Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: (thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển). Nó xảy ra khi tiền lương không được ấn định bởi các yếu tố của thị trường và cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động. Vì tiền lương không chỉ quan hệ đến sự phân phối thu nhập, gắn với kết quả lao động mà còn quan hệ đến mức sống tối thiểu, cho nên nhiều quốc gia (chính phủ hoặc công đoàn) có quy định cứng nhắc về mức lương tối thiểu, sự không linh hoạt của tiền lương (ngược với sự năng động của thị trường lao động) dẫn đến một bộ phận người lao dộng mất việc làm hoặc khó tìm việc làm.
43 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1113 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2005 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khu vực nội thành, dẫn đến tốc độ tăng dân số cơ học tăng nhanh thời gian qua; từ 0,5% (thời kỳ 1975 - 1980) tăng lên 1,5% (thời kỳ 1990 - 1995) và tương ứng 1% (thời kỳ 1996 - 2000).
Xét về quy mô, số người di dân tự do đến HN năm 1994 khoảng 41.000 người; đến năm 1996 khoảng 93.000 người; đến năm 1999, con số này khoảng 200.000 người và năm 2000 khoảng 236500 người, đến nay khoảng 25 - 30 vạn người. Ngoài ra bình quân hàng năm HN phải tiếp nhận khoảng 2 vạn lao động tốt nghiệp từ các trường DDH, THCN ở lại tìm việc làm. HN cũng giống như các thành phố lớn khác, điều kiện sống được nâng cao, đã thu hút một lực lượng khá lớn nhân tài và lao động mới về thành phố. Đặc biệt từ sau thời kỳ thực hiện chính sách cơ chế thị trường, làn sóng người từ các tỉnh về HN ngày càng tăng với nhiều lý do, tình trạng hoàn cảnh, mục đích khác nhau. Tình trạng này gây sức ép nhiều mặt KTXH.
Bảng 3: Tỷ lệ gia tăng dân số cơ học giai đoạn 1995 - 2000
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tỷ lệ tăng DS cơ học
1,46
0,5
1,28
1,17
0,68
0,72
- Nội thành
1,77
- 0,3
0,73
1,66
0,38
1,34
- Ngoại thành
1,19
0,39
0,88
0,62
0,14
0,21
Nguồn: Niên giám thống kê HN - 2000
Bảng trên cho thấy biến động dân số cơ học HN tương đối phức tạp, xu hướng tăng giảm thất thường, phụ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế của từng thời kỳ và các yếu tố khác nhu: việc làm, thất nghiệp, điều kiện sống, điều kiện làm việc, các chính sách của Nhà nước, biến động kinh tế, chính trị trong và ngoài nước, yếu tố tâm lý...
Như vậy, yếu tố tăng dân số cơ học sẽ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu NNL của HN trong thời gian tới.
1.2.3. Quá trình đô thị hoá ở Hà Nội
Cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, HN với vị trí là thủ đô, là trung tâm kinh tế lớn của cả nước, nên quá trình đô thị diễn ra ngày một mạnh mẽ. Tỷ trọng và quy mô dân số thành thị ngày càng tăng. Hơn nữa, không gian đô thị ngày càng mở rộng, làm tăng nhanh dân số nội thành. Tỷ lệ dân nội thành so với dân số toàn thành phố năm 1991 là 46,0%; năm1999 là 57,6% do có thêm 3 quận mới là Thanh Xuân, Cầu Giấy, Tây Hồ, trong những năm tiếp theo tỷ lệ này còn tiếp tục tăng mạnh vì trong tương lai không xa còn thêm các quận mới như Chương Dương, Vạn Xuân, không gian đô thị tiếp tục mở rộng.
2. Lực lượng lao động Hà nội
2.1. Quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực HN
HN có quy mô dân số đông, LLLĐ dồi dào. Một mặt đây cũng là lợi thế của thủ đô trong việc thúc đẩy mở rộng sản xuất, và tăng nhu cầu tiêu dùng cho nền kinh tế. Nhưng mặt khác lại đặt ra nhiều vấn đề xã hội khác cho Thành phố, đặc biệt là vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.
Nguồn lao động thủ đô được hình thành từ dân cư sở tại và lực lượng lao động từ các địa phương chuyển đến, góp phần tạo ra sự phong phú về các ngành nghề sản xuất vật chất và các ngành dịch vụ ở Hà Nội.
Bảng 4: Quy mô và tỷ lệ tăng nguồn nhân lực của Hà Nội
giai đoạn từ 1995 - 2000
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Nguồn nhân lực (người)
1.331.000
1.366.000
1.402.882
1.546.801
1.579.200
1.624.049
Tốc độ tăng NNL (%)
2,45
2,54
2,63
2,70
2,75
2,84
Nguồn: Niên giám thống kê HN - 2000
Bảng số liệu trên cho thấy quy mô nguồn nhân lực tăng liên tục trong các năm; từ 1.331.000 người năm 1995 tăng lên 1.624.049 người năm 2000.
Cũng theo số liệu điều tra năm 2000, cơ cấu độ tuổi nguồn nhân lực tương đối trẻ, với 43% số lao động dưới tuổi 35, độ tuổi từ 35 -55 chiếm 53,3%, còn trên tuổi 55 chỉ chiếm có 3,7%. Tỷ lệ trên không có sự cách biệt giữa nội thành và ngoại thành. Lao động trẻ là một trong những điều kiện thuận lợi của HN, vì chỉ có lực lượng lao động trẻ mới có điều kiện về tri thức, sức khoẻ cần thiết để nâng cao trình độ văn hoá chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại, khả năng thích ứng với cơ chế thị trường đầy biến động nếu được định hướng và quản lý tốt của Nhà nước.
Nguyên nhân của hiện tượng này là:
- Do cơ cấu dân số HN trẻ, nên số người bước vào độ tuổi lao động hàng năm lớn, khoảng 4 - 5 vạn người. Nguồn lao động trẻ chiếm tỷ lệ cao, theo số liệu điều tra năm 1996 số người từ 16 - 34 tuổi chiếm 34,3% dân số, còn năm 2000 là 40,1% dân số.
- Tốc độ gia tăng dân số cơ học ở HN cao.
Theo dự tính đến năm 2005 số người trong độ tuopoir lao động của toàn thành phố là 1.822.000 người và năm 2010 là khoảng 1.920.000 người, chưa kể đội ngũ lao động ngoại tỉnh vào HN tìm việc làm.
Với sự gia tăng dân số còn lớn của HN thời gian qua là nguyên nhân tạo ra sự tăng trưởng nguồn nhân lực cao trong thời gian gần đây, mức gia tăng nguồn nhân lực năm 1995 là 2,45% tăng lên 2,84% năm 2000. Tính trung bình cả giai đoạn 1995 - 2000 mức tăng trưởng bình quân là 2,55%. Đây là mức tăng trưởng cao, còn cao hơn cả mức tăng dân số bình quân của giai đoạn này. Xu hướng tốc độ tăng nguồn nhân lực vẫn cao do xu hướng tăng nhanh của dân số cơ học.
Với quy mô nguồn nhân lực lớn như hiện tại, cùng với tốc độ tăng cao của nguồn nhân lực, cho nên quy mô nguồn nhân lực trong một vài năm tới vẫn còn cao. Cần phải có chính sách ổn định nhanh quy mô dân số và kiểm soát dòng di dân vào HN để ổn định quy mô nguồn nhân lực, đảm bảo thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế.
2.2. Tỷ trọng nguồn nhân lực trên quy mô dân số
Với cơ cấu dân số trẻ liên tục trong nhiều năm qua, cùng với lực lượng lao động di dân vào HN chủ yếu là bộ phận lao động trẻ, nên tỷ trọng nguồn nhân lực trên quy mô dân số HN là lớn so với cả nước.
Theo bảng 4, số người trong độ tuổi lao động năm 1998 là 1.546.800 người (chiếm 59,77% tổng dân số thành phố), tính tới năm 1999 con số này là 1.579.200 người (58,5%), tương ứng năm 2000 nguồn nhân lực là 1.624.049 người (59%).
Tỷ lệ số người hoạt động kinh tế trên tổng dân số năm 1998 là 42,96%. Năm 1999, tỷ lệ này giảm trên 2% so với năm 1998, chỉ đạt có 40,82%. Nguyên nhân của hiện tượng này, do khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á tác động vào Việt Nam, nên tỷ lệ thất nghiệp tự nguyện tăng.
Qua số liệu trên cho thấy tỷ trọng nguồn nhân lực trên quy mô dân số lớn tạo nên lực lượng lao động dồi dào, nếu biết tận dụng sử dụng có hiệu quả sẽ đem lại hiệu quả kinh tế xã hội lớn, nhưng ngược lại, bản thân nền kinh tế không đáp ứng nổi nhu cầu về giải quyết công ăn việc làm cho người lao động thì đây là một sự lãng phí nguồn nhân lực.
2.3 Chất lượng của lực lượng lao động ở Hà nội
* Sức khoẻ
Nguồn nhân lực HN hiện nay còn kém cả về tầm vóc và thể lực, một mặt do thể trạng người châu á, mặt khác do những năm trước đây do điều kiện kinh tế còn kém nên chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ em của cả nước nói chung và của HN nói riêng còn nhiều hạn chế. Tính đến năm 1990 HN vẫn còn khoảng hơn 50% trẻ em suy dinh dưỡng, trong đó có khoảng 14 - 16% tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng loại nặng. Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới thể lực nguồn lao động hiện nay.
Mức dinh dưỡng bình quân của người dân HN năm 2000 khoảng 2100 kcalo/ngày, theo mức chuẩn của thế giới thì mức này đảm bảo cho một người lao động làm việc trong điều kiện bình thường. Nhưng cường độ lao động lớn hơn thì mức này chưa đáp ứng được yêu cầu, nên sẽ ảnh hưởng tới sức dẻo dai, sự bền bỉ của lao động, ảnh hưởng tới năng suất lao động.
Hiện nay trên địa bàn thành phố tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã được giảm mạnh trong thời gian qua. Tính đến năm 1998 tỷ lệ này đã được giảm một nửa so với năm 1994 (xuống còn khoảng 18,7%), số trẻ em suy dinh dưỡng ngay trong bụng mẹ (cân nặng dưới 2,5 kg năm 1998 còn 6,23%). Hơn nữa, trẻ em HN hiện nay được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn về mặt y tế, dinh dưỡng, gần 100% trẻ em dưới năm tuổi được tiêm các loại vacin phòng bệnh, nên trẻ em ở đây có sức khoẻ khá tốt. Việc này có tác dụng tích cực tới thể lực nguồn nhân lực trong tương lai - những người sẽ trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất sau này.
HN đã có nhiều tích cực trong cải thiện môi trường sống của dân cư, môi trường tốt hơn cho sức khoẻ của người lao động. Tuy vậy dân cư tập trung quá đông ở khu vực nội thành đã gây khó khăn trong việc tổ chức đời sống dân cư nói chung và người lao động nói riêng, tình hình ô nhiễm môi trường đô thị gia tăng ảnh hưởng tới sức khoẻ người dân.
* Trình độ học vấn.
Trình độ văn hoá bình quân của lao động HN tương đối cao. Theo số liệu thống kê về "Thực trạng lao động - việc làm Việt Nam - 1999" thì tỷ lệ biết chữ người dân HN là 99,7% (cao hơn trung bình của cả nước, tỷ lệ này của cả nước là 96%). Năm 2000 số người chưa biết chữ trong độ tuổi lao động là 4150 người, nhưng số này tập trung chủ yếu ở nông thôn ngoại thành HN (trong số này tỷ lệ này ở nông thôn chiếm 79,66%) và ở những người cao tuổi.
Bảng 5: Lao động hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo trình độ văn hoá
Chỉ tiêu
Đơn vị
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
Người
1.249.824
1.257.964
1.258.500
1.336.396
1.353.518
1. Không biết chữ
Toàn thành
Người
14.417
11.202
4.699
9.145
4.150
%
0,15
0,9
0,37
0,68
0,3
Thành thị
Người
2.468
3.483
1.712
2.311
844
%
17,12
31,09
36,43
25,27
20,34
Nông thôn
Người
11.949
7.719
2.987
6.834
3.306
%
82,88
69,91
63,57
74,73
79,66
2 Chưa tốt nghiệp
cấp bậc 1
Toàn thành
Người
96.749
60.256
53.186
578.119
40.791
%
7,66
4,79
4,22
4,33
3,00
Thành thị
Người
23.862
13.937
14.130
10.402
4.789
%
24,92
23,12
26,57
19,56
11,74
Nông thôn
Người
71.887
46.319
39.056
47.414
36.002
%
75,08
76,88
73,43
80,44
88,26
3, Tốt nghiệp cấp bậc 1
Toàn thành
Người
163.847
188.049
138.436
162.793
178.489
%
13,11
14,95
11,00
12,18
13,19
Thành thị
Người
40.862
54.403
46.668
46.610
43.224
%
24,94
28,93
33,72
28,63
29,82
Nông thôn
Người
123.418
133.646
91.768
116.783
125.265
%
75,06
71,07
66,28
71,47
70,18
4, Tốt nghiệp cấp II
Toàn thành
Người
506.854
464.215
420.783
531.422
490.884
%
40,55
36,90
33,44
39,76
36,71
Thành thị
Người
201.576
201.264
184.960
238.828
174.598
%
39,77
43,36
43,96
54,95
35,57
Nông thôn
Người
305.278
262.951
235.823
292.594
316.286
%
60,23
56,64
56,04
55,05
64,43
5, Tốt nghiệp cấp III
Toàn thành
Người
468.907
534.242
6.413.996
575.220
722.047
%
37,52
42,47
50,96
43,04
53,35
Thành thị
Người
368.268
424.237
443.134
436.825
488.592
%
75,54
79,41
69,10
75,94
76,44
Nông thôn
Người
100.639
110.005
198.262
138.395
150.612
%
21,46
20,59
30,90
24,06
23,56
2.2.1. Xét về quy mô và tỷ lệ chung toàn thành phố
Số người không biết chữ của Hà Nội đã giảm nhanh chóng qua các năm cả về quy mô và tỷ lệ: từ 14.417 người (1,15%) năm 1996 giảm xuống 4.699 người (chiếm 0,37%) năm 1998, đến năm 2000 con số này là 4150 người (chiếm 0,3%). Tuy vậy, sự giảm này không ổn định về quy mô, năm 1999, số người không biết chữ lại cao vọt lên 9145 người.
Những người có trình độ văn hoá thấp (chưa tốt nghiệp cấp I) vẫn còn chiếm một tỷ lệ đáng kể. Về mặt quy mô, đã giảm được hơn một nửa trong giai đoạn 1996-2000 so với thời điểm năm 1996; năm 1996 có 95.749 người chưa tốt nghiệp cấp một, đến năm 2000 con số này giảm xuống còn 40.791 người, và về mặt tỷ lệ đã giảm tương ứng là 7,66% năm 1996 xuống còn 3% năm 2000. Có được kết quả này là do Đảng, Nhà nước cũng như UBND thành phố Hà Nội có sự quan tâm và đầu tư thích đáng cho giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh phổ cập giáo dục các cấp đặc biệt Hà Nội là địa phương đi đầu trong cả nước về hoàn thành phổ cập tiểu học và trung học cơ sở.
