Đề tài Phương pháp bảo vệ trongFTTX

LỜI MỞ ĐẦU ---oOo--- Internet băng rộng với công nghệ ADSL (sử dụng cáp đồng) đã tạo nên bước tiến bùng nổ trong việc truyền tải dữ liệu. Với khả năng kết nối, truyền dữ liệu gấp hàng chục đến hàng trăm lần modem quay số, ADSL đã biến Internet trở nên gần gũi và phổ biến với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Tuy nhiên, công nghệ ADSL đang phải đứng trước nguy cơ nhường vị trí thống trị bấy lâu nay cho một loại công nghệ truyền dẫn mới hơn, đó là công nghệ truyền dẫn cáp quang, thông qua kiến trúc mạng sử dụng cáp quang để kết nối viễn thông có tên FTTx. Mạng FTTx hiện đang được xem là sẽ đóng một vai trò rất quan trọng do tiềm năng cung cấp băng thông cho khách hàng lớn hơn so với cáp đồng, đáp ứng nhu cầu truyền thoại, dữ liệu và video trên nền IP. Các công nghệ thường được sử dụng để tạo dựng các mạng FTTx, bao gồm cả các mạng quang thụ động, các đường dây thuê bao số DSL, và các công nghệ nén video. Do đó để mạng FTTx hoạt động ổn định, cung cấp dịch vụ một cách liên tục cho khách hàng thì một số giải pháp bảo vệ cũng phải được triển khai. Tìm hiểu các phương pháp bảo vệ trong mạng truy nhập sợi quang là nội dung chính của đồ án tốt nghiệp này. Nội dung của đồ án bao gồm: Chương 1: Phân tích các công nghệ trong mạng truy nhậpChương 2: Xu hướng phát triển của mạng truy nhậpChương 3: Các đặc điểm kỹ thuật trong mạng quang thụ độngChương 4: Các phương pháp bảo vệ trong FTTxChương 5: Các dịch vụ trên mạng FTTx và xu hướng phát triển.Chương 6: Chương trình Demo. Do có sự hạn chế về mặt thời gian cũng như năng lực của cá nhân nên nội dung của đồ án không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em mong các thầy cô giáo và các bạn quan tâm đóng góp ý kiến thêm để đồ án này càng được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo ThS. Nguyễn Tường Thành đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đồ án tốt nghiệp. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Kỹ Thuật & Công Nghệ trường Đại Học Quy Nhơn đã dạy dỗ chỉ bảo em trong suốt khóa học này. Kính mong quí thầy cô nhận xét và góp ý để đồ án của em được hoàn thiện hơn. Tp.Qui Nhơn, ngày 10 tháng 06 năm 2010 Sinh viên Phan Văn Vĩnh MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương 1 PHÂN TÍCH CÁC CÔNG NGHỆ TRONG MẠNG TRUY NHẬP 3 1.1. Giới thiệu tổng quan về mạng truy nhập: 3 1.1.1. Định nghĩa mạng truy nhập: 3 1.1.2. Các đặc điểm của mạng truy nhập: 4 1.2. Các công nghệ truy nhập hiện nay: 4 1.2.1. Công nghệ truy nhập hữu tuyến: 5 1.2.1.1. Công nghệ truy nhập cáp đồng: 5 1.2.1.2. Công nghệ truy nhập cáp quang: 7 1.2.2. Công nghệ truy nhập vô tuyến: 7 1.3. Kết luận: 10 Chương 2 XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA MẠNG TRUY NHẬP 11 2.1. Vấn đề nghẽn cổ chai băng thông của mạng truy nhập hiện nay: 11 2.2. Các giải pháp băng rộng hiện tại: 13 2.2.1. DSL 13 2.2.1.1. Tổng quát về công nghệ DSL: 13 2.2.1.2. Các loại DSL 15 2.2.2. Mạng truyền hình cáp: 20 2.2.3. WiMAX 23 2.3. Xu hướng phát triển của mạng truy nhập: 27 2.3.1. Nhược điểm của các giải pháp băng rộng hiện tại: 27 2.3.2. Giải pháp sợi quang: 28 2.4. Kết luận 32 Chương 3 CÁC ĐẶC ĐIỂM KỸ THUẬT TRONG MẠNG QUANG THỤ ĐỘNG 33 3.1. Giới thiệu PON 33 3.1.1. Định nghĩa: 33 3.1.2. Các mô hình của PON: 33 3.1.3. Các thành phần trong PON 37 3.1.3.1. Thành phần thụ động: 38 3.1.3.2. Thành phần chủ động: 39 3.2. Các kỹ thuật đa truy nhập dùng trong PON: 42 3.2.1. TDMA PON 43 3.2.2. WDMA PON 46 3.3. Các công nghệ trong TDMA PON 47 3.3.1. ATM PON 48 3.3.2. Ethernet PON 49 3.3.3. GPON 50 3.4. Kết luận: 51 Chương 4 CÁC PHƯƠNG PHÁP BẢO VỆ TRONG FTTx 52 4.1. Các mô hình bảo vệ dạng cây: 52 4.1.1. Cây không có sự bảo vệ: 53 4.1.2. Bảo vệ trung kế: 54 4.1.3. Bảo vệ nhánh: 56 4.1.4. Bảo vệ trung kế và nhánh: 57 4.1.5. Bảo vệ cây: 59 4.1.6. Thống kê xác suất không dùng được của các mô hình PON dạng cây: 60 4.2. Giới thiệu một số mô hình bảo vệ dạng vòng: 63 4.2.1. Các mô hình bảo vệ dạng vòng 63 4.2.2. Phân tích giá cả và tỷ lệ mất gói: 64 4.3. Kết luận: 68 Chương 5 CÁC DỊCH VỤ TRÊN MẠNG FTTx VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN 69 5.1. Xây dựng các khối bộ ba dịch vụ (Triple Play): 69 5.2. Kiểm tra các dịch vụ Triple Play: 71 5.2.1. Dịch vụ IP Video: 71 5.2.2. Dịch vụ thoại IP: 74 5.2.3. Dịch vụ dữ liệu IP Internet: 75 5.2.4. Gói ba dịch vụ (Triple Play) cần bộ đo kiểm cả ba dịch vụ (Triple Testing): 76 5.3. Xu hướng phát triển 77 5.4. Kết luận 78 Chương 6 CHƯƠNG TRÌNH DEMO 79 6.1. Giới thiệu: 79 6.2. Thực hiện chương trình: 79 KẾT LUẬN 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO 99

doc116 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2097 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương pháp bảo vệ trongFTTX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: Nhờ khả năng hỗ trợ các kiểu điều chế mức cao, WiMAX có thể cung cấp tốc độ dữ liệu lớn cho user giúp nâng cao dung lượng của hệ thống. 2.3. Xu hướng phát triển của mạng truy nhập: 2.3.1. Nhược điểm của các giải pháp băng rộng hiện tại: Các giải pháp băng rộng kể trên như DSL, Cable Modem hay WiMAX không tối ưu để vận chuyển luồng dữ liệu. Trong khi ADSL cung cấp nhiều băng thông hơn so với một modem quay số tương tự, nhưng nó cũng không thể được xem là băng rộng bởi vì nó không phục vụ tốt được những ứng dụng thoại, dữ liệu và video. Thêm vào đó, khoảng cách vật lý mà một CO (Central Office) có thể bao phủ với DSL bị giới hạn trong khoảng 18.000 ft (5,5 km). Thậm chí, để tăng mức độ bao phủ của DSL, remote DSLAM có thể được triển khai đến gần thuê bao. Thường thì nhà vận hành mạng không cung cấp dịch vụ DSL đến vị trí thuê bao xa CO hơn 12.000 ft vì giá triển khai và bảo dưỡng sẽ tăng. Trong mạng Cable Modem, chỉ một vài kênh tần số vô tuyến được chỉ định cho dữ liệu, trong khi phần lớn băng thông phục vụ cho dịch vụ truyền hình tương tự. Giải pháp WiMAX tuy có tốc độ truyền cao và phạm vi phủ sóng lớn. Nhưng vẫn chưa tối ưu bằng so với sử dụng mạng truy nhập sợi quang (sẽ giới thiệu ở phần tiếp theo). Hầu hết các nhà vận hành mạng nhận thấy rằng cần có một giải pháp truy nhập mới với dữ liệu tập trung là cần thiết, nó phải rẻ tiền, đơn giản, và có khả năng phân phối thoại, dữ liệu và dịch vụ truyền hình đến khách hàng trên một mạng duy nhất. Kiến trúc mới này sẽ được tối ưu cho luồng dữ liệu IP (Internet Protocol), giao thức thông tin đang thịnh hành hiện nay. 2.3.2. Giải pháp sợi quang: Sợi quang với những ưu điểm như băng thông cao, suy hao thấp, ít xuyên nhiễu (đã trình bày ở chương 1) sẽ là giải pháp băng rộng lý tưởng cho mạng truy nhập. Có thể triển khai sợi quang trong mạng truy nhập theo mô hình điểm-điểm, mô hình sao chủ động hay mô hình sao thụ động: Một cách đơn giản nhất để triển khai sợi quang trong mạng truy nhập là dùng mô hình Home Run Fiber ( hay còn gọi là mô hình