cầu của nhân dân thành phố Đà Nẵng. Một số sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khu vực lân cận và xuất khẩu như: Gổ, thủy sản (EU, Hàn Quốc, Nhật Bản...) Với các tác động như vậy làm cho nông nghiệp trên địa bàn tăng trưởng còn chậm và chưa tương xứng với tiềm năng. Sự quản lý của chính quyền với phát triển nông nghiệp. 4.1 Công tác khuyến nông Đà nắng là đơn vị hành chính duy nhất không có trạm khuyên nông huyện. Trong hơn mười năm qua ở Đà nẵng nói riêng và trong cả nước nói chung chưa có một đề tài nghiên cứu nào về chủ đề, về cách tập huấn cho nông dân như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Khuyến nông là các biện pháp khuyến khích người nông dân phát triển sản xuất một cách chủ động, tích cực, sáng tạo và hiệu quả. Thông qua quá trình truyền bá kiến thức đào tạo nghề cho người sản xuất, tổ chức sản xuât thử nghiệm và và quảng bá các mô hình sản xuất tiên tiến, khuyến cáo các phương pháp giúp bà con nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Trong những năm gần đây công tác khuyến nông ở thành phố Đà nẵng đã được coi trọng cà về chất lượng và số lượng. Với việc mở các lớp tập huấn, truyền bá kỹ thuật, tổ chức sản xuất theo mô hình khảo nghiệm và sản xuất ứng dụng một số con giống mới đã đem lại những hiểu biết nhất định cho bà cong nông dân. Hiện có tới 6 trung tâm kỹ thuật với hơn 220 cán bộ, đa số là kỹ sư làm nhiệm vụ chỉ đạo. Tuy vậy hiệu quả là không cao do cán bộ kỹ thuật chưa theo sát được nhu cầu của người dân, chưa đáp ứng được yêu cầu hiểu biết cho bà con. Các phương pháp tập huấn chỉ đạo chưa kết hợp chặt chẻ giữa lý thuyết và thực tế làm cho bà con nông dân vận dụng vào thực tế vẩn còn nhiều lúng túng, hiệu quả mang lại chưa cao. Trong mạng lưới khuyến nông viên ở cơ sở chưa được xây dựng. Việc hổ trự kỹ thuật chưa kịp thời, nhất là công tác phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng vật nuôi. 4.2 Công tác dự báo thị trường nông sản Công tác dự báo thị trường nông sản có tác động rất lớn tới quá trình sản xuất nông nghiệp nhưng hầu như chưa được chú trọng. Giá cả nông sản biến động rất khó lường. Cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Tuy vậy ở Đà Nẵng hầu như chưa có cơ quan chuyên trách phục vụ cho công tác dự báo thị trường nông sản làm cho bà con nông dân gặp nhiều khó khăn, làm cho có những sản phẩm được sản xuất ra không thể tiêu thụ được. nhất là trong bối cảnh nông dân Đà Nẵng nói riêng và của cả nước ta nói chung đều có xu hướng sản xuất theo phong trào, thấy cái gì được giá là lao vào sản xuất làm như vậy đến khi sản phẩm được làm ra đồng loạt lại gây ra tình trạng cung nghiều hơn cầu và dẩn đến rớt giá sản phẩm gây thiệt hại nặng nề cho nông dân. Việc dự báo ngư trường cho ngư dân còn chưa được chú trọng. Hầu hết ngư dân đều dựa vào kinh nghiệm của mình để phát thiện ra các ngư trường do vậy rủi ro gặp phải là rất cao và không chắc chắn. Các yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp bền vững ở Đà Nẵng. Ta có các yếu tố tác động đến phát triển bền vững nông nghiệp như sau: TIÊU CHÍ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ Tăng trưởng đều và liên tục Tài nguyên đất nông nghiệp Quy mô, năng suất đất, hệ số sử dụng đất, cơ cấu sử dụng đất… Nguồn nhân lực Năng suất lao động, số lượng, trình độ chuyên môn, đào tạo nghiệp vụ… Nguồn vốn Cơ cấu nguồn vốn, đòn cân nợ, tỷ suất lợi nhuận trên vốn Khoa học công nghệ Vốn đầu tư cho KHCN, tỷ suất hàng hoá, sự chuyển giao KHCN Chính sách đầu tư nhà nước (vốn, thuỷ lợi, trợ giá các yếu tố đầu vào…) Tổng vốn đầu tư vào thuỷ lợi, cho vay sản xuất, trợ giá giống, vật tư.. Quy hoạch vùng sản xuất Thay đổi cơ cấu diện tích đất nông nghiệp Phân bổ hợp lý từ sự tăng trưởng Chính sách đầu tư: + Khu vực nhà nước - Hạ tầng cơ sở nông thôn - Phát triển nông thôn - Công nghiệp hoá nông thôn - Giảm độ cận biên thị trường …. + Khu vực tư nhân Thu nhập ở khu vực nông thôn Đầu tư cho nước sạch Đầu tư điện, trường, trạm Tỷ lệ hộ nghèo/bình quân XH Tỷ lệ suy dinh dưỡng Tỷ lệ bỏ học của học sinh các cấp Tỷ lệ người mắc bệnh/ năm Tỷ lệ di dân trong khu vực Tỷ lệ thất nghiệp Bảo vệ tài nguyên môi trường Chính sách của nhà nước về quản lý và bảo vệ tài nguyên môi trường Vốn đầu tư cho việc trồng rừng, diện tích rừng , xử lý chất thải, kênh rạch Ý thức bảo vệ tài nguyên môi trường Khả năng, nhận thức về công tác bảo vệ tài nguyên môi trường. Chỉ số đánh giá môi trường nước, không khí, tiếng ồn… Sự quản lý của chính quyền Đưa ra các phương án phát triển cho ngành nông nghiệp thành phố, đồng thời có các phương pháp kiểm tra giám sát và hổ trợ cho hoạt động nông nghiệp của nông dân nhằm hướng đến phát triển một nền nông ngiệp bền vững. Vai trò quản lý của chính quyền thể hiện rỏ nhất trong các chính sách nông nghiệp như: chính sách thuế, chính sách quản lý đất đai, chính sách tín dụng, chính sách ổn định sản xuất... Bộ máy chính quyền quản lý sản xuất nông nghiệp ở Đà Nẵng không hề nhỏ so với các địa phương lân cận. hiện có tới hơn 6 đầu mối với 220 cán bộ, đa số là kỹ sư với nhiệm vụ hướng dẩn và phục vụ sản xuất nông nghiệp nhưng hiệu quả thì lại không cao. Công tác hổ trợ nông dân phục vụ sản xuất chưa tốt đặc biệt là trong việc định hướng cho phát triển và hổ trợ kỹ thuật tiên tiến cho bà con nông dân. Định hướng phát triển cho nông nghiệp Đà Nẵng chưa rỏ ràng, chưa định hình được sản phẩm nông nghiệp chủ lực của thành phố. Sự quản lý của chính quyền với thị trường tiêu thụ hầu như bị bỏ lỏng, thị trường nông sản chưa được quản lý tốt, tình trạng được mùa mất giá, mất mùa được giá liên tiếp xảy ra nhưng chưa có biện pháp nào giải quyết hiệu quả. Tình trạng ô nhiểm môi trường diển ra trên thành phố tuy không trầm trọng so với các địa phương khác nhưng củng còn rất nhiều điều cần phải được quan tâm giải quyết. Tác động môi trường do sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố chưa được quan tâm đúng mức. quá trình trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản gây ra không ít tác động gây ô nhiểm môi trường vì sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh, dư thừa thức ăn chăn nuôi, chất thải sau khi thu hoạch chưa qua xử lý... Hiện nay, sản xuất thực phẩm an toàn và bảo vệ môi trường  là vấn đề thời sự nóng hổi, ngay cả trong sản xuất nông nghiệp. Do người  dân chưa thấy hết vai trò của nó, nên nhiều sản phẩm làm ra tuy đạt  năng suất cao, quay vòng vốn nhanh nhưng không tiêu thụ được dẫn đến thua lỗ. Việc sử dụng các hóa chất trong sản xuất một cách tùy  tiện dẫn đến dư lượng thuốc bảo vê thực vật, vượt quá mức cho phép  nhất là trong sản xuất rau, màu có vòng quay ngắn đang là vấn đề  bức xúc trong dư luận xã hội. Chính quyền thành phố củng đã có áp dụng các phương pháp để bảo vệ môi trường như áp dụng quy trình chăn nuôi khép kín, sử dụng mô hình Biôga để xử lý chất thải, hay mô hình chế biến phân vi sinh từ chất thải nông nghiệp... Tuy nhiên các mô hình này chưa sử dụng rộng rải và hiệu quả chưa cao. Chính sách đất đai cho nông nghiệp của đà Nẵng đã và đang cho thấy sự bất hợp lý, diện tích đất đai cho nông nghiệp liên tục giảm qua các năm. Quy hoạch sử dụng thì chưa hợp lý gây hoang mang cho người dân, người cần đất để sản xuất thì không có trong khi người có đất thì lại không biết phải làm thế nào để sử dụng cho hiệu quả do đó tình trạng đất đai bỏ hoang không phải là hiếm trên địa bàn thành phố. Do tình trạng đô thị hóa nên gây hoang mang cho bà con nông dân dẩn đến họ chỉ sản xuất cầm chừng để giử đất là chính điều này thật sự gây tình trạng lảng phí lớn tài nguyên của địa phương. Ví như cánh đồng Thiên 15 ha ở Hòa Hiệp Bắc bỏ hoang hóa nhiều năm nay. Các chính sách nông nghiệp của chính quyền nói trên hầu như chưa thể hiện được vai trò chủ đạo trong định hướng cho nông nghiệp thành phố phát triển bền vững. Khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển một nền nông nghiệp bền vững, nó tác động đến tất cả các hoạt động nông nghiệp trong tương lai Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cũng như thực tiễn ở nước ta cho thấy chính sách vĩ mô và khoa học kỹ thuật bao giờ cũng là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Đà Nẵng cũng không năm ở ngoại lệ. Từ thực tế cho thấy, trong lĩnh vực nông nghiệp, yếu tố KHKT phải hiện diện trong các đối tượng mang tính đặc thù đó là các trang trại, các HTX chuyên môn hoá cao, là các khu chăn nuôi tập trung theo quy hoạch, các Khu Nông nghiệp công nghệ cao v.v... Tuy vậy tình hình áp dụng khoa học công nghệ vào thực tế sản xuất nông nghiệp tại Đà Nẵng vẩn còn nhiều bất cập. Cơ giới hoá nông nghiệp còn rất hạn chế, tỷ lệ làm đất bằng máy chỉ đạt khoảng 25%. Cơ giới hóa chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất. Hơn 10 năm lúa chưa thay giống mới nên hạn chế về năng suất, sản lượng. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi diển ra chậm và chưa có sự chuyển biến rỏ rệt. Trình độ và năng lực cạnh tranh thị trường của người nông dân thành phố còn thấp, xu hướng phát triển cơ cấu sản phẩm hướng tới giá trị gia tăng cao diễn ra chậm, kênh tác động từ phía công nghiệp đến nông nghiệp chưa được khơi thông, một phần do công nghiệp nông thôn còn quá kém phát triển, v.v. Cán bộ kỹ thuật hổ trợ cho nông dân chưa hiệu quả, tuy số lượng đông nhưng hoạt động còn nhiều điều bất cập có thể nói là chỉ hoạt động bề nổi, hoạt động theo các lân phát động phong trào sản xuất, dẩn đến hiểu biết của bà con nông dân về áp dụng công nghệ cho sản xuất còn yếu kém, làm cho nông nghiệp của thành phố có phần bị trì trệ lại so với các địa phương khác. Công tác giống nông nghiệp ở Đà Nẵng đã có tín hiệu đổi mới. Tuy vậy, sự đổi mới đó chưa tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và sản lượng nông sản. Những giống cây-con mới đưa vào sản xuất đang dừng lại ở mô hình, chưa nhân ra diện rộng và đều do các địa phương triển khai. Đơn vị chịu trách nhiệm về công tác này là Trung tâm Giống nông nghiệp Đà Nẵng chưa tạo được loại giống nào có ý nghĩa đáp ứng nhu cầu của nông dân. Tuy vậy thành phố củng đã áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đạt được một số thành tựu như: thực hiện chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ, hỗ trợ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi theo hướng năng suất, chất lượng cao, chú trọng phát triển các đối tượng mới, đã xây dựng nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả như: Sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn GAP; sản xuất nấm rơm tại 10, xã phường tại huyện Hoà Vang, Cẩm Lệ, Liên Chiểu; Chương trình “3 giảm, 3 tăng” với 250 hộ; mô hình trồng hoa ly, hoa đồng tiền, trồng hoa lan; chăn nuôi lợn sinh sản hướng nạc, đảm bảo vệ sinh môi trường; cải tạo đàn bò theo hướng chuyên thịt; hỗ trợ bảo quản sản phẩm khai thác và tập huấn kỹ thuật