Số lao động có trình độ cấp I đang có xu hướng giảm, nhưng không đáng kể và không đều giữa các năm; năm 1997 có 188.049 người (14,95%); năm 1998 còn 138.436 bn1 (11%); năm2000 con số này là 178.498 người (13.19%).
Nhìn chung, lao động có trình độ cấp II, III có xu hướng tăng lên cả về quy mô và tốc độ, nhưng tỷ lệ tăng lên cũng không đều qua các năm đây cũng là mức trình độ chủ yếu của lao động Hà Nội; năm 1996 tỷ lệ này là 78.07%, con số này đã được tăng lên 84% năm 2000. Trong đó ở nội thành thì tỷ lệ lao động có trình độ cấp III là chủ yếu.
Qua số liệu trên ta thấy trình độ văn hoá nói chung ở Hà Nội được nâng lên rõ rệt, đặc biệt số người không biết chữ và số người có trình độ cấp thấp của Hà Nội đã có sự giảm mạnh. Điều này góp phần nâng cao dân trí, tăng số năm đi học bình quân và tỷ lệ số người biết chữ trong những năm qua.
2.2.2. Xét về cơ cấu độ tuổi.
Theo số liệu cuộc điều tra dân số 1994 Hà Nội vẫn còn khoảng 1000 trẻ em trong độ tuổi từ 11-16 tuổi mù chữ, 15 xã còn hiện tượng trẻ em bỏ học tăng. Năm học 1996-1997 tỷ lệ trẻ em bỏ học toàn thành phố là 0,5%, riêng huyện Sóc Sơn là 2%. Nguyên nhân của hiện tượng này là do tỷ lệ sinh ở ngoại thành còn cao, với khó khăn về kinh tế ở đây, cùng với điều kiện tác động của cơ chế thị trường, càng tạo nên sức hút kinh tế nội thành, dẫn đến nhiều học sinh bỏ học vào nội thành tìm kiếm việc làm. Đây là một trong những nhân tố gây khó khăn bất lợi cho việc nâng cao dân trí ngoại thành và nguồn nhân lực Hà Nội.
Cơ cấu nguồn nhân lực từ 15-35% tuổi gần 100% lao động là biết chữ, với số năm đi học là 9,5 năm, số người tốt nghiệp phổ thông cơ sở chiếm 45,7%, số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học chiếm 39,6% nguồn lao động (theo báo cáo lao động việc làm 1998). Đây thể hiện trình độ dân trí của bộ phận lao động trẻ Hà Nội tương đối cao, thuận lợi cho việc tiếp thu kiến thức mới và nâng cao triình độ chuyên môn cho người lao động.
2.2.3. Cơ cấu trình độ văn hoá theo khu vực
Chia theo trình độ văn hoá có sự chênh lệch rất lớn về trình độ văn hoá giữa hai khu vực.
- Trong số lao động không biết chữ thì tập trung chủ yếu vào khu vực nông thôn: năm 1996 có 11.949 người ở khu vực này không biết chữ (chiếm 82,88% số người không biết chữ của thành phố, năm 2000 đã có sự giảm mạnh về quy mô, nhưng tỷ lệ so với thành thị vẫn ở mức cao; còn 3,306 người chưa biết chữ (chiếm 79,66% số người lao động chưa biết chữ của toàn thành phố).
Số lao động có trình độ thấp (chưa tốt nghiệp cấp I) thì tình trạng diễn ra tương tự tình trạng chưa biết chữ, có nghĩa là số lao động cấp thấp cũng tập trung chủ yếu ở nông thôn ngoại thành Hà Nội.
Cấp trình độ văn hoá càng cao thì xu hướng trên lại ngược lại, nghĩa lao động có trình độ văn hoá càng cao thì càng tập trung ở thành thị; năm 1996 số lao động đã tốt nghiệp cấp III ở thành thị chiếm 78,54% tổng số lao động đã tốt nghiệp cấp III của toàn thành, còn lại là ở khu vực nông thôn; năm 2000 tỷ lệ này tập trung ở khu vực thành thị là 76,44%. Như vậy đẫ có sự dịch chuyển lao động có trình độ về nông thôn nhưng sự dịch huyển này là không đáng kể.
Nhìn chung về quy mô thì lao động ở cả hai khu vực có tỷ lệ lao động đã tốt nghiệp cấp III đều có xu hướng tăng lên, nhưng ở thành thị có xu hướng tăng mạnh hơn; năm 1996 thành thị có 368.268 lao động đã tốt nghiệp cấp III, nông thôn là 100.639 người; năm 2000 con số này tăng lên là 488.592 ở thành thị và 150.612 người ở nông thôn.
ở nông thôn nhìn chung lao động mới chỉ tốt nghiệp cấp II; năm 2000 tỷ lệ lao động đã tốt nghiệp cấp II so với tổng số lao động ở nông thôn chiếm 50,08% ở thành thị, đa phần là đã tốt nghiệp cấp III: năm 2000 số lao động đã tốt nghiệp cấp III là 488.592 người trong tổng số 722.147 người đã tốt nghiệp cấp III của tổng số lao động toàn thành phố (chiếm 67,67%).
Vậy vấn đề nổi bật của trình độ văn hoá theo khu vực là sự chênh lệch khá lớn ở trong tất cả các cấp học giữa khu vực thành thịi và nông thôn của thành phố Hà Nội.
2.2.4. Cơ cấu trình độ văn hoá theo giới tính.
Theo số liệu điều tra về lao động việc làm năm 1998. Nhìn chung lao động nữ có trình độ thấp hơn nam. Tỷ lệ lao động nữ chưa biết chữ (0,6%) cao hơn tỷ lệ chưa biết chữ chung của toàn thành phố (0,4%), tỷ lệ lao động có trình độ văn hoá thấp của nữ cũng cao hơn của toàn thành phố; tỷ lệ của toàn thành phố là 14,3%, của nữ là 16,1%. Có sự chênh lệch lớn này chủ yếu là do lao động nữ ở nông thôn có trình độ văn hoá thấp hơn nam rất nhiều, tỷ lệ này thấp hơn gấp 2 lần so với tỷ lệ chung của thành phố và gấp 3 lần so với khu vực thành thị. Tuy vậy xu hướng chung là bậc học càng cao thì chênh lệch về trình độ giữa hai khu vực là không đáng kể. Tỷ lệ chung của lao động toàn thành phố đã tốt nghiệp cấp III là 50,8%, trong đó nữ chiếm 49,3%. Đặc biệt là ở khu vực thành thị thì hầu như không có sự chênh lệch. Do vậy, muốn có sự bình đẳng về giới một trong những giải pháp quan trọng là nâng cao trình độ dân trí.
2.2.5. Xét về số năm đi học bình quân.
Cũng theo số liệu lao động việc làm năm 2000 thì số năm đi học bình quân của lao động Hà Nội là 9,8 năm. Chỉ số này cao hơn nhiều so với cả nước và vùng đồng bằng sông Hồng (trung bình cả nước là 7,4% năm và ĐBSH là 8,7 năm). Trong đó khu vực thành thị của Hà Nội là 10 năm, trong khi chỉ số này của cả nước 8,5 năm, của ĐBSH là 9,3 năm năm 2000.
Số năm đi học bình quân này cũng có sự chênh lệch giữa hai khu vực, ở nông thôn là 8,8 năm. Tuy vậy so với nông thôn cả nước và ĐBSH thì Hà Nội vẫn cao hơn (cả nước tỷ lệ này là 7,0 năm ĐBSH là 8,3 năm), thậm chí còn cao hơn khu vực thành thị cả nước.
