Nhờ vào việc đổi mới hoàn thiện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện. Bằng việc sử dụng tình thế mạnh dạn lúc dầu, đến sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ vì vậy lạm phát đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp, yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực hiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
32 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình thực thi chính sách tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể kiểm soát được, khi Ngân hàng Trung ương có khả năng kiểm soát mục tiêu trung gian, nó có thể điều chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Việc lựa chọn các chỉ tiêu mà Ngân hàng Trung ương không có khả năng kiểm soát làm mục tiêu trung gian không chỉ ảnh hưởng đến định hướng và hiệu quả của chính sách tiền tệ mà còn láng phí do mọi cố gắng để đạt được chỉ tiêu này không mang tính mục đích.
Tiêu chuẩn quan trọng nhất của mục tiêu trung gian là phải có mối liên hệ chặt chẽ với các mục tiêu cuối cùng. Khả năng có thể đo lường chính xác hoặc khả năng kiểm soát của Ngân hàng Trung ương sẽ trở nên vô nghĩa, nếu các chỉ tiêu được lựa chọn không có ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng hoặc giá cả.
Cả lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn trên nhưng ngân hàng Trung ương không thể chọn cả hai chỉ tiêu làm mục tiêu trung gian, mà chỉ có thể chọn một trong hai chỉ tiêu đó, căn cứ vào mối liên hệ của các chỉ tiêu này đến các mục tiêu cuối cùng. Bởi lẽ nếu đạt được mục tiêu về cung ứng tiền tệ thì phải chấp nhận sự biến động của lãi suất và ngược lại.
Với các mục tiêu trung gian trên, Ngân hàng Trung ương không thể chủ động tác động một cách hoàn toàn vì vậy Ngân hàng Trung ương phải lựa chọn các mục tiêu hoạt động để chỉ đạo thường xuyên và trực tiếp.
1.3. Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là chỉ tiêu được Ngân hàng Trung ương lựa chọn để sao cho Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ điều tiết thì nó ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian. Để được lựa chọn là mục tiêu hoạt động thì nó phải đảm bảo được các tiêu chuẩn sau:
- Chỉ tiêu đó phải đo lường được nhằm tránh những sự suy diễn thiếu chính xác làm sai lệch dấu hiệu chính sách tiền tệ.
- Phải có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Phải có mối quan hệ chặt chẽ và ổn định với các mục tiêu trung gian được lựa chọn.
Các mục tiêu hoạt động bao gồm:
- Dự trữ của các Ngân hàng Thương mại: ảnh hưởng trực tiếp đến cung ứng tiền tệ vì thay đổi R, ảnh hưởng đến vốn khả dụng của Ngân hàng Thương mại do đó ảnh hưởng đến mức cung tiền.
- Lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó tác động đến lượng tiền cung ứng.
- Vấn đề sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng hoặc thắt chặt là vấn đề mang tính nhạy cảm của các nhà điều hành chính sách tiền tệ . Để làm được điều này Ngân hàng Trung Ương phải sử dụng các công cụ của mình.
II. chính sách tiền tệ ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới
2.1. Đối với Việt Nam, khi chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp nặng nề sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, chúng ta chưa có sẵn một chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ trong cơ chế thị trường. Cho nên quá trình đổi mới ngân hàng là một quá trình vừa đổi mới hệ thống tổ chức, vừa đổi mới chính sách và cơ chế tiền tệ, tín dụng, thanh toán ... Trong đó, xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ được coi là một khâu đặc biệt quan trọng.
Từ khi Nhà nước ban hành hai pháp lệnh: "Ngân hàng Nhà nước" "Ngân hàng Thương mại- Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính", Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xây dựng chính sách tiền tệ. Từ khi có Pháp lệnh Ngân hàng đến năm 1995, chính sách tiền tệ ở Việt Nam được coi là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ do Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm soạn thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, ổn định và tăng trưởng kinh tế. Lúc này các mục tiêu đặt ra của chính sách tiền tệ là: ổn định tiền tệ bao gồm ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm cao. Nhận thức nội dung chủ yếu của chính sách tiền tệ trong thời kỳ này thông qua các chính sách. Chính sách cung ứng và điều tiết tiền lúc này đã nhận thức được khối tiền tệ:
M1: Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng.
M2: Gồm M1 và tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có thời hạn.
M3: Gồm M2 và các loại tiền gửi tại các định chế tổ chức khác.
L: Gồm M3 và các loại giấy tờ có giá.
Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do đó trong quá trình xác định chỉ tiêu này Ngân hàng Nhà nước quán triệt các nguyên tắc sau:
- Căn cứ vào tình hình tăng trưởng kinh tế, khối lượng tiền tệ tăng trưởng tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế.
- Khối lượng tiền cung ứng có tính đến phạm vi tỷ lệ lạm phát.
- Khối lượng tiền cung ứng dựa vào ngoại hối trong tay người cư trú.
- Tiền cung ứng chịu ảnh hưởng bởi tốc độ lưu thông tiền tệ theo công thức: V= GNP/M hoặc V= P.Q/M.
Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm bao gồm tiền mặt, các loại tiền gửi ở ngân hàng nhằm giành cho nhu cầu đầu tư tín dụng cho nền kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối và tạm ứng cho ngân sách. Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm chỉ là một chỉ tiêu định hướng, điều quan trọng là Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, giá cả và tỷ giá hối đoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tăng hay giảm không làm ảnh hưởng tới giá cả hoặc thiếu phương tiện lưu thông gây cản trở cho lưu thông hàng hoá. Việc điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng theo tín hiệu thị trường thông qua nhu cầu đối ứng xuất phát từ các kênh tạo tiền (tín dụng, ngân sách, thị trường ngoại hối, thị trường mở).
Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: kiểm soát lượng tiền cung ứng thông qua chỉ tiêu hạn mức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại thông qua hoạt động tái cấp vốn.
Chính sách ngoại hối: Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý ngoại hối bao gồm việc sử dụng tỷ giá nhằm điều tiết thị trường hối đoái; quản lý quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Ngân hàng Nhà nước sử dụng chính sách tỷ giá linh hoạt, có sự quản lý, phản ánh sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả.
2.2. Giai đoạn 1991- 1995
Giai đoạn 191- 1995 là thời kỳ nền kinh tế nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ trong quá độ từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và đạt được những thành tựu nổi bật tạo đà thuận lợi cho quá trình xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Kinh tế thời kỳ này tăng trưởng khá cao (bình quân hàng năm 8,3%) và lạm phát được kiểm soát ở mức thấp là thành tựu nổi bật của nền kinh tế nước ta trong những năm qua.