điểm-điểm), tức là nối sợi quang trực tiếp từ CO (Central Office) đến mỗi thuê bao. Giả sử có N thuê bao với khoảng cách trung bình từ mỗi ONU (Optical Network Unit) đến OLT (Optical Line Terminal) là L km thì ta cần NxL km sợi quang và 2N bộ thu phát. Hình 2.8: Mô hình điểm-điểm Trong cấu hình điểm-điểm đã mô tả ở trên, để giảm chiều dài sợi quang thì ta có thể triển khai một Remote Switch tại vị trí tập trung các thuê bao để đa hợp và giải đa hợp tín hiệu giữa các thuê bao và CO, đây còn gọi là mô hình sao chủ động. Mô hình này chỉ cần L km chiều dài sợi nhưng cần 2N+2 bộ thu phát. Hình 2.9: Mô hình sao chủ động Việc dùng cấu hình Remote Switch ở trên vẫn chưa tối ưu vì còn phải tốn nguồn để duy trì hoạt động cho thiết bị này (đây là thiết bị chủ động). Vì thế, thật là hợp lý khi thay thế một Remote Switch chủ động bằng một bộ tách quang thụ động không đắt tiền. Khi đó ta có một mạng quang thụ động (PON: Passive Optical Network). PON sẽ giảm tối thiểu số các bộ thu phát quang, các đầu cuối CO, và chiều dài sợi. Ví dụ mô hình PON ở hình 2.8 có L km chiều dài sợi và N+1 bộ thu phát. Hình 2.10: Mô hình sao thụ động Bảng 2.4: So sánh các mô hình trong mạng truy nhập quang Mô hình Điểm - Điểm Sao chủ động PON Ưu điểm Kiến trúc đơn giản. Băng thông cao do mỗi thuê bao dùng riêng một sợi quang. Giảm được chiều dài sợi quang so với mô hình điểm -điểm. Giá thành giảm, công tác bảo trì đơn giản. Tối ưu về chiều dài sợi và các bộ thu phát so với 2 mô hình trước. Nhược điểm Đắt tiền vì việc phải triển khai sợi quang và các bộ thu phát riêng cho từng thuê bao. Băng thông thấp hơn mô hình điểm-điểm. Số bộ thu phát cao hơn mô hình điểm-điểm Tốn năng lượng và công tác bảo trì cho thiết bị Remote Switch. Qua bảng so sánh trên ta thấy PON là một giải pháp tối ưu cho mạng truy nhập hiện nay. Chương tiếp theo sẽ trình bày các chi tiết kỹ thuật trong PON. 2.4. Kết luận Chương này trình bày sự tăng nhanh của lưu lượng luồng dữ liệu và các giải pháp băng rộng hiện tại (DSL, Cable Modem, WiMAX), qua đó cho ta thấy rõ được hiện tượng nghẽn cổ chai băng thông trong mạng truy nhập. Đồng thời, chương này còn nêu ra xu hướng phát triển của mạng truy nhập và nhược điểm của các giải pháp băng rộng hiện tại do đó sợi quang với những ưu điểm như băng thông cao, suy hao thấp, ít xuyên nhiễu... sẽ là giải pháp băng rộng lý tưởng cho mạng truy nhập. Qua sự so sánh các mô hình triển khai trong mạng truy nhập quang sẽ cho chúng ta thấy PON (mạng quang thụ động) là một giải pháp truy nhập băng rộng mới, tối ưu cho mạng truy nhập hiện nay. Chương 3 CÁC ĐẶC ĐIỂM KỸ THUẬT TRONG MẠNG QUANG THỤ ĐỘNG 3.1. Giới thiệu PON 3.1.1. Định nghĩa: Mạng quang thụ động (PON) hay còn gọi là mạng quang không nguồn là phần mạng truy nhập dùng sợi quang làm môi trường truyền dẫn. Ở trên môi trường truyền dẫn quang này chỉ có các thiết bị thụ động (không nguồn) như là sợi quang và bộ tách/ghép. PON ra đời nhằm hướng tới việc khắc phục hiện tượng nghẽn cổ chai băng thông ở mạng truy nhập hiện nay. Bằng cách đưa ra khoảng băng thông giữa T1 (1,5 Mbps) và OC3 (155 Mbps) để phục vụ cho mạng truy nhập (xem hình 3.1), PON đã giải quyết được vấn đề mà trước đây các kỹ thuật truy nhập khác không làm được. 64 k 144 k 1.5 M 45 M 155 M 1 G POTS ISDN DSL T1 T3 OC-3 Khoảng băng thông đáp ứng của PON Băng thông (bps) Dịch vụ Hình 3.1: Khoảng băng thông đáp ứng của các loại dịch vụ 3.1.2. Các mô hình của PON: PON là một mạng điểm-đa điểm, với một CO phục vụ nhiều thuê bao. Có nhiều mô hình tương thích với mạng truy nhập loại này, bao gồm cây, vòng hay bus (xem hình 3.2). (a) Mô hình cây (sử dụng bộ tách 1:N) (b) Mô hình vòng (dùng 2x2 tap coupler) (c) Mô hình bus (dùng 1x2 tap coupler) (d) Mô hình cây với sợi trung kế dự phòng (dùng bộ tách 2xN) Hình 3.2: Các mô hình PON Dùng 1:2 tap coupler quang và 1:N splitter quang để tách/ghép tín hiệu, PON có thể triển khai một cách mềm dẻo trong bất cứ mô hình nào. Ngoài ra, PON cũng có thể triển khai trong cấu hình dự phòng (xem chi tiết ở chương 4). Sự dự phòng có thể được thêm vào chỉ trong một phần hay tất cả các thành phần của PON, ví dụ như dự phòng trung kế (trunk) (xem hình 3.2d). Tất cả sự truyền dẫn trong PON được biểu diễn giữa một OLT (Optical Line Terminal) và một ONU (Optical Network Unit). OLT ở phía CO và kết nối mạng truy nhập quang OAN (OAN:Optical Access Network) đến mạng MAN (Metropolitan Area Network) hay mạng WAN, hay còn gọi là mạng backbone hoặc long-haul network. Tùy theo vị trí của ONU mà ta có các kiến trúc khác nhau: Nếu ONU nằm tại vị trí khách hàng ta có kiến trúc FTTH (Fiber To The Home) và FTTB (Fiber To The Building). Nếu ONU đặt tại vỉa hè, ta có kiến trúc FTTC (Fiber To The Curb). Ưu điểm của việc dùng PON trong mạng truy nhập thuê bao là: PON tăng khoảng cách truyền giữa CO và khách hàng. Một PON có thể hoạt động với khoảng cách 20 km cho mạch vòng (điều này vượt quá khả năng của DSL). PON tiết kiệm sợi ở cả tổng đài cục bộ và mạch vòng. Chỉ một thành phần của sợi cần cho trung kế, và chỉ một port trên PON được yêu cầu trong CO. Điều này cho phép một mức độ tập trung thiết bị CO dày đặc và ít tốn nguồn. PON cung cấp băng thông cao hơn vì dùng sợi quang. PON có thể dùng kỹ thuật WDMA (Wavelength Division Multiple Access) để tăng dung lượng. PON loại ra sự cần thiết của việc lắp đặt các bộ đa hợp và giải đa hợp chủ động trong vùng tách/ghép, vì thế nhà vận hành mạng không cần phải bảo trì và cung cấp nguồn cho các thiết bị đó nữa. Thay cho các thiết bị chủ động trong những vùng này, PON dùng các thành phần thụ động. 3.1.3. Các thành phần trong PON Trong PON có hai thành phần: Các thành phần thụ động được đặt ở phần mạng phân phối (hay còn gọi là phần ngoại vi) bao gồm một sợi cáp quang đơn mode, bộ tách/ghép, các khớp nối và mối hàn. Các thành phần chủ động như là OLT và các ONU được đặt tại 2 đầu của PON. Hình 3.3: Các thành phần chủ động và thụ động trong một mạng PON 3.1.3.1. Thành phần thụ động: Sợi quang Trong PON dùng sợi quang đơn mode để truyền tín hiệu vì sợi đơn mode có thể truyền được khoảng cách xa hơn (so với sợi đa mode) do không bị ảnh hưởng của tán sắc mode. Sợi đơn mode chuẩn được dùng hiện nay có suy hao 0,2 dB/km. Bộ tách/ghép quang: Khi lựa chọn các bộ tách ghép quang thì cần chú ý đến các thông số sau: Suy hao chèn (Insertion loss): Là sự suy hao công suất do quá trình sản xuất không hoàn thiện. Thường thì giá trị này nằm trong khoảng 0,1 đến 1 dB. Độ định hướng (Directive): Là tổng số công suất ngõ vào bị rò rỉ từ một ngõ vào sang ngõ vào khác. Bộ tách/ghép được xem là có độ định hướng cao nếu thông số này vào khoảng -40 đến -50 dB. 3.1.3.2. Thành phần chủ động: CO Trong CO gồm có OLT và các card giao tiếp. CO có nhiệm vụ cung cấp giao tiếp giữa PON và nhà cung cấp dịch vụ dữ liệu, truyền hình, và mạng điện thoại. Ngoài ra CO cũng kết nối đến nhà cung cấp dịch vụ hoạt động mạng thông qua một hệ thống quản lý nhân tố (EMS: Element Management System). Chức năng và đặc trưng của CO bao gồm: Giao tiếp đa dịch vụ với mạng WAN. Giao tiếp Gigabit Ethernet với PON … Chuyển mạch và định tuyến lớp 2 và 3. Đưa ra chất lượng dịch vụ và thoả thuận mức dịch vụ. Lưu lượng tập trung. Giao tiếp giữa mạng WAN và CO thông qua các loại thiết bị sau: Bộ nối chéo số (DSC: Digital Cross Connect) có nhiệm vụ vận chuyển lưu lượng TDM (Time Division Multiplex) không chuyển mạch (non-switched) và không chuyển mạch cục bộ (non-locally switched) đến mạng điện thoại. Giao tiếp DSC thông thường bao gồm DS1, DS3, STS-1 và OC-3. Voice gateway sẽ vận chuyển lưu lượng thoại TDM chuyển mạch cục bộ (locally switched TDM/voice traffic) đến mạng chuyển mạch thoại công cộng (PSTN: Public Switched Telephone Network ). IP router hay ATM Switch sẽ gửi luồng dữ liệu vào mạng dữ liệu. Những thiết bị mạng video sẽ vận chuyển luồng video vào mạng video. Hình 3.4: Hình ảnh thực tế của một OLT,OLT trong hình có thể dùng cho 704 thuê bao ONU ONU cung cấp giao tiếp giữa dữ liệu, video và thoại của khách hàng vào PON. Chức năng đầu tiên của ONU là nhận lưu lượng dưới dạng quang và chuyển chúng thành dạng mong muốn của khách hàng (Ethernet, IP multicast, T1,… ). Bởi vì mỗi một ONU định vị tại vị trí khách hàng trong ứng dụng FTTB hay FTTH nên thiết kế và giá thành của ONU là chìa khoá của sự chấp nhận và triển khai của hệ thống PON. Điển hình sự thanh toán ONU chiếm 70% giá thành hệ thống cho FTTB và trong FTTH là 80%. Các chức năng của ONU bao gồm: Giao tiếp khách hàng với POTS, T1, DS3, 10/100 BaseT, IP multicast và dịch vụ dành riêng bước sóng. Khả năng chuyển mạch và định tuyến lớp 2, 3 … Cung cấp dữ liệu tốc độ 64 kbps đến 1 Gbps. Giao tiếp chuẩn Ethernet nên không cần đến DSL modem hay Cable Modem nữa. Hình 3.5: Hình ảnh thực tế của một ONU EMS EMS quản lý những nhân tố khác nhau của PON và cung cấp giao tiếp với nhà cung cấp dịch vụ hoạt động mạng. Trách nhiệm quản lý của nó bao gồm quản lý tất cả các lỗi (Full range of fault), cấu hình (Configuration), thanh toán tiền (Accounting), thực hiện (Performance), và chức năng bảo mật (Security). Gọi chung là FCAPS. Chức năng và đặc trưng của EMS bao gồm: Chức năng FCAPS thông qua một giao diện với khách hàng. Khả năng quản lý nhiều thiết bị trong hệ thống PON. Hỗ trợ đồng thời hàng trăm giao diện với khách hàng. Giao tiếp chuẩn vào sự hoạt động của mạng lõi. 3.2. Các kỹ thuật đa truy nhập dùng trong PON: Trong hướng xuống (từ một OLT đến nhiều ONU), PON là một mạng điểm-đa điểm. OLT có thể dùng toàn bộ băng thông cho hướng xuống tại tất cả các thời điểm. Ở hướng lên (từ nhiều ONU đến OLT), PON là một mạng đa điểm-điểm, tức là nhiều ONU truyền đến một OLT. Vì thế, luồng dữ liệu từ những ONU khác nhau nếu truyền dữ liệu đồng thời có thể gây đụng độ. Do đó, trong hướng lên PON cần triển khai một vài kỹ thuật phân chia kênh để chống đụng độ và phân chia công bằng dung lượng và tài nguyên kênh trung kế sợi (sợi quang nằm giữa OLT và bộ tách/ghép). 3.2.1. TDMA PON Hình 3.6: Mô hình TDMA PON Giải pháp PON đa truy nhập phân chia theo thời gian (TDMA PON: Time Division Multiple Access PON) được đưa ra để ngăn chận đụng độ dữ liệu, tức là mỗi ONU chỉ được truyền trong khe thời gian dành riêng của nó. Trong đó, hướng lên dùng một bước sóng để truyền dữ liệu và hướng xuống dùng một bước sóng khác để truyền dữ liệu. Ở mỗi phía (ONU và OLT) đều có bộ thu WDM để tách các kênh bước sóng cho bộ thu và bộ phát dữ liệu (xem hình 3.6). Hình 3.7: Truyền dữ liệu xuống trong TDMA PON Việc truyền dữ liệu xuống từ OLT đến nhiều ONU có thể thực hiện theo phương thức quảng bá hay multicast. Trong hình 3.7 mỗi gói mang một header duy nhất xác định dữ liệu nó dự định phân phát cho ONU-1, ONU-2, hay ONU-3. Tại bộ tách, luồng được phân chia thành 3 tín hiệu riêng rẽ, mỗi tín hiệu mang tất cả các gói gửi đến ONU. ONU sẽ nhận gói được gửi cho khách hàng (user) của mình và bỏ đi các gói mà gửi cho user trong ONU khác. Ví dụ, ONU-1 nhận gói 1, 2, và 3, tuy nhiên nó chỉ phân phối gói 1 đến end user 1. Hình 3.8: Truyền dữ liệu lên trong TDMA PON Hình 3.8 chỉ ra luồng lên được quản lý như thế nào. Bằng cách tận dụng phân chia đa hợp theo thời gian, mỗi khe thời gian được dành riêng cho một ONU. Khe thời gian được đồng bộ để gói lên từ một ONU không gây trở ngại với các gói dữ liệu từ ONU khác khi được ghép vào chung một sợi. Ví dụ, ONU-1 truyền gói của nó trong khe thời gian đầu tiên, ONU-2 truyền gói của nó trong khe thời gian thứ hai, và ONU-3 truyền gói của nó trong khe thời gian thứ 3. Một trong những ưu điểm của TDMA PON là tất cả ONU có thể hoạt động chung trên một bước sóng, tức là chỉ có một loại ONU cho tất cả các khách hàng. Tại OLT cũng cần một bộ thu đơn (không cần dùng bộ thu điều chỉnh bước sóng như WDMA PON). Dùng phương pháp này thì băng thông dành cho ONU sẽ thấp hơn (so với WDMA PON). Tuy nhiên, đặc tính này cũng cho phép TDMA PON thay đổi hiệu quả băng thông chỉ định cho mỗi ONU bằng cách thay đổi kích cỡ khe thời gian, hay thậm chí triển khai đa hợp thống kê để tận dụng băng thông dùng được trong PON. 3.2.2. WDMA PON Một phương pháp cũng có thể dùng để phân chia những kênh ONU là dùng đa truy nhập ghép kênh theo bước sóng WDMA (WDMA: Wavelength Division Multiple Access), tức là mỗi ONU hoạt động trên một bước sóng khác nhau. Hình 3.9: Mô hình WDMA PON Như minh họa trong hình 3.9: Ở hướng lên mỗi user dùng một bước sóng khác nhau (từ λ5 đến λ8 ) để truyền dữ liệu. Các bước sóng này sẽ được bộ đa hợp WDM ghép lại và truyền trên sợi quang trung kế đến OLT. Ở hướng xuống OLT sẽ phát các bước sóng từ λ1 đến λ4 để truyền dữ liệu cho các user. Các bước sóng này sẽ được tách ra tại bộ giải đa hợp WDM để truyền đến user tương ứng. Giải pháp này yêu cầu giá thành cao vì: Thứ nhất nó yêu cầu một bộ thu điều chỉnh được hoặc một bộ thu mảng tại OLT để có thể nhận được nhiều kênh bước sóng. Ngoài ra nó còn yêu cầu phải có nhiều loại ONU, mỗi ONU sẽ phát bước sóng khác nhau. Trong mỗi ONU này sẽ dùng một laser với độ rộng phổ hẹp và có thể điều khiển được. Nếu ONU không đủ tiêu chuẩn sẽ gây ra nhiễu với những ONU khác trong PON. Dùng laser điều chỉnh được trong ONU sẽ kiểm soát được vấn đề này nhưng giá cao. Tuy nhiên giải pháp này có băng thông cao hơn so với TDMA PON Bảng 3.1: Bảng so sánh các kỹ thuật đa truy nhập Kỹ thuật Dung lượng Giá thành Khả năng cải tiến Độ tin cậy Điểm - điểm Cao nhất Cao nhất Dễ Tốt TDMA PON Cao Thấp Khó Tốt nhất WDMA PON Cao hơn TDMA PON nhưng nhỏ hơn điểm - điểm Cao hơn TDMA PON nhưng nhỏ hơn điểm- điểm Dễ Tốt hơn điểm-điểm nhưng nhỏ hơn TDMA PON 3.3. Các công nghệ trong TDMA PON Vì có nhiều ưu điểm hơn so với WDMA PON nên TDMA PON là kỹ thuật đa truy nhập ưa thích hiện nay. Có nhiều kiến trúc dựa trên TDMA PON đã được tiêu chuẩn hoá, bao gồm ATM PON (Asynchronous Transfer Mode PON), GPON (Gigabit PON) và EPON (Ethernet PON). 