Tóm lại về trình độ văn hoá của lao động Hà Nội những năm qua đã được nâng cao hơn rất nhiều so với những năm trước. Đặc biệt có sự cải thiện vượt bậc so với cả nước và toàn vùng ĐBSH về các chỉ tiêu; tỷ lệ lao động chưa biết chữ, lao động tốt nghiệp các cấp, số năm đi học trung bình. Tuy vậy, sự chênh lệch về khu vực và giới tính còn lớn, nhất là theo khu vực. Hơn nữa, trình độ văn hoá mà lao động thủ đô đã đạt được, so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội thủ đô thì chưa đáp ứng được và so với trình độ văn hoá của nhiều nước trên thế giới thì vẫn còn thấp. Đây là những bất cập hạn chế cần phải từng bước khắc phục.
* Trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Theo số liệu thống kê của Bộ lao động - thương binh và xã hội Việt Nam năm 2000. Hà Nội so với các tỉnh thành phố khác, thì lực lượng lao động qua đào tạo từ sơ cấp học nghề trở lên và từ công nhân kĩ thuật có bằng trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất (44,28% và 36,91%), tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh (28,7% và 24,08%), Hải Phòng (28,8% và 22,69%). Tính chung cả nước thì tỷ lệ này chỉ có 15,52% và 11,74%.
Bảng 6: lao động hoạt động kinh tế chia theo trình độ chuyên môn.
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
2000
Số Người
%
Số Người
%
Số Người
%
Số Người
%
LĐ trong nền kinh tế
1.051.000
100
1.079.000
100
1.258.964
100
1.353.518
100
CĐvà ĐH
120.656
11,4
122.580
12,35
152.179
13,37
203.000
15
Trên ĐH
6.000
0,5
6.100
0,56
4.584
0,43
10.200
0,75
THCN
70.416
6,69
78.165
8,6
78.698
6,91
105.000
7,75
CNKT
103.536
9,85
109.471
10,1
162.017
13,85
181.416
13,4
Nguồn: Số liệu lao động việc làm Việt Nam 1995, 1996, 1997, 2000
Theo số liệu trên, năm 2000 có 1.353.518 người lao động hoạt động kinh tế thường xuyên. Trong số lao động có trình độ trên đại là 10.200 người (chiếm 0,75%), số lao động tốt nghiệp đại học và cao đẳng là 203.000 người (15%), tốt nghiệp THCN là 105.000 người (7,75%) và số dã tốt nghiệp CNKT là 181.416 người (13,4%).
Như vậy, so vớ những năm trước, thì quy mô các cấp trình độ chuyên môn đều tăng lên một cách đáng kể, đặc biệt là lao động có trình độ đại học, cao đẳng và CNKT; năm 1995 có 120.565 lao động có trình độ đại học, năm 2000 tăng lên 203.000 người, số lao động có trình độ CNKT tăng từ 103.536 người năm 1995 lên 181.146 người năm 2000.
Xét vè số tương đối nhìn chung giữa các cấp trình độ chuyên môn đều có sự tăng lên. Tuy vậy tỷ lệ lao động có trình độ THCN tăng chậm, trong khi đó tỷ lệ lao động có trình độ ĐH và CĐ và CNKT tăng nhanh nhất. Đây là nguyên nhân mất cân đối trong cơ cấu trình độ chuyên môn.
2.3.1. Về cơ cấu trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn ở tất cả các cấp chuyên môn của Hà Nội đều cao hơn rất nhiều so với cả nước. Năm 1999 số người có trình độ CĐ, ĐH và trên đại học của Hà Nội chiếm 13,38% tổng số lao động của Hà Nội, trong khi tỷ lệ chung cả cả nước là 5,84%, số người có trình độ CNKT và THCN là 19%, trong khi tỷ lệ này của cả nước là 5,84%. Số người có trình độ sơ cấp và CNKT không có bằng là 10,06%, trong khi tỷ lệ này của cả nước là 3,54%.
Vậy Hà Nội có lợi thế về lao động có trình độ chuyên môn ở tất cả các lĩnh vực. Đây là lợi thế rất lớn cho Hà Nội phát triển tất cả các ngành có hàm lượng khoa học kĩ thuật công nghệ cao, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, đồng thời tạo đà nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong những năm tiếp theo.
Tuy vậy cơ cấu trình độ chuyên môn của lao động Hà Nội những năm qua là rất bất hợp lý. Năm 1996, số lao động có trình độ ĐH và CĐ là 122.580 người, THCN là 78.165 người, CNKT có bằng là 109.471 người, tương ứng với cơ cấu tỷ lệ là 1/0,64/0,9; năm 1997 cơ cấu tương ứng là 1/0,5/1; năm 2000 cơ cấu này là 1/0,52/0,89 trong khi tỷ lệ hợp lý trên thế giới là 1/1,5/7.
Như vậy cơ cấu bất hợp lý này qua các năm không được cải thiện. Cho nên ở nước ta nói chung và ở Hà Nội nói riêng đang rất thiếu CNKT đặc biệt là CNKT bậc cao. Hơn nữa, số người tốt nghiệp đại học nhiều nhưng chưa phát huydc hiệu quả chủ yếu tập trung vào khu vực hành chính, đoàn thể và khu vực thành thị.
Nguyên nhân của tình trạng trên là;
Do cơ cấu đào tạo bất hợp lý, số sinh viên cao đẳng và đại học được đào tạo nhiều hơn số sinh viên là CNKT, sự chênh lệch này có lúc gấp đến 5 lần.
Mặt khác do tâm lý của học sinh và phụ huynh học sinh phổ thông là không muốn học nghề mà chỉ muốn thi vào đại học.
2.3.2. Cơ cấu trình độ chuyên môn theo khu vực
Về trình độ chuyên môn theo khu vực của Hà Nội cũng có sự chênh lệch lớn. Lao động không có trình độ chuyên môn chủ yếu tập trung ở nông thôn, còn bộ phận lao động có trình độ càng cao thì tập trung ở thành thị, đặc biệt là lao động có trình độ đại học và trên đại học.
Bảng 7: Trình độ chuyên môn kĩ thuật của lao động hoạt động kinh tế chia theo khu vực.
Chỉ tiêu
Đơn vị
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
Người
1.248.824
1.257.964
1.258.500
1.336.396
1.353.518
1. Không có TĐCM
Toàn thành
Người
820.257
745.646
752.472
785.696
754.222
%
65,65
59,27
59,79
58,78
55,72
Thành thị
Người
291.751
287.291
307.414
320.108
265.277
%
35,55
35,53
40,85
40,74
35,17
Nông thôn
Người
528.776
458.955
445.061
465.588
488.940
%
64,45
61,47
59,15
59,26
64,83
2. Có TĐ từ sơ cấp
học nghề trở lên
Toàn thành
Người
428.297
512.318
506.028
550.700
599.296
%
34,35
40,73
40,21
41,22
44,28
Thành thị
Người
344.902
410.033
383.193
414.864
456.770
%
80,34
80,03
75,73
75,34
76,22
Nông thôn
Người
843.995
102.285
122.835
135.832
142.531
%
19,66
19,97
24,27
24,66
23,78
3. Có TĐ CNKT trở lên
Toàn thành
Người
337.103
376.436
394.839
424.529
499.616
%
26,97
29,92
31,37
31,77
36,90
Thành thị
Người
289.188
317.574
313.833
333.975
404.109
%
885,76
84,36
79,48
78,67
80,88
Nông thôn
Người
47.985
58.862
81.906
90.554
95.510
%
14,24
15,64
21,52
21,33
19,12
Nguồn: Tổng cục Thống kê Lao động - Thương binh và xã hội ở Việt Nam giai đoạn từ 1996-2000
Qua bảng số liệu trên ta thấy, tỷ lệ lao động không có trình độ chuyên môn của toàn thành phố có xu hướng giảm dần qua các năm, từ 65,65% năm xuống 1996 xuống còn 55,72% năm 2000, trong đó khu vực thành thị có xu hướng giảm mạnh nhất qua các năm. Tuy vậy ở khu vực nông thôn mức giảm không đều qua các năm, năm 1996 có 528,776 người, năm 1998 còn có 445.061 người; năm 2000 con số này lại là 488940 người. Lao động không có trình độ chuyên môn ở khu vực nông thôn luôn giữ tỷ lệ 60 - 65% qua các năm.
