Đề tài Phát triển sản xuất lúa và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam

Với điều kiện đất đai, khí hậu và tài nguyên con người như hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng để sản xuất trên 35 triệu tấn thóc và xuất khẩu 5triệu tấn gạo mỗi năm. Kể từ năm 2005 với những giải pháp đã trình bày, cùng với sự nỗ lực của chính phủ, nước ta có cơ sở thực tế để đảm bảo sản lượng trên 40 triệu tấn thóc và đạt gần 10triệu tấn gạo xuất khẩu mỗi năm. Hơn nữa, nhu cầu gạo thế giới trong thời gian tới vẫn tiếp tục mở rộng mà khả năng của các nước xuất khẩu khó mà đáp ứng kịp. Điều đó khẳng định rằng: xuất khẩu gạo vẫn mang lại những lợi thế cơ bản cho những nước xuất khẩu trên thương trường quốc tế. Như vậy, tính khả thi của xuất khẩu gạo Việt Nam được xác định với độ tin cậy cao. Phát triển sản xuất lúa và đẩy mạnh xuất khẩu gạo là một hướng đi đúng đắn. Việt Nam có thể tiếp tục duy trì vị trí là một quốc gia xuất khẩu lớn trên thế giới và còn có thể vươn cao hơn nữa trong tương lai.

doc29 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 913 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển sản xuất lúa và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch đất nông nghiệp cũng như tổng diện tích trồng cây lương thực: Ngành trồng trọt chiếm 4/5 diện tích đất canh tác trong khi đó lúa giữ vị trí độc tôn, là gần 85% diện tích lương thực. Như vậy bên cạnh sự thu hút về nguồn lực con người thì sự thu hút nguồn lực đất đai cũng lại khẳng định rõ vị trí của lúa gạo trong nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ thực tiễn đó. Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh vị trí của lúa gạo Việt Nam : Lúa gạo đóng vai trò quyết định vấn đề cung cấp lương thực cho cả nước và do đó chi phối sâu sắc sự phát triển kinh tế quốc dân. Từ đó, chính phủ đã đề ra các chính sách phát triển nông nghiệp nói chung và lúa gạo nói riêng, như: Chính sách đầu tư vật chất kỹ thuật thích đáng về thuỷ lợi, giống lúa, thâm canh quảng canh lúa qua từng thời kỳ. Lúa gạo đã được đưa vào1 trong 3 chương trình kinh tế lớn của quốc gia(như văn kiện đại hội Đảng toàn quốc tháng 12/86 đã nêu). Nhờ đó, từ năm 1989 đến nay kim ngạch xuất khẩu gạo đã không ngừng tăng, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn, góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, nhân dân phấn khởi xã hội ổn định. 2. Nhu cầu gạo của thị trường thế giới 2.1 Mức tiêu thụ gạo của thế giới Mức tiêu thụ gạo của toàn cầu hiện nay luôn luôn phụ thuộc sâu sắc vào tình hình canh tác và khả năng cung cấp của các nước sản xuất lúa gạo, trong đó các nước đang phát triển chiếm khoảng 96% tổng sản lượng lúa gạo thế giới. Trong 10 năm qua (1990-1999) mức tiêu thụ gạo của thế giới, theo thống kê của FAO từ 350 triệu tấn gạo lên 393 triệu tấn tăng 8% trong khi đó mức tăng dân số trong 10 năm là 12%. Theo ý kiến của các nhà chuyên môn, để đảm bảo tình hình tiêu thụ ổn định, mức tăng sản xuất hàng năm phải từ 1,5 đến 2 lần mức tăng dân số. Như vậy mức tiêu thụ gạo của thế giới tăng quá chậm chạp do bị khống chế bởi khả năng sản xuất. Xét theo từng châu lục, theo ước tính của FAO mức tiêu thụ gạo theo từng khu vực cụ thể như sau: Bảng 1: Tình hình tiêu thụ gạo theo các khu vực trong năm 1999 (triệu tấn) Khu vực Sản lượng gạo Mức tiêu thụ gạo Tỷ lệ về tiêu thụ (%) - Toàn cầu 393,0 393,0 100,00 - Châu á 357,5 355,5 90,46 - Châu Mỹ 21,6 18,8 4,59 - Châu Phi 9,3 13,8 3,81 - Châu Âu 3,9 4,5 1,13 - Châu Đại Dương 0,7 0,4 0,01 Nguồn: Thống kê FAO năm 1999 Điểm bao trùm nhất là lượng tiêu thụ gạo tập trung tại Châu á chiếm trên 90% tổng lượng tiêu thụ toàn cầu (về sản xuất, khu vực này chiếm 91,5% tổng sản lượng lúa gạo thế giới). Đây là khu vực sản xuất đồng thời cũng là khu vực tiêu thụ hầu hết lúa gạo thế giới. Tất cả các châu lục khác: Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Âu và Châu Đại Dương xem như không đáng kể. Do vậy khu vực Châu á thực sự là thị trường mục tiêu rộng lớn của lúa gạo thế giới. 2.2 Tình hình nhập khẩu gạo của thế giới từ năm 1990 đến nay. Trong 10 năm qua, nhập khẩu gạo của thế giới có xu hướng tăng đáng kể từ 14,8 triệu tấn năm 1990 lên 25,7 triệu tấn năm 1999 mức tăng đạt 65%. Tuy vậy nhập khẩu gạo vẫn phụ thuộc chặt chẽ vào tình hình xuất khẩu cho nên phát triển hàng năm chưa được ổn định. Nhưng trong những năm gần đây nhập khẩu gạo có xu hướng tăng rõ rệt. Trung bình từ năm 1993 đến nay, nhập khẩu gạo của các nước đang phát triển đạt tỷ trọng trên 80% và lương nhập còn lại thuộc các nước phát triển với gần 20%. Nhìn chung, Châu á vẫn là khu vực nhập khẩu gạo lớn nhất chiếm 53% tổng nhập khẩu toàn cầu tiếp đến Châu Phi : 21% năm. Những nước nhập khẩu gạo lớn nhất trên thế giới là : Indonexia, Trung Quốc, Iran và Bangladesh... 2.3 Thị trường gạo của thế giới trong tương lai Có thể đánh giá thị trường gạo thế giới trong tương lai từ tổng thể đến bộ phận như sau: * Sản xuất lúa gạo toàn thế giới (tổng cung): Nhìn tổng quát 10 năm qua, sản xuất lúa gạo thế giới vẫn tăng khả quan từ 518 triệu tấn thóc năm 1990 lên 564 triệu tấn năm 1999, mức tăng trung bình 1,5%/năm. Trong tương lai gần tới 2005, sản lượng lúa gạo thế giới phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết đó là khả năng thực tế về sản xuất ở các nước đang phát triển Châu á. Mà khả năng đó có liên quan chặt chẽ với các chính sách phát triển sản xuất lúa gạo ở các nước naỳ. Từ nay đến năm 2005, căn cứ vào thực lực sản xuất ở các nước, sản lượng lúa gạo toàn cầu vẫn tăng rõ nét bình quân mức tăng trưởng sẽ vẫn là 1,5%/năm. Nếu không có biến động thiên tai lớn, sản xuất lúa gạo có thể đạt mức tăng trưởng cao hơn từ 1,6-2%/năm. Tiêu thụ gạo của toàn thế giới (tổng cầu): Liên hợp quốc đánh giá, số dân tăng thêm hàng năm trên thế giới duy trì ở mức cao, trung bình hàng năm khoảng 87 triệu người. Do dân số phát triển và nhu cầu lương thực tăng nhanh, nạn đói và tình trạng suy dinh dưỡng sẽ vẫn là sự thách đố đối với những nước đang phát triển nhiều như sản lượng lương thực lúa gạo tăng bình quân năm chỉ ở mức 1,5%. Trong khi đó lượng lương thực cần thiết để đáp ứng nhu cầu của con người lại tăng từ 2 đến 2,5%/năm . Nhu cầu nhập khẩu gạo: Với tình hình tiêu thụ gạo trên thế giới trong tương lai ngày càng cao thì nhu cầu nhập khẩu gạo cũng sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao là điều tất yếu. Trong những năm gần đây, trên thực tế, nhu cầu nhập khẩu gạo thường xuyên vượt khả năng đáp ứng của các nước xuất khẩu. Liệu với nhu cầu nhập khẩu gạo như vậy