sản xuất cho hơn 1.000 lượt/người Khoa học công nghệ là công cụ sản xuất không thể thiếu, nó sẽ góp phần nâng cao năng suất nông nghiệp, cải tạo điều kiện sản xuất, nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp. Nông nghiệp áp dụng khoa học công nghệ sẽ là hướng đi chính trong tương lai một khi các yếu tố khác không còn được thuận lợi. Nguồn vốn cho phát triển. Nguồn vốn cho việc phát triển nông nghiệp có tác động rất lớn, khi không có vốn thì người nông dân không thể tiếp tục sản xuất đươc mà những người nông dân thì lại rất khan hiếm về vốn cho nên các chính sách khuyến khích đầu tư vào lỉnh vực nông nghiệp là vô cùng quan trọng Nguồn vốn để phát triển nông nghiệp là từ các ngân hàng thương mại hổ trợ nông dân. Tuy vậy người dân còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận với nguồn vốn. Các thủ tục vay vốn còn rườm rà. Chính sách tín dụng cho nông dân để phục vụ nông nghiệp còn nhiều điều bất cập. Ngân hàng còn vốn nhưng không thể giải ngân, còn hàng nghìn nông dân cần thêm vốn để mở rộng đầu tư thì không  vay được. Nghịch lý này đã và đang tồn tại trong nhiều năm qua và hiện tại vẫn chưa có giải pháp tháo gỡ. định mức cho nông dân vay vốn là chưa hợp lý, cho nên những người có khác vọng cần vay vốn để phục vụ sản xuất chưa được đáp ứng hợp lý. Về vốn, sự thiếu hụt vốn và sử dụng kém hiệu quả nổi lên rất rõ. Các vấn đề chính của nông dân khi vay vốn tín dụng chính thức là (1) rủi ro không trả được nợ; (2) không đủ thế chấp; (3) chi phí tiếp cận dịch vụ cao, thời gian xét duyệt kéo dài. Tín dụng phi chính thức lại có lãi suất quá cao. Hiện nay, đa số nông dân thiếu vốn tái đầu tư sản xuất mở rộng, chỉ đủ để tái sản xuất giản đơn; một bộ phận lâm vào cảnh nợ nần triền miên, không trả dứt nợ được. Ngoài ra các nguồn vốn hổ trợ nông dân khác như để học nghề, chuyển đổi sản xuất tuy củng đã có được một số thành tựu như: Quỹ HTND thành phố Đà Nẵng đã càng ngày càng phát triển, đến nay tổng số dư nợ lên đến 4,416 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn do Trung ương Hội ủy thác 447,155 triệu đồng, thành phố ủy thác 3,968 tỷ đồng, cho gần 2.500 lượt hộ nông dân vay, chủ yếu là nông dân nghèo và hết đất sản xuất có điều kiện để sản xuất, kinh doanh (SXKD), giải quyết việc làm và ổn định đời sống nhưng củng chưa phát huy tốt vai trò của mình. Các doanh nghiệp đầu tư vào lỉnh vực nông nghiệp đầu tư còn chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thị trường mục tiêu. Thị trường mục tiêu có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp vì người nông dân phải biết được sản phẩm họ sản xuất ra có thể bán được hay không, bán cho ai, có lợi nhuận hay không thì họ mới tham gia sản xuất sản phẩm Thị trường mục tiêu của nông nghiệp Đà Nẵng hiện nay vẩn là phục vụ nhu cầu tại chổ của nhân dân thành phố, bên cạnh đó là một số sản phẩm phục vụ các địa phương lân cận ở khu vưc miền trung và còn có một số mặt hàng phục vụ xuất khẩu. Đánh giá về nông nghiệp thành phố Đà Nẵng Thành phố Đà Nẵng nông dân không nhiều, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp không lớn nhưng tác động của nó đến đời sống kinh tế xã hội nhất là vùng nông thôn của thành phố thì không hề nhỏ. Mặc dù những năm gần đây phạm vi của ngành nông nghiệp bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa nhanh chóng của thành phố nhưng nông nghiệp Đà Nẵng vẩn giữ nhịp độ tăng trưởng bền vững, ổn định, giá trị sản xuất toàn ngành không hề giảm mà còn có xu hướng tăng lên. Hiện tại, nông nghiệp Đà Nẵng nhỏ về quy mô và thấp về giá trị sản xuất. 6 tháng đầu năm 2008, toàn ngành chỉ đạt giá trị tổng sản lượng 332 tỷ đồng, giảm 2,5% so cùng kỳ năm 2007, trong đó giá trị nông-lâm chỉ 140 tỷ đồng. Năng suất lúa 50,5 tạ/ha, sản lượng thóc trên 23 nghìn tấn, thấp nhất kể từ trước đến nay. Việc phát triển nông nghiệp ở Đà Nẵng còn nhiều bất cập do diện tích canh tác giảm 1.900ha trong hơn 10 năm qua, trong đó đất lúa 1.116ha, hơn 300ha ao hồ nuôi trồng thủy sản bị giải tỏa. Do giải tỏa, tâm lý bất an trong nông dân khá rõ. Họ không mạnh dạn đầu tư cho sản xuất, thậm chí chỉ sản xuất cầm chừng theo kiểu giữ đất. Việc dồn điền đổi thửa không triển khai được đã đẩy sản xuất lâm vào tình cảnh manh mún, nhỏ lẻ kéo dài. Tiến bộ khoa học kỹ thuật có triển khai nhưng ít đứng vững trên đồng ruộng, chuồng trại. Thành phố Đà Nẵng hiện chỉ còn 4.200ha đất trồng lúa. Đúng ra, với diện tích ít ỏi ấy, lúa ở Đà Nẵng phải có đặc điểm riêng, tức là phải đạt chất lượng cao, gạo thơm ngon, hoặc tạo ra năng suất cao. Tuy vậy, nhiều năm nay giống lúa chậm đổi mới, dẫn đến năng suất không thể tăng lên được, vụ được mùa nhất cũng chỉ 57 tạ/ha, trong khi ở Quảng Nam đạt trên 60 tạ/ha. Cơ giới hóa chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất. Hơn 10 năm lúa chưa thay giống mới nên hạn chế về năng suất, sản lượng. Hầu hết lao động trẻ quay lưng với đồng ruộng tìm kế mưu sinh ở phố xá, giao phó đồng ruộng cho lao động lớn tuổi, sản xuất theo kiểu được chăng hay chớ. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp liên tiếp đối mặt với rủi ro, thất bát do thiên tai, dịch bệnh, giá vật tư phân bón tăng cao, giá nông sản thấp. Về chủ quan, nông dân Đà Nẵng chưa nhạy bén với cái mới, khát vọng làm giàu không cao Trong khi đó, nông nghiệp Đà Nẵng có nhiều thuận lợi. Khí hậu, thời tiết không đến nỗi quá khắc nghiệt. Hệ thống thủy nông tương đối hoàn thiện. Các cơ quan chỉ đạo với đội ngũ cán bộ kỹ thuật hùng hậu, sự đầu tư của thành phố và các quận, huyện kịp thời. Thị trường nông sản phong phú, vận chuyển vật tư, nông sản thuận lợi. Ô nhiểm môi trường và cạn kiệt tài nguyên do khai thác thủy sản quá mức là vấn đề đáng báo động ở Đà Nẵng. Đà Nẵng đang phải đối mặt với hai vấn đề lớn trong khai thác là đánh bắt quá mức trong vùng ven bờ và sử dụng những phương tiện đánh bắt có tính huỷ diệt. Đánh bắt hải sản hiện tập trung chủ yếu vào cá, tôm ở vùng biển ven bờ (độ sâu 0-30m) và động vật thân mềm ở các bãi cát và bãi triều (khu Sơn Trà). Sản lượng khai thác trung bình hàng năm của Đà Nẵng vào khoảng 36801 tấn/năm (2004), trong đó 68,2 % sản lượng này đã khai thác ở vùng nước nông ven biển. Điều tra đã xác nhận, trong khi tổng sản lượng đánh bắt tăng rõ rệt, thì sản lượng đánh bắt cá tính theo từng mẻ (CUE) lại giảm (từ 1,2 tấn/CV năm 1985 xuống còn 0,65 tấn/CV năm 1995), và kích cỡ cá càng ngày càng nhỏ. Nhiều loài cá và sinh vật biển có nguy cơ tuyệt chủng, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao. Đội tàu đánh bắt của Đà Nẵng hiện có 1.939 chiếc, trong đó chỉ có 90 chiếc đánh bắt xa bờ, phần còn lại chủ yếu tàu gắn máy nhưng số tàu thuyền nhỏ có công suất dưới 23CV chiếm khoảng hơn 80%. Điều đó cho thấy rằng việc khai thác cá truyền thống trong các vùng nước ven bờ ở độ sâu dưới 30 mét, là nguyên nhân chính gây cạn kiệt nguồn lợi hải sản. Khai thác cá thủ công, bắt bằng lưới rất nhỏ (lưới mùng, lưới vét, vó gạt) để đánh bắt tất cả các loại cá, kể cả cá con; áp dụng các biện pháp đánh bắt cá dùng thuốc nổ, xung điện, ánh sáng và hoá chất xyanua; thiếu kinh nghiệm quản lý và khả năng thi hành luật pháp của lực lượng kiểm soát cũng như việc đánh bắt trái phép, vô ý thức là các nguyên nhân chính gây suy giảm các loài cá, các rạn san hô và các sinh vật biển khác, dẫn tới suy giảm đa dạng sinh học. Chương trình đánh bắt xa bờ tuy có đầu tư và quan tâm, nhưng chưa đem lại hiệu quả cao do sự tăng lên của chi phí nhiên liệu, thiên tai. Cuối cùng ngư dân quay lại đánh bắt gần bờ, hậu quả là sức ép của các hoạt động phát triển ven bờ không giảm và tình trạng khai thác quá mức ngày càng nặng nề. Cơ cấu ngành nông nghiệp (nông-lâm-thuỷ sản) đang có xu hướng chuyển dịch theo hướng phù hợp với thành phố công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng ngành nông nghiệp đóng góp vào GDP thành phố giảm từ 9,70% năm 1997 xuống còn 7,86% năm 2000 và 4,17% năm 2006. Số liệu thống kê cho thấy giá trị sản xuất ngành nông-lâm-thuỷ sản tăng bình quân 6,3%/ năm trong thời kỳ 1997-2006, cao hơn so với mức tăng bình quân của cả nước là 5,4%. Tuy nhiên cũng giống như tình hình chung của cả nước, Đà Nẵng với lao động nông nghiệp chiếm 13% nhưng chỉ tạo ra 4,17% GDP, đồng nghĩa với năng suất ngành nông nghiệp còn quá thấp. Đặc biệt lao động trong ngành nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) chiếm tới 83% nhưng chỉ tạo ra 30% giá trị toàn ngành nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp trong 5 năm qua hầu như không tiến thêm được bước nào, thậm chí giảm mạnh ở ngành thủy sản... Đó là dấu hiệu của sự phát triển không bền vững. Cơ cấu nông nghiệp của Đà Nẵng cho thấy sự tăng trưởng của ngành vẫn dựa chủ yếu tài nguyên như đất đai, rừng, biển, thiếu sự ổn định để chuyển sang cơ cấu hiện đại có khả năng tăng trưởng theo chiều sâu. Phần 3 NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG Quan điểm, mục tiêu, phương hướng phát triển bền vững ngành nông nghiệp Quan điểm. Tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng tỷ trọng phát triển công nghiệp hướng mạnh vào công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng phục vụ cho xuất khẩu, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp hoá chất, từng bước tăng tỷ trọng dịch vụ và du lịch. Chuyển dịch cơ cấu thủy sản – nông – lâm theo hướng tăng tỉ trọng thủy sản, giảm tỷ trọng nông nghiệp và lâm nghiệp. tăng nhanh khối lượng phẩm hàng hóa, nhất là sản phẩm đã qua chế biến. Phát triển ngành nông nghiệp thành phố theo hướng bền vững thân thiện vơi môi trường đáp ứng tốt nhu cầu lương thực thực phẩm của nhân dân thành phố Mục tiêu. Để ngành nông nghiệp Đà Nẵng phát triển ổn định và bền vững, mục tiêu của thành phố đặt ra đến năm 2010 đưa sản xuất chăn nuôi trở thành lĩnh vực sản xuất chính, có tỷ trọng giá trị hàng hóa chiếm 70% trong cơ cấu sản xuất của ngành nông nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, Thành phố tập trung khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, có giải pháp quản lý vùng chăn nuôi an toàn và phòng ngừa dịch bệnh. - Thành phố đang chỉ đạo sớm hoàn thành công tác quy hoạch phát triển chăn nuôi, từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch chi tiết vùng nuôi. Thành phố đã xác định 3 vùng nuôi cơ bản: Vùng cấm nuôi, vùng cho phép nuôi (nuôi có điều kiện cấp phép của cơ quan Nhà nước) và vùng khuyến khích nuôi; đề ra cơ chế, chính sách hợp lý về huy động vốn, ưu đãi lãi suất, đất đai, lao động, chuyển giao ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển chăn nuôi quy mô lớn. Trước mắt thành phố chỉ đạo các tổ chức cho vay (Ngân hàng Nông nghiệp địa phương) có cơ chế cho vay ưu đãi về thời hạn, lãi suất, phù hợp đặc tính, đặc thù của ngành, để các hộ nông dân chăn nuôi được tiếp cận dễ hơn nguồn vốn vay. Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục đầu tư phát triển thêm các cơ sở giống có giá trị kinh tế cao như: Bò, dê, đà điểu, gà nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất của thành phố và khu vực. Thành phố cũng khẩn trương khảo sát quy hoạch và đầu tư mới thêm một số cơ sở chế biến giết mổ tập trung tại 2 quận Ngũ Hành Sơn và Hoà Vang giải quyết triệt để tình trạng chế biến, giết mổ phân tán trong dân, quản lý tốt vệ sinh an toàn thực phẩm trong chăn nuôi. Phát triển một nền nông nghiệp sạch theo hướng đa dạng hoá. Đồng thời phát triển nhanh các cây thực phẩm, rau, đậu đỗ, các loại cây ăn quả, cây cảnh, chăn nuôi... với tỷ suất hàng hoá nông sản ngày càng cao, đáp ứng tốt yêu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Phát triển mạnh chăn nuôi gia súc và gia cầm, coi trọng chất lượng cây giống. Mở rộng nuôi bò lai, bò sữa, lợn nạc và nuôi gà theo phương pháp công nghiệp để tăng hiệu quả chăn nuôi đáp ứng yêu cầu thị hiếu tiêu dùng của thị trường. Phát triển các ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn. Bảo vệ, khôi phục rừng tự nhiên, phát triển trồng rừng trên đất trống đồi trọc, trồng rừng chống cát và rừng cảnh quan ven biển theo phương thức kết hợp cây lâm nghiệp với trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, dược liệu, chăn nuôi đại gia súc v.v... Xây dựng và bảo vệ các khu rừng Bà Nà, Nam Hải Vân và khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà. Phương hướng. 3.1 Về kinh tế. Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi ruộng đất ở những vùng ruộng đất manh mún, phân tán bằng phương pháp dồn điền đổi thửa; tiến tới xây dựng các mô hình sản xuất với quy mô lớn đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa, phù hợp cho chuyển giao kỹ thuật công nghệ. Phát triển sản xuất gắn với tăng cường sản xuất chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ nông – lâm – thủy sản; đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và cơ cấu lại kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chú trọng nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Giải quyết tốt quy hoạch sản xuất nông nghiệp, quy hoạch bố trí khu công nghiệp và phát triển làng nghề, bố trí cấp nước và xữ lý chất thải sản xuất và chất thải sinh hoạt ở nông thôn để ngăn chặn ô nhiểm. 3.2 Về xã hội. Tiếp tục tăng cường hệ thống hạ tầng nông thôn, tập trung củng cố hệ thống tưới tiêu, tăng cường hệ thống đê sông, đê biển và công trình phòng chống thiên tai. Nâng cấp hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thông tin và các dịch vụ xã hội khác đáp ứng nhu cầu tiếp cận đến các dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội của người dân. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, trước hết tăng cường chất lượng hệ thống cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn kỹ thuật, kinh tế cho vùng nông thôn có đủ năng lực tiếp ứng cho tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế. Hổ trợ tốt hoạt động của người dân bằng các chính sách cho vay vốn, hổ trợ sản xuất và tăng cường khoa học công nghệ vào xản xuất góp phần nâng cao chất lượng đời sống của nông dân. 3.3 Về môi trường. Tăng cường biện pháp chống suy thoái đất, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững tài nguyên đất trên cơ sở áp dụng các mô hình canh tác hợp lý trên từng vùng, từng loại đất và từng loại địa hình. Rà soát quy hoạch lại ba loại rùng: phòng hộ, đặt dụng, sản xuất theo hướng phát triển bền vững. Nâng cao nhận thức đầy đủ về giá trị của rừng bao gồm lợi ích kinh tế, lợi ích sinh thái và các gí trị phi sử dụng khác. Bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên nước, có biện pháp khai thác và bảo vệ các nguồn nước một cách hợp lý tránh tình trạng thất thoát lảng phí củng như nguy cơ ô nhiểm và cạn kiệt nguồn nước. Tăng cường công tác nghiên cứu và thu thập bảo tồn nguồn gen giống cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp và các vật nuôi tại địa phương nhằm tăng tính đa dạng sinh học. tâp trung thay đổi chất lượng cây trồng, vật nuôi, áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến hạn chế sử dụng các hóa chất nông nghiệp, thuốc trừ sâu phòng bệnh trong sản phẩm nông nghiệp và trong môi trường đất, nước. Giải pháp phát triển bền vững ngành nông nghiệp ở Đà Nẵng. Áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến phù hợp Thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp đào tạo, bồi dưởng nâng cao trình độ của cán bộ kỹ thuật phục vụ nông nghiệp và người nông dân để họ có đủ khả năng nắm bắt, quản lý và thực hiện, áp dụng khoa học kỹ thuật vào thực tiển sản xuất. Thực hiện chính sách khuyến khích áp dụng khoa học kỹ thật vào sản xuât như: hổ trợ kinh phí mua thiết bị cơ giới hóa quy trình sản xuất, hổ trợ chuyển đổi sang các loại giống, cây trổng, vật nuôi mới có khã năng sinh lợi cao hơn và ít tác động đến môi trường hơn. Hiện tại ở Đà Nẵng đang có xu hướng chuyển biến tích cực về cây trồng vật nuôi như trồng dưa hấu hắc mỹ nhân, nuôi ếch, trồng rau mầm, trồng nấm... Nhưng vẩn còn tự phát, rời rạc và chưa có định hướng phát triển rỏ ràng và chưa định hình thương hiệu riêng cho loại hàng hóa mới này. Vì vậy cần có sự phối hợp của nông dân và cơ quan chức năng để đầu tư công nghệ khoa học kỹ thuật để phát triển các loại này thành những hàng hóa mới với quy mô lớn đáp ứng nhu cầu của thị trường thành phố Đà Nẵng nói riêng hướng tới