Số lao động có trình độ sơ cấp, học nghề trở lên của Hà Nội cũng tăng liên tục nhờ có sự giảm liên tục số người không có trình độ chuyên môn. Con số này từ 429.297 năm 1996 tăng lên 599.296 người năm 2000 (tương ứng với tỷ lệ là 34,35% tăng lên 44,28% năm 2000). Lao động có trình độ này lại chủ yếu tập trung vào khu vực thành thị chiếm từ 75-80%. Tuy vậy, đang có xu hướng giảm sự tập trung này ở khu vực thành thị và tăng tỷ lệ này ở khu vực nông thôn, điều này thể hiện phân bố lại lao động có trình độ giữa hai khu vực đang theo chiều hướng tích cực, nhưng xu hướng này diễn ra rất chậm, nên sự chênh lệch vẫn còn rất lớn.
Sự mất chênh lệch còn diễn ra trầm trọng hơn trong bộ phận lao động có trình độ CNKT trở lên. ở khu vực thành thị lao động có trình độ này luôn ở mức từ 79 - 86% qua các năm. Xét trên toàn thành phố thì tỷ lệ lao động này cũng có xu hướng tăng nhanh qua các năm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 26,97% năm 1996 tăng lên 32% năm 1999, đặc biệt tăng mạnh lên 36,9% năm 2000.
Như vậy cùng với sự mất cân đối về trình độ văn hoá giữa hai khu vực, thì trình độ chuyên môn giữa hai khu vực có sự mất cân đối nghiêm trọng, cần phải phân bố lại lao động có trình độ chuyên môn cho phù hợp hơn, mặt khác cần đẩy mạnh công tác đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho lao động ở cả hai khu vực, nhằm đáp ứng yêu cầu về lao động trong hai khu vực, đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH nông thôn.
2.3.3. Cơ cấu trình độ chuyên môn của lao động theo giới tính
Theo số liệu tra năm 1998. Nhìn chung lao động nữ có trình độ chuyên môn thấp hơn lao động nam biểu hiện ở số lao động không có trình độ chuyên môn của lao động nữ cao hơn của lao động nam: trong số 695.463 người không có trình độ, thì lao động chiếm 355.202 người (35%) và số lao động không có trình độ chuyên môn giữa hai giới là không đáng kể, sự chênh lệch này tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực chuyên môn, ngành nghề như những ngành thuộc lĩnh vực CNKT thì số lao động nam nhiều hơn số lao động nữ, nhưng trình độ THCN thì số lao động nữ lại nhiều hơn số lao động nam.
2.3.4. Cơ cấu theo độ tuổi
Theo điều tra của Sở lao động và Cục thống kê Hà Nội thì ở Việt Nam hiện nay có tới 57,6% lao động trong độ tuổi từ 18 - 23 chưa được đào tạo nghề, và 88,6% lao động ở nông thôn chưa được đào tạo nghề. Còn trong độ tuổi 21 - 45 thì có tới 32,9% lao động ở thành thị và 84,7% lao động ở khu vực nông thôn chưa được đào tạo nghề.
Vậy xét về độ tuổi thì tỷ lệ lao động trẻ được đào tạo cao hơn tỷ lệ lao động được đào tạo trong tổng số lao động trong độ tuổi lao động. Đây là một lợi thế nhằm nâng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo những năm tiếp theo và dần đáp ứng nhu cầu lao động cho phát triển kinh tế thành phố. Tuy vậy, tỷ lệ này lại có sự chênh lệch rất lớn giữa hai khu vực. Đây là một nhược điểm lớn trong việc phát triển nguồn nhân lực thời gian qua cần phải từng bước khắc phục trong thời gian tới.
2.3.5. Cơ cấu theo thành phần kinh tế
Nhìn chung lao động có trình độ chuyên môn được thu hút vào tất cả các thành phần kinh tế. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nên tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế ở khu vực quốc doanh là 36%. Số lao động có trình độ kỹ thuật cao cũng chủ yếu tập trung ở khu vực này như: ở các ngành công nghiệp và các khu vực hành chính. Trong khi đó số lao động có trình độ cao như vậy ở khu vực ngoài quốc doanh còn thấp. Tuy nhiên khu vực này đang có xu hướng tăng tỷ lệ thu hút những lao động có trình độ cao vào làm việc, đặc biệt là những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do có sức hấp dẫn về mức tiền lương cao. Điều này góp phần đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế theo sự cạnh tranh của cơ chế thị trường và góp phần nâng cao trình độ của người lao động thông qua sự cạnh tranh trên thị trường lao động.
II. Thực trạng sử dụng lao động trên địa bàn thành phố Hà nội
1. Dân số không hoạt động kinh tế
Tính tới năm 1998 số người không hoạt động kinh tế là 365.000 người chiếm 23,2% tổng số người trong độ tuổi lao động, năm1999 con số này 394.000 người (tăng 10,08% so với năm 1998). Trong đó số này có tới 208.500 người là học sinh, sinh viên (chiếm 58,56% số người không hoạt động kinh tế)
Theo số liệu thống kê lao động việc làm ở Việt Nam năm 2000, dân số trong độ tuổi lao động của Hà Nội là 1784622 người trong đó dân số trong độ tuổi lao động không hoạt động kinh tế là 503.651 người (chiếm 28,38%) số người trong độ tuổi lao động . Trong số này số người đi học là 321.938 người (chiếm 64% số người không hoạt động kinh tế trong năm).
Như vậy, dân số trong độ tuổi lao động không hoạt động kinh tế ở Hà Nội ngày càng có xu hướng tăng lên, chủ yếu ở bộ phận những người đi học, thể hiện nguồn lao động dự trữ có chất lượng của Hà Nội khá lớn, có thể huy động vào nền kinh tế trong thời gian tới. Điều này một mặt cũng thể hiện "cung" lao động tiềm năng của Hà Nội lớn.
2. Dân số hoạt động kinh tế
2.1. Dân số đang có việc làm
Giải quyết việc làm thu hút lao động vào các lĩnh vực kinh tế trong những năm qua tăng khá. Với việc thúc đẩy kinh tế thị trường, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, đã tạo điều kiện thu hút nhiều lao động trong nền kinh tế, mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ Châu á năm 1998, 1999 có tác động thu hút lao động. Năm 2000 nền kinh tế từng bước bước ra khỏi sự tác động của khủng hoảng, nền kinh tế các nước đang trên đà phục hồi nhanh chóng, điều này sẽ có tác động tích cực tới việc thu hút lao động vào nền kinh tế.
Bảng 10: lao động có việc làm thường xuyên trong 12 tháng chia theo nhóm ngành và thành phần kinh tế.
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
1.193.034
158.665
1.170.471
1.217.641
1.280.235
I. Chia theo ngành
N-L-NN
461.141
345.184
240.097
304.243
386.301
CN-XD
265.142
271.067
284.431
302.253
313.184
Dịch vụ
466.051
542.414
645.543
575.125
580.750
II. Chia theo TP KT
Kinh tế Nhà nước
335.237
380.162
444.639
412.417
410.380
Kinh tế ngoài NN
837.797
771.054
711.723
792.387
854.534
Kinh tế nước ngoài
-
7.449
14.109
12.537
13.663
Nguồn: Số liệu thống kê lao động - Thương binh và xã hội ở Việt Nam
giai đoạn 1996-2000.
Cơ cấu lao động có việc làm thường xuyên chia theo nhóm ngành.