thì các nước xuất khẩu có nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu? * Khả năng xuất khẩu : Từ mức thấp 11,4 triệu tấn năm 1990 xuất khẩu gạo thế giới vẫn tăng đều và nhanh trong những năm qua. Trong 5 năm tới (2001-2005) xuất khẩu gạo thế giới vẫn có xu hướng tăng song tốc độ vẫn chậm chạp do khả năng canh tác của các nước xuất khẩu Châu á vốn dễ bị hạn chế nhưng lại là những nước đông dân như Trung Quốc, ấn Độ v.v... Như vậy khả năng xuất khẩu cho đến năm 2005 vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu nhập khẩu lớn. 3. Sự cần thiết phải xuất khẩu gạo của Việt Nam 3.1 Lợi thế của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gạo 3.1.1Điều kiện đất đai Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu của canh tác lúa gạo vì toàn bộ sản xuất thóc thu được trong quá trình sản xuất đều phải thông qua đất. Độ phì nhiêu của đất chi phối sâu sắc khả năng thâm canh và giá thành sản phẩm.Tổng diện tích tự nhiên cả nước có trên 33,1 triệu ha, trong đó đất dành để trồng lúa khoảng 4,3 triệu ha, choiếm trên 13% diện tích cả nước.Bình quân đất theo đầu người của nước ta tuy thấp nhưng quĩ đất có khả năng trồng lúa lại chiếm tỉ lệ cao trong đất có khả năng nông nghiệp. Theo khảo sát của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đất có khả năng nông nghiệp nước ta có trên 10 triệu, đất có khả năng trồng lúa có 8,5 triệu ha. Như vậy tài nguyên đất đai của nước ta có lợi thế đồng thời cho cả hướng thâm canh và quảng canh nhằm tăng nhanh sản lượng lúa. 3.1.2 Khí hậu Tài nguyên khí hậu đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, cung cấp nguồn năng lượng và các yếu tố khá như độ ẩm và gió mưa. Khí hậu nước có điều kiện sinh thái lý tưởng đối với cây lúa do có sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố trên. Nghiên cứu các yếu tố thuộc điều kiện sinh thái cho thấy rõ thêm, không phải vô cớ mà cây lúa là cây bản địa của Việt Nam với lịch sử nhiều ngàn năm của nghề trồng lúa. Đặc biệt ở hai châu thổ, cần có chế độ thâm canh và luân canh tối ưu để khai thác triệt để những lợi thế lí tưởng này. 3.1.3 Nước tưới tiêu: Tài nguyên nước rất dồi dào là một trong những lợi thế nổi bật của nghề trồng lúa ở Việt Nam.Số ngày mưa lí tưởng 120-140 ngày trong một năm ở hai đồng bằng lớn không chỉ cung cấp cho lúa nguồn nước trời quí giá mà còn đồng thời bồi bổ cho lúa nguồn phân đạm thiên nhiên dễ hấp thụ nhất mà nước và đạm nhân tạo không thể so sánh được. Cùng với nước mưa trời, dòng chảy mặt còn sản sinh trên lãnh thổ nước ta khoảng 300 tỉ m3 nước.Ngoài ra, hệ thống thuỷ lợi nước ta, với 10% ngân sách Nhà nước đầu tư hành năm đã đạt được thành quả bước đầu đáng mừng. Có thể nói, nước, nguồn tài sản thiên nhiên vốn quí giá cộng thêm sự chú trọng phát thuỷ lợi hơn nữa của Nhà nước trong thời gian qua, là yếu tố rất cơ bản thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo tăng mạnh trong những năm gần đây 3.1.4 Nhân lực Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế lớn về số lượng nhân lực mà còn có ưu thế lớn về chất lượng, về sự tinh thông, am hiểu nghề trồng lúa. Vốn và nghề cổ xưa nhất và phổ cập nhất từ thuở cộng đồng nguyên thuỷ người Việt cho đến khi ra đời nước Văn Lang và tới nay, lịch sử sản xuất lúa Việt Nam đã trải qua hơn 6.000 năm. đã được các thế hệ đúc rút và để lại nhiều tri thức và kinh nghiệm.Kho tàng kinh nghiệm đó thực sự là một lợi thế đặc biệt, nó cho phép khai thác triệt để những lợi thế thông thường của các tài sản thiên nhiên như tài sản đất, tài sản nước, tài sản khí hậu. 3.1.5 Địa lý và cảng khẩu Hầu hết khối lượng gạo trong buôn bán quốc tế bấy lâu thường được vận chuyển bằng đường biển.So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đưòng sắt, đường hàng không, vận tải biển quốc tế thường đảm bảo tiện lợi, thông dụng vì có mức cứơc phí rẻ hơn.Do vậy riêng phương thức này đã chiếm khoảng trên 80% buôn bán quốc tế.Việt Nam có vị trí giao thông biển rất thuận lợi. Hệ thống cảng biển Việt Nam nói chung đều nằm gần sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các tuyến đi Đông Bắc á, Đông Nam á, Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, Châu Âu,Châu Mỹ...Từ cảng Sài Gòn đến đường hàng hải quốc tế thường chỉ hết 3 giờ hành trình với 40 hải lý. Từ cảng Sài Gòn, nếu xuất khẩu gạo đi Singapore thường hết 2 ngày hành trình,Nhật: 6ngày, Indonesia: 3 ngày, Hàn Quốc: 5ngày,HồngKông:1 ngày,Pháp:25ngày,HàLan:34 ngày,Anh:35 ngày,Mĩ (losAngeles):25 ngày. Nói chung Việt Nam có khá nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu gạo 3.2Sự cần thiết phải xuất khẩu gạo đối với Việt Nam Bên cạnh những lợi thế về đất đai, khí hậu, vị trí địa lý và con người như là một tiềm năng trong sản xuất và phát triển sản xuất lúa gạo để xuất khẩu. Thì sự cần thiết phải xuất khẩu gạo đối với Việt Nam có thể qui tụ vào những lẽ cơ bản sau đây: 3.2.1 Tích luỹ vốn cho sự nghiệp đổi mới đất nước Mục tiêu chủ yếu của sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu nói chung là đòi hỏi cấp bách nhằm tăng ngoại tệ, giải quyết vốn cho công nghiệp hoá. Trước tình hình đó lúa gạo đã đột phá vươn lên để giữ vị trí mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 2 nước ta, sau dầu thô. Trong suốt 12 năm qua riêng kim ngạch xuất khẩu gạo đã đạt trên 7 tỷ USD... Con số đó đã nói rõ sự cần thiết của việc xuất khẩu gạo đối với công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước. 3.2.2 Cải thiện đời sống Đối với mỗi quốc gia, việc phát triển nguồn nhân lực là nội dung lớn thuộc chiến lược con người để thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế xã hội của đất nước. Dân số nước ta với 80% dân số tập trung ở nông thôn, phần lớn sinh sống bằng sản xuất lúa gạo và trồng cây lương thực. Trong khi đó đời sống ở nông thôn và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của người nông thôn còn thấp, xét cả về mức thu nhập bình quân đầu người, điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng .v.v... Với tình trạng đó thì việc phát triển sản xuất lúa gạo và xuất khẩu gạo để nâng cao thu nhập cho nông dân góp phần xây dựng nông thôn ngày một giàu mạnh là điều thật sự cần thiết. 3.2.3 Phát huy lợi thế trong nước Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam có những lợi thế cơ bản như lợi thế về đất đai về khí hậu, nước tưới tiêu, nguồn nhân lực, vị trí địa lý và cảng khẩu. Một chiến lược đúng đắn nhất phải là chiến lược khai thác được nhiều lợi thế nhất. Chính những lợi thế đó, từ điều kiện nhân lực đến điều kiện thiên nhiên đã làm cho sản lượng lúa tăng đều đặn trong những năm qua. Do đó, chúng ta thấy rõ hơn sự cần thiết phải xuất khẩu gạo cũng như tính đúng đắn của định hướng xuất khẩu gạo. cầu gạo thế giới vẫn diễn ra theo chiều hướng có lợi cho nhà xuất khẩu. Do vậy, định hướng xuất khẩu gạo đối với Việt Nam là điều đúng đắn. Chương II Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian qua 1. Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến nay 1.1 Tình hình sản xuất lúa gạo Bảng thống kê dưới đây sẽ chỉ ra những nét tổng thể về sản xuất lúa. Bảng 2: Tình hình sản xuất lúa nói chung của cả nước từ 1989-2000 Năm Sản lượng (ngàn tấn) Diện tích (ngàn ha) Năng suất (tạ/ha) 1989 18996 5895 32,3 1990 19225 6043 31,9 1991 19622 6303 31,1 1992 21590 6475 33,3 1993 22837 6559 34,8 1994 23528 6599 35,7 1995 24964 6766 36,9 1996 26397 7004 37,7 1997 24524 7100 38,8 1998 29146 7363 39,6 1999 31394 7648 41,0 2000 35670 7890 42,5 Nguồn : Niên giám thống kê 1999 Từ những số liệu nêu trên chúng ta thấy tình hình sản xuất lúa nước ta mở ra cục diện khả quan rõ rệt về sản lượng năng suất và diện tích, năm sau nối tiếp nhau cao hơn năm trước. - Trước hết là về sản lượng, từ 1989-2000 xu hướng tăng nhanh hơn và ổn định hơn. Trong động thái phát triển chung đó, tốc độ tăng trưởng kể từ năm 1992 càng nhanh chóng và vững chắc hơn. Năm 1992 sản lượng lúa tăng 10% so với năm trước và tiếp tục tăng trong năm năm tiếp theo. Đặc biệt là năm 2000 sản lượng lúa lại tiếp tục tăng gần 14% so với năm trước. - Về diện tích, xu hướng tăng cũng diễn ra liên tục và đều đặn qua 12 năm. Điều khác biệt so với trước đây là ở giai đoạn này từ 1989-2000 xu hướng tăng của diện tích cũng nhanh hơn so với năng suất. Đồ thị 1. Xu hướng biến động về sản lượng và diện tích (Xem phụ lục) - Về năng suất, xu hướng tăng từ 1989-2000 có thấp hơn một chút so với diện tích, năm 1990-1991 do thiên tai nên năng suất đã giảm ằ 4%. Tuy nhiên xu hướng tăng chung của cả giai đoạn từ 1989-2000 vẫn đạt 29%. Năng suất tăng ở mức cao nhất vào năm 2000 là 13,5%, bình quân tăng 3,6%/năm. Đồ thị 2. Xu hướng biến động về sản lượng và năng suất (xem phụ lục) Do đổi mới cơ chế khoán 10 trong nông nghiệp, sản lượng, diện tích năng suất lúa cả nước đã tăng 1 cách nhanh chóng kể từ năm 1989 đến nay. Và còn có thể tăng mạnh hơn nữa trong tương lai. Lúa gạo đang dần tiến tới vị trí chủ đạo đối với lương thực cũng như đối với nền kinh tế nước ta. 1.2 Tình hình xuất khẩu : 1.2.1 Số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Do sản xuất tăng nhanh và ổn định, mức lương thực bình quân nói chung và lúa gạo nói riêng liên tiếp được cải thiện, Việt Nam không những đã tự túc được lương thực trong nước mà còn dư thừa lương thực để xuất khẩu. Ngày nay Việt Nam xuất hiện trên thị trường thế giới với vị trí là nước xuất khẩu gạo thứ 2 sau Thái Lan. Trong những năm gần đây sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam có chiều hướng gia tăng nhanh hơn. Bảng 3. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 1989-2000 Năm Số lượng (triệutấn) Kim ngạch (triệu USD) Số lượng % thay đổi Kim ngạch % thay đổi 1989 1,425 - 321,811 - 1990 1,624 13,95 310,403 -3,35 1991 1,033 -36,39 234,491 -22,46 1992 1,946 88,38 418,400 78,43 1993 1,728 11,21 362,900 -13,26 1994 2,040 18,05 449,500 23,86 1995 2,052 0,57 539,800 20,08 1996 3,047 48,48 868,200 60,82 1997 3,600 18,14 864,700 -0,05 1998 3,750 4,16 1.024,000 18,84 1999 4,550 21,4 1.035,000 10,5 2000 4,780 5,1 1.040,000 5,0 Nguồn: Niên giám thống kê & Bộ Thương mại Kể từ năm 1989 đến nay lượng gạo xuất khẩu tăng bình quân 17%/năm. Mặc dầu có một vài năm kim ngạch xuất khẩu giảm nhưng phần lớn không phải do sự suy giảm số lượng gạo xuất khẩu mà do giá gạo trên thị trường thế giới giảm. Có thể nói xuất khẩu gạo trong những năm qua có những bước phát triển mạnh mẽ. Đến năm 2000 nước ta đã xuất khẩu 4,7 triệu tấn gạo, kim ngạch đã đạt trên 1tỷ USD. Trong vòng 12 năm qua (1989-2000) Việt Nam đã xuất khẩu gần 30 triệu tấn gạo với kim ngạch đạt trên 7 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu gạo đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp nói riêng cũng như tăng trưởng kinh tế quốc dân nói chung trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. 1.2.2. Chất lượng, chủng loại gạo xuất khẩu Chất lượng gạo xuất khẩu gồm nhiều tiêu thức như hình dáng, kích cỡ, mùi vị, tỉ lệ thóc, tạp chất nhưng trong đó, tỉ lệ tấm đóng vai trò quan trọng thường được quan tâm tới. Bảng dưới đây phản ánh chất lượng gạo theo tỉ lệ tấm của một số cấp loại gạo điển hình của Việt Nam. Bảng 4. Chất lượng gạo Việt Nam qua các năm Cấp loại gạo (% tấm) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 5% 3,3 6,0 18,5 25,7 42,3 30,6 42,4 48,5 51,2 50,7 52,4 15% 13,1 30,0 20,8 25,6 23,6 22,3 25,5 28,3 30,1 32,5 33,5 35% 16,0 19,0 23,0 9,2 9,9 4,4 4,0 3,8 3,5 3,4 3,2 Nguồn : Vụ XNK Bộ Thương mại Xét về tỷ lệ tấm, chất lượng gạo Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt, cấp loại gạo 5% tấm tăng từ 3,3% lên trên 52% trong tổng lượng gạo xuất khẩu. Cấp gạo chất lượng cao tỉ lệ tấm thấp hiện nay chiếm từ 55-60% tổng lượng gạo xuất khẩu. Còn gạo chất lượng thấp có tỉ lệ tấm cao đã giảm từ 92% nay chỉ còn chiếm 5% tổng lượng gạo xuất khẩu. Về chủng loại, gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là gạo tẻ thường hạt dài. Trong khi đó gạo đặc sản truyền thống vẫn chưa được chú trọng phát triển. Hiện nay ta mới chỉ đang xuất khẩu một số gạo Tám thơm, Nàng Hương, chợ Đào với một số lượng nhỏ và không đều đặn qua hàng năm. Đẩy mạnh việc xuất khẩu gạo đặc sản sẽ đem lại sự tăng kim ngạch xuất khẩu một cách đáng kể vì nhu cầu gạo đặc sản rất lớn trong tương lai. 1.2.3 Thị trường và giá cả Thái Lan và Mỹ là những nước xuất khẩu gạo truyền thống từ nhiều thập kỷ nay. Do vậy họ đã thiết lập được mối quan hệ lâu dài và ổn định về thị trường và khách hàng tiêu thụ bằng một hệ thống chính sách cụ thể đối với từng khu vực và từng nước tiêu thụ gạo của mình. Việt Nam chỉ thực sự là nước xuất khẩu gạo lớn từ năm 1989. Từ thực tế đó, việc thâm nhập và mở rộng thị trường của Việt Nam trong những năm đầu đã gặp không ít gian nan vì thường phải đụng đến những khu vực thị trường quen thuộc của các nước xuất khẩu truyền thống, đặc biệt của Thái Lan. Sau những khó khăn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường qua những năm đầu tiến hành xuất khẩu gạo. Hiện nay gạo Việt Nam đã có thị trường xuất khẩu trên 80 quốc gia ở khắp các châu lục. Nhưng nói chung tỷ trọng xuất khẩu của gạo Việt Nam vào thị