3.3.1. ATM PON Năm 1995, một nhóm các nhà vận hành mạng với tên gọi là FSAN (Full Service Access Netwoork) đã được thành lập với mục đích thống nhất mạng truy nhập băng rộng. Các thành viên FSAN đã phát triển một mạng truy nhập PON đặc trưng với ATM (Asynchronous Transfer Mode) là giao thức lớp 2. Đó gọi là ATM PON hay APON, sau này còn được gọi là BPON (Broadband PON) tức là PON băng rộng. Hiểu một cách đơn giản là dùng kiến trúc PON cho mạng truy nhập với phương thức đóng gói dữ liệu để truyền là ATM. Việc chọn phát triển APON tại thời điểm đó là do: Thứ nhất, chọn công nghệ ATM bởi vì nó tương thích với nhiều giao thức. Thứ hai, chọn PON bởi vì nó là giải pháp quang băng rộng kinh tế nhất. Dạng ATM PON này đã được chấp nhận là một chuẩn của ITU-T (G.983). Khuyến nghị G.983.1 đưa ra một kiến trúc BPON đối xứng với tốc độ truyền lên và xuống là 155 Mbps. Vào năm 2001 đã được chỉnh sửa lại là tốc độ bất đối xứng với 155 Mbps truyền lên và 622 Mbps truyền xuống. Header (5 byte) Payload (48 byte) ATM cell (53 byte) Hình 3.10 : Cấu trúc cell ATM Tuy nhiên việc dùng ATM PON cho mạng truy nhập bộc lộ những hạn chế sau: Nguyên lý của ATM là chia dữ liệu ra thành từng gói nhỏ có kích thước cố định 53 byte (48 byte payload và 5 byte overhead). Dạng dữ liệu này không tương xứng với giao thức Internet (IP: Internet Protocol) bởi vì IP có thể truyền gói dữ liệu với chiều dài lên đến 65,535 byte. Việc phân đoạn dữ liệu thành 48 byte payload và 5 byte overhead sẽ làm mất thời gian và phức tạp. Vì thế giá thành của ONU và OLT sẽ tăng lên. Hơn nữa, mỗi gói nhỏ đều cần 5 byte overhead do đó băng thông cũng sẽ bị lãng phí. Nếu một cell ATM bị hư hỏng hay mất đi thì sẽ làm hỏng cả gói IP. Nhưng các cell còn lại trong gói IP đó vẫn được truyền và nhận (và sẽ loại bỏ sau đó). Vì thế sẽ làm lãng phí băng thông. Ngoài ra, nó cũng không cung cấp đủ khả năng cho video, không đủ băng thông, phức tạp và thiết bị thì đắt tiền. Với những nhược điểm nêu trên, APON không được xem là giải pháp cho mạng truy nhập, giải pháp mới hiện nay là EPON. 3.3.2. Ethernet PON Đầu năm 2001, IEEE thành lập một nhóm gọi là EFM (Ethernet in the First Mile). Nhóm này có nhiệm vụ triển khai kỹ thuật Ethernet vào mạng truy nhập thuê bao. Dựa trên nền tảng Ethernet, nhóm này tập trung vào triển khai Ethernet PON. Ethernet PON (EPON) là một mạng PON cơ bản mà dữ liệu truyền trong nó được đóng gói dưới dạng khung Ethernet được định nghĩa theo chuẩn IEEE 802.3. Ngày nay, với sự phát triển của Fast Ethernet, Gigabit Ethernet và bây giờ là 10 Gigabit Ethernet thì việc triển khai PON dựa trên công nghệ Ethernet (còn gọi là EPON) sẽ loại trừ được những nhược điểm của APON, tức là cung cấp băng thông lớn hơn cho các dịch vụ, kiến trúc đơn giản và với giá thành thấp hơn. So với APON, EPON có những ưu điểm sau: Dữ liệu trong Ethernet PON được vận chuyển với chiều dài gói biến đổi và có thể lên đến 1,518 byte theo chuẩn IEEE 802.3 cho Ethernet. Điều này giúp EPON tương xứng với IP hơn APON. Việc thiết lập overhead trong EPON mất 38 byte, nhưng với kích thước gói biến đổi theo chuẩn Ethernet (có thể là 40 byte, 576 byte hay 1500 byte) thì việc lãng phí băng thông trong việc thiết lập overhead của EPON là thấp hơn APON. 8 byte preamble 14 byte Ethernet Header Payload (nhiều kích cỡ, có thể lên đến 1500 byte) 4 byte FCS (Frame Check Sequence) 12 byte IFG (Interframe Gap) Hình 3.11: Cấu trúc khung Ethernet 3.3.3. GPON Với sự xuất hiện của EPON tốc độ Gigabit, nhóm FSAN đã thấy rõ sự cần thiết của một kiến trúc mạng với tốc độ bit cao hơn và được cải tiến một cách có hiệu quả cho luồng dữ liệu. Tuy nhiên, với đặc điểm kỹ thuật của lớp vật lý trong BPON thì khó có thể triển khai tốc độ bit trên 622 Mbps. Mà PON dựa trên ATM thì lại không hiệu quả cho luồng dữ liệu IP. Để khắc phục điều này, năm 2001, FSAN đã nỗ lực thiết lập ra một hệ thống PON hoạt động ở tốc độ trên 1 Gbps, gọi là GFP PON (Generic Framing Procedure PON), hay còn gọi là GPON (Gigabit PON) và hiện nay đã được công nhận là một chuẩn của ITU-T (G.984). Ưu điểm: Tốc độ cao (truyền xuống 2,5 Gbps, tốc độ truyền lên 1,2 Gbps). GPON cho phép truyền cả ATM cell, dạng khung Ethernet và TDM. Tuy nhiên giải pháp này đắt tiền hơn so với các giải pháp ở trên. Bảng 3.2: So sánh các công nghệ BPON, EPON ,GPON Kỹ thuật BPON EPON GPON Tốc độ (Mbps) Hướng xuống: 1244, 622, 155 Hướng lên: 622,155 Hướng xuống: 1244 Hướng lên: 1244 Hướng xuống: 2488, 1244 Hướng lên: 2488,1244, 622, 155 Tỷ lệ tách 32 16 64 Chế độ truyền ATM Ethernet ATM, Ethernet, TDM Video Overlay Có Không Có Chuẩn ITU-T G.983.x IEEE 802.11 ITU-T G.984.x Khoảng cách 20 km 10 đến 20 km Tối đa 60 km 3.4. Kết luận: Chương này giới thiệu tổng quan về mạng quang thụ động PON, tập trung trình bày các đặc điểm kỹ thuật của nó như các kỹ thuật đa truy nhập (WDMA, TDMA), các công nghệ (APON, EPON, GPON), đồng thời so sánh ưu nhược điểm của các đặc điểm kỹ thuật này. Chương 4 CÁC PHƯƠNG PHÁP BẢO VỆ TRONG FTTx š@&?› Những mạng truy nhập khác nhau thì yêu cầu những giản đồ bảo vệ khác nhau. Để mạng truy nhập sợi quang hoạt động ổn định, cung cấp dịch vụ liên tục và đáng tin cậy cho khách hàng thì cần phải triển khai các mô hình bảo vệ. Để đạt được điều này, một sự dự phòng phải được thêm vào PON bằng cách cung cấp nhiều sự thay thế. Việc dự phòng có thể được thêm vào trong một phần hay toàn bộ trong mô hình PON. 4.1. Các mô hình bảo vệ dạng cây: Gọi: uc là xác suất không dùng được của một thành phần c. Ug là xác suất không dùng được của một nhóm các thành phần. Cả uc và Ug đều được mong đợi là nhỏ. Ta có các nhóm thành phần sau: Nhóm trung kế (trunk group) gồm sợi trung kế (từ OLT đến splitter), bộ phát OLT và bộ thu OLT. Nhóm nhánh (branch group) gồm sợi nhánh (từ splitter đến ONU), bộ thu ONU và bộ phát ONU. Ngoài ra còn một nhóm riêng chỉ có bộ tách (splitter) gọi là nhóm tách (splitter group). Xác suất không dùng được của nhóm trung kế được tính toán như sau: Utrunk= 1 – (1 – uOLT_Tx)(1 –uOLT_Rx)(1 –utrunk) (4.1) Với: uOLT_Tx là xác suất không dùng được của bộ phát OLT. uOLT_Rx là xác suất không dùng được của bộ thu OLT. Và utrunk là xác suất không dùng được của sợi quang trung kế. Tương tự, xác suất không dùng được của nhóm nhánh là: Ubranch = 1 – (1 –uONU_Tx)(1 –uONU_Rx)(1 –ubranch) (4.2) Với: uONU_Tx là xác suất không dùng được của bộ phát ONU. uONU_Rx là xác suất không dùng được của bộ thu ONU. Và ubranch là xác suất không dùng được của sợi quang nhánh. Cuối cùng, với nhóm có bộ tách, ta có xác suất không dùng được của nhóm này là: Usplit= usplit (4.3) Với usplit là xác suất không dùng được của bộ tách. 4.1.1. Cây không có sự bảo vệ: Đầu tiên chúng ta xem xét xác suất không dùng được của một PON không có sự bảo vệ (xem hình 4.1). Vì các nhóm trung kế, nhóm tách và