Qua số liệu trên, số lao động có việc làm thường xuyên trong ngành nông nghiệp có xu hướng giảm nhưng giảm không đều giữa các năm. Năm 1996 số lao động có việc làm trong nông nghiệp là 461141 người, đến nam 1998 giảm xuống còn 240097 người, nhưng năm 2000 con số này lại tăng lên là 386301 người. Nguyên nhân của hiện tượng này là nền kinh tế chịu tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nền kinh tế bị đình trệ trong đó ngành công nghiệp và dịch vụ chịu tác động nhiều nhất gây ra sự giảm sút thu hút lao động vào hai lĩnh vực này và đẩy sang lĩnh vực nông nghiệp.
Nhìn chung cả giai đoạn 1996-2000 lao động được thu hút mạnh vào hai nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ, trong đó ngành dịch vụ thu hút mạnh nhất: tính đến năm 1996 số lao động làm việc trong lĩnh vực này là 466051 người (chiếm 39,06%), đến năm 1998 tăng lên là 645543 người (chiếm 55,15%), năm 2000 con số này là 580750 người (45,37%).
Cơ cấu lao động làm việc trong các ngành đã có sự dịch chuyển theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp, tuy vậy sự dịch chuyển này vẫn chưa bền vững: năm 1996 cơ cấu này là 38,65% - 22,22% -39,06%; năm 1998 cơ cấu là 55,15%-24,33%-30,52% và năm 2000 là 46,37%-24,46%-30,17%.
Như vậy, dể đạt được mục tiêu chuyển dịch c cấu kinh tế Hà Nội đến năm 2010 là dịch vụ – công nghiệp- nông nghiệp thì cần phải chuyển dịch mạnh mẽ hơn nữa cơ cấu lao động theo hướng trên.
Cơ cấu lao động có việc làm thường xuyên theo thành phần kinh tế.
Xu hướng chung là lao động thu hút vào các thành phần kinh tế đều tăng. Trong đó chủ yếu thu hút vào thành phần kinh tế ngoài nhà nước: năm 2000 thành phần này có số lao động đang làm việc thường xuyên là 854534 người (chiếm 66,75% số lao động đang làm việc trong nền kinh tế). Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nên kinh tế thị trường phát triển tất cả các thành phần kinh tế, mở xửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài dẫn đến mở rộng sản xuất đã thu hút được một bộ phận lớn lao động vào việc trong lĩnh vực có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy rằng, số lượng thu hút còn nhỏ bé, song có xu hướng tăng nhanh qua các năm: năm 1997 số lao động làm việc làm trong lĩnh vực này là 7449 người, năm 1998 là 14107 người. Tuy vậy, năm 1999 do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực, số lượng lao động có giảm còn 12537 năm 1999 và có biểu hiện phục hồi năm 2000 là 13.663 lao động.
Xét trên toàn bộ nền kinh tế Hà Nội.
Quy mô lao động có việc làm hoạt động kinh tế thường xuyên tăng chậm qua các năm trung bình hàng năm khoảng 17500 người. Năm 1999 số lao động này chiếm tỷ lệ là 69,55 trong tổng số lao động trong độ tuổi lao động, năm 2000 tỷ lệ này là 71,74%.
Như vậy nền kinh tế thường xuyên có khoảng 30% số người trong độ tuỏi lao động không trực tiếp tham gia lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội. Trong số này chiếm một tỷ lệ đáng kể là lao động thấtnghiệp. Vì vậy, tăng số lao động làm việc trong nền kinh tế cần có giải pháp giảm tỷ lệ thất nghiệp
III. Đánh giá chung
1. Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
1.1. Điểm mạnh của nguồn nhân lực
Hà Nội là trung tâm kinh tế – chính trị – văn hoá của cả nước, nguồn nhân lực của HN có nhiều lợi thế so với cả nước.
* Nguồn nhân lực trẻ.
Tính đến năm 2000 nguồn nhân lực Hà Nội có 42,87% số lao động ở độ tuổi từ dưới 35, độ tuổi từ 35-55 chiếm 53,6%. Nguồn nhân lực trẻ với sự năng động, nhạy bén, ham hiểu biết của tuổi trẻ sẽ tạo điều kệin cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thủ đô.
* Nguồn nhân lực Hà Nội có trí lực tốt.
Về trình độ văn hoá:
Tính đến năm 2000 tỷ lệ biết chữ của người dân HN là 99,7%, còn tỷ lệ chưa biết chữ là 0,13% (bộ phận này chủ yếu tập trugn ở khu vực nông thôn ngoại thành HN và những người cao tuổi). Hà Nội là địa phương đầu tiên trong cả nước đạt chuẩn phổ cập tiểu học và đã hoàn thành phổ cập cấp II vào năm 1999, hiện nay Hà Nội đang phấn đấu hoàn thành phổ cập câp III khu vực nội thành vào năm 2010.
Trình độ văn hoá của người lao động HN khá cao: có tới 85,96% số lao động đã tố nghiệp cấp II, riêng số lao động tốg nghiệp cấp III chiếm 45,3% tổng số lao động HN.
Xét về giới tính: Trình độ văn hoá của người lao động nữ HN là cao nhất so với cả nước: số năm đi học trung bình của lao động nữ HN Là 9,7 năm, cao hơn so với cả lao động nữ khu vực thành thị của cả nước là 8,8 năm.
Ngoài ra trình độ vi tính, ngoại ngữ, quản lý kinh tế của người lao động ở đây khá cao.
Trình độ chuyên môn của người lao động
Cũng xuất phát từ lợi thế của HN mà lao động HN đã qua đào tạo đông về số lượng, đa dạng về ngành nghề và cao về chất lượng.
Theo số liệu điều tra năm 1996, số người đã tốt nghiệp THCN trở lên của HN là 21,5%. So với cả nước số cán bộ có trình độ đại học ở HN chiém tới 19%, trên đại học chiếm tới 35,2%.
Theo kết quả điều tra năm 2000 của Bộ lao động Thương Bình xã hội thì trong số lao động được điều tra có tới 44,28% số người được đào tạo có bằng từ sơ cấp trở lên : 28,68% lao động có trình độ trung cấp, sơ cấp và CNKT; 15% số lao động có trình độ đại học và cao đẳng; trên đại học chiếm 0,75%. Ngoài ra, có 22,16% số người được đào tạo nghề nhưng không có bằng cấp. Số lao động có chỉnh chỉ ngoại ngữ chiếm 9,66% trong đó tiến Anh chiếm 6,12%, 8,97% số người biết vi tính, trong đó có 4,75 sử dụng thành thạo các phần mềm kế toán.
1.2. Những hạn chế về nguồn nhân lực HN
Tuy Hà Nội là nơi có trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp cao, nhưng chất lượng nguồn nhan lực còn nhiều hạn chế. Đội ngũ lao động còn yếu cả về thể lực và trình độ chuyên môn so với yêu cầu mới của công cuộc CNH – HĐH thủ đô.
* Tình trạng thể lực nguồn nhân lực thấp:
Mặc dù tuổi thọ trung bình của người dân cả nước nói chung và người dân HN nói riêng là cao so với những nước đang phát triển, nhưng tình trạng sức khoẻ và thể lực của người lao động thấp: trọng lượng và chiều cao trung bình của thanh niên còn thấp, tỷ lệ trẻ me suy dinh dưỡng còn cao, tỷ lệ người lao động gầy và mắc bệnh nghề nghiệp còn cao.
Nhìn chung thể lực nguồn lao động chưa đáp ứng được yêu câu của phương pháp tô chức và cường độ lao động theo kiểu công nghiệp.
* Trình độ văn hoá
Mặc dù trình độ học vấn của người dân đã được nâng lên rõ rệt, nhưng có sự chênh lực cao về trình độ giữa hai khu vực thành thị và nông thôn.