trường Châu á còn rất ít, nhất là Trung Đông, phương thức xuất khẩu phần lớn phải qua trung gian môi giới. Do vậy Việt Nam vừa chưa xây dựng được hệ thống bạn hàng tin cậy vừa giảm thu nhập xuất khẩu cho khoản hoa hồng môi giới. - Về giá cả, do có sự nâng cao về chất lượng nên khoảng cách chênh lệch giữa giá gạo Việt Nam và quốc tế ngày càng thu hẹp lại. Bảng 5: Giá gạo Việt Nam so với giá gạo quốc tế Năm (1) Giá quốc tế FOB Bangkok 5% tấm (2) Giá xuất khẩu của Việt Nam qui theo giá 5% tấm (3) Chênh lệch giá giữa (2) và (3) 1990 287 224 63 1991 290 234 56 1992 280 233 47 1993 270 232 38 1994 292 262 30 1995 328 319 19 1996 315 284 31 1997 273 244 29 1998 315 300 15 1999 248 203 45 2000 250 200 50 Nguồn : Bộ Thương mại Một trong những nguyên nhân chính của sự chênh lệch giá, điển hình là giữa gạo Việt Nam và gạo Thái Lan (quốc gia xuất khẩu gạo số 1 thế giới) là do yếu tố chất lượng. Tuy chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện nay có tỉ lệ tấm tương đương với gạo Thái Lan nhưng điều đó không có nghĩa đã bằng gạo Thái về nhiều tiêu thức tổng hợp. Chất lượng vẫn là yếu tố cạnh tranh số 1, đòi hỏi chúng ta cần phấn đấu hơn nữa. Năm 1999-2000, giá gạo Việt Nam có xu hướng giảm mạnh cùng sự giảm giá gạo của thị trường thế giới do nhu cầu nhập khẩu gạo ở các nước nhập khẩu lớn tại Châu á như Indonexia, Philippin, Bangladesh giảm. Do vậy Việt Nam cần phải mở rộng thị trường xuất khẩu gạo sang những thị trường mới chưa được chú trọng nhiều trước đây như Châu Phi ... để đẩy mạnh xuất khẩu gạo, hạn chế tối đa lượng gạo tồn kho. Đồng thời tự nâng cao chất lượng gạo Việt Nam để nâng cao sức cạnh tranh với gạo Thái Lan trên thị trường có sức mua cao và khó tính như Nhật Bản, EU v.v 1.2.4. Tổ chức kênh phân phối trong nước và đầu mối xuất khẩu Hiện này, tư nhân đang đóng vai trò lớn trong lưu thông phân phối gạo xuất khẩu.Khoảng 90% gạo xay xát xuất khẩu do tư nhân thực hiện, các đơn vị xuất khẩu thuộc Nhà nước chỉ đảm nhiệm phần ít ỏi còn lại.Nguyên nhân chính của tình hình này là do vốn hạn chế, thứ đến là do bộ máy quản lý, điều hành thiếu năng động trong các đơn vị kinh doanh lương thực thuộc Nhà nước.Phần lớn lúa gạo mua bán và xay xát do tư thương thực hiện, một mặt thúc đẩy tích cực cho xuất khẩu xong mặt khác cũng dẫn đến tình trạng ép giá bán của nông dân, khó thực hiện được chủ trương của Nhà nước trong việc duy trì mức giá đảm bảo cho nông dân mức lợi nhuận 25-40% để khuyến khích người xản xuất.Bên cạnh đó, do rất nhiều cơ sở xay xát nhỏ và phân tán của tư nhân đảm nhiệm đã làm cho tiêu chuẩn chất lượng thống nhất và đồng đều của gạo xuất khẩu cũng bị hạn chế không nhỏ.Tong khi đó, các cơ sở xay xát lớn của quốc doanh chưa được khai thác triệt để, nhất là những nhà máy có công xuất lớn và công nghệ hiện đại như nhà máy xay xát Satake Sài gòn công xuất 600 tấn/ngày, nhà máy xay Cửu long công xuất 240 tấn /ngày với trang thiết bị đồng bộ các công đoạn xát, sàng, xoa, hồ tẩy, đánh bóng, đóng gói để phục vụ xuất khẩu. Kho chứa là một yếu tố quan trọng trong hệ thống kênh phân phối vận chuyển và bảo quản gạo xuất khẩu.Hiện nay tổng kho chứa lương thực chung cả nước là 2.8 triệu tấn do quốc doanh lương thực quản lý, trong đó trên 50% là kho kiên cố.Hiệu suất sử dụng kho rất thấp, thường chỉ đạt khoảng 30% tổng dung tích kho.Tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn phải tính khấu hao vào giá thành nên làm giảm hiệu quả kinh doanh.Trên thực tế, cụm kho phục vụ xuất khẩu lại có những nhược điểm đáng kể.Các tư nhân tuy đảm nhiệm tới 90% gạo xay xát xuất khẩu nhưng hoặc sử dụng kho nhỏ gia đình hoặc thuê của quốc doanh.Do vị trí kho được tính toán, bố trí từ thời bao cấp theo phương án tự sản tự tiêu nên nhiều kho không thích hợp với cơ chế thị trường đẩy mạnh xuất khẩu hiện nay.Có những kho giờ hóa thường thừa hoặc không sử dụng hết nhưng ở những địa bàn trọng điểm, nhất là cảng khẩu thì lại thiếu kho, trước hết là những kho hiện đại đạt tiêu chuẩn kỹ thuật để bảo quản gạo xuất khẩu. Đầu mối xuất khẩu gạo trong nhiều năm qua là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của Nhà nước cũng như của nhiều chuyên gia và của nhiều doanh nghiệp.Hàng loạt doanh nghiệp Nhà nước tìm mọi cách để được phép tham gia xuất khẩu gạo.Do những hoạt động tranh mua tranh bán của các doanh nghiệp này, thương nhân nước ngoài đã lợi dụng tình hình đó kìm giá, ép giá gây tổn hại cho lợi ích quốc gia trong xuất khẩu gạo.Để khắc phục tình trạng cạnh tranh tự phát này, Bộ Thương mại đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và nắm vững biến động cung cầu, giá cả của thị trường gạo quốc tế để quản lý chỉ đạo giá xuất khẩu trong nước, hướng dẫn các doanh nghiệp đầu mối không xuất khẩu dưới mức giá qui định.Tuy nhiên để xuất khẩu gạo có hiệu quả hơn cần có sự quan tâm chỉ đạo sát sao hơn nữa của Nhà nước và các cấp ban ngành có liên quan . 2. Những vấn đề đặt ra đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam 2.1Về sản xuất Mặc dù đã đạt được một số kết quả khả quan trong sản xuất nhưng vẫn nổi lên một số vấn đề quan trọng cần giải quyết: - Một là tình hình tổn thất sau thu hoạch. Hiện nay toàn bộ hệ thống sau thu hoạch lúa ở Việt Nam chưa được tổ chức hợp lý và đồng bộ. Các khâu như gặt, đập, phơi, phân loại, vận chuyển, bảo quản xay xát, chế biến... đã và đang được thực hiện thiếu nề nếp với một trình độ yếu kém và lạc hậu chủ yếu là bằng phương pháp thủ công. Đặc biệt là ở khâu bảo quản, Việt Nam còn thiếu kho bãi, chất lượng bảo quản ở các kho còn thấp. Do vậy dẫn đến tình trạng thất thoát và tổn thất đáng kể về số lượng và chất lượng lúa gạo sau thu hoạch. Thực tế đó cho thấy việc giải quyết công nghệ sau thu hoạch đang là vấn đề bức xúc nhằm nâng cao giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cho sản phẩm. - Hai là vấn đề phát triển lúa đặc sản. Hiện nay việc thực hiện mục tiêu chiến lược đối với lúa gạo đại trà đang theo chiều hướng khả quan. Ngược lại đối với mục tiêu lúa gạo đặc sản, chúng ta đang đứng trước những thử thách đáng kể.Mặc dù nhu cầu gạo đặc sản của thế giới có hướng mở rộng và giá gạo đặc sản quý có thể gấp 2 đến 3 lần giá gạo đại trà. Trong sản xuất, năng suất lúa gạo đặc sản thấp, thường chỉ bằng 55-60% năng suất lúa đại trà .Điều quan trọng hàng đầu là chất lượng gạo đặc sản như: chợ Đào, nàng Hương, đặc biệt là tám thơm về hương thơm bị giảm sút nhiều so với chất lượng truyền thống trước đây, điều dễ làm cho người tiêu dùng nước ngoài thất vọng. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do việc tuyển chọn giống không được đảm bảo, bản thân thóc giống bị lẫn do pha trộn. Trên thực tế, gạo đặc sản truyền thống của ta từ xưa đã nổi tiếng về chất lượng như hương thơm, độ dẻo mà gạo đặc sản Mali, Basmati của Thái Lan, ấn Độ, Pakistan không thể đạt được. Vậy mà đến nay, vì suốt một thời gian dài không được chú trọng, gạo đặc sản truyền thống Việt Nam không đảm bảo được tiêu chuẩn chất lượng quí giá ấy. Do đó, điều quan tâm trước hết hiện nay trong việc phát triển sản xuất gạo đặc sản chính là việc tuyển chọn giống và đổi mới công nghệ chế biến. Như vậy gạo đặc sản truyền thống Việt Nam mới có thể mạnh hơn hẳn để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường thế giới. 2.2 Về thị trường - Trước hết, ở thị trường trong nước. Do mạng lưới tư thương đóng vai trò không nhỏ trong hoạt động thu mua, thúc đẩy việc lưu thông lúa gạo phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu nên đã nảy sinh những biêủ hiện tiêu cực không nhỏ. Vì lợi nhuận, hoạt động của các tư thương thường diễn ra tình trạng cạnh tranh mua và cạnh tranh bán, đầu cơ thao túng thị trường giá cả. Trong khi đó nông dân cần đầu ra tin cậy để đảm bảo tiêu thụ ổn định sản phẩm với mức giá thoả đáng cho quyền lợi của mình. Như vậy việc đảm bảo trật tự trong toàn bộ hệ thống lưu thông lúa gạo vẫn đang là một đòi hỏi khách quan của thị trường nội địa. - Thứ hai, ở khâu xuất khẩu, chúng ta vẫn chưa thiết lập được hệ thống thị trường thực sự ổn định với mạng lưới khách hàng thực sự tin cậy. Cho đến nay, phương thức xuất khẩu qua trung gian vẫn còn chiếm tỷ trọng khá lớn, mặc dù chúng ta có nhiều cố gắng để tăng cường xuất khẩu trực tiếp. Đặc biệt việc xuất khẩu thông qua trung gian vào các nước Châu Phi vẫn còn diễn ra khá phổ biến. Tình hình ấy đòi hỏi chúng ta cần phải có những hiệp định lớn buôn bán gạo dài hạn cấp Nhà nước để mở ra các hợp đồng xuất khẩu gạo ổn định. - Thứ ba, việc nghiên cứu thị trường gạo thế giới cần phải được tăng cường hơn nữa để nắm bắt kịp thời những thông tin cập nhật, chính xác nhằm đảm bảo hiệu quả hơn nữa cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Nhiều năm qua, các nguồn tài liệu về thị trường gạo thế giới phục vụ hoạt động kinh doanh, quản lý và nghiên cứu nhìn chung còn ít ỏi. Trong khi đó hoạt động xuất khẩu đòi hỏi phải có những thông tin sâu rộng về thị trường để theo dõi kịp thời và hệ thống các diễn biến cung cầu về giá cả. Do nghiên cứu thị trường bị hạn chế, chưa có được những thông tin cần và đủ cho nên chưa chớp được nhanh và chưa ứng xử kịp những diễn biến của thị trường. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thị trường thế giới. 2.3 Về tổ chức Một trong những nội dung nổi bật hiện nay vẫn là hệ thống lưu thông phân phối lúa gạo đảm bảo tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trong những năm gần đây Nhà nước đã cố gắng tổ chức và sắp đặt lại hệ thống lưu thông phân phối, qui tụ các đầu mối xuất khẩu. Nhà nước chủ trương tự do hoá lưu thông phân phối, mở rộng quyền tự chủ cho tư nhân mua bán lương thực ở thị trường nội địa trong đó có mạng lưới tư nhân mua bán lúa gạo phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu gạo vẫn được tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước có đủ sức cạnh tranh uy tín trên thị trường gạo thế giới. Bước chấn chỉnh về mặt tổ chức đó tuy có thông thoáng hơn nhưng không phải đã đảm bảo được mọi trật tự cần thiết cho hệ thống phân phối lúa gạo. Các cơ sở kho tàng xay xát chế biến gạo vừa thừa lại vừa thiếu và chưa có hiệu quả cao. Các tư thương và doanh nghiệp Nhà nước chưa có sự phối hợp hài hoà trong dòng chảy lúa gạo từ người sản xuất đến người tiêu dùng trong nước và các nhà xuất khẩu. Giữa tư nhân với nhau thường xảy ra tranh bán tranh mua và mạnh ai nấy làm vì chưa có quy định cụ thể về phạm vi hoạt động theo cấp làng xã, huyện, tỉnh. Điều này góp phần gây mất trật tư trong hệ thống lưu thông phân phối gạo ở nước ta. 2.4. Về chính sách Trong số những vấn đề đặt ra hiện nay đối với sản xuất và xuất khẩu gạo, về chính sách, nổi bật lên những điểm sau. - Chính sách đầu tư cho khoa học cần được chú trọng một cách toàn diện hơn. Hiện nay việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo đòi hỏi Nhà nước cần có chính sách tăng cường đầu tư cho một loạt khoa học công nghệ. Vậy mà thời gian qua, ngân sách đầu tư cho khoa học vẫn chưa được quan tâm đúng mức (chưa quá 1% tổng chi ngân sách). Với chỉ tiêu này công nghệ sản xuất và chế biến lúa gạo của nước ta lạc hậu so với các nước láng giềng và thế giới là điều tất yếu. - Về chính sách giá cả nội địa. Nhà nước chủ trương không áp đặt giá mà hoàn toàn do quan hệ cung cầu của thị trường lương thực điều tiết giá. Tuy nhiên, Nhà nước giữ giá sao cho nông dân được đảm bảo mức lợi nhuận 25-40%. Nếu không đạt được mức đó, Nhà nước điều tiết giá bằng cách cho các đơn vị quốc doanh vay tiền để nhanh chóng thu mua thóc dư thừa của nông dân để điều chỉnh lại quan hệ cung cầu và giá cả ,có lợi cho người nông dân. Nhưng tựu chung vì nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau làm cho toàn bộ hệ thống điều tiết quan hệ cung cầu và giá lúa gạo vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu bình thường , do đơn vị quốc doanh không đủ thực lực để điều tiết quan hệ cung cầu về giá cả như Nhà nước vẫn giao phó vì khả năng tài chính của Nhà nước bị hạn chế. Rốt cuộc người nông dân vẫn không dễ dàng đảm bảo được mức lợi nhuận 25-40% như chủ trương của Nhà nước. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đối với yêu cầu phát triển và sản xuất lúa gạo. Chương III Những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam 1. Những quan điểm định hướng cho sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam 1.1 Quan điểm thứ 1 Cần coi việc sản xuất và xuất khẩu gạo là phát triển sản xuất và xuất khẩu mặt hàng vừa có tính truyền thống của đất nước, vừa có nhiều triển vọng về thị trường tiêu thụ nước ngoài. Như chương 1 đã nêu, sản phẩm lúa gạo là sản phẩm nông nghiệp truyền thống của dân tộc ta. Kỹ năng sản xuất lúa gạo của hàng triệu nông dân Việt Nam đã được tích luỹ hàng ngàn năm nay lại được bổ sung bởi những thành tựu mới của khoa học - kỹ thuật. Triển vọng về sản xuất lúa gạo trong những năm tới còn rất to lớn. Phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo là phát triển một sản phẩm có nhiều lợi thế tương đối so với nhiều nước khác trên thế giới. Nếu so với các nước đã phát triển phần lớn các sản phẩm xuất khẩu của ta đều không có lợi thế tuyệt đối. Trong sự tương