nhóm nhánh được nối theo chuỗi, nên dễ dàng thấy rằng xác suất không dùng được của toàn bộ dịch vụ PON không được bảo vệ này là: U = 1 – (1 – Utrunk)(1 – Usplit)(1 – Ubranch) (4.4) Hình 4.1: Mô hình PON không có sự bảo vệ 4.1.2. Bảo vệ trung kế: Hình 4.2 minh họa một PON được bảo vệ trung kế. Sợi trung kế, bộ thu OLT, và bộ phát OLT là những nhân tố cần bảo vệ nhất trong PON. Sự hư hỏng của bất kì thành phần nào ở trung kế sẽ làm cho tất cả các khách hàng (user) của PON mất đi dịch vụ. Cấu hình bảo vệ trung kế nhằm vào bảo vệ các nhân tố kể trên với lượng dự phòng tối thiểu. Trong một cấu hình bảo vệ trung kế, OLT được trang bị bộ thu phát sơ cấp và thứ cấp và dùng 2 sợi trung kế để định tuyến đến bộ tách 2xN. Ở hướng xuống chỉ dùng một sợi trung kế để truyền, ở hướng lên dữ liệu được tách ra thành 2 hướng. Ở điều kiện thường, OLT dùng bộ thu phát sơ cấp. Nếu phát hiện ra một kết nối bị sự cố thì OLT chuyển sang bộ thu phát thứ cấp. Cấu hình bảo vệ trung kế ở hình 4.2 có xác suất không dùng được là: U = 1 – (1 – U2trunk)(1 – Usplit)(1 – Ubranch) (4.5) Mô hình PON có bảo vệ trung kế b) Mô tả chi tiết của mô hình PON có bảo vệ trung kế Hình 4.2: PON có bảo vệ trung kế Trong giản đồ trên sự tăng giá thành chủ yếu so với mô hình cây không bảo vệ là do việc thay đổi định tuyến ở phần sợi trung kế từ CO đến bộ tách. 4.1.3. Bảo vệ nhánh: Hình 4.3 trình bày một PON được bảo vệ nhánh. Giản đồ bảo vệ nhánh dùng một sợi trung kế kết nối đến bộ tách 1x2N. Từ bộ tách mỗi nhánh sẽ có 2 sợi kết nối đến mỗi ONU. Khi một ONU phát hiện mất tín hiệu, nó sẽ chuyển từ bộ thu phát sơ cấp sang bộ thu phát thứ cấp. Giản đồ này có xác suất không dùng được là: U = 1 – (1 – Utrunk)(1 – Usplit)(1 – U2branch) (4.6) Mô hình PON có bảo vệ nhánh b) Mô tả chi tiết của mô hình PON có bảo vệ nhánh Hình 4.3: PON có bảo vệ nhánh Một nhược điểm của giản đồ này là nó yêu cầu một tỷ lệ tách lớn gấp đôi. Điều này có thể ảnh hưởng đến phạm vi hoạt động tối đa hay khả năng fan-out tối đa của PON. Giá thiết bị chủ yếu của giản đồ này là ở sự thêm vào dự phòng các bộ thu phát ONU. 4.1.4. Bảo vệ trung kế và nhánh: Hình 4.4 chỉ ra một PON có bảo vệ trung kế và nhánh. Mô hình này có 2 sợi trung kế kết nối đến 2N nhánh (2 nhánh cho mỗi ONU ). Ta có thể dùng bộ tách 2x2N, nhưng để việc bảo vệ được tốt hơn, ta có thể dùng bộ tách cascade thay cho thiết bị tách 2x2N. Như hình 4.4 minh họa, tín hiệu ở hướng xuống đầu tiên truyền qua một bộ tách 1x2 và sau đó thông qua một bộ tách 2xN. Nếu những bộ tách này là những thiết bị riêng rẽ, thì sự hư hỏng của một bộ tách trong chúng không ảnh hưởng đến những bộ tách còn lại. Cấu hình này thì cũng bị ảnh hưởng bởi sự tăng tỷ lệ tách. Tuy nhiên, nó cung cấp xác suất không dùng được thấp hơn. Để đơn giản hàm xác suất, cúng ta gộp bộ tách đầu tiên với nhóm trung kế và gọi đó là nhóm trung kế + bộ tách. Tương tự ta gộp bộ tách thứ hai với nhóm nhánh và gọi đó là nhóm nhánh + bộ tách. Công thức tính toán xác suất không dùng được như sau: Utrunk+splitter = 1 – (1 – Utrunk)(1 – Usplit) (4.7) Ubranch+splitter = 1 – (1 – Ubranch)(1 – Usplit) (4.8) U=1 – (1– U2trunk+splitter )(1 – U2branch+splitter) (4.9) Hình 4.4: Mô hình PON có bảo vệ trung kế và nhánh dùng cách ghép Cascade Giá thực hiện giản đồ bảo vệ này lớn hơn giá của các giản đồ ở trên bởi vì giá cung cấp cho việc thay đổi định tuyến trung kế và bộ thu phát trên mỗi ONU. 4.1.5. Bảo vệ cây: Cuối cùng, hình 4.5 đưa ra một cấu trúc cây PON có dự phòng, tức là hoàn toàn nhân đôi toàn bộ thiết bị và sợi. OLT và tất cả ONU được trang bị 2 bộ thu phát. Mô hình này không bị tăng tỷ lệ tách giống như giản đồ bảo vệ nhánh và giản đồ bảo vệ trung kế và nhánh. Cấu hình cây bảo vệ dùng số lượng sợi và các bộ thu phát giống cấu hình bảo vệ trung kế và nhánh. Tuy nhiên, nó có xác suất không dùng được cao hơn so với giản đồ bảo vệ trung kế và nhánh. Xác suất không dùng được được tính như sau: U = [1 – (1 – Utrunk)(1 – Usplit)(1 – Ubranch )]2 (4.10) (a)Mô hình PON có sự bảo vệ cây (b) Mô tả chi tiết của mô hình PON có sự bảo vệ cây Hình 4.5: PON có bảo vệ cây 4.1.6. Thống kê xác suất không dùng được của các mô hình PON dạng cây: Bảng 4.1: Tốc độ hư hỏng và thời gian sửa chữa của các thành phần Thành phần Failure in time (FIT) Mean time to repair (MTTR), h uc Xác suất không dùng được = FITx MTTR/109 h Sợi trung kế (20km) 2283 12 utrunk 2,74 x 10-5 Sợi nhánh 1712 12 ubranch 2,05 x 10-5 Bộ tách/ghép 114 12 usplit 1,37 x 10-6 Bộ phát OLT 3424 2 UOLT_Tx 6,85 x 10-6 Bộ thu OLT 1142 2 UOLT_Rx 2,28 x 10-6 Bộ phát ONU 1712 6 UONU_Tx 1,03 x 10-5 Bộ thu ONU 1142 6 UONU_Rx 6,85 x 10-6 Chúng ta thu được những giá trị bằng số cho thành phần xác suất không dùng được từ tốc độ hư hỏng và tổng hợp chúng trong bảng 4.1. Thông số FIT (Failure-In- Time) tượng trưng cho số lần hư hỏng trong 109 giờ. Xác suất không dùng được của một thiết bị đơn giản là FIT của nó trên một đơn vị thời gian nhân với thời gian sữa chữa MTTR (Mean Time To Repair) của nó. Giá trị đặc trưng của việc sữa chữa sợi là 12 giờ. Một sự thay thế thành phần tại CO mất khoảng 2 giờ, trong khi một sự thay thế thành phần tại vị trí khách hàng mất khoảng 6 giờ. Bảng 4.2 so sánh xác suất không thực hiện dịch vụ trên một ONU cho một cây thụ động không bảo vệ và các mô hình dự phòng. Thời gian chết được tính toán bằng cách nhân xác suất không dùng được với số phút trong một năm. Một PON dạng cây không bảo vệ (nghĩa là không có sự dự phòng) có thời gian chết xấp xỉ 40 phút/năm, tương ứng với xác suất dùng được là 99,992%. Dữ liệu trong bảng 4.2 đề nghị thời gian chết cho giản đồ bảo vệ trung kế và giản đồ bảo vệ nhánh gần bằng nhau. Cả 2 giản đồ này giảm được thời gian chết một nửa so với cây không bảo vệ. Việc giảm thời gian chết từ 40 phút đến 20 phút/năm tương ứng với sự tăng khả năng dùng được từ 99,992 đến 99,996%. Những giản đồ mà cung cấp dự phòng đầy đủ (bảo vệ cây và bảo vệ trung kế và nhánh) có thời gian chết thấp hơn. Trong ví dụ trên, chúng ta chỉ xem xét thời gian chết bởi sợi bị hỏng, bộ tách bị hỏng và bộ thu phát bị hỏng. Toàn bộ thời gian chết cũng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố như nguồn bị hỏng và lỗi của nhà vận hành. Thêm vào đó, sự hư hỏng bên ngoài phần truy nhập của mạng cũng có thể đóng góp vào thời gian chết. Bảng 4.2: Xác suất không dùng được và thời gian chết mong đợi cho các loại mô hình PON dạng cây Cấu hình Xác suất không dùng được Thời gian chết mong đợi (phút/năm) Cây không có bảo vệ 7,56 x 10-5 39,72 Bảo vệ trung kế 3,90 x 10-5 20,52 Bảo vệ nhánh 3,79 x 10-5 19,92 Bảo vệ trung kế và nhánh 1,31 x 10-9 0,00069 Bảo vệ cây 5,71 x 10-9 0,0030 4.2. Giới thiệu một số mô hình bảo vệ dạng vòng: 4.2.1. Các mô hình bảo vệ dạng vòng Chúng ta đưa ra phương pháp bảo vệ k:n cho PON loại vòng ring. Trong phương pháp này, mỗi OLT có n card giao tiếp hoạt động và k card giao tiếp bảo