thị trường miền trung Tây nguyên và đẩy mạnh hướng tới có thể xuất khẩu được ra thế giới. Công nghệ áp dụng phải phù hợp trong sản xuất chế biến và bảo quản sản phẩm. Công nghệ phải được hướng dẩn tận tình tới bà con nông dân để họ có thể áp dụng một cánh hiểu biết và thành thạo để đạt được hiệu quả cao nhất. Thành phố phải hướng tới xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao để hướng tới nắm bắt nhu cầu tương lai. Trên cơ sở đó Đà Nẵng phải phát triển được cây trồng vật nuôi có lợi thế của địa phương như rau an toàn, dưa hấu, cá nước ngọt, nuôi ếch, trồng các loại cây cảnh hoa cảnh... Tuy nhiên, để phát triển nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi vốn đầu tư lớn và lao động chất lượng cao mà hầu hết các nông nông dân ở thành phố chưa thể đáp ứng được vì vậy chính quyền thành phố cần có các chính sách đầu tư thích hợp, khuyến khích áp dụng công nghệ cao vào sản xuất. Xây dựng các cơ sở nghiên cứu, tuyển chọn áp dụng các loại giống mới, phát triển các phương tiện phục vụ sản xuất hiệu quả. Để phát triển nông nghiệp thì vấn đề cây giống, con giống đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Cán bộ phải kip thời theo giỏi phát thiện tình hình chuyển biến của nông nghiệp thành phố qua đó có các biện pháp giải quyết phù hợp Hướng dẩn áp dụng công nghệ sinh học, bảo quản, sơ chế nông sản nhằm nâng cao chất lượng nông sản trên thị trường. Ứng dụng giống cây trồng theo nguyên lý bền vững Đổi mới tư duy phát triển nông nghiệp Tạo nhận thức đúng của những người sản xuất hàng hoá ở nông thôn về sự cần thiết xây dựng nền nông nghiệp sạch và nông nghiệp hữu cơ. Sự cần thiết này bắt nguồn từ chính lợi ích của họ cũng như lợi ích của cộng đồng Phát triển nông nghiệp thành phố theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ. Sự phát triển nền nông nghiệp sạch và nông nghiệp hữu cơ phụ thuộc vào sự phát triển công tác nghiên cứu công nghệ sinh học và chuyển giao các kết quả nghiên cứu vào sản xuất. đến lượt mình, phát triển nghiên cứu công nghệ sinh học phải được định hướng ưu tiên vào phục vụ trực tiếp và có hiệu quả nhất việc phát triển nền nông nghiệp sạch và nền nông nghiệp hữu cơ trên cơ sở khai thác và hiện đại hoá những kinh nghiệm sản xuất truyền thống sẵn có ở từng vùng. Hiện nay, người nông dân chưa mặn mà với việc sử dụng phân hữu cơ, phân vi sinh trong canh tác, cũng như với những biện pháp sinh học bảo vệ mùa màng và dùng thảo dược trừ sâu bệnh. Nguyên nhân của tình trạng này là họ chưa thấy đầy đủ ý nghĩa của việc giữ công nghiệp môi trường trong lành và bảo vệ sức khoẻ. Mặt khác, các biện pháp hữu cơ truyền thống thường mang lại hiệu quả chậm hơn so với việc dùng các chế phẩm hoá học, nhiều khi lại phải bỏ ra chi phí lớn. Để mở rộng phát triển nền nông nghiệp hữu cơ cần chú trọng những vấn đề lớn sau đây: - Sản xuất và sử dụng rộng rãi các loại giống cây trồng và con vật nuôi có khả năng kháng bệnh và sâu rầy. Điều cho phép hạn chế đến mức tối đa việc sử dụng các thuốc thú y và thuốc trừ sâu bệnh có nguồn gốc từ các chế phẩm hoá học. - Áp dụng biện pháp canh tác phòng chống sâu bệnh và cỏ dại mang tính tích cực, như đốt rơm rạ ngay sau khi thu hoạch, làm ải, tưới tiêu nước theo khoa học, trừ cỏ dại và chỉ dùng các loại phân hữu cơ. - Sử dụng rộng rãi các chế phẩm sinh học, thảo dược để phòng chống sâu bệnh, kích thích sinh trưởng cây trồng, vật nuôi. Giảm đến mức tối đa việc sử dụng các chế phẩm hoá học, nếu dùng thì phải đúng lúc, đúng cách, đúng liều lượng. Tránh tình trạng làm nông nghiệp theo phong trào, theo lợi ích trước mắt. thực tế nông nghiệp của nước ta hiện nay là làm nông nghiệp theo phong trào, làm theo lợi ích trước mắt mà không có chiến lượt cụ thể cho tương lai vì vậy nhất thiết phải thay đổi được tư duy lạc hậu này mới mong có thể thay đổi diện mạo nền nông nghiệp thành phố một cách toàn diện. Muốn làm được như vậy thì cần có các hướng dẩn cụ thể cho người dân, định hướng cho họ vào một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa thật sự. Hướng tới mục tiêu lâu dài trong tương lai bằng cách phát triển nông nghiệp sạch, chất lượng cao phục vụ nhu cầu tại chổ và hướng tới đẩy mạnh xuất khẩu. phải nhận thức rỏ ràng nông nghiệp sạch và chất lượng cao là xu hướng không thể khác được của tương lai. Phát triển mạnh các mô hình mới có thể phát triển mạnh mẻ như mô hình vườn trong đô thị: Trồng cây cảnh, rau mầm, trồng nấm, nuôi các loại vật nuôi có giá trị cao. Đây là xu hướng rất phổ biến của các thành phố lớn trên thế giới hiện nay nó sẽ giải quyết phần nào nhu cầu về thực phẩm tại chổ của người dân và có thể tạo ra giá trị lớn nếu phát triển đúng cách. Hướng đến canh tác sinh học chú trọng đến bảo vệ môi trường tự nhiên giảm tối thiểu việc sử dụng hoá chất trừ sâu để bảo vệ cây trồng. Khái niệm canh tác sinh học và sinh thái được hiểu theo nghĩa rộng hơn, bao hàm các kỹ thuật và quy trình canh tác đặc biệt hơn đối với tính bền vững của hệ canh tác, chẳng hạn như canh tác hữu cơ, chức năng sinh học, chính thống và tự nhiên… sử dụng các chế phẩm sinh học để phục vụ sản xuất. Nông nghiệp canh tác chính xác tức là phải hiểu được chính xác đặc điểm của các loại đất, đặc điểm của các loại cây trồng vật nuôi từ đó có các biện pháp chăm sóc thích hợp nhất, tối ưu hoá đầu vào phù hợp từng vị trí. Đầu vào là phân bón, hạt giống, hoá chất trừ sâu bệnh chỉ nên sử dụng vào đúng thời