quan đó sản phẩm lúa gạo là một trong những sản phẩm ít bất lợi hơn trong hầu hết các sản phẩm bất lợi của Việt Nam. Hơn nữa phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo là ngành sản xuất mà chỉ số vốn/lao động tương đối thấp, sử dụng được nhiều lao động sống mà ta đang dư thừa, sử dụng ít vốn tiền tệ và vốn chất xám là những yếu tố đầu vào tương đối khan hiếm ở nước ta. Do lao động sống của nước ta dư thừa nên giá lao động ở nước ta tương đối rẻ so với các nước trong khu vực và càng rẻ so với các nước phát triển Tây Âu và Bắc Mỹ. Phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo chính là để khai thác lợi thế đó của ta. 1.2 Quan điểm thứ 2 Sản xuất và xuất khẩu gạo phải đảm bảo an ninh lương thực quốc gia Khác với nông sản khác, việc xuất khẩu gạo không chỉ đạt ra mục tiêu số lượng càng nhiều càng tốt. Bởi lẽ gạo là nông sản tối cần thiết trong cuộc sống của người Việt Nam, đó là mặt hàng rất nhạy cảm với tình hình chính trị-xã hội của đất nước. Do đó sản xuất và xuất khẩu gạo phải đạt tới mục tiêu vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, vừa không ngừng tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Quan điểm này yêu cầu trong sản xuất không ngừng tăng năng suất lúa để tăng khả năng cung, đồng thời trong khâu xuất khẩu phải đảm bảo ổn định cung-cầu gạo trên thị trường nội địa. Điều đó có nghĩa là chỉ khi nào cung vượt cầu ở thị trường trong nước mới tiến hành xuất khẩu gaọ. 1.3 Quan điểm thứ 3. Phải gắn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước trong sản xuất và xuất khẩu gạo. Quan điểm này yêu cầu các doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất và xuất khẩu gạo, bao gồm cả các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp và các doanh nghiệp kinh doanh chế biến, thương mại, phải có lợi nhuận thỏa đáng chỉ có thể duy trì sản xuất và xuất khẩu gạo ổn định và tăng trưởng khi các doanh nghiệp thu được lợi nhuận, có động lực tham gia vào quá trình nói trên. Do đó ngoài các yếu tố của thị trường quốc tế, việc hình thành và thực thi một hệ thống chính sách kinh tế và cơ chế quản lý thích hợp sẽ có ý nghĩa quan trọng đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp tham gia vào sản xuất và xuất khẩu gạo. Hệ thống chính sách và cơ chế quản lý ngoài việc đảm bảo tổng lợi ích còn có ý nghĩa lớn trong qúa trình phân phối tổng nguồn lợi ích thu được của sản xuất và xuất khẩu gạo một cách hợp lý. 1.4 Quan điểm thứ 4. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo phải đảm bảo thoả đáng lợi ích cho người nông dân. Khác với hầu hết sản phẩm khác, lúa gạo là mặt hàng chiến lược quốc gia, là nhu cầu thiết yếu số 1 của mọi người dân trong toàn quốc, là cơ sở đảm bảo cho phát triển kinh tế quốc dân. Người trực tiếp một nắng hai sương trên đồng ruộng làm ra sản phẩm lúa gạo là hàng chục triệu nông dân cả nước. Như vậy quan điểm đảm bảo thoả đáng lợi ích của người nông dân có ý nghĩa rất lớn trong việc chăm lo chiến lược con người nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của cả dân tộc. Quan điểm này không chỉ là việc chăm lo trực tiếp cho 72% lực lượng lao động nước ta mà còn là việc thiết thực để chăm lo lợi ích của tất cả mọi người tiêu dùng lúa gạo trong toàn quốc vì dân số Việt Nam có tập quán lâu đời coi gạo là lương thực của chính mình. 2. Một số định hướng cho sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta trong thời gian tới 2.1 Trong sản xuất Cần chú ý phát triển theo một số định hướng sau: - Thứ nhất: Tăng cường thâm canh tăng năng suất lúa gạo, kết hợp với khai hoang tăng vụ ở những nơi có điều kiện. Trong đó thâm canh tăng năng suất lúa là định hướng chủ yếu lâu dài, khai hoang và tăng vụ là hướng không nên bỏ trong vòng 5-10 năm tới. - Thứ hai: Đa dạng hoá trong sản xuất lúa gạo theo nhu cầu thị trường có nghĩa là đa dạng hoá chủng loại gạo tốt, đa dạng hoá phẩm cấp các giống lúa gạo, đa dạng hoá nguồn sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu với chất lượng tốt, năng xuất cao. - Thứ ba: Tích cực ứng dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất để vừa tăng năng suất và sản lượng lúa gạo cho tiêu dùng và cho xuất khẩu, vừa không ngừng nâng cao chất lượng gạo cho xuất khẩu, vừa bảo vệ môi trường sinh thái. 2.2 Trong xuất khẩu gạo Cần chú ý phát triển theo các định hướng đã được quan tâm sau đây: - Thứ nhất: Đa dạng hoá chủng loại gạo, cấp loại gạo xuất khẩu theo nhu cầu của thị trường. Sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng dù đó là nhu cầu loại gạo gì ? Cấp loại nào ? Qui mô lớn hay nhỏ ? Ngoài ra đa dạng hoá chủng loại phải theo hướng tăng dần tỷ trọng gạo đặc sản chất lượng cao. - Thứ hai: Đa phương hoá thị trường tiêu thụ gạo. Cần coi những thị trường này là thị trường chiến lược, có những ưu tiên nhất định đối với khách hàng. Với những thị trường không ổn định cần có chính sách hệ thống tổ chức thích hợp để chiếm lĩnh khi có cơ hội. - Thứ ba: Đa phương hoá các hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu gạo cho có thể đáp ứng một cách năng động tình hình nhu cầu trên thị trường thế giới. 3. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới. 3.1 Quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu 3.1.1 Sự cần thiết phải quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu: Lý do của việc cần thiết phải qui hoạch vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu là: - Đảm bảo đúng nhu cầu của khách hàng, đúng chủng loại sản phẩm, tránh tồn đọng nhằm đảm bảo hiệu quả sản xuất cao. - Khai thác triệt để lợi thế của từng vùng và đảm bảo chuyên môn hoá cao hệ thống đồng bộ sản xuất-chế biến-kho tàng-vận chuyển-cảng khẩu. - Đảm bảo việc tạo nguồn hàng xuất khẩu chủ động và thích ứng nhanh với thị trường. - Nhà nước thực hiện kế hoạch hoá và điều hành hạn ngạch sát đúng. - Đầu tư cơ sở vật chất khoa học công nghệ cho cơ giới hoá, hoá học hoá, sinh học hoá một cách tập trung và có trọng điểm. 3.1.2 Phương hướng qui hoạch vùng sản xuất gạo xuất khẩu trong thời gian tới Phương hướng đối với 2 vùng lúa trọng điểm của nước ta là Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng Sông Hồng. - Đối với Đồng bằng sông Cửu Long: vùng lúa trọng điểm số 1 của nước ta: Nên tiếp tục qui hoạch phát triển sản xuất các loại lúa gạo thông thường, năng suất cao để có sản lượng gạo xuất khẩu lớn. Tuy nhiên, dù là vùng sản xuất lúa gạo thông thường cho xuất khẩu cần phải phấn đấu nâng cao phẩm cấp gạo; Bằng việc qui hoạch hệ thống cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp và chế biến công nghiệp lúa gạo. - Đối với vùng đồng bằng Sông Hồng: vùng này có những hạn chế về số lượng gạo xuất khẩu do đất chật, người đông. Nhưng bù lại đất vùng này lại có lợi thế về chất đất, nguồn nước, thời tiết khí hậu rất thuận lợi cho việc phát triển các giống lúa đặc sản như: Tám thơm, gạo dự... Đó là các sản phẩm có thể nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường gạo cao cấp thế giới. Do vậy việc qui hoạch vùng này để phát triển sản xuất các giống lúa đặc sản truyền thống để xuất khẩu là rất cần thiết. 