vệ (k card giao tiếp bảo vệ này được nối đến bộ chuyển mạch quang k:n). Bộ chuyển mạch quang có thể được điều khiển cục bộ bởi OLT, vì thế không cần có thiết bị chủ động nào trong mạng phân phối quang. Nhưng nhược điểm của giải pháp này là phải triển khai nhiều sợi quang dài. Hình 4.6: Bảo vệ vòng ring dùng bộ chuyển mạch quang k:n Bộ chuyển mạch quang k:n thì đắt tiền. Hình 4.7 đưa ra một mô hình mới bằng cách dùng một bộ chuyển đổi dãy bước sóng (Wavelength Conversion Array) ở CO cùng với bộ ghép và bộ giải đa hợp (DMUX: Demultiplexer) trong mạng phân phối quang. Nếu giá của bộ chuyển đổi dãy bước sóng được giảm thì mô hình này rất khả thi. Hình 4.7: Bảo vệ vòng ring dùng bộ chuyển đổi dãy bước sóng, bộ ghép và bộ giải đa hợp 4.2.2. Phân tích giá cả và tỷ lệ mất gói: Sự phân tích giá cả được thực hiện bằng cách so sánh loại bảo vệ 1:1 và k:n. Ta giả sử rằng xác suất hỏng của card làm việc là 0 và xác suất hỏng của sợi (line) là p. Vì thế, xác suất của 2 sợi hỏng đồng thời là p2 . Với n hệ thống PON, xác suất của bất cứ 2 sợi hỏng đồng thời là : Cn2p2(1– p)(n – 2) (4.11) Giả sử rằng giá của PON card (làm việc hay bảo vệ) là B và giá của sợi phục hồi là R (bao gồm giá mua và sữa chữa). Với n card PON làm việc và n card PON bảo vệ, giá tổng cộng của bảo vệ 1:1 là: Vì thế, với bảo vệ k:n thì giá tổng cộng là: Với S là giá của bộ chuyển mạch quang k:n. Ta giả sử rằng p rất nhỏ (<0,001). Ta có thể dùng xấp xỉ bậc một cho các hàm trên và ta có: Ta có thể dùng xấp xỉ bậc một cho các hàm trên và ta có: Vì thế, khi số lượng sợi hư lớn, tỷ lệ mất gói của n card làm việc là: Trong hình 4.8, giá của cả 2 phương pháp bảo vệ liên quan đến card giao tiếp B, với p = 10- 4 , R = 3B, S xấp xỉ B và k từ 1 đến 6. Trong hình 4.9, n = 16, R = 3B và k từ 1 đến 6, rõ ràng thấy rằng bảo vệ k:n là phương pháp bảo vệ hiệu quả về giá cả hơn. Sự lựa chọn k phụ thuộc vào tỷ lệ mất gói. Trong hình 4.10, ta có thể thấy rằng tỷ lệ mất gói thấp nếu k lớn. Hình 4.8: So sánh giá cả của các tỷ lệ bảo vệ Hình 4.9: So sánh giá cả và xác suất sợi bị hỏng của các tỷ lệ bảo vệ Hình 4.10: So sánh tỉ lệ mất gói với xác suất hỏng sợi của các tỷ lệ bảo vệ 4.3. Kết luận: Chương này trình bày các mô hình bảo vệ trong PON gồm mô hình bảo vệ trung kế, mô hình bảo vệ nhánh, mô hình bảo vệ trung kế và nhánh dùng cách ghép cascade , mô hình bảo vệ cây, mô hình bảo vệ dạng vòng và xác suất không dùng được, thời gian chết của các loại mô hình bảo vệ trong PON cũng như ưu điểm, khuyết điểm của mỗi loại. Qua đó giúp cho nhà vận hành mạng có thể chọn lựa việc dự phòng thích hợp để đảm bảo chất lượng hoạt động của mạng được tốt hơn. Chương 5 CÁC DỊCH VỤ TRÊN MẠNG FTTx VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN š@&?› Các nhà cung cấp dịch vụ đang sử dụng mạng FTTx như một trong những công cụ hữu hiệu của chiến lược cạnh trạnh để cung cấp bộ 3 dịch vụ - Triple Play, bao gồm: thoại, dữ liệu và video trên nền IP. Các công nghệ thường được sử dụng để tạo dựng các mạng FTTx, bao gồm cả các mạng quang thụ động, các đường dây thuê bao số (DSL), và các công nghệ nén video đều tiếp cận đến mức giá cả cạnh tranh. Do yêu cầu để triển khai mạng FTTx không quá khó khăn, các nhà cung cấp dịch vụ phải bảo đảm dịch vụ Triple Play mà họ cung cấp hoạt động hoàn hảo. Nếu mạng cơ sở hạ tầng FTTx đã được triển khai mà chất lượng lại không cao thì các nhà cung cấp dịch vụ sẽ phải đối mặt với nguy cơ vĩnh viễn mất đi các khách hàng trung thành vào tay các đối thủ cạnh tranh, những người cung cấp các gói dịch vụ tương tự nhưng với chất lượng cao hơn. 5.1. Xây dựng các khối bộ ba dịch vụ (Triple Play): Các dịch vụ Triple Play có thể được cung cấp nhờ nhiều công nghệ truy cập khác nhau trên cùng một mạng là FTTx. FTTx thực ra là một tập hợp các kiến trúc mạng mới được thiết kế để mang các dịch vụ băng rộng tới các khách hàng cuối cùng. Sợi quang có hoặc không được sử dụng trong tất cả các kết nối từ nhà cung cấp đến khách hàng cũng như trong kiến trúc FTTP. Công nghệ xDSL, ví dụ ADSL2+, có thể được sử dụng ở những kilomet cuối nhằm kết nối từ nút quang tới thiết bị cuối phía khách hàng (CPE). Thực tế, ở hầu hết các mạng FTTx, sợi quang, cáp đồng, cáp đồng trục, giao tiếp không dây hoặc một vài sự kết hợp của những phương tiện này sẽ mang các tín hiệu truyền tải các ứng dụng Triple Play tới các thiết bị mạng tích hợp, các máy thu hình, và các bộ chuyển đổi trong các ứng dụng VoIP và thoại thông thường. Khi triển khai các dịch vụ Triple Play theo kiến trúc FTTx thì việc kiểm tra tất cả các phương tiện truyền dẫn vật lý được sử dụng, đặc biệt là phần mạng truy cập bằng cáp đồng, trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Việc kiểm tra nhiều lớp của mạng cùng với các ứng dụng cung cấp phải được tiến hành trong toàn bộ vòng đời của mạng - từ giai đoạn lắp đặt, cung cấp dịch vụ, và bảo đảm dịch vụ. Để kiểm tra lớp vật lý cũng như các ứng dụng trong toàn bộ chu kỳ sống của mạng, rất nhiều phương pháp đo và loại thiết bị khác nhau cần được sử dụng ở rất nhiều điểm khác nhau trên mạng. Hình 5.1: Các kiến trúc dịch vụ mạng FTTx Trong giai đoạn lắp đặt mạng, cần tiến hành xác định đặc tính sợi quang và các thông tin về suy hao chèn (insertion loss) và suy hao phản xạ ngược (optical return loss). Trong giai đoạn cung cấp dịch vụ, cần tiến hành đo công suất quang, hiệu suất truyền dữ liệu xDSL, đánh giá chất lượng thoại, video và dữ liệu. Khi mạng đã được triển khai và cung cấp các dịch vụ, việc kiểm tra đảm bảo dịch vụ trở thành một yêu cầu bắt buộc. Các kỹ thuật viên trên tuyến phải có khả năng cách ly các lỗi hiệu quả, thực hiện đánh giá dịch vụ đầu cuối-đầu cuối, và hỗ trợ quá trình phân tích sự cố một cách hiệu quả. 5.2. Kiểm tra các dịch vụ Triple Play: Tương tự như việc triển khai lớp vật lý, việc triển khai các dịch vụ Triple Play được thực hiện theo ba giai đoạn khác nhau: lắp đặt các thành phần mạng và đánh giá sơ bộ chất lượng mạng, cung cấp dịch vụ tới khách hàng, và bảo trì, bảo đảm dịch vụ. Mỗi giai đoạn trong vòng đời của mạng lại mang đến những thách thức khác nhau cho mỗi dịch vụ Triple Play. 5.2.1. Dịch vụ IP Video: Trước khi cung cấp dịch vụ IP video, nhà cung cấp dịch vụ phải xác định sự phù hợp của mạng truy cập của khách hàng với dịch vụ IP video. Các cơ chế quản lý Lớp dịch vụ Video (Video Class of Service), ví dụ như việc phân chia nhãn VLAN (VLAN tag segregation), lập kế hoạch tải lưu lượng, và đảm bảo phải được xác định. Thiết bị DSLAM phải được nâng cấp để hỗ trợ chức năng thu phát gói (Internet Group Management Protocol-IGMP) và chức năng IP multicast. Cấu hình phía mạng truy cập cũng cần được thiết lập để có thể hỗ trợ các băng thông được yêu cầu đối với dịch vụ IP video. Đặc biệt, nó phải thoả mãn được yêu cầu truyền 3 kênh video đồng thời. Sau khi tất cả những vấn đề trên đã được giải quyết, tiến trình cung cấp các thành phần