Trong thời kỳ này, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng đa dạng hoá các thành phần kinh tế đồng thời kinh tế quốc doanh vẫn giữ vị trí quan trọng trong các khâu then chốt, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo chiều hướng tích cực: tỷ trọngcủa ngành công nghiệp trong GDP đã tăng từ 22,6% năm 1990 lên 28,9% năm 1993, dịch vụ từ 38,6% năm 1990 lên 41,2% năm 1993, nông nghiệp giảm từ 38,8% năm 1990 xuống 29,9% năm 1993. Đó là một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với nền kinh tế đang trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Những mặt được trong điều hành chính sách tiền tệ:
- Mặt được nổi bật nhất là xây dựng kế hoạch và điều hành khối lượng tiền cung ứng theo tín hiệu thị trường thay cho phương pháp điều hành theo quan điểm phát hành tiền mặt theo chỉ tiêu kế hoạch hàng năm do chính phủ khống chế từ những năm 1991 trở về trước. Hàng năm, căn cứ vào dự kiến mức tăng trưởng kinh tế và mức lạm phát để xác định khối lượng cung ứng tiền tệ tăng thêm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Khối lượng tiền cung ứng hàng năm do Chính phủ giao cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước điều hành sử dụng vào hai mục đích: tăng tài sản có ngoại tệ và cung ứng phương tiện thanh toán cho các Ngân hàng thương mại thông qua phương tiện tái cấp vốn, trong đso tăng tài sản có ngoại tệ là chủ yếu.
- Xác định và xây dựng được các chính sách tiền tệ cụ thể điều hành chính sách tiền tệ như:
+ Chính sách tín dụng: thực hiện phương châm đi vay để cho vay, tạo dựng nhiều công cụ huy động vốn và các mức lãi suất hấp dẫn, đồng thời mở rộng mạng lưới để huy động vốn nhàn rỗi trong dân là chính, kết hợp với nguồn vốn từ nước ngoài, mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế theo hướng tăng cường tỷ trọng tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh và tín dụng trung và dài hạn, giảm dần tương ứng tỷ trọng cho vay kinh tế quốc doanh và cho vay ngắn hạn một cách hợp lý, tốc độ tăng tín dụng phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát dự kiến.
+ Xây dựng chính sách lãi suất theo định hướng thị trường theo nguyên tắc người gửi có lợi, người vay chấp nhận và ngân hàng kinh doanh được, xoá bỏ bao cấp qua lãi suất cho vay, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay phù hợp với biến động của chỉ số lạm phát và yêu cầu của chính sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước dần dần quy định một trần lãi suất tối đa, các tổ chức tín dụng quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi và cho vay, từng bước khép dần khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, lãi suất huy động và cho vay có thời hạn dài sẽ cao hơn huy động và cho vay có thời hạn ngắn.
Lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng thương mại theo phương pháp chiết khấu trên cơ sở lãi suất cho vay thị trường thông qua phương thức tái cấp vốn, mức chiết khấu cụ thể theo yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kỳ.
+ Chính sách quản lý ngoại hối dần từng bước đảm bảo Nhà nước nắm giữ được ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu và ổn định giá trị đồng tiền nội tệ. Điều hành tỷ giá ngoại tệ linh hoạt góp phần kiềm chế lạm phát, khuyễn khích xuất khẩu và thu hút vốn đàu tư nước ngoài. Định hướng lâu dài của chính sách ngoại hối là trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam, từng bước củng cố và nâng cao giá trị của đồng Việt Nam và phấn đấu trở thành đồng tiền chuyển đổi.
+ Chính sách đối với ngân sách: xây dựng được tư tưởng chỉ đạo không phát hành bù đắp thâm hụt; số thiếu hụt của ngân sách là một phần được vay nước ngoài.
- Sử dụng các công cụ hỗ trợ để điều hành chính sách tiền tệ theo yêu cầu và mục đích từng thời kỳ:
+ Điều chỉnh lãi suất tín dụng đối với nền kinh tế.
+ Tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
+ Xác định hạn mức tín dụng cho các Ngân hàng thương mại.
+ Tổ chức các thị trường nội và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc.
+ Phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
Kết quả của việc điều hành chính sách tiền tệ:
- Thực hiện kế hoạc cung ứng tiền có kết quả cho 02 mục tiêu: tăng tài sản có ngoại tệ và đáp ứng phương tiện thanh toán cho các Ngân hàng thương mại bằng phương thức tái cấp vốn. Nhờ đó, lượng cung ứng tiền tệ ra đã được cân đối với lượng ngoại tệ và khối lượng tín dụng cần thiết, không gây tác động đến lạm phát.
- Tạo dựng các công cụ tiến hành chính sách tiền tệ gián tiếp bên cạnh công cụ hạn mức tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại.
- Đổi mới chính sách lãi suất theo hướng thị trường, từng bước xoá bỏ bao cấp qua lãi suất, xây dựng chính sách lãi suất theo nguyên tắc người gửi có lợi, người vay chấp nhận và ngân hàng kinh doanh được nhằm khuyến khích huy động vốn và mở rộn cho vay.
- Có nhiều biện pháp tình thế để kiềm chế lạm phát, nâng cao giá trị đồng tiền Việt Nam.
- Tín dụng đối với nền kinh tế không ngừng tăng trưởng, vốn huy động năm 1994 tăng gấp 2 lần và tổng dư nợ nền kinh tế tăng gấp 3,6 lần năm 1991, vốn huy động ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ cho vay, cơ cấu tín dụng thay đổi theo hươnge tăng tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn và kinh tế ngoài quốc doanh, giảm tương ứng tỷ lệ trọng trong cho vay ngắn hạn và kinh tế quốc doanh, đã đáp ứng ngày càng tốt hươn nhu cầu vốn của nền kinh tế, đặc biệt là đã chú ý đến khu vực nông thôn.
- Thực hiện cân đối nhu cầu tiền mặt cho nrrnf kinh tế, xoá bỏ tình trạng khấu hoãn chi tiền mặt, không phận biệt tiền mặt và chuyển khoản, xoá bỏ dần tâm lý giữ tiền mặt trong các tổ chức kinh tế và dân, nghiên cứu, tạo điều kiện thu hút vốn vào ngân hàng và đẩy nhanh tốc độ thanh toán không dùng tiền mặt.
- Từng bước đổi mới chính sách quản lý ngoại hối, tăng cường phương thức việc Nhà nước nắm ngoại tệ, thu hút ngoại tệ vào ngân hàng để phục vụ nhập khẩu và giữ ổn định được tỷ giá ngoại tệ, khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Xây dựng tư tưởng chỉ đạo không phát hành cho ngân sách mà xử lý thiếu hụt ngân sách bằng vay dần thông qua thị trường tín phiếu kho bạc và vay nước ngoài.
Những mặt hạn chế:
- Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn thiện theo cơ chế tr:
+ Lãi suất còn cao và chưa được điều chỉnh khéo léo, linh hoạt phù hợp với các yêu cầu cần đặt ra của nền kinh tế và của chính sách tiền tệ.
+ Lãi suất tái cấp vốn chưa phát huy được tác dụng của điều tiết khối lượng tiền một cách tích cực;
+ Công cụ dự trữ bắt buộc chưa theo yêu cầu của chính sách tiền tệ, các tổ chức tín dụng chấp hành chưa đúng tỷ lệ quy định và Ngân hàng Nhà nước xử lý chưa nghiêm minh.