Số năm đi học cao nhất bình quân đã tăng lên 9,8 năm (năm 2000) nhưng chủ yếu là số năm đi học phổ thông, còn số năm đào tạo nghề lại rất thấp.
* Trình độ chuyên môn nghề nghiệp của người lao động .
Trình độ chuyên môn của người lao động đã được tăng lên nhưng nhìn chung còn thấp, đặc biệt là nông thôn.
Cơ cấu lao động qua đào tạo chưa hợp lý, cơ cấu này đang có sự thay đổi nhưng rất chậm và nếu không có sự điều chỉnh mạnh cơ cấu đào tạo thì cơ cấu lao động sẽ còn bất hợp lý hơn, đồng thời với chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề bất hợp lý tất yếu gây ra hậu quả xấu, tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu sẽ tăng.
Mặt khác HN chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây. Điều này được thể hiện trên nhiều mặt kinh tế xã hội, trong đó ảnh hưởng sâu sắc tới nguồn nhân lực với những tập quán, thói quen, nếp nghĩ cũ tác động xấu làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh trên địa bàn HN chưa cao. Tác phong lề lối của người lao động chưa phù hợp với công cuộc đổi mới cho hiện nay.
Hà Nội còn yếu kém về giáo dục chuyên nghiệp dạy nghề. Số lượng các trường hiện nay còn ít, đặc biệt là khu vực ngoại thành. Hiện nay HN có 18 trường THCN dạy nghề với gần 11.000 học sinh và có 6 trung tâm giáo dục tổng hợp với gần 30.000 học sinh. Số lượng này mới chỉ đáp ứng được 1 bộ phận nhỏ nhu cầu đào tạo nghề của lao động đến tuổi lao động.
Tỷ lệ học sinh học nghề được cấp chứng chỉ khá cao (85-95%), song nói chung chất lượng đào tạo nghề còn thấp. Điều này do cơ sở vật chất còn nghèo nàn và trình độ giáo viên còn yếu, không đồng bộ. Số học sinh thực chất có tay nghề cao đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của các cơ sở sản xuất kinh doanh còn rất ít. Vì vậy, số học sinh ra trường sử dụng kỹ năng nghề nghiệp mình học còn ít.
Sự chậm thích ứng của lao động đã tốt nghiệp ĐH và CĐ với tình hình kinh tế xã hội. Điều này cũng đã đặt ra với việc đào tạo hiện nay là làm sao đảm bảo người lao động nhanh chóng thích ứng với nền kinh tế.
Tóm lại: Nguồn nhân lực còn hạn chế về cơ cấu chất lượng và thái độ với nghề nghiệp. Trong điều kiện sản xuất chậm phát triển, nhu cầu con người đang ở mức thấp ta chưa nhận ra nguy cơ khủng hoảng, nhưng trong điều kiện nền kinh tế mở muốn phát triển ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới ta phải có quy hoạch, chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, nếu không ngnoài chảy máu chất xám, rồi đây sẽ xuất hiện hiện tượng chảy máu các nguồn nhân lực khác nữa.
2. Đánh giá sử dụng nguồn nhân lực
2.1. Kết quả đạt được trong vấn đề giải quyết việc làm và giảm tỉ lệ thất nghiệp
Cùng với sự nỗ lực của Đảng bộ, UBND thành phố và các cấp ngành trong giải quyết việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành phố trong thời gian qua đã đạt được những kết quả to lớn như : thành phố đã giải quyết việc làm cho một số lượng lớn người thất nghiệp và số lao động bước vào độ tuổi lao động, góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng theo hướng khai thác và phát huy các yếu tố nguồn lực xã hội. Nhà nước đã hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong việc tự tạo việc làm cho mình và cho xã hội. Do đó công tác giải quyết việc làm
làm đã có nhiều chuyển biến rõ nét, mang sắc thái mới, phù hợp với quá trình chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bảng 12: Lao động chưa có việc làm và được giải quyết việc làm
(khu vực thành thị)
Chỉ tiêu
Đơn vị
1995
1996
1997
1998
1999
2000
I. Số người được giải quyết VL
Người
37.198
43.000
45.000
46.000
56.640
55.000
%
100
100
100
100
100
100
Việc làm ổn định
Người
25.002
35.500
35.500
36.000
25.353
29.308
%
68,7
72,9
50,5
58,6
45,6
53,3
Trong đó:
- Tuyển vào KVNN
- Tuyển sinh
- Tuyển vào HTX, tổ sản xuất
Người
Người
Người
3400
10.000
11602
3000
10.000
2500
4000
15.000
2.000
5000
16.000
15.000
4759
6122
-
3898
3991
-
VL tạm thời
Người
12.196
8.000
10.000
10.000
25.251
26.692
%
31,3
27,1
49,5
41,4
54,4
46,7
II. Số ĐK tìm VL
Trong đó:
- Bộ đội phục viên
- Học sinh thôi học
Người
Người
Người
30.200
1750
12.000
31.500
1.600
12.500
22.563
1.808
10.500
-
1900
11.000
-
1986
8342
-
1823
8907
Nguồn: Niên giám thống kê HN – 2000
Theo bảng số liệu trên kết quả giải quyết việc làm năm 1995 là 37.198 người, năm 1999 là 56.640 người, năm 2000 là 55.000 người. Tính bình quân cả giai đoạn 1995 – 2000 thì mỗi năm giải quyết được khoảng 47.223 người, tăng 51,5% so với thời kỳ 1991 – 1995. Số chỗ làm việc ổn định có xu hướng không ổn định qua các năm, điều này do chịu ảnh hưởng của bản thân nền kinh tế. Xét trên góc độ số tương đối từ năm 1996 thì xu hướng tạo được việc làm ổn định ngày càng giảm. Đây là một điều bất lợi cho người lao động, mặt khác nó cũng phản ánh sự cạnh tranh trên thị trường lao động. Kết quả của việc thu hút lao động chủ yếu tập trung vào khu vực ngoài nhà nước (tốc độ thu hút lao động hàng năm tăng khoảng 7 – 8%).
2.2. Những hạn chế trong vấn đề sử dụng nguồn nhân lực
Nhìn chung hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực HN chưa cao. Tỷ lệ thất nghiệp năm 1998 là 5,37%, năm 1999 lả 5,48%, 2000 là 5,31%. Đặc biệt là khu vực thành thị tỷ lệ thất nghiệp là cao nhất so với cả nước tương ứng là 9,09%, 8,96%, 7,76%. Đây là sự lãng phí rất lớn trong việc sử dụng yếu tố nguồn nhân lực con người. Điều này ngoài việc gây ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều vấn đề xã hội thì còn tác động trực tiếp tới tăng trưởng và phát triển kinh tế HN.
Chương III
Phương hướng và các giải pháp nhằm tạo việc làm trên địa bàn thành phố Hà nội giai đoạn 2005 – 2010
I. Phương hướng giải quyết việc làm trên địa bàn Hà nội giai đoạn 2005-2010
1. Giải quyết việc làm ở các quận nội thành
Tạo việc làm mới.
Phát triển kinh tế hộ gia đình
2. Giải quyết việc làm ở các huyện ngoại thành.
* Đa dạng hoá việc làm.
* Tăng việc làm phi nông nghiệp
* Việc làm đối với các xã phải chuyển đổi đất
* Việc làm đối với thanh niên nông thôn.
II. Biện pháp giải quyết việc làm trên địa bàn thành phố Hà nội giai đoạn 2005- 2010
1. Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo sự phân công lao động mới trong nông nghiệp, nông thôn, giữ gìn và phát triển các ngành nghề truyền thống thể hiện bản sắc dân tộc, phát huy và tận dụng các nguồn lực ở địa phương, giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp giúp giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội phức tạp, đảm bảo đóng góp ngày càng tăng vào sản xuất quốc dân, giảm bớt nạn nhân khẩu thừa và thất nghiệp hàng loạt, tăng nhanh phúc lợi công cộng. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Kinh nghiệp thế giới cho thấy sự thành đạt về kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường. Do vậy, Nhà nước cần hỗ trợ loại hình doanh nghiệp này phát triển mà cụ thể:
Có một chương trình phát triển lâu dài, đồng bộ về chính sách, về viện trợ vốn và các chính sách ưu đãivề thuế cho các doanh nghiệp mới thành lập.