cần thiết của mạng và việc kết nối có thể bắt đầu. Các thành phần mạng cần lắp đặt và kiểm tra bao gồm các cổng DSLAM, Gateway phía khách hàng, các dây mạng đi trong nhà khách hàng và các bộ giải mã tín hiệu truyền hình số (STB -Set Top Box). Ngoài ra, việc đánh giá lại chất lượng của liên kết mạng truy cập cũng cần tiến hành. Khi tạo mới và cung cấp dịch vụ IP video, cần phải đánh giá và thu thập thông tin về chất lượng dịch vụ và các lỗi xảy ra. Việc khắc phục sự cố dựa trên những tình huống giả lập phải được thực hiện trước khi hoàn tất việc cài đặt dịch vụ. Trường hợp lý tưởng nhất là lưu lại được các bản báo cáo đo của khâu này trong quá trình triển khai dịch vụ và sau này dùng để tham chiếu cho các hoạt động bảo trì và bảo đảm dịch vụ. Sử dụng dữ liệu đã được lưu lại này sẽ được góp phần cải thiện đáng kể thời gian sửa chữa, khắc phục sự cố (Mean-time-to-repair MTTR) mà nhờ đó, khách hàng được sử dụng dịch vụ chất lượng ổn định. Để cải thiện quá trình lắp đặt mạng và dịch vụ, các thiết bị đo kiểm có thể giúp kỹ thuật viên trên tuyến kiểm tra ba tham số trước khi cung cấp dịch vụ IP video, bao gồm: hiệu suất đường xDSL, cung cấp dịch vụ video, và chất lượng dịch vụ video (QoS) . Thiết bị phải có khả năng mô phỏng STB của khách hàng, lấy các luồng dữ liệu chương trình video, và xác định tính hợp chuẩn của các giá trị QoS được thiết lập bởi nhà cung cấp dịch vụ cho mỗi tham số. Các kết quả đo kiểm QoS Video hiển thị trên thiết bị đo kiểm của kỹ thuật viên sẽ cho biết tất cả các tham số quan trọng ảnh hưởng tới luồng video. Ví dụ, nếu jitter tham chiếu đồng hồ chương trình (Program Clock Reference - PCR) cao, bộ giải mã không thể giải mã đúng tải video. Vấn đề trễ đối với IGMP ảnh hưởng tới thời gian cần để chuyển đổi giữa các kênh video quảng bá và do đó, là một yếu tố quan trọng liên quan đến cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ mà họ nhận được (customer experience). Số gói tin bị mất trong luồng truyền dẫn video, được đo bằng bộ chỉ thị lỗi liên tiếp, là tham số quan trọng nhất trong số 3 tham số được nêu ra ở đây. Thiết bị cũng nên có khả năng thiết lập các giới hạn Đạt/Không đạt (Pass/Fail) cho mỗi tham số này, làm tăng tính chắc chắn tổng các hoạt động vận hành thực tế và giúp cải thiện quá trình đảm bảo dịch vụ IP video. Để khắc phụ sự cố của IP video, các kỹ thuật viên trên tuyến có thể sử dụng thiết bị đo kiểm của họ để phát hiện trường hợp lỗi IP, ví dụ như lỗi điểm ảnh video hoặc lỗi đứng hình. Hai lỗi trên xảy ra là do mất gói dữ liệu, jitter gói quá lớn, hoặc cả hai. Nếu không phát hiện ra lỗi nào ở lớp vật lý của liên kết truy cập được kiểm tra thì có thể việc mất gói xảy ra ở đường lên (upstream) của DSLAM. Jitter PCR liên quan tới một kênh video, xác định vấn đề xảy ra ở headend, với việc chèn thêm các Local Ad, hoặc với các hoạt động chuyển đổi mã tín hiệu nguồn. Việc mất gói tin gây ra nhiều ảnh hưởng khác nhau. Ví dụ, nếu mất một gói mang khung B trong một tín hiệu video MPEG-2 sẽ chỉ ảnh hưởng tới một hoặc hai khung của luồng video; nếu mất một gói mang một khung I thì sẽ ảnh hưởng tới tất cả các khung cho tới tận khung I tiếp theo. Thường thì từ 14 đến 15 khung sẽ bị ảnh hưởng tùy thuộc vào thiết lập kích thước nhóm hình (Group of Picture – GOP). Việc giám sát liên tục luồng các gói tin là cần thiết để đảm bảo rằng các ứng dụng IP video đạt tới chất lượng mà các khách hàng trông đợi từ những nhà cung cấp dịch vụ video cạnh tranh. Yêu cầu về chất lượng mà họ mong muốn nhận được phải tốt hơn, hoặc ít nhất là bằng với chất lượng mà họ đã nhận được trước đó. 5.2.2. Dịch vụ thoại IP: Muốn tạo và cung cấp một ứng dụng thoại IP cho doanh nghiệp thì phải xác định được tính phù hợp của mạng doanh nghiệp khi lưu lượng nhạy cảm với trễ của dịch vụ VoIP. Các tính năng lớp dịch vụ (Class-of-Service-CoS) phải tồn tại trong các bộ định tuyến (router), và mạng phải được sửa hoặc lắp đặt lại để phù hợp với lưu lượng thoại được thêm vào. Kế hoạch tải lưu lượng có thể ảnh hưởng tới thiết bị mạng, đặc biệt là với các yêu cầu về băng thông giao diện WAN. Các thỏa thuận về mức dịch vụ mới (Service Level Agreement - SLA) cần được thiết lập. Trong giai đoạn lắp đặt, cần lắp đặt và kiểm tra các thiết bị truy cập tích hợp (Integrated Access Device–IAD), gateway thoại, bộ định tuyến và điện thoại IP. Việc kiểm tra lớp vật lý của các liên kết WAN cũng phải được thực hiện. Theo đó, các thành phần mạng và các kết nối cần thiết có thể được cung cấp, và đường cáp mới được lắp đặt cho những điểm kết cuối mới (ví dụ các điện thoại IP hoặc các bộ chuyển đổi (adapter). Khi dịch vụ được triển khai, kỹ thuật viên tập trung vào việc kiểm tra QoS VoIP và bố trí các điện thoại IP trong thực tế. Họ cũng cần xử lý lỗi và các vấn đề liên quan đến chất lượng dịch vụ trước khi hoàn tất việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Tương tự như với ứng dụng IP video, cần phải thu thập các báo cáo kết quả đo ở giai đoạn này và lưu lại để sử dụng trong tương lai. Khi xảy ra sự cố dịch vụ thì những bản báo cáo này sẽ giúp rút ngắn thời gian giải quyết sự cố. Khi triển khai dịch vụ thoại IP, các kỹ thuật viên cần xác định tính kết nối từ phía khách hàng tới các gateway báo hiệu, cung cấp dịch vụ và chất lượng cuộc gọi. Họ có thể đánh giá chất lượng cuộc gọi bằng cách thực hiện các cuộc gọi kiểm tra trong nội bộ mạng IP (on-network test call) và các cuộc gọi sang mạng PSTN (off-network test call). Các tham số cuộc gọi quan trọng cần kiểm tra bao gồm: trễ gói, mất gói và jitter. Tuy nhiên, MOS (Mean Opinion Score) sẽ là tham số SLA quan trong nhất được sử dụng để đo chất lượng VoIP một cách tổng thể. Hình 5.2: Cấu trúc một mạng IP Video Ở giai đoạn đảm bảo dịch vụ, rất nhiều vấn đề có thể làm giảm chất lượng dịch vụ VoIP, bao gồm vấn đề liên quan tới khu vực mạng phía khách hàng gây ra bởi bộ đàm thoại, hiệu suất của bộ xử lý/DSP, thiết bị thu/phát âm thanh, và hiệu suất hoạt động của bộ loại bỏ tiếng vọng trong mạng. Các chuyển giao mạng giữa mạng gói và mạng TDM thường được quản lý bởi một chuyển mạch gateway thoại là những điểm kiểm tra quan trọng trong tất cả các mạng.  5.2.3. Dịch vụ dữ liệu IP Internet: Để cung cấp dịch vụ dữ liệu IP Internet tới các thuê bao FTTx thì mỗi khách hàng cần được thiết lập một tài khoản ISP (Internet Service Provider account – ISP account). Bên cạnh đó, kế hoạch về lưu lượng tải cũng cần sửa đổi để phù hợp với luồng dữ liệu được thêm vào. Các máy chủ truy cập dịch vụ băng rộng ở xa (Broadband Remote Access Server – BRAS) sẽ bị ảnh hưởng, do đó việc hoạch định băng thông và định tuyến/điều khiển phải được hoàn thiện. Bên cạnh việc thiết lập kết nối tới các ISP và cung cấp các thành phần mạng cần thiết cho luồng dữ liệu tăng thêm và xử lý lớp dịch vụ (CoS), các cổng DSLAM có thể được cấu hình lại để hỗ trợ tuyến trễ kép (dual-latency path) trong môi trường