+ Cán cân thanh toán còn bị thâm hụt lớn.
+ Ngân sách còn căng thẳng và điều chỉnh chưa ăn khớp với chính sách tiền tệ, chi ngân sách theo thời vụ, thường tập trung vào cuối năm là một yếu tố gây áp lực lên lạm phát.
- Hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn chưa phát rriển mạnh và chưa hoànthiện, chưa nhạy cảm với nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế.
- Chưa thực hiện triệt để tư tưởng chỉ đạo là không phát hành bù đắp thâm hụt ngân sách; nhưng trên thực tế vẫn phát hành cho ngân sách chitiêu, bằng cách ngân hàng tạm ứng cho ngân sách chi, song không được hoàn trả đúng thời hạn, dẫn đến tăng tổng phương tiện thanh toán qua mức, gây tăng lạm phát ngoài dự kiến.
- Hình thành thị trường tín phiếu kho bạc chậm, làm cho Ngân hàng Nhà nước chậm nắm được và điều hành công cụ này phục vụ cho nghiệp vụ thị trường mở.
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính chưa ăn khớp, chưa nhịp nhàng.
2.3. Giai đoạn từ năm 1996 đến nay
Chính sách tiền tệ trong thời kỳ này càng tỏ rõ vai trò quan trọng trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ mô của một quốc gia, có tác động mạnh mẽ đến toàn bộ các hoạt động kinh tế, nâng dần giá trị đồng nội tệ, tạo lòng tin trong nước và nước ngoài, thúc đẩy đầu tư, góp phần đamt bảo sự tăng trưởng liên tục và vững chắc cho nền kinh tế, kìm giữ lạm phát.
Mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ trong thời kỳ này là:
- ổn định sức mua trong nước của đồng nội tệ và duy trì giá trị hợp lý đối với ngoại tệ trong giao dịch đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi cho mọi hoạt động tài chính trong nền kinh tế, góp phần kìm giữ lạm phát ở mức hợp lý.
- Góp phần tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và vững chắc.
Các công cụ chính sách tiền tệ được hình thành trong thời kỳ này, cụ thể là:
- Hạn mức tín dụng:
Công cụ này dược Ngân hàng Nhà nước áp dụng trong điều hành chính sách tiền tệ từ tháng 6/1994, đã có tác động hiệu quả đến việc hạn chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán trong những năm 1995-1997 và qua đó kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, sang đến năm 1998, tình hình lại chuyển biến ngược lại, hạn mức tín dụng thừa ra so với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Công cụ hạn mức tín dụng trở nên không hiệu quả, một phần vì bản thân công cụ này đã mang tính chất hành chính và thiếu linh hoạt. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ thêm những nhân tố khó khăn cho các Ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng. Do vậy, từ cuối năm 1998 Ngân hàng Nhà nước đã không áp dụng công cụ hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, mức tăng trưởng tín dụng vẫn được tiếp tục theo dõi để có những giải pháp kịp thời hạn chế sự gia tăng tín dụng khi tốc độ tín dụng có xu hướng tăng nhanh.
Lúc này Ngân hàng Nhà nước đã chuyến việc điều hành chính sách tiền tệ sang một số công cụ khác.
- Dự trữ bắt buộc
Kể từ khi ban hành Quyết định số 260QĐ-NHNN1 ngày 19/9/1995, mức dự trữ bắt buộc được tính chung cho tất cả các loại tiền gửi, không phân biệt tiền gửi không kỳ hạn hay tiền gửi có kỳ hạn 12 thanga. Quy chế dự trữ bắt buộc lần này đã được quy định cụ thể hơn, thể hiện ở việc quy định tiền gửi dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước được tính bình quân trong cả kỳ duy trì. Năm 1998, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được áp dngj chung cho các tổ chức tín dụng và các loại tiền gửi huy động có kỳ hạn dưới 12 tháng là 10%, từ tháng 3 đến tháng 6/1999, tỷ lệ này là 7% và từ tháng 6/1999 là 6%.
Ngân hàng Nhà nước không trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc. Đối với việc tiền gửi dự trữ vượt quá, Ngân hàng Nhà nước áp dụng lãi suất 0,2%/tháng (bằng Việt Nam đồng) và 4,86%/năm (bằng ngoại tệ). Đồng thời, những tổ chức tín dụng thiếu tiền dự trữ bắt buộc trong kỳ duy trì thì bị phạt theo mức 200% trần lãi suất cho vay bằng USD doThống dốc ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ (đối với dự trữ bắt buộc bằng USD). Những quy định này khuyến khích các tổ chức tín dụng chủ động trong việc điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện nay.
Nếu so sánh các lần tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các mức lạm phát và lãi suất qua các năm ta thấy, thời kỳ có lạm phát cao hay lãi suất cao cũng là lúc tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định ở mức cao điều này cho thấy đã có sự phối hợpvận dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các công cụ khác của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Điều này rất dễ thấy trong diễn biến của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong năm 1999-đây là năm mà Chính phủ mở rộng tiền tệ để kích cầu, lãi suất trần được điều chỉnh giảm 4 lần thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng giảm đến 3 lần.
Trong năm 2001, công cụ dự trữ bắt buộc tiếp tục được điều hành phù hợp với diễn biến tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ , quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. Việc nâng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ lên 15% tiến hành đồng thời với việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng Việt Nam đồng xuống 3% (riêng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn xuống 2%) vào tháng 5/2001, đã có tác dụng hỗ trợ lớn đối với việc điều hành lãi suất và tỷ giá, góp phần thu hẹp giữa lãi suất tiền gửi ngoại tệ so với lãi suất tiền gửi Việt Nam đồng, qua đó góp phần hạn chế tình trạng đô la hoá. Và để phù hợp với diễn biến thị trường quốc tế và trong nước, nhất là xu hướng giảm mạnh lãi suất trên thị trường quốc tế. Tháng 12/2001, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ xuống 10%.
Qua phân tích trên, chúng ta thấy chính sách kinh tế nói chung, chính sách tiền tệ nói riêng trong thời gian qua đã thực hiện được mục tiêu: ổn định đồng nội tệ, kìm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, tạo nền tảng tài chính, ổn định mức cung tiền cho nền kinh tế hàng năm không còn theo ý muốn chủ quan mà dựa trên tốc độ tăng trưởng và lạm phát dự kiến, đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã được quyền chủ động bơm và rút tiền khỏi lưu thông trên cơ sở chỉ tiêu Nhà nước đã được duyệt, loại bỏ tình trạng thiếu tiền mặt có tính chất thời điểm trong nền kinh tế. Trong điều kiện thị trường mở ban đầu chưa hoạt động một cách có hiệu quả thì phương tiện thanh toán thông qua ngân phiếu thanh toán như vừa qua vẫn là giải pháp hữu hiệu trong việc bơm và rút tiền khỏi lưu thông, mặc dù sử dụng ngân phiếu thanh toán cũng có những hạn chế nhất định.