Tư vấn giúp đỡ trong lĩnh vực công nghệ, quản lý công nghệ mới cũng như những thông tin cần thiết về thị trường.
Sớm hoàn chỉnh và đivào thực thi luật doanh nghiệp tạo một hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh.
2.Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành
Để điều chỉnh cơ cấu nguồn lao động, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá Thủ đô cần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế từng bước theo hướng nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP Thành phố, trong đó đặc biệt chuyển dần một bộ phận lao động khu vực nông thôn sang hoạt động kinh doanh dịch vụ.
Trong 5 năm tới, cơ cấu kinh tế của Thủ đô sẽ chuyển dịch từng bước theo hướng : Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp .
Công nghiệp: ưu tiên đầu tư phát triển các ngành sản xuất sử dụng cộng nghệ cao, như công nghiệp điện tử, tin học (chú ý công nghệ sản xuất phần mềm), công nghệ sinh học(tạo giống cây, giống con chất lượng cao), công nghệ vật liệu mới. Phát triển công nghiệp gắn với việc xây dung và đưa vào vận hành các khu công nghiệp tập trung, xây dung mới và khai thác có hiệu quả các khu công nghiệp quy mô vừa và nhỏ, hướng mạnh công nghiệp vào xuất khẩu. Mở rộng liên doanh, liên kết với nước ngoài nhằm xuất khẩu lao động tại chỗ.Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ để thu hút lao động.
Tiếp tục đầu tư phát triển thủ công nghiệp, ngành có khả năng thu hút nhiều lao động, chú trọng các ngành nghề truyền thống có triển vọng xuất khẩu phục vụ sinh hoạt, du lịch.
Nông nghiệp: Cần chuyển đổi kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng nhanh năng suất lao động, tăng giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn quan trọng. Chuyển dịch nhanh và đồng bộ hơn nữa cơ cấu trong nông nghiệp từ trồng trọt sang chăn nuôi. Mở rộng các vùng chuyên canh như vùng cây ăn quả, vùng rau sạch, vùng thịt, vùng cá. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng vùng theo hướng sản xuất hàng hoá chất lượng cao, gắn với công nghiệp chế biến, từng bước hình thành nền nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch.
Hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại một cách hợp lý, tăng cường hoạt động có hiệu quả quỹ hỗ trợ nông dân, giúp nông dân vay vốn để phát triển cây ăn quả và chăn nuôi bò. Vừa phục hồi, phát triển các làng nghề truyền thống, vừa chuyển đổi dần một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành dịch vụ và công nghiệp bằng cách phát triển công nghiệp chế biến tại địa phương cùng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ khác. Gắn kết xây dựng cơ cấu nông nghiệp với sự vận động của quá trình đô thị hoá.
Dịch vụ: Đảm bảo khuyến khích phát triển các hoạt động kinh doanh dịch vụ, nâng cao trình độ văn minh đô thị. Tập trung phát triển các ngành và lĩnh vực thu hút lao động như du lịch, vận tải, bưu điện, tài chính, ngân hàngĐặc biệt coi trọng việc hình thành và phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng - tài chính- bảo hiểm, dịch vụ tư vấn, thông tin chất lượng cao, biến Hà Nội thành một trong những trung tâm giao dịch tài chính - tiền tệ của cả nước.
Chú trọng phát triển dịch vụ nông thôn, dịch vụ đô thị, dịch vụ chất lượng cao, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.
Kết luận
Trong hơn một thập kỷ thực hiện công cuộc đổi mới vừa qua, Thủ đô Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, giải quyết việc làm cho người lao động đang trở thành vấn đề bức xúc và là mối quan tâm thường trực của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thành phố trong giai đoạn hiện nay. Đề tài “Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm trên địa bàn thành phố Hà Nội” đã đưa ra một bức tranh toàn cảnh về tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm ở Thủ đô Hà Nội, phân tích các nguyên nhân từ đó đưa ra các giải pháp. Cụ thể:
Dựa trên những phân tích trên, đề tài đã đề xuất một số giải pháp theo đó cần phải xây dựng cơ chế, chính sách hợp lý phát triển sản xuất ở tất cả các thành phần kinh tế, trong đó quan tâm phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Một là, xây dựng hệ thống cơ chế chính sách hợp lý khuyến khích phát triển sản xuất ở tất cả các thành phần kinh tế. Đối với các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần thiết lập một môi trường (khuôn khổ pháp lý, quy chế thành lập và giải thể, quyền tiếp cận đất đai, laoa động, tín dụng, thuế và chính sách ngọai thương...) hữu hiệu cho khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển. Đối với khu vực kinh tế quốc doanh cần có những thay đổi về tổ chức, quản lý để lao động làm việc trong các tổ chức này có đủ việc làm, tiền lương ổn định tương xứng với sức lao động và mức sống chung trong xã hội.
- Hai là, tạo động lực mới cho phát triển nông thôn, giải quyết việc làm theo các hướng; đa dạng hóa sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp; phát triển các hoạt động công nghiệp, chế biến nông-lâm-thủy sản; phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp; phát triển rộng rãi các hoạt động thương mại và dịch vụ nông thôn.
- Ba là, ổn định quy mô dân số. Yêu cầu về bảo đảm việc là cho dân cư phụ thuộc rất lớn vào điều kiện phát triển kinh tế, tình hình ổn định chính trị. Muốn bảo đảm công ăn việc làm thích hợp cho mọi người thì xã hội phải có một cơ sở vật chất phát triển tương ứng mà việc làm tạo nên chúng làmột quá trình tích lũy lâu dài. Do vậy phát triển dân số vì thế phải xuất phát từ khả năng tạo ra công ăn việc làm và điều kiện kinh tế cụ thể của thủ đô.
- Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn lao động, giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về chất lượng lao động, nâng cao chất lượng và xã hội hóa công tác đào tạo nghề cho lao động thủ đô. Triển khai quá trình hướng nghiệp đào tạo dậy nghề ngay từ trường phổ thông cho học sinh, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm xúc tiến việc làm thuộc sự quản lý của thành phố, tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
- Năm là, xây dựng mạng lưới thông tin thị trường lao động đến cấp phường xã, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống các kênh thông tin hoạt động có hiệu quả trong việc cung cấp các thông tin về nhu cầu lao động trên thị trường lao động thế giới cũng như trong nước, những yêu cầu về chất lượng và chuyên môn cũng như ngành nghề cần tuyển dụng ở thị trường lao động của từng nước để lên kế hoạch tuyển dụng và đào tạo lao động trong nước cho xuất khẩu.
Đề tài cũng đưa ra một số kiến nghị tập trung vào những vấn đề cơ chế chính sách, các biện pháp tài chính, những kiến nghị về tổ chức quản lý và phối hợp thực hiện.
Bước vào thế kỷ mới, Thủ đô Hà Nội đang đứng trước những vận hội, thời cơ và thách thức lớn trong sự nghiệp phát triển. Để xứng đáng là “trái tim của cả nước, đầu não chính trị – hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao lưu quốc tế” theo tinh thần của Nghị quyết số 15/NQ/TW ngày 15 tháng 12 năm 2000 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô thời kỳ 2001 – 2010, công tác giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố Hà Nội cần có những chuyển biến về chất góp phần thực hiện những nhiệm vụ đã đề ra.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3057.doc