điểm, đúng nhu cầu để có hiệu quả kinh tế cao nhất. tuy nhiên phương pháp này cần đầu tư cao về vốn và khoa học công nghệ vì vậy thành phố phải có biện pháp hổ trợ kịp thời và thích đáng. Mở rộng thị trường tiêu thụ. Hiện tại trong các sản phẩm nông nghiệp hầu như chỉ có sản phẩm thủy sản của thành phố là có thể phục vụ xuất khẩu được đến các thị trường như Nhật, Hàn Quốc, Nga... vì vậy phải có chủ trương sản xuất các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao, chất lượng cao thì mới có thể hướng tới xuất khẩu. Các sản phẩm nông nghiệp khác hầu như chỉ đáp ứng nhu cầu tại chổ cả thành phố vì sản lượng không lớn, chưa phải là sản xuất hàng hóa đúng nghĩa nên phải đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất, hướng thị trường tiêu thụ ra các địa phương lân cận ở miền trung và tây nguyên.. Xây dựng hệ thống thông tin kịp thời dự báo về các thị trường tiềm năng, và nhu cầu các loại nông sản có khả năng mang lại lợi ích kinh tế cao. Tạo điều kiện cho nông dân có thể tiếp cận, tham gia các chương trình dự án hợp tác nông nghiệp, các hội chợ hàng nông nghiệp, tạo điều kiện cho nông dân có thể trực tiếp giới thiệu sản phẩm của mình với người tiêu dùng Khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần tham gia vào hoạt động thương mại, cung cấp vật tư máy móc nông cụ phục vụ sản xuất củng như tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Khôi phục và đẩy mạnh hệ thống thương mại quốc doanh trên địa phương, đẩy mạnh hình thức tiêu thụ sản phẩm theo các hợp đồng kinh tế. xây dựng thị trường đúng nghĩa, mang tính cạnh tranh cao. Có các biện pháp can thiệp kịp thời trong các tình huống khẩn cấp nhằm bảo vệ lợi ích của người nông dân. Có các biện pháp ngăn chặn hiệu quả tình trạng tư thương ép giá, tránh tình trạng được mùa thì mất giá Kết hợp hiệu quả nông nghiệp với công nghiệp chế biến, du lịch dịch vụ. Đối với các sản phẩm nông nghiệp cân phải tăng cường xây dựng các cơ sở chế biến sâu để nâng cao giá trị của sản phẩm nhằm tăng chất lượng cạnh tranh trên thị trường. Phát triển công nghiệp chế biến tại các vùng nông nghiệp trọng điểm để tiêu thụ sản phẩm làm tăng giá trị hàng nông sản, đồng thời kéo dài thời gian bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Đẩy mạnh hoạt động sơ chế tại gia để cung cấp nguyên liệu sơ chế cho các công ty chế biến. Đầu tư phương tiện vận tải, các kho chứa để nhanh chóng giả quyết tình trạnh ứ đọng sản phẩm tại nơi sản xuất Phát triển các khu nuôi trồng nông nghiệp có khã năng thu hút sự tò mò của du khách qua đó đẩy mạnh khai thác du lịch. Ví như các trang trại nuôi trồng các sản phẩm quý hiếm như đà điểu, cá sấu...hay phát triển những mô hình trồng hoa quy mô lớn đa dạng có thể thu hút được người tham quan học hỏi kinh nghiệm... Nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền. Chính quyền địa phương cần nghiên cứu các giải pháp để quản lý hiệu quả nhất hoạt động sản xuất nông nghiệp của địa phương. Chính quyền cần có định hướng rỏ ràng về phát triển nông nghiệp trong tương lai, phải xác định được sản phẩm nông nghiệp chủ lực của mình, từ đó có các biện pháp cụ thể Kịp thời khuyến khích động viên khen thưởng các mô hình nông dân kinh doanh sản xuất giỏi để làm bài học kinh nghiệm cho mọi người. Tổ chức giúp các hộ nông dân định hướng sản xuất, tổ chức quản lý áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào kinh doanh. Khuyến khích phát triển các loại hình cơ quy mô lớn như kinh tế trang trại, hợp tác xã nông ngiệp, doanh nghiệp nông nghiệp... Đầu tư phát triển nền nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp hữu cơ. Hướng nền nông nghiệp thành phố đến nâng cao chất lượng giá trị sản phẩm bảo vệ môi trường, lợi ích của người sản xuất và của cả người tiêu dùng. Bằng cách đổi mới và hoàn thiện chính sách phát triển nông nghiệp, nâng cao vai trò pháp luật, củng như các chính sách hổ trợ nông nghiệp như chính sách đất đai, chính sách tín dụng, hổ trợ nông dân... Đẩy mạnh công tác khuyến nông hướng vào việc phát triển nền nông nghiệp sạch và nông nghiệp hữu cơ thông qua việc xây dựng và thực hiện các chương trình khuyến nông cụ thể thích ứng với từng vùng, từng địa phương. Tăng cường kiểm soát lưu thông trên các chế phẩm hoá học có tính chất độc hại. Xác định rõ trách nhiệm của người bán với người mua trong việc hướng dẫn sử dụng và bảo quản các loại chế phẩm hoá học đó. Nhà nước nghiên cứu và ban hành các chính sách hỗ trợ hợp lý cho nông dân trong phát triển nông nghiệp sạch và nông nghiệp hữu cơ, trong đó quan trọng hàng đầu là các biện pháp chuyển giao công nghệ sản xuất nông sản sạch theo yêu cầu thị trường tới những người trực tiếp sản xuất ở nông thôn. Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu công nghệ sinh học và định hướng nghiên cứu vào chủ đề hiện đại hoá các kỹ thuật canh tác truyền thống, kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực của kỹ thuật truyền thống. Đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triên nông nghiệp như hệ thống thủy lợi, đê phòng chống bảo, hệ thống đường xá, cơ sở chế biến bảo quản nông sản... Chú trọng vai trò dự báo thị trường, tìm kiếm thị trường mới cho sản phẩm nông sản nhằm định hướng phát triển nông nghiệp hợp lý. Quản lý thị trường cạnh tranh công bằng, giảm thiểu tình trạng ép giá. Sản xuất , tiêu thụ phân bón giả, phân bón kém chất lượng. Quản lý toàn diện môi trường phát triển nông nghiệp, phòng chống dịch bệnh, giảm tối đa ô nhiểm môi trường từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Một số kiến nghị để nông nghiệp Đà Nẵng phát triển bền vững. Thành phố cần quy hoạch xây dựng các khu sản xuất nông ngiệp tập trung và xa vùng trung tâm thành phố. Đẩy mạnh các ứng dụng công nghệ cao, hợp lý, tăng cường sử dụng các chế phẩm sinh học phát triển nông nghiệp hữu cơ. Để làm được điều này thì thành phố cần tạo điều kiện thu hút các nguồn vốn đầu tư vào lỉnh vực nông nghiệp, tăng cường đào tạo hướng dẩn khoa học kỹ thuật mới cho nông dân, lao động nông nghiệp. Khuyến khích đầu tư vào công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản để nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm. Đối với các lỉnh vực như khai thác lâm sản, thủy hải sản thì cần có các quy định cụ thể về những loài được khai thác, những loài cần phải được bảo vệ để duy trì đa dạng sinh học và nguồn lợi từ tự nhiên. Đối với các loài được khai thác phải quy định cụ thể về số lượng, độ tuổi, kích thước có thể khai thác... để làm được điều này thì cần phải có các quy định cụ thể được áp dụng đồng bộ và có các biện pháp thực hiện hiệu quả thông qua các chế tài cụ thể và có tính hiện thực cao. Một biện pháp rất cần được thực hiện là phải phân biệt được cơ sở nào đã thực hiện được quy trình phát triển bền vững và được chứng nhận của các cơ quan có thẩm quyền. Thực hiện dán nhản sinh thái với các sản phẩm được tạo ra qua quy trình phát triển bền vững, ví như: nhản rau sạch, cá sạch chất lượng cao, được nuôi trồng đánh bắt theo quy trình phát triển bền vững... tất nhiên các sản phẩm này phải có giá trị cao hơn so với các sản phẩm thông thường. Định hình thương hiệu đặt trung cho các sản phẩm sản xuất theo quy trình sản xuất bền vững. Cần có các quy định cụ thể về tiêu chuẩn môi trường đối với các cơ sở sản xuất, quy định về mức phát thải, điều kiện phát thải của các cơ sở sản xuất khi thải chất thải ra môi trường... Một biện pháp rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp ở các đô thị là phát triển các mô hình vườn trong đô thị với các loại cây trồng vật nuôi giá trị cao như: cây cảnh, hoa cảnh, rau mầm, các loại động vật giá trị cao... Tuy ở Đà Nẵng đã xuất hiện các mô hình này tuy vậy số lượng chưa nhiều và giá trị tạo ra củng chưa lớn vì vậy thành phố cần có các biện pháp cụ thể để khuyến khích phát triển. Nên hình thành một cơ quan chuyên trách về công tác dự báo thị trường nông sản với nguồn nhân lực chất lượng cao giúp dự báo chính xác về ngư trường tiềm năng cho ngư dân, nhu cầu của thị trường về các loại nông sản, lâm sản, thủy sản... để người dân có thể nắm đước những biến đổi của thị trường nông sản trong tương lai từ đó chính quyền thành phố sẽ có các chủ trương thích hợp để phát triển nông nghiệp trong tương lai. Kết luận. Sau quá trình phân tích và đánh giá về nông nghiệp của thành phố hiện nay có thể thấy nông nghiệp của thành phố đã đạt được một số thành tựu nhất định tuy vậy vẩn còn vấp phải không ít khó khăn và tồn tại kiềm hảm sự phát triển của nông nghiệp thành phố như tốc độ đô thị hóa quá nhanh dẩn đến thu hẹp diện tích đất cho nông nghiệp, tác động của thiên tai, lạm phát, cải tiến khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất còn chậm... Chất lượng sản phẩm nông nghiệp thành phố còn chưa cao, năng suất lao động thục tế vẩn còn thấp nếu so sánh với các địa phương khác, thương hiệu của sản phẩm thương hiệu của các sản phẩm chưa được đinh hình rỏ ràng trên thị trường, tác động môi trường của ngành còn nhiều diển biến phức tạp, chính sách quản lý và định hướng phát triển vủa chính quyền địa phương chưa đồng bộ... đã tác động đến sự phát triển của ngành và định hướng phát triển bền vững nông nghiệp của thành phố. Vì vậy trong tương lai, để có thể phát triển bền vững nông nghiệp của thành phố cần có được sự quan tâm ủng hộ và đồng lòng của chính quyền thành phố, người dân địa phương để nổ lực phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục khó khăn gặp phải để nâng cao giá trị, chất lượng nông nghiệp, phát triên bền vững nông nghiệp thành phố phù hợp với định hướng phát triển thành phố Đà Nẵng bền vững trong tương lai. Tài liệu tham khảo. Ngân hàng thế giới - Báo cáo phát triển thế giới 2008 – Tăng cường nông nghiệp cho phát triển. NXB Văn hóa – Thông tin. Giáo trình kinh tế phát triển Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng năm 2005, 2006, 2007 Sở Nông Nghiệp & PTNT TP Đà Nẵng - Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2008, phương hướng nhiệm vụ kế hoạch năm 2009 Chuyên đề nông nghiệp số 1- 2005 - Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giải pháp xoá đói nghèo và bảo vệ môi trường Hội nghị phát triển bền vững toàn quốc lần 2 - Bộ nông nghiệp và PTNT - Phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn bền vững. Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 Việt Nam). Lê Thạc Cán (12-2004), Phát triển nông thôn bền vững. Kỷ yếu Hội nghị phát triển bền vững lần thứ nhất. PGS.TS. TrẦn Đình Thiên - VIỆN KINH TẾ VIỆT NAM – Về chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Ở Việt Nam PGS.TS. Trần Quốc Khánh, Đại học KTQD - NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN NƯỚC TA VỚI  SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẨN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdetai kinh tê.doc
Tài liệu liên quan