Ngoài ra, việc thực hiện công cụ dự trữ bắt buộc có hiệu quả theo mục tiêu đề ra cần phải có sự kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ việc chấp hành dự trữ bắt buộc và xử phạt nghiêm khắc những vi phạm.
- Tái cấp vốn
Ngân hàng Nhà nước thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các Ngân hàng thương mại theo các hình thức: cho vay thế chấp chứng từ và cho vay thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại tại ngân hàng Nhà nước.
Trong giai đoạn trước tháng 3/1997, Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho vay trên từng khế ước tái cấp vốn. Chính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động, có sự phân biệt giữa các ngân hàng. Kể từ tháng 3/1997, cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp vốn đã được xác định một cách độc lập, tái cấp vốn đã thực sự trở thành công cụ tiền tệ được ngân hàng Nhà nước quan tâm hơn trong việc điều tiết cung ứng tiền. Cứ mỗi lần thay đổi lãi suất trần thì lập tức ngân hàng Nhà nước cũng điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn một cách tương ứng, công cụ tái cấp vốn chỉ có thể phát huy hiệu quả khi nó được phối hợp với lãi suất. Nếu Ngân hàng Nhà nước muốn các tài chính tín dụng khai thác nguồn vốn trong nhân dân thì quy định mức tái cấp vốn cao. Ngược lại, việc quy định một mức tái cấp vốn lãi suất cao ngược với quy định một mức tái cấp vốn lãi suất thấp, chỉ khuyến khích (có lợi) vay của Ngân hàng Nhà nước. trong thờigian tới, khi mà thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định thì đòi hỏi phải thận trong hơn nữa trong việc quy định mức lãi suất tái cấp vôn như thế nào là hợp lý. Bởi vì một mức tái cấp vốn lãi suất thấp sẽ khuyến khích các tổ chức tín dụng vay của ngân hàng Nhà nước sau đó mua lại các giấy tờ có giá. Trường hợp này chẳng khác nào Ngân hàng Nhà nước dùng chính tiền của mình mua lại các giấy tờ có giá. Kết quả là nghiệp vụ thị trường mở không có tác dụng. Như vậy, mức lãi suất tái cấp vốn hợp lý phải là mức xấp xỉ với lãi suất các giấy tờ có giá ngắn hạn hay lãi suất tiền gửi ngắn hạn.
Năm 1998, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ 1%/tháng lên 1,1 %/tháng. Năm 1999, cùng việc giảm dần lãi suất cho vay, lãi suất tái cấp vốn cũng được giảm xuống mức 0,85%/tháng. Trong những năm 1999, 2000 và đầu năm 2001, lãi suất tái cấp vốn liên tục được điều chỉnh giả, nhằm thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ phục vụ cho mục đích kích cầu của nền kinh tế.
Công cụ tái cấp vốn đã được điều hành theo hướng nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng, khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộg tín dụng, tiếp tục thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, hạn chế xu hướng giảm chỉ số giá tiêu dùng thự tế, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu khá linh hoạt nhằm tác động vào các diễn biến tiền tệ theo các mục tiêu đã dự định. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu đã được điều chỉnh giảm 2 lần và hiện ở mức 0,4%/tháng và 0,35%/tháng tương ứng.
- Lãi suất
Thời kỳ này đánh dấu căn bản về điều hành lãi suất thích ứng với nhịp độ cải cách kinh tế ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách lãi suất thông qua các mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giưã lãi suất cho vay và lãi suất huy động là 0,35%/tháng trong phạm vi trần lãi suất và tỷ lệ lãi suất được công bố. Các Ngân hàng thương mại được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh. Đây là bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tiến tới tự do lãi suất. Do cơ chế lãi suất trước đây chưa có mức lãi suất nào đóng vai trò là lãi suất chủ đạo, định hướng của các tổ chức doanh nghiệp, ấn định mức lãi suất kinh doanh. Vì thế, kể từ ngày 5/8/2000, theo Quyết định số 241/QĐ-NHNN1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Theo đó, đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam, các tổ chức tín dụng sẽ ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá mứac lãi suất cơ bản và biên độ do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định cho từng thời kỳ.
Đối với lãi suất cho vay bằng USD, các tổ chức tín dụng sẽ ấn định mức lãi suất cho vay theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng SIBOR: kỳ hạn 2 tháng đối với cho vay ngắn hạn, kỳ hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay (theo biên độ của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định cho từng thời điểm cụ thể). Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống như cơ chế lãi suất trần, bởi vì lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản cộng với biên độ, chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho các tổ chức tín dụng hình thnàh các lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn. tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay khi mà Nhà nước chưa thể thả nổi lãi suất thì viêc quy định biên độ giao động là nhằm đảm bảo Nhà nước trước khi chuyển hẳn sang lãi suất thị trường, lúc đó việc điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu bằng công cụ lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Chính vì vậy mang tình hình lãi suất ngân hàng đến nay hầu như không biến động so với thời điểm trước khi điêù chỉnh.
Ngày 29/5/2001, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 718 v/v thây đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng USD. Theo đó, các tổ chức tín dụng được quyền chủ động ấn định lãi suất cho vay bằng USD trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước.Đây là bước đi tự tin, táo bạo và sáng suốt, đặt tiền đề hết sức quan trọng cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đổi mới điều hành lãi suất theo hướng điều chỉnh lãi suất cơ bản một cách linh hoạt trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế cùng với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ để khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng. Thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã 4 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản từ mức 0,75%/tháng xuống 0,6%/tháng. Trên thực tế việc điều chỉnh lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2001 là phù hợp với tình hình diễn biến lạm phát, tỷ giá, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa lãi suất Việt Nam đồng và ngoại tệ.
Từ tháng 6/2002, đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, cứ 3 tháng bằng 1%/năm đối với cho vay ngắn hạn lãi suất SIBOR 6 tháng bằng 2,5%/năm, đối với cho vay trung và dài hạn, chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Theo đó, các tổ chức tín dụng được tư do ấn định lãi suất cho vay ngoại tệ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vôn tín dụng ngoại tệ như trong nước.Việc ngân hàng Nhà nước thực hiện tự do hoá lãi suất ngoại tệ trong nước là bước chuyển biến tích cực,gấn thị trường tiền tệ trong nước với thế giới và từng bước hội nhập quốc tế.Riêng đối với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn quy định khống chế ở mức thấp nhằm hạn chế nắm giữ USD trên tài khoản, hạn chế đô la hoá trong điều kiện tỷ lệ kết hối giảm xuống mức 40%. Ngoài ra, phù hợp với xu hướng giảm lãi suất trên thị trường quốc tế. Tháng 12/2001, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn của tổ chức tín dụng và kho bạc Nhà nước tại Ngân hàng Nhà nước xuống 1,7%/năm.
Vì vậy, việc hoàn thiện điều hành lãi suất trong giai đoạn tới chủ yếu là nhằm vào sự hoàn thiện nguyên tắc xác định lãi suất cơ bản. Như chúng ta đã biết, lãi suất phải vừa đáp ứng lợi ích của người đi vay và người cho vay, đối với người cho vay thì lãi suất phải bao gồm lạm phát dự kiến, rủi ro và lợi nhuận mong đợi. Theo như hiện nay, Ngân hàng Nhà nước xác định mức lãi suất cơ bản chỉ dựa trên một số Ngân hàng thương mại là rất phiến diện, chưa phản ứng hết quan hệ cung cầu tín dụng thực của thị trường .
Tỷ giá hối đoái:
Về bản chất thì chính sách tỷ giá hối đoái giai đoạn này hầu như không biến đổi, với biên độ được điều chỉnh giảm từ ±0,7% xuống còn ±0,1% và hằng ngày ngân hàng Nhà nước sẽ công bố tỷ giá liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng quy định tỷ giá mua và bán. Kể từ đó đến nay, tỷ giá liên ngân hàng vẫn luôn luôn tăng kịch trần nhưng do biên độ chỉ có ±0,1%, nên tỷ giá hối đoái chỉ dao động từ 10-20đ/USD. Tuy nhiên, nhiều lúc tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng tăng kịch trần nhưng tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hàng ngày, hôm sau vẫn được Ngân hàng Nhà nước công bố ở mức cũ, điều này chứng tỏ tỷ giá liên ngân hàng mà Ngân hàng Nhà nước công bố vẫn là tỷ giá theo ý muốn chủ quan của Ngân hàng Nhà nước .
Trong thời gian tới, khi mà lãi suất chưa được tự do hoá vẫn còn sự can thiệp của Nhà nước, dự trữ ngoại tệ còn quá ít, kinh tế tăng trưởng nhưng chưa thực sự vững chắc, thị trường tiền tệ chưa phát triển thì việc duy trì cơ chế tỷ giá công bố và biên độ giao dịch như hiện nay là cần thiết. Hiện nay nhu cầu về ngoại tệ còn rất cao, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong khi đó, cung ngoại tệ thì rất hạn chế. Nhiều người thừa nhận đồng Việt Nam có giá cao, nếu cứ để tỷ giá hối đoái theo quan hệ cung cầu thị trường sẽ tất yếu dẫn đến một sự tăng vọt không lường, nguy cơ lạm phát và khủng hoảng sẽ xảy ra. Mặt khác ,trong nước đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhập khẩu đang chiếm một tỷ trọng lớn hơn so với xuất khẩu. Thực vậy, cơ cấu xuất khẩu của nước ta chủ yếu là hàng nông sản, may mặc, giầy da...những mặt hàng có hàm lượng chất xám đang còn thấp; trong khi đó, cơ cấu nhập khẩu thường là máy móc, thiết bị hiện đại, các nguyên liệu đầu vào...
Do đó, lợi ích của việc nhập khẩu hiện nay là lớn hơn xuất khẩu. Ngoài ra, nếu tỷ giá hối đoái tăng vọt sẽ làm cho các khoản nợ nước ngoài tăng. Chính vì vậy, việc duy trì một tỷ giá hối đoái sẽ làm cho Nhà nước chủ động hơn trong việc phân tích những lợi ích của các mức tỷ giá hối đoái mang lại.
Năm 2001, tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt bám sát biến động của lãi suất USD trên thị trường trong nước. Ngày 8/9/2001, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mở rộng kỳ hạn các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi của các tổ chức tín dụng, và điều chỉnh mức gia tăng tỷ giá hoán đổi kỳ hạn với trần tỷ giá giao ngay. Điều này giúp cho các tổ chức tín dụng có điều kiện thực hiện linh hoạt các giao dịch ngoại hối, các tổ chức tín dụng chủ động hơn trong kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo vai trò kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước .
Trong bối cảnh diễn biến thị trường quốc tế có nhiều biến động, việc điều hành tỷ giá linh hoạt và sự can thiệp kịp thời của Nhà nước trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã góp phần ổn định tỷ giá, có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập khẩu. Tỷ giá bình quân giữa Việt Nam đồng và USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng dự kiến tăng khoảng 4% so với cuối năm 2000.
Nhìn lại năm 2001, với mức tăng tổng phương tiện thanh toán dự kiến khoảng 23-34% và tín dụng cho nền kinh tế dự kiến tăng trưởng khoảng 21% so với cuối năm 2000, cho thấy việc điều hành chính sách tiền tệ đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Việc sử dụng linh hoạt và đồng bộ các chính sách tiền tệ và các giải pháp kịp thời về điều hành chính sách tiền tệ như nêu trên đã có những tác động nhất định đối với việc hạn chế tác động tiêu cực của thị trường quốc tế, hạn chế xu hướng giảm chỉ số tiêu dùng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định giá trị đồng Việt Nam .
Bước sang năm 2002, với triển vọng kinh tế thế giới cũng như kinh tế Việt Nam có nhiều thay đổi, những thuận lợi, khó khăn và thách thức mới đối với việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Trước hết về bức tranh kinh tế thế giới, sau sự kiện ngày 11/9/2001 và các diễn biến gần đây trên thế giới, dự đoán của nhiều chuyên gia kinh tế về triển vọng kinh tế thế giới năm 2002 kém khả quan hơn. Đặc biệt, vừa qua Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh giảm dự báo về tốc đọ tăng trưởng kinh tế thế giới, kinh tế của các khu vực nói chung và các nước công nghiệp phát triển nói riêng. Chẳng hạn, như kinh tế Mỹ dự báo sẽ chỉ tăng trưởng khoảng 0,7% năm 2002, kinh tế khu vực châu Âu tăng trưởng khoảng 1,7%, Nhật Bản tiếp tục suy thoái với mức tăng trưởng dự kiến -1,3%. Riêng kinh tế châu á nhìn chung vẫn giữ nhịp độ tăng trưởng khoảng 5,6%, trong đó một số nền kinh tế phát triển như Xin-ga-po, Đài Loan, Hồng Kông sẽ chỉ phục hồi ở mức thấp. Trong năm 2002, Trung Quốc vẫn là điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu với mức tăng trưởng dự kiến đạt trên 7%. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, kinh tế thế giới sẽ phục hồi vào nửa cuối năm 2002.
Trong khi đó, kinh tế Việt Nam dự báo sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 7%-7,3%, chỉ số giá tiêu dùng dự kiến tăng khoảng 3-4% so với cuối năm 2001. Đặc biệt, năm 2002, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được thực hiện sẽ có tác động rõ nét đến kinh tế Việt Nam, nhất là lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu sang thị trường Mỹ dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh mẽ nhất là đối với một số mặt hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản. Theo đó, dự kiến tín dụng phục vụ mục tiêu xuất khẩu những mặt hàng này sẽ gia tăng. Nhìn chung, mức tăng tín dụng cho nền kinh tế sẽ vào khoảng 25% so với cuối năm 2001.
Nghiệp vụ thị trường mở:
Thị trường mở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2002, tham gia thị trường nàylà Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, đến nay Ngân hàng Nhà nước chỉ cấp giấy phép hoạt động cho 12 thành viên. Hàng hoá cho nghiệp vụ này còn rất hạn chế, chủ yếu là tín phiếu Kho bạc và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Tổng khối lượng 2 loại tín phiếu này đang được các Ngân hàng thương mại nắm giữ khoảng 3.000 tỷ đồng, trong đó 1.000 tỷ đồng là tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Trong phiên đấu thầu đầu tiên đã mở hơn một năm nay, và cho đến nay, về phương diện pháp lý đã hoàn tất, từ việc ban hành quy chế, quy trình nghiệp vụ thị trường mở, quy định về đăng ký gấy tờ có giá ngắn hạn đến việc thành lập ban điều hành.
III- Quan điểm định hướng và các giải pháp thực thi chính sách tiền tệ
3.1. Những khó khăn và tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ.
Mặc dù không nằm trong "tâm điểm" của cơn bão tiền tệ Đông Nam á nhưng thời gian gần đây diễn biến kinh tế phức tạp và ảm đạm của hàng loạt các nước trong và cận kề ngoài khu vực (trừ Trung Quốc, Đài Loan) cho phép khẳng định Việt Nam cũng khó có thể thoát khỏi vòng xoáy tụt dốc "đôminô" về tăng trưởng kinh tế đang diễn ra ít nhất là trong vòng 2-3 năm kể từ cuối năm 1997. Có tới 70% sản lượng vốn đầu tư nước ngoài và 60% kim ngạch thương mại của Việt Nam là nhờ quan hệ với các quốc gia Châu á. Việt Nam Việt Nam đang chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi sự sụt giảm đáng kể trong đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và tụt giảm nhu cầu xuất khẩu chung. Ngoài nguyên nhân do ảnh hưởng hủng hoảng tiền tệ, sự giảm sút đầu tư nướcngoài vào Việt Nam còn bắt nguồn sâu xa từ môi trường đầu tư chưa đủ hấp dẫn, trong khi rủi ro đầu tư tiếp tục gia tăng cùng với mức độ khắc phục chậm về hiệu quả thấp và sức cạnh tranh yếu tố của sản xuất - kinh doanh nội địa (đặc biệt là khu vực DNNN). Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính - tiền tệ nói chung và sự thiếu nhất quán về một số mặt chính sách tiền tệ cùng bộc lộ khá sớm, đe doạ sự ỏn định kinh tế về trung, dài hạn ngay cả trước khi khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực chưa nổ ra.
Tình hình xấu đi càng bộc lộ rõ những khó khăn và tồn tại trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ trong vòng 3 năm trở lại đây. Có thể nêu một số điểm chủ yếu sau:
* Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn chỉnh theo cơ chế thị trường và còn ở dạng sơ khai. Yêu cầu kiện toàn chính sách lãi suất trong mối tương quan chế đọ cần tỷ giá hối đoái thích hợp hơn vẫn chưa được xử lý tốt. Việc quy định "trần" lãi suất đã và đang gây trở ngại cho mở rộng tín dụng một cách tích cực. Vẫn còn nhiều mức lãi suất "Trần" đã và đang gây trở ngại cho mở rộng tín dụng một cách tích cực. Vẫn còn nhiều mức lãi suất "trần", và mặt bằng lãi suất chung chưa phản ánh linh hoạt quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế, chưa bao quát đủ mức rủi ro tiền tệ thông thường. Lãi suất cho vay cuối cùng đến người nông dân còn cao (ngoài nguồn tín dụng ưu đãi). Kinh doanh của hầu hết các NHTM bị gò bó, thiếu chủ động, tự chủ. Nguồn vốn tín dụng còn hạn hẹp, mất cân đối cơ cấu với việc sử dụng, cho vay còn rải mảnh, phân tán, hiệu quả thấp (tỷ lệ nợ chả hạn, nợ khó đòi, nợ không sinh lời khá cao). Nhìn chung rủi ro tín dụng ngân hàng là đáng lo ngại, bên cạnh đó là các loại rủi ro khác về tỷ giá, về thanh toán, đối ngoại... do sự bất cập về chính sách, chế tài tín dụng... vẫn luôn luôn rình rập.
Hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển sôi động, chưa trở thành giao điểm hội tụ và định hướng chuyển dịch các dòng vốn nhàn rỗi giữa các NHTM. Chưa có những điều kiện căn bản dể từng bước tự do hoá lãi suất và thả nổi tỷ giá hối đoái thị trường. Thị trường vốn này ở dạng "manh nha" nên khả năng cung ứng vốn đầu tư trung, dài hạn cho nền kinh tế còn rất yếu. Việc tạo các công cụ và thể chế để phát triển thị trường tiền tệ ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn nói chung đang bắt đầu và còn gặp không ít khó khăn. Đó là những trở ngại lớn cho NHNN trong việc tiến tới nắm bắt và sử dụng các nghiệp vụ thị trường "mở" để kiểm soát, điều chỉnh kịp thời tổng lượng tiền trong lưu thông.
* Sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánh nặng nợ nước ngoài chồng chất như bội chi ngân sách còn cao luôn tạo ra những áp lực từ nhiều phía đe doạ tín ổn định, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ, mà bước đầu đã tạo dựng được ở giai đoạn chóng lạm phát trước đây. Thâm hụt cán cân vãng lai chủ yếu phải bù đắp phải bù đắp bằng "nhập khẩu" vốn là nguyên nhân chính gây ra nạn "đô la hoá", khiến VNĐ bị định giá quá cao, kích thích tâm lý tích trữ giá trị dưới dạng ngoại tệ, không gian tiền tệ bị méo mó. Trong khi đó, sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng sau một số vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua lãi suất ưu đãi, qua áp lực chỉ định cho vay của các cấp chính quyền.... Đó là những trở ngại không dễ dỡ bỏ trong quá trình hoàn thiện chính sách tiền tệ hiện nay.
* Căn bệnh giảm phát bộc lộ vào cuối năm 1998, tăng mạnh từ đầu năm 1999 với triệu chứng rõ nhất là sức mua nội địa giảm sút.
Tương quan lãi suất và tỷ giá hối đoái 1991-1999
Nguồn: NHNN, năm 1999 số liệu ước tính
Chỉ số
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Lãi suất danh nghĩa (%)
Lãi suất thực tế (%)
42,0
25,6
35,5
17,9
16,8
2,4
16,8
4,1
16,8
4,1
12,6
8,9
12,3
3,1
11,4
6,8
Tỷ giá hối đoái
danh nghĩa VNĐ/USD
9.540
12.000
10.642
10.642
10.956
11.025
12.998
13,988
Tỷ giá thị trường liên ngân hàng
9.920
11.650
230
10.636
10.636
10.979
11.500
13.902
14.002
Hàng hoá tồn đọng nhiều xuất khẩu tăng chậm lại, thậm chí mức âm (quý I/1999 là 7,5%) con số giá cả xuống rất thấp (suốt 9 tháng đầu năm 1999 chỉ tăng 0,2%) trong lúc tăng trưởng kinh tế giảm mạnh... đang đặt ra những thử thách lớn cho việc tìm đối sách đồng bộ, hữu hiệu để khắc phục những khó khăn nội tại và đối phó với ảnh hưởng khủng hoảng từ bên ngoài nội bộ vào. Vấn đề nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh nội địa, phát huy tốt các lợi thế so sánh đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH nền kinh tế. Nhu cầu vốn lớn đang đặt ra ngày càng bức bách, trong lúc bối rối cảnh thị trường vốn đầu tư quốc tế ít thuận lợi và bản thân việc khơi dậy, phát huy nội lực cũng không phải là dễ dàng nếu chỉ xét riêng ở góc độ nuôi dưỡng, bảo toàn tốt nguồn tiết kiệm, tích luỹ hạn hẹp trong nền kinh tế, bởi lẽ áp lực giảm lãi suất và giá cả hàng hoá, dịch vụ cũng đang đặt hệ thống tài chính - ngân hàng, các nhà đầu tư trước những thách thức rất lớn.
3.2. Những quan điểm định hướng hoàn thiện
Từ Chính phủ cho đến các cấp bộ, ngành đều hướng vào tạo lập điều kiện cơ bản để thực hiện nhanh chóng việc cụ thể hoá chính sách tiền tệ tích cực (theo nguyên tắc nới lỏng, linh hoạt, đồng bộ và hiệu lực). Những cơ chế, quy chế, thể lệ hợp thức hơn, mang đầy đủ hiệu lực pháp lý hơn đwocj áp dụng. Từng bước chuyển nhanh, chuyển mạnh điều hành chính sách tiền tệ bằng những biện pháp hành chính mệnh lệnh còn khá phổ biến sang sử dụng có hiệu quả những biện pháp kinh tế, những công cụ chính sách thị trường là chủ yếu. Đề cao hiệu quả kinh tế, an toàn và chủ động phòng ngừa rủi ro, phát triển mạnh mẽ thị trường tiền tệ và tăng cường "độ sâu tài chính" của hệ thống tiền tệ quốc gia. Đi đôi với những biện pháp như vậy là mở rộng phân công, phân cấp, phân quyền qua các tổ chức thanh tra, giám sát tài chính, chú trọng kiểm soát tài chính-ngân hàng, đảm bảo sự minh bạch trong chế độ thông tin, báo cáo tài chính, kế toán...
Tại Hội nghị Trung ương 6/lần thứ nhất (khoá VIII) Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự điều chỉnh nhất quán về sách lược, biện pháp chỉ đạo nền kinh tế với nhiệm vụ xuyên suốt là phát triển nông nghiệp, nông thôn, coi đây là "bệ phóng" để đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế ở thập niên 2000-2010 với ...2020. Theo đó, sẽ có sự chuyển dịch căn bản về cơ cấu kinh tế, trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu dịch vụ, dựa vào cơ cấu lại từ nguồn vốn cho đến sử dụng vốn, dành vốn ưu tiên đầu tư nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt, mũi nhọn của nền kinh tế. Do vây, nội dung hoàn thiện chính sách tiền tệ không nằm ngoài những định hướng đã nêu.
Để tiếp tục ổn định tiền tệ trong điều kiện lạm phát thấp, trước hết có sự tập trung cải thiện cơ bản ngân sách Nhà nước, giảm thiểu mức thâm hụt, tiết kiệm triệt để mức tiêu dùng phi sản xuất đã tăng tỷ phần tích luỹ, dành vốn đầu tư phát triển kinh tế ở tất cả các khu vực Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư. Triển khai việc cải cách thuế, áp dụng 2 loại thuế mới (thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp) có hiệu lực từ ngày01/01/1999, nhằm tạo sự bình đẳng về thuế giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với các doanh nghiệp trong nước và giữa các thành phần kinh tế với nhau, hỗ trợ thực hiện chính sách "kích cầu" và khuyến khích đầu tư của Nhà nước, đồng thời bảo hộ đầu hợp lý sản xuất trong nước.
Khẩn trương chấn chỉnh hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng và đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng. Thí điểm đưa vào hoạt động thị trường vốn (thị trường chứng khoán) trên cơ sở khung khổ pháp lý ban đầu ( Nghị định Chính phủ) vào cuối năm 1999. Chủ động hoàn thiện tiếp chế độ tỷ giá hối đoái và lãi suất ngân hàng theo hướng từng bước thả nổi có điều tiết và tự do hoá có chọn lọc (trên cơ sở tách bạch giữa tín dụng kinh doanh và tín dụng chính sách). Có phương án an toàn giá trị tiền gửi gắn liền với kiện toàn hệ thống thanh toán qua ngân hàng. Hoàn thành dứt điểm xử lý nợ nần dây dưa khu vực tài chính, giải toả tài sản thế chấp vay ngân hàng đóng băng, đẩy manh cơ cấu vốn, tài sản ngân hàng. Hạn chế hệ thống ưu đãi lãi suất trước đầu tư chuyển sang phương thức tín dụng ngân hàng và chính sách ưu đãi sau đầu tư đối với một số lĩnh vực cần ưu tiên trên diện rộng. Nhà nước sẽ hỗ trợ vốn ban đầu thành lập quỹ bảo lãnh ts và các hình thức bảo đảm đầu tư khác để tạo thuận lơị cho mọi doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ nông dân dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn vay và sử dụng vốn một cách an toàn, hiệu quả...
Thường thì các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ hiếm khi giải quyết được triệt để, đặc biệt đối với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Sự đan xen phức tạp của chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn hơn trước có thể đưa đến những thay đổi về ngắn hạn kèm theo những thoả hiệp, nhân nhượng tình thế trong điều hành chính sách. Tuy nhiên, về trung, dài hạn, mục tiêu cuối cùng và mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ vẫn phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Đặc biệt là việc hoàn thiện chính sách tiền tệ lệ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận và vận dụng hệ thống các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, gắn liền với quá trình tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng hiện nay.
3.3- Biện pháp để tiến hành chính sách tiền tệ
Một là, cần xác định rõ mối tương quan hợp lý giữa các chỉ số về lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khối lượng các công cụ thị trường mở,...duy trì một tỷ giá có sức thúc đẩy xuất khẩu. Cần lấy mục tiêu ưu tiên nhất làm cốt lõi để xác định điểm cân bằng hợp lý cho tất cả các biến số, các công cụ được sử dụng.
Hai là, cần đảm bảo sự phối hợp đồng bộ hơn nữa giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mộ khác, đặc biệt là chính sách tài chính-ngân sách. Yêu cầu này xuất phát từ sự ràng buộc có tính tương thuộc giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính sách. Bởi vì tất cả chúng đều có chung những mục tiêu tối cao. Nếu không tính đến các quan hệ này, mức độ thành công của chính sách tiền tệ (nếu có) sẽ bị giảm thấp khi xét trên quan điểm toàn cục. Thực tế trong những năm qua, có thời điểm khi chính sách tiền tệ được đề ra có hiệu quả đối với hoạt động ngân hàng nhưng lại ảnh hưởng đến những các cấp uỷ kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.
Ba là, mở rộng hợp tác quốc tế. Hiện nay các yếu tố quốc tế tác động ngày cành mạnh đến đời sống kinh tế trong nước. Với mô hình lấy xuất khẩu làm động lực tăng trưởng chủ đạo, xu hướng dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đổ vào, thị trường chứng khoán bắt đầu hoạt động, tăng cường liên doanh, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng...đòi hỏi chính sách tiền tệ phải nhanh chóng mở rộng hợp tác quốc tế hơn nữa, coi đó là yếu tố cấu thành quan trọng của mình. Cần nhanh chóng hình thành và hoàn thiện co cấu pháp lý phù hợp với yêu cầu hợp tác và cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng. Xác định mối tương quan hợp lý và linh hoạt giữa tỷ giá hối đoái, thuế quan, lãi suất và các biến số tiền tệ khác với tư cách là yếu tố bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng cho mọi đối tượng. Nâng cao hơn nữa sức cạnh trạnh cua các ngân hàng và các thể chế tài chính-tiền tệ trong nước, coi đó là điều kiện cơ bản nhất để thực hiện sự hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với các đối tác nước ngoài. Nguyên tắc này cần được quy định cụ thể, phù hợp với các điều kiện thực tế, vì hiện nay, bên cạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài đang có xu hướng gia tăng, nên các vốn chu chuyển vào ra cũng gia tăng. Tất nhiên là dòng vốn chu chuyển trong hệ thống ngân hàng, vì vậy, mơroongj hợp tác đi đôi với kiểm soát chặt chẽ là việc cần thiết. Nếu không, hậu quả có thể xẩy ra là sự bất ổn định môi trường tiền tệ trong nước dẫn đến sự đào thoát vốn ra nước ngoài, làm ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng trong cuộc cạnh tranh quốc tế trên thị trường tài chính-tiền tệ.
Ba nguyên tắc nêu trên cần được xem xét nghiêm túc và thận trọng, là cơ sở định hướng cho sự vận hành chính sách tiền tệ nước ta hiện nay và trong những năm trước mắt.
Hiện nay, mặc dù hệ thống ngân hàng đã có những bước tiến đáng kể, song chưa thể nói chúng ta đã có một bộ máy tương xứng với những nhiệm vụ mà nó phải gánh vác. Có rất nhiều vấn đề cần được giải quyết, trong đó nổi lên những vấn đề như nhanh chóng hiện đại hoá hệ thống ngân hàng, đổi mới và hoàn thiện tiền tệ từng bước công nghệ ngân hàng, cơ cấu lại hệ thống các ngân hàng cổ phần, thị trường chứng khoán, chuẩn bị cho nghiệp vụ thị trường mở bước vào hoạt động. Ngoài ra, cần quan tâm hơn nữa đến công tác thanh tra, kiểm tra trong hệ thống tài chính-ngân hàng để xác lập và củng cố trật tự kỷ cương hoạt động, tăng cường sức mạnh của yếu tố con người.
C. Kết luận
Nhờ vào việc đổi mới hoàn thiện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện. Bằng việc sử dụng tình thế mạnh dạn lúc dầu, đến sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ vì vậy lạm phát đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp, yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực hiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói mặt được nổi bật nhất của chính sách tiền tệ Việt Nam trong những năm đầu đổi mới là hoạch định đúng đắn và điều hành hợp lý thông qua khối lượng tiền cung ứng hàng năm của Ngân hàng Nhà nước theo sát tín hiệu thị trường, thay cho phương pháp điều hành trực tiếp bằng những chỉ tiêu kế hoạch hàng năm do Chính phủ chỉ định, phổ biến và từ những năm 1991 trở về trước. Vì nguyên tắc mức tăng cung tiền hàng năm không thể vượt quá tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chỉ số lạm phát (CPI). Nội dung điều hành chính sách tiền tệ đạt tới tăng tài sản có ngoại tệ ròng, tạo lập quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia dồi dào, đáp ứng yêu cầu thanh toán quốc tế và ổn định sức mua đối ngoại của đồng Việt Nam.
Việc điều hành chính sách tiền tệ luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài chính, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu...) ngay từ giai đoạn hoạch định đến quá trình thực thi. Nhờ vậy đảm bảo hỗ trợ tốt thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và loạ bỏ được các nhân tố tiêu cực, gây trở ngại và hạn chế hiệu năng của chính sách tiền tệ. Hơn nữa, bản thân chính sách tiền tệ chỉ phát huy tốt hiệu lực vốn có khi các bộ phận cấu thành của nó như: Chính sách cung ứng tiền, chính sách lãi suất, chính sách tỉ giá hối đoái và quản lý ngoại hối... được xử lý hết sức linh hoạt và đồng bộ. Ngân hàng Nhà nước còn luôn chú trọng xây dựng, vận dụng kéo léo, từng bước, có hiệu quả một số công cụ trực tiếp và gián tiếp của chính sách tiền tệ, đó là: lãi suất, dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng, hạn mức vay và trả nợ nước ngoài, tỉ lệ tái cấp vốn...
Tài liệu tham khảo
1. Tạp chí nghiên cứu - Trao đổi 2001
2. Tạp chí tài chính tiền tệ 2002
3. Tạp chí Tiền tệ ngân hàng 2002
4. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ 2002
Mục lục
Lời cảm ơn 1
A. Lời mở đầu 2
B. Nội dung 3
I. Mục tiêu của chính sách tiền tệ ở Việt Nam 3
1.1. Mục tiêu cuối cùng 3
1.1.1. ổn định giá cả 3
1.1.2. Tăng trưởng kinh tế 3
1.1.3. Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ 4
1.1.4. Mối quan hệ giữa các mục tiêu cuối cùng 5
1.2. Mục tiêu trung gian 6
1.3. Mục tiêu hoạt động 7
II. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới 8
2.1. Giai đoạn chuyển đổi 8
2.2. Giai đoạn 1991 - 1995 9
2.3. Giai đoạn 1996 đến nay 14
III. Quan điểm định hướng và các giải pháp thực thi CSTT 23
3.1. Những khó khăn và tồn tại trong quá trình thực hiện CSTT 23
3.2. Những quan điểm định hướng hoàn thiện 26
3.3. Biện pháp để tiến hành CSTT 28
C. Kết luận 31
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0852.doc