3.2 Xây dựng cơ sở hạ tầng trong khâu sản xuất và xuất khẩu gạo 3.2.1 Cơ sở hạ tầng trong khâu sản xuất nông nghiệp. Trong các yếu tố của cơ sở hạ tầng của sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng trước hết cần quan tâm đến hệ thống thuỷ lợi. Hệ thống thuỷ lợi của nước ta nói chung đã và đang xuống cấp. Hiện nay nhiều nơi vẫn chưa có được một cơ chế thích hợp trong quản lý, khai thác và tu bổ hệ thống công trình thuỷ lợi đã có. Để giải quyết tình trạng này, các địa phương nên tư nhân hoá các công trình thuỷ lợi nội đồng bằng cách áp dụng tổ chức đấu thầu các công trình thuỷ lợi nhỏ. Ngoài ra Nhà nước cần đầu tư xây mới một số công trình thuỷ lợi đầu mối, hệ thống hồ đập thuỷ lợi nhằm tăng cường năng lực sản xuất lúa gạo. 3.2.2 Cơ sở hạ tầng trong các khâu sau thu hoạch lúa gạo. Do cơ sở hạ tầng phục vụ các khâu sau thu hoạch còn đơn giản và kém hiệu quả nên đã gây ra nhiều tổn thất sau thu hoạch. Hiện nay 3 khâu có tỉ lệ tổn thất cao là : phơi sấy, bảo quản và xay xát. Do đó thời gian tới cần tập trung hoàn thiện các yếu tố sau: - Trước hết là hệ thống phơi sấy: Hiện nay Việt Nam làm khô thóc chủ yếu bằng phương tiện thô sơ như trải trên sân phơi, mặt đường nhựa để lợi dụng ánh nắng mặt trời.Những phương pháp này gây ra nhiều thất thoát và giảm chất lượng của thóc gạo. Do đó cần đầu tư xây dựng một số mô hình thiết bị sấy hiện đại có qui mô phù hợp và hiệu quả để làm tốt khâu phơi sấy, nâng cao chất lượng lúa gạo sau thu hoạch. - Thứ hai: tăng cường công nghệ bảo quản lúa theo hướng áp dụng thiết bị màng PVC trong môi trường khí CO2 hoặc Nitơ ở các kho dự trữ lớn và áp dụng chế phẩm vi sinh diệt côn trùng để bảo quản thóc gạo ở các kho và gia đình. Ngoài ra còn nên chú trọng nâng cấp hệ thống kho chứa, bến bãi ở các đầu mối lớn, kho chứa phải cao ráo, thoáng gió có hệ thống điều hoà không khí để đảm bảo gạo không bị ẩm mốc, bến bãi phải ở nơi thuận tiện cho giao thông đường thuỷ cũng như đường bộ để việc giao hàng ở cảng được thực hiện nhanh gọn nhằm giảm thời gian bốc xếp, giảm tổn thất cả về số lượng và chất lượng. - Thứ ba: công nghệ xay xát gạo nên cải tiến hệ thống máy móc xay xát nhỏ cho phù hợp và hiệu quả hơn. Đồng thời bổ sung hoàn thiện khâu đoạn cuối cùng của dây chuyền tách tấm, đánh bóng và phân loại gạo ở các cơ sở xay xát. 3..3 Thực hiện đồng bộ các giải pháp khoa học kỹ thuật cho sản xuất ở vùng sản xuất gạo xuất khẩu. * Giải pháp về giống lúa: Để đạt hiệu quả cao trong lĩnh vực này cần hoàn thiện một số khía cạnh như: - Xúc tiến nhanh việc tuyển chọn các loại giống lúa đặc sản từ đó hình thành quỹ gen về giống lúa chất lượng cao để xuất khẩu. - Hình thành hệ thống nhân giống lúa thích hợp để thường xuyên thay đổi giống lai tạp bằng giống thuần cho nông dân, do phần lớn các giống lúa mới đều bị xuống cấp nhanh, dễ lai tạp. Những giống lúa mới chất lượng cao và năng suất cao này cần phải cung cấp cho nông dân với giá cả hợp lý để đảm bảo hầu hết nông dân đều có khả năng áp dụng giống mới và phát triển một cách rộng rãi. * Giải pháp về phân bón: Hướng giải quyết công tác phân bón nên chú trọng những điểm chính sau: - Ngay từ bây giờ chúng ta nên đặt vấn đề và chuẩn bị điều kiện để chuyển dịch cơ cấu phân bón giưã các loại phân hoá học với phân hữu cơ công nghiệp và phân vi sinh theo hướng tăng dần tỉ trọng hai loại phân bón sau. Bởi hiện nay các nước tiên tiến trên thế giới đã bước đầu thực hiện hướng chuyển: Từ sử dụng mức độ cao phân hoá học sang sử dụng các loại phân vi sinh và hữu cơ công nghiệp. - Tiếp theo, cần chấn chỉnh lại cơ chế quản lý sản xuất và nhập khẩu phân bón hiện nay. Để đề phòng hạn chế những cơn sốt phân bón do điều hành không tốt của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón. - Cuối cùng, cần tăng cường quản lý Nhà nước về lĩnh vực kinh doanh phân bón: đảm bảo chất lượng phân bón, chống sản xuất phân bón giả, phân kém chất lượng. Trước hết là gây thiệt hại cho người nông dân và sau đó là cho nền kinh tế đất nước * Giải pháp về phòng trừ sâu bệnh : Đây cũng là giải pháp cần áp dụng đồng bộ với giải pháp về giống. Hiện nay hầu hết nông dân thường sử dụng hoá chất để phòng trừ sâu bệnh côn trùng. Việc sử dụng hoá chất nhất thiết phải sử dụng theo nguyên tắc đúng chỗ, đúng lúc, đúng mức và đúng cách. Để làm được điều này Nhà nước phải thường xuyên hướng dẫn và nâng cao hiểu biết cho nông dân về các loại sâu bệnh cũng như tính năng hoá chất và phương pháp để phòng trừ. 3.4 Đẩy mạnh hoạt động marketing trong xuất khẩu gạo 3.4.1 Các giải pháp để thích ứng với thị trường Để đảm bảo hơn hiệu quả kinh tế - xã hội của sản xuất và cần nâng cáo khả năng thích ứng với những biến động thị trường thế giới. Để làm được như vậy cần phải. * Kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá qui mô doanh nghiệp xuất khẩu gạo về loại hình doanh nghiệp và qui mô doanh nghiệp. * Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường để nắm bắt kịp thời nhu cầu gạo, đồng thời không bị khách hàng ép giá cũng như các điều kiện khác. * Quan hệ chính trị đối ngoại cần đi trước để tạo điều kiện cho việc thâm nhập và mở rộng thị trường. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường vai trò của Nhà nước ở cấp chính phủ trong xuất khẩu gạo. 3.4.2 Các giải pháp chống tranh giành bán gạo ở thị trường thế giới. Để chống bán, dìm giá của nhau ở thị trường thế giới cần phải: - Phân đoạn thị trường theo khu vực cho các đầu mối lớn xuất khẩu gạo. - Phải có cơ chế quản lý xuất khẩu gạo thích hợp và tăng cường các hiệp định xuất khẩu gạo cấp chính phủ. - Có cơ chế quản lý giá xuất khẩu gạo thích hợp. VD: chỉ cấp giấy phép xuất khẩu cho những hợp đồng với giá bán thích hợp nào đó. 3.4.3 Nâng cao khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu Không ngừng nâng cao chất lượng gạo là giải pháp hàng đầu: Muốn vậy trước hết phải hoàn thiện từ công tác lai tạo giống lúa, xác định cơ cấu giống lúa phù hợp với thị trường, hoàn chỉnh hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ thu hoạch. Ngoài ra để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu cần phải tăng dần tỉ trọng các loại gạo cao cấp và đặc sản trong tổng lượng gạo xuất khẩu và phát triển gạo đặc sản xuất khẩu, quan tâm hơn tới các loại giống mới có chất lượng tốt, sản lượng cao phù hợp yêu cầu của thị trường. - Nhà nước cần đầu tư thoả đáng cho việc xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thiết bị bốc xếp tại bến cảng đầu mối. Biện pháp này đem lại thuận lợi tổng hợp cho nền kinh tế, nhất là việc rút ngắn thời gian bốc xếp gạo xuất khẩu, giảm hao hụt về số lượng và chất lượng gạo trong quá trình xuất khẩu. - Về quan hệ kinh tế đối ngoại cần tăng cường liên minh với các nước xuất khẩu gạo, trước hết là với Thái Lan 3.4.4 Các giải pháp mở rộng thị trường Trong thời gian tới cần tăng nhanh tỷ trọng gạo đặc sản chất lượng cao. Nên coi đó là một phương sách để mở rộng thị trường gạo cao cấp như Châu Âu, Bắc Mỹ... Từ uy tín gạo đặc sản để mở rộng thị trường tiêu thụ các loại gạo thông thường. - Hợp tác với các nước Tây Âu và các tổ chức quốc tế để tranh thủ bán gạo theo các chương trình viện trợ cho Châu Phi. Giải pháp này cũng cần được coi như một phương sách để mở rộng thị trường xuất khẩu gạo. 3.5 Đổi mới một số chính sách vĩ mô 3.5.1 Nhà nước kiên trì và nhất quán chính sách khuyến khích nhiều thành phần kinh tế phát triển trong sản xuất và xuất khẩu gạo. Trong thời gian vừa qua đâylà một trong những chính sách có nhiều tác dụng, khơi dậy nhiều tiềm năng trong dân để phát triển kinh tế, trong đó có phát triển sản xuất lúa gạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo sắp tới vẫn để nhiều thành phần kinh tế tham gia nhằm tạo khả năng thích ứng linh hoạt với thị trường gạo thế giới. Những tổ chức này cùng sản xuất để có gạo cùng loại và chất lượng tiêu chuẩn thống nhất. Điều quan trọng để công tác xuất khẩu gạo đi vào nề nếp là thực hiện quản lý Nhà nước theo luật pháp hoạt động này. Dù doanh nghiệp là nhà nước hay tư nhân đều phải kinh doanh theo đúng pháp luật qui định. 3.5.2 Hoàn thiện chính sách về chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân. Về điều kiện chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật đến nông dân sản xuất lúa gạo có các thuận lợi cơ bản là: Phần lớn các vùng lúa gạo tập trung và xuất khẩu đều ở đồng bằng, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu được hình thành tương đối cơ bản. Khó khăn chính trong quá trình chuyển giao là khả năng kinh tế của hộ nông dân rất eo hẹp; địa bàn sản xuất lúa gạo lại trải rộng. Với những điều kiện như vậy, để có thể chuyển nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật đến với nhân dân trước hết là phải có sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước. Mức độ bao cấp cho chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân có thể khá lớn, song lợi ích thu được qua sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ còn to lớn gấp bội. Để chuyển giao hiệu qủa không chỉ cần sự bao cấp về tài chính mà còn cần có một hệ thống tổ chức hợp lý. Trong vài năm qua hệ thống tổ chức khuyến nông của ta đã có được những kinh nghiệm hoạt động bước đầu khá tốt về mục tiêu chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân. Kinh phí cho hoạt động của hệ thống này chủ yếu do Nhà nước bao cấp. Những năm tới đây vẫn là hướng đi mà Nhà nước cần phát huy hơn nữa. 4. Kiến nghị đối với Nhà nước Một là, cần tăng cường đầu tư hơn nữa cho sản xuất và xuất khẩu gạo như: - Đầu tư thích đáng cho nghiên cứu khoa học phục vụ trực tiếp các khâu sản xuất lúa và chế biến gạo xuất khẩu. Như đầu tư vào khâu giống lúa, phân bón, thuốc trừ sâu; đầu tư vào công nghệ chế biến sau thu hoạch như xay xát, đóng gói, bảo quản v.v... Chi phí nghiên cứu khoa học thời gian qua là quá ít so với hiệu quả rất lớn do nghiên cứu khoa học đem lại. Sắp tới nên ưu tiên đầu tư trước hết vào việc nghiên cứu để áp dụng tốt các giống lúa mới có chất lượng cao như lúa đặc sản, ưu tiên cho công nghệ sau thu hoạch và chế biến gạo xuất khẩu nhằm tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. - Đầu tư có hiệu quả vào cơ sở hạ tầng sản xuấtvà xuất khẩu lúa gạo như thủy lợi , kho tàng bến bãi ,giao thông chuyên chở để xuất khẩu. Để thực hiện các khoản đầu tư ưu tiên này, cần chú trọng các nguồn: Vốn ngân sách, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn từ viện trợ ODA và vốn tư nhân. Như vậy chính sách cởi mở, kết hợp hài hoà các lợi ích để thu hút các nguồn vốn là điều rất quan trọng, tạo điều kiện cho nông dân sản xuất gạo đáp ứng yêu cầu thị trường đạt giá cao, cung cấp với khối lượng lớn. - Cần phối hợp đồng bộ hệ thống tổ chức quản lý điều hành mọi sản xuất và xuất khẩu gạo. Chế độ quản lý phải thông thoáng và nhanh chóng trong việc giải quyết các thủ tục xuất khẩu gạo. Nhà nước cần thành lập hiệp hội lúa gạo Việt Nam và cần có riêng một ngân hàng lúa gạo (Rice Bank) mà một trong những nhiệm vụ cơ bản của nó là đảm bảo cho nông dân vùng lúa ổn định việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Cùng với đòi hỏi bức xúc của hàng triệu nông dân hiện nay, ngân hàng này còn đảm nhiệm nhiều hoạt động khác như tín dụng cho nông dân cũng như nhiều hoạt động dịch vụ khác ngày càng mở rộng trong nông thôn Việt Nam ngày nay. Hiệp hội lúa gạo Việt Nam phải hoạt động có hiệu quả và phải có sự kết hợp chặt chẽ với tổ chức xuất khẩu gạo khác trên thế giới (như Thái Lan và Mỹ) để cùng nhau bảo đảm sự ổn định về giá cũng như để phát triển sản xuất lúa gạo và đẩy mạnh xuất khẩu gạo. Kết luận * * * Với điều kiện đất đai, khí hậu và tài nguyên con người như hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng để sản xuất trên 35 triệu tấn thóc và xuất khẩu 5triệu tấn gạo mỗi năm. Kể từ năm 2005 với những giải pháp đã trình bày, cùng với sự nỗ lực của chính phủ, nước ta có cơ sở thực tế để đảm bảo sản lượng trên 40 triệu tấn thóc và đạt gần 10triệu tấn gạo xuất khẩu mỗi năm. Hơn nữa, nhu cầu gạo thế giới trong thời gian tới vẫn tiếp tục mở rộng mà khả năng của các nước xuất khẩu khó mà đáp ứng kịp. Điều đó khẳng định rằng: xuất khẩu gạo vẫn mang lại những lợi thế cơ bản cho những nước xuất khẩu trên thương trường quốc tế. Như vậy, tính khả thi của xuất khẩu gạo Việt Nam được xác định với độ tin cậy cao. Phát triển sản xuất lúa và đẩy mạnh xuất khẩu gạo là một hướng đi đúng đắn. Việt Nam có thể tiếp tục duy trì vị trí là một quốc gia xuất khẩu lớn trên thế giới và còn có thể vươn cao hơn nữa trong tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV230.doc
Tài liệu liên quan