ứng dụng hỗn hợp này. Để kết thúc quá trình cài đặt, các kỹ thuật viên phải đánh giá hiệu suất hoạt động lớp vật lý DSL, mức độ kết nối tới ISP, và thông lượng của dịch vụ dữ liệu. Việc này được tiến hành bằng cách sử dụng một công cụ kiểm tra với khả năng tích hợp trình duyệt Web (Web Browser) và thông lượng FTP. Sử dụng các tập tin (file) kiểm tra có dung lượng có thể lựa chọn được bởi người dùng và tiến hành kiểm tra cả đường lên và đường xuống, bài đo thông lượng FTP sẽ kiểm tra hiệu suất của liên kết sát với các mô hình triển khai trong thực tế hơn là chỉ kiểm tra đơn giản mỗi đường xuống của liên kết. Thực hiện bài kiểm tra HTTP sử dụng một trình duyệt Web cũng có lợi trong việc đảm bảo rằng kết nối/truy cập ISP của người dùng cuối vẫn chạy hoàn hảo. Một khi dịch vụ dữ liệu IP Internet được triển khai thì độ chính xác của dịch vụ cung cấp cũng cần phải được đánh giá xem có hợp chuẩn hay không. Và một lần nữa, các bản báo cáo về bất kỳ sự cố hay vấn đề gì đều nên được lưu lại để sử dụng làm tài liệu tham khảo trong tương lai. 5.2.4. Gói ba dịch vụ (Triple Play) cần bộ đo kiểm cả ba dịch vụ (Triple Testing): Việc kiểm tra phải được thực hiện ở rất nhiều lớp, bao gồm: lớp vật lý, lớp liên kết dữ liệu, lớp mạng và lớp ứng dụng. Nếu chỉ đơn thuần kiểm tra lớp vật lý ở mạng truy cập thì không thể phát hiện ra các vấn đề QoS tiềm ẩn mà có thể ảnh hưởng tới các ứng dụng Triple Play dựa trên gói. Hiển nhiên là việc truyền gói tin chịu ảnh hưởng của luồng gói đầu cuối tới đầu cuối. Các nhà cung cấp dịch vụ triển khai các mạng FTTx cần có chiến lược hoàn chỉnh về dịch vụ và đo kiểm tin cậy dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về ứng dụng được cung cấp để theo đó sẽ lắp đặt, cung cấp và bảo dưỡng chất lượng của các dịch vụ. 5.3. Xu hướng phát triển Dự kiến FTTx sẽ dần thay thế ADSL trong tương lai gần một khi băng thông ADSL không đủ sức cung cấp đồng thời các dịch vụ trực tuyến trong cùng một thời điểm. FTTx cung cấp 1 IP tĩnh thích hợp với các doanh nghiệp, tổ chức triển khai dễ dàng các dịch vụ trực tuyến như IP Camera, lưu trữ mail, truyền dữ liệu tốc độ cao...Theo một báo cáo mới nhất của Heavy Reading, số hộ gia đình sử dụng kết nối băng rộng FTTx trên toàn thế giới sẽ tăng trưởng hàng năm trên 30% cho đến năm 2012 và đạt 89 triệu hộ khi đó. Hiện Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ là các quốc gia đi đầu trong lĩnh vực băng thông rộng sử dụng công nghệ cáp quang này. Hình 5.3: Tỉ lệ băng thông rộng trên thế giới theo thống kê quý 4 năm 2007 Công nghệ FTTx đã có khoảng 20 triệu kết nối toàn cầu, chỉ tính riêng ở 3 nước Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ đã có thêm khoảng 6 triệu thuê bao, trong đó châu Á được đánh giá là thị trường có tiềm năng phát triển lớn. Theo dự đoán, vào cuối năm 2012, riêng châu Á sẽ có 54 triệu kết nối FTTx, tiếp theo là châu Âu/ khu vực Trung Đông/ châu Phi với 16 triệu, rồi đến Bắc Mỹ và Nam Mỹ với 15 triệu. Hiện nay, quá trình chuyển đổi sang FTTx đang được thực hiện ở nhiều nước, gồm Đan Mạch, Pháp, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Điển, Đài Loan và Mỹ. 5.4. Kết luận Các nhà cung cấp dịch vụ đang sử dụng mạng FTTx như một trong những công cụ hữu hiệu của chiến lược cạnh trạnh để cung cấp bộ 3 dịch vụ - Triple Play, bao gồm: thoại, dữ liệu và video trên nền IP. Các công nghệ thường được sử dụng để tạo dựng các mạng FTTx, bao gồm cả các mạng quang thụ động, các đường dây thuê bao số DSL, và các công nghệ nén video đều tiếp cận đến mức giá cả cạnh tranh. Do yêu cầu để triển khai mạng FTTx không quá khó khăn, các nhà cung cấp dịch vụ phải bảo đảm dịch vụ Triple Play mà họ cung cấp hoạt động hoàn hảo. Nếu mạng cơ sở hạ tầng FTTx đã được triển khai mà chất lượng lại không cao thì các nhà cung cấp dịch vụ sẽ phải đối mặt với nguy cơ vĩnh viễn mất đi các khách hàng trung thành vào tay các đối thủ cạnh tranh, những người cung cấp các gói dịch vụ tương tự nhưng với chất lượng cao hơn do đó các nhà cung cấp dịch vụ phải đưa ra xu hướng phát triển tốt nhất đem lại chất lượng cao nhất cho khách hàng của mình. Chương 6 CHƯƠNG TRÌNH DEMO š@&?› 6.1. Giới thiệu: Chương trình Demo được thực hiện bằng phần mềm Macromedia Flash8 Chương trình minh họa: Một số mô hình bảo vệ trong truy nhập sợi quang. Cách thức truyền dữ liệu khi đường truyền chính bị hỏng (ở cả hướng lên và hướng xuống). 6.2. Thực hiện chương trình: Chương trình bao gồm các mô hình bảo vệ: Bảo vệ nhánh ở hướng xuống. Bảo vệ nhánh ở hướng lên. Bảo vệ trung kế ở hướng xuống. Bảo vệ trung kế ở hướng lên. Bảo vệ cây ở hướng xuống. Bảo vệ cây ở hướng lên. Bảo vệ dạng vòng ring. Trong mỗi mô hình có 2 nút “play” và “stop” phục vụ cho việc chạy và dừng chương trình ở những đoạn cần thiết. KẾT LUẬN š@&?› Mạng quang ra đời đã đánh dấu một thành tựu lớn trong công nghệ viễn thông. Dung lượng truyền dẫn lớn của nó sẽ thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ. Hiện nay mạng truyền dẫn cơ bản đã được quang hóa, mạng thuê bao thì dùng kết nối LAN tốc độ cao, giải pháp sợi quang cho mạng truy nhập sẽ khắc phục được hiện tượng nghẽn cổ chai băng thông. Đồ án đi từ chỗ phân tích nhược điểm của các giải pháp truy nhập hiện tại, đưa ra giải pháp truy nhập sợi quang với nhiều ưu điểm hơn và cuối cùng là đề ra các phương pháp bảo vệ trong mạng truy nhập sợi quang. Hạn chế của đề tài: Chưa tìm hiểu về cách thức bắt tay giao tiếp giữa OLT và ONU (thông qua các tín hiệu GATE, REPORT). Chưa thực hiện được bài toán thiết kế một mô hình bảo vệ cụ thể. Hướng phát triển của đề tài: Tìm hiểu tổng quan kiến trúc của một mạng quang thụ động (các giao thức, cách thức bắt tay giao tiếp). Mô phỏng bài toán thiết kế một mô hình bảo vệ cụ thể. Đề tài mà em báo cáo, đó là những kiến thức được tiếp thu từ những bài giảng trên lớp, những chỉ bảo tận tình của thầy, cô. Tuy vậy, vì những kiến thức còn hạn chế, những khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài và hơn nữa là thiếu kinh nghiệm thực tế nên không tránh khỏi những sai sót, những hạn chế của cá nhân. Do vậy, em mong muốn tiếp tục nhận được những chỉ bảo của thầy, cô để đề tài của em có tính thực tế hơn và giúp em ngày càng hoàn thiện bản thân. TÀI LIỆU THAM KHẢO š@&?› [1] Công nghệ truy nhập đa dịch vụ. Ks. Phạm Đình Luận, Ts. Lê Thanh Dũng (2001). Nhà xuất bản Bưu Điện. [2] Ethernet Passive Optical Networks. Glen Kramer (2005). McGraw - Hill Companies. [3] Hướng dẫn kỹ thuật thi công lắp đặt, bảo trì đường dây xDSL. Đặng Quốc Anh (2002). Tài liệu giảng dạy Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông. [4] Fiber To The Home the new empowerment. Paul E. Green Jr (2006). John Wiley & Sons, Inc. [5] The Topology Analysis of Feasible FTTH network. Shun-Kai Yang (2004).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDo an Vinh ok1.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan