Thời gian để hoàn thành đề tài này là 12 tháng ( 2004-2005), kể từ ngày đề cương được Hội đồng khoa học Bộ phê duyệt. Cụ thể như sau :
- Chuẩn bị tư liệu, xây dựng nội dung và các tiêu chí cho khảo sát thực tế 02 tháng.
- Khảo sát từ 5 –7 tỉnh, thành phố ở miền Bắc ( trong đó có một số tỉnh trung du, miền núi khoảng 01 tháng, 1,5 đến 2 tháng khảo sát ở miền Trung và miền Nam.
- Tổng hợp và xử lý số liệu và đến một số Bộ, ngành hữu quan để bổ sung thêm tư liệu khoảng 02 tháng.
- Viết báo cáo để tổ chức Hội thảo dự kiến vào tháng thứ 9 hoặc tháng thứ 10. Còn lại 2 tháng cuối là hiệu chỉnh báo cáo sau khi được hội đồng và các chuyên gia cho ý kiến đóng góp và chuần bị báo cáo nghiệm thu.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1646 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy hoạch phát triển thương mại ở nước ta hiện nay – những vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oạch phát triển thương mại có ý nghĩa rất lớn, thậm chí là khâu đột phá để phát triển sản xuất và xuất khẩu. Bởi lẽ quá trình tái sản xuất vận động liên tục, phân phối và lưu thông có lúc chúng là điểm khởi đầu của sản xuất và tiêu dùng. Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh là trong kinh tế thị trường quy hoạch có tính định hướng cho sự phát triển, với nghĩa đó có lúc quy hoạch đi trước một bước thông qua việc tạo ra kết cấu hạ tầng thương mại. Mặt khác, mọi hoạt động của thương mại trong cơ chế thị trường luôn ở trong trạng thái động, nếu những mục tiêu định hướng nhất là mục tiêu ưu tiên đầu tư thiếu cụ thể, điều kiện thực hiện không khả thi và các giải pháp của QHTM được xây dựng không đủ cơ sở khoa học, không đúng tầm, không dự đoán và lường trước được những yếu tố tác động và có ảnh hưởng rất sâu sắc đến đến mọi lĩnh vực thương mại thì QHTM rất khó đi vào cuộc sống, sẽ không thể đạt như kỳ vọng mong muốn thậm chí phải trả giá. Như vậy, quy hoạch phát triển thương mại vừa rất cơ bản vừa là đòi hỏi cấp thiết đối với ngành thương mại đặc biệt là đối với công tác quản lý của Nhà nước về thương mại.
Về mặt lý luận, với những vị trí và vai trò trò to lớn đó, quy hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần phải được quan tâm nghiên cứu ở tầm cao mới.
+ Trong thực tiễn, mặc dù trong quá trình xây dựng quy hoạch tổng thể ngành thương mại chưa có chiến lược thương mại. Nhưng công tác xây dựng quy hoạch thương mại ở nước ta đến cuối năm 1995 đã được tiến hành và thực tế Bộ Thương mại lần đầu tiên mới tiến hành xây dựng quy hoạch phát triển thương mại và đã hoàn thành được “ Bản quy hoạch tổng thể ngành thương mại đến năm 2010” vào tháng 9/1996. Nhìn chung, nội dung bản quy hoạch đó đã cố gắng bám sát các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về định hướng phát triển thương mại giai đoạn 2001-2010, đã cơ bản đánh giá được thực trạng thương mại thời gian trước để làm căn cứ đề xuất các đổi mới. Song Bản quy hoạch này đã bộc lộ rất nhiều bất cập. Cụ thể là :
+ Phạm vi của bản quy hoạch này chỉ đề cập đến hàng hoá thuần tuý và một số dịch vụ có liên quan đến hàng hoá. Do cách tiếp cận như vậy nên phương pháp luận, các mục tiêu, định hướng, quan điểm và giải pháp đều chỉ tập trung đến thương mại hàng hoá và các dịch vụ liên qua đến hàng hoá. Như vậy, thương mại được đề cập trong bản quy hoạch này được hiểu theo “nghĩa hẹp”. Điều này, hoàn toàn không theo kịp với tiến trình đổi mới kinh tế - thương mại và hội nhập trong những năm qua khi mà đa số các nước và các tổ chức quốc tế đã hiểu khái niệm thương mại hoàn toàn theo “nghĩa rộng”.
+ Trong bản quy hoạch này chỉ chú trọng đến 2 thành phần là thương nghiệp quốc doanh và htx và chỉ đề cập thoáng qua và rất sơ sài phần thực trạng hoạt động của thương nhiệp tư nhân chỉ có số lượng doanh nghiệp tư nhân và cơ sở kinh doanh cá thể từ 1990- 1995 ( trang 16 ) nhất là trong phần chính sách và giải pháp về tổ chức thương nghiệp đối với tư nhân chỉ có 13 dòng trang 118. Như vậy, có thể nói trong bản quy hoạch này thành phần kinh tế ngoài nhà nước chưa được đề cập tới. Đây là một hạn chế rất lớn của bản quy hoạch này, chưa có tầm nhìn xa, không chỉ không đánh giá được tiềm năng – một thành phần kinh tế được coi là năng động nhất trong những năm qua nhất là khi có Luật Doanh nghiệp được ban hành.
+ Một thiếu sót rất lớn của bản quy hoạch này hoàn toàn không đề cập đến khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - các DN có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế. Một bộ phận kinh tế mới đã được hình thành từ khi có Luật Khuyến kích đầu tư nước ngoài năm 1987. Mặc dù thành phần này đã hình thành và đang phát triển trong thời gian xây dựng bản QHTM này, song nó không hề được đề cập tới, điều này là một thiếu sót lớn và đó còn cho thấy tầm nhìn của bản quy hoạch này là quá hạn hẹp không đón đầu được sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thương mại nói riêng.
+ Mặt khác bản QHTM năm 1996 đã không dự đoán được và không hề đề cập tới nhiều hình thức và mô hình kinh tế mới như : Hiệp hội ngành hàng, kinh tế trang trại và các hình thức kinh tế - hỗn hợp khác v.v.
+ Bản quy hoạch tổng ngành thương mai một mặt vừa thiếu chiến lược thương mại đây là một quy trình không hợp lý mặt khác lại đưa ra quá nhiều mục tiêu và nhiều chương trình ưu tiên trong điều kiện nguồn lực và vật lực còn nhiều hạn chế. Nhiều mục tiêu và chương trình ưu tiên trong bản quy hoạch này được xây dựng theo tư duy chủ quan, thiếu tính thực tiễn, không phù hợp với xu thế phát triển, tuy đã được chỉnh sửa song vẫn, không theo kịp với qúa trình thay đổi nhanh của các hoạt động thương mại trên thị trường nội địa đặc biệt là trong hội nhập.
+ Về số liệu và các dự báo trong bản quy hoạch tổng thể. Do thiếu số liệu và mức độ cung cấp số liệu từ nhiều Bộ, ngành vừa không đầy đủ vừa không đảm bảo độ chính xác nhất là nguồn số liệu từ các địa phương, đặc biệt là thiếu hẳn nguồn thông tin về tình hình thị trường ngoài nước cho nên việc dự báo tình hình sản xuất hàng hoá trong nước, mức thu nhập, sức mua của dân cư và nhất là dự báo thị trường xuất khẩu trọng điểm và mặt hàng xuất khẩu chủ lực rất sơ sài không sát với thực tiễn những năm qua. Bởi vậy, dự báo các luồng hàng hoá vào – ra hoàn toàn không đầy đủ dẫn đến định hướng các quy hoạch chi tiết thiếu tính thực tiễn và điều kiện thực thi.
+ Đối với các quy hoạch chi tiết như : kết cấu cơ sở hạ tầng thương mại, hệ thống kho xăng dầu, kho thông dụng, hệ thống chợ trên các địa bàn nông thôn, miền núi, đô thị và các trung tâm thương mại, các siêu thị v.v cho đến nay rất khó triển khai vào thực tiễn nếu có triển khai thì gặp quá nhiều khó khăn không ít vướng mắc hoặc không đủ điều kiện thực thi.
Nhìn chung, Bản quy hoạch thương mại năm 1996 một mặt không đề cập toàn diện, tập trung quá cao vào các doanh nghiệp nhà nước, ít chú trọng đến các thành phần kinh tế khác, mặt khác lại đưa ra quá nhiều mục tiêu. Như vậy là không hợp lý, không khả thi. Đặc biệt là quy hoạch phát triển thương mại các vùng kinh tế một mặt đề cập quá sơ sài, không đầy đủ, toàn diện mặt khác thiếu ăn khớp với quy hoạch tổng thể của toàn ngành, còn vênh rất lớn với quy hoạch thương mại của địa phương. Gần 10 năm qua tính thực tiễn cũng như tác dụng của bản quy họach thương mại năm 1996 là rất hạn chế như : chưa đủ độ tin cậy và căn cứ để cho các DN xây dựng kế hoạch thương mại, chưa đúng tầm là một công cụ trong quản lý nhà nước về thương mại.
+ Thực tế quy hoạch phát triển thương mại tỉnh, thành phố đến năm 1997 mới được các Sở Thương mại bắt đầu quan tâm. Đến tháng 3 năm 2002 đã có 100% Sở Thương mại xây dựng xong quy hoạch phát triển thương mại của địa phương mình. Tuy nhiên, nếu theo đúng tinh thần Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg và theo chỉ đạo của Bộ Thương mại thì mới có 23 địa phương hoàn thành (trong đó có TP Hà Nội), 18 địa phương đang hoàn thiện (trong đó có TP Hồ Chí Minh, TP Hải Phòng), 11 địa phương mới xong đề cương, 5 địa phương chưa điều chỉnh theo Chỉ thị trên và 4 địa phương chưa có báo cáo về Bộ. Cho đến tháng 4 –2004 vẫn còn khoảng gần 10 địa phương nữa nếu xét theo tinh thần Chỉ thị số 22/2000/CT – TTg vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Như vậy, toàn bộ các Sở Thương mại đều không có chiến lược thương mại mà bắt tay ngay vào xây dựng QHTM. Bởi vậy, công tác xây dựng QHTM ở các tỉnh, thành phố không chỉ bất cập về lý luận, lúng túng về phương pháp, nội dung mà còn quy trình khi triển khai xây dựng QHTM không hợp lý và thực tiễn triển khai quá chậm chạp. Điều đó không thể đáp ứng yêu cầu nhiều mặt về phát triển kinh tế – xã hội của địa phương đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về thương mại.
+ Trong triển khai xây dựng quy hoạch, các Sở Thương mại địa phương ít căn cứ vào quy hoạch tổng thể ngành, thậm chí có trường hợp còn không tuân theo. Do đó trên phạm vi toàn cục QHTM thiếu tính thống nhất và đồng bộ toàn ngành. Các Sở thương mại không chỉ thiếu thông tin hoặc không nắm vững không gian của nhau, dẫn đến tình trạng vừa khó khăn trong triển khai vừa có phần trùng lặp giữa các địa phương.
+ Mặc dù đã có quy hoạch tổng thể ngành thương mại, song việc tổ chức thực hiện lẫn việc đánh giá tình hình thực hiện triển khai quy hoạch lại không được tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm và điều chỉnh quy hoạch kịp thời. Quy hoạch tổng thể ngành thương mại với quy hoạch thương mại các địa phương và quy hoạch các ngành khác còn nhiều bất cập, thiếu ăn khớp v.v.
+ Thời gian tới, Quy hoạch ngành thương mại phải dựa trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của cả nước đặc biệt là chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của 6 vùng kinh tế trọng điểm vừa được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ KH-ĐT cuối tháng 12 –2003, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương thực hiện. Đây là định hướng quan trọng để Bộ Thương mại xây dựng quy hoạch ngành ăn khớp với quy hoạch vùng kinh tế. Quy hoạch thương mại sắp tới phải là sự giao thoa của nhu cầu thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước với quy hoạch sản xuất chế biến, phải là sự hội tụ của quy hoạch toàn ngành với các quy hoạch đầu tư phát triển của DN. Bởi lẽ chính DN, họ mới là người tìm ra điểm giao thoa tốt nhất giữa nhu cầu thị trường và quy mô đầu tư. Trong quy hoạch toàn ngành thương mại những năm tới phải đặc biệt quan tâm đến quy họach xây dựng cơ sở hạ tầng thương mại như chợ, trung tâm thương mại, siêu thị, chợ bán buôn nông sản, cây con giống, sàn giao dịch v.v. Những cơ sở hạ tầng có chất lượng tốt, văn minh, hiện đại và được khai thác có hiệu quả sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá, tăng sức mua của thị trường trong nước. Bắt đầu từ 2004 - 2005, QHTM phải hướng các dự án phát triển cơ sở hạ tầng theo Chỉ thị số 14 CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2003 giao cho Bộ Thương mại cùng phối hợp với 12 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long xây dựng các danh mục dự án kết cấu hạ tầng thương mại đến 2010, phải được đặt trong tầm quy hoạch mang tính dài hạn khi được Nhà nước đầu tư về quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Thời gian tới QHTM phải gắn với chất lượng tăng trưởng, phải nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý điều hành theo quy hoạch, cả quy hoạch toàn ngành, quy hoạch vùng lẫn quy hoạch thương mại của các địa phương phù hợp trong tổng thể quy hoạch của nền kinh tế. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tình trạng đầu tư tự phát không có quy hoạch hoặc không theo quy hoạch, đầu tư theo phong trào. Tình trạng đầu tư nhà máy xong vẫn không đủ nguyên liệu, năm 2002 có tới 21/ 44 nhà máy đường thiếu nguyên liệu với mức độ khác nhau. Hoặc phát triển vùng nguyên liệu chế biến, rồi không có nhà máy chẳng hạn như dứa. Hoặc phát triển vùng nguyên liệu vượt quá công suất của nhà máy nên không thu mua hết gây thiệt hại cho nông dân. Việc đầu tư theo phong trào của các địa phương không những hút quá nhiều vốn và tạo ít việc làm mà một thực tế còn chưa theo tín hiệu của thị trường nên hiệu quả thấp. Hiện nay giá thành như xi măng, đường, giấy, thép cao hơn khoảng 20-30% so với giá của các nước trong khu vực. Những điều đó phần nào phản ánh tình trạng chưa lựa chọn đúng đắn khi quyết định đầu tư và đầu tư không theo quy hoạch.
+ Về mặt dài hạn cần phải thay đổi tư duy về làm quy hoạch thương mại, phải lấy chất lượng tăng trưởng là chỉ tiêu quyết định trong công tác đổi mới quy hoạch thương mại. Việc ưu tiên cho chất lượng tăng trưởng thì lẽ đương nhiên số lượng đầu tư được giải quyết và kéo theo là vốn của Nhà nước không dàn trải mà sẽ được tập trung. Theo hướng này tăng trưởng sẽ được đo bằng sản phẩm bán được chứ không phải là số sản phẩm được sản xuất ra khi mà giá thành còn cao và chất lượng sản phẩm kém.
+ Đã đến lúc phải chú trọng đến xây dựng quy hoạch tiêu thụ. Đây là một hướng mới trong công tác xây dựng quy hoạch vì từ trước đến nay chúng ta chỉ tập trung vào quy hoạch sản xuất. Quy hoạch tiêu thụ sẽ là tiền đề quan trọng để xây dựng kế hoạch tiêu thụ và từ đó mới hình thành được đồng bộ các giải pháp tiêu thụ. Hiện nay vấn đề tiêu thụ hàng hoá nông nghiệp cho bà con nông dân, ngư dân, hàng hoá kinh tế trang trại, hàng hoá của các làng nghề truyền thống v.v, đang là vấn đề bức xúc nhất đối với toàn bộ ngành thương maị. Điều đơn giản là, nếu hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được, cung quá lớn so với cầu thì giá ắt phải giảm, tranh nhau bán dẫn đến cả sản xuất lẫn lưu thông bị ngừng trệ. Xây dựng quy hoạch tiêu thụ là công việc của các cơ quan QLNN. Tiêu thụ như thế nào, ở đâu là hiệu quả nhất cho người sản xuất và lợi ích quốc gia là công việc của nhà DN. Quy hoạch sản xuất và quy hoạch tiêu thụ là hai mặt của một vấn đề, bởi vậy công tác xây dựng quy hoạch thương mại trong thời gian tới phải coi cái nọ là tiền đề của cái kia, trong đó phải coi trọng quy hoạch tiêu thụ.
Với hàng loạt vấn đề bức xúc cả trong lý luận và thực tiễn, hy vọng đề tài “ Quy hoạch phát triển thương mại ở nước ta hiện nay – Những vấn đề lý luận và thực tiển” sẽ góp phần giải quyết những bức thiết đặt ra.
2 – Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về công tác kế hoạch hoá của các nhà khoa học nổi tiếng đặc biệt của các nước XHCN trước đây như Liên xô ( cũ ). Trong các loại hình kế hoạch chủ yếu thì quy hoạch là một loại. Quy hoạch trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế, một số quốc gia đã coi quy hoạch là dự báo kế hoạch là chiến lược để quyết định các hoạt động đạt tới mục tiêu, qua đó quyết định các mục tiêu mới, biện pháp mới. Quy hoạch là biện pháp giải quyết các mâu thuẫn về thời gian và không gian của các yếu tố phát triển, tạo ra sự phát triển không gian hài hoà, hợp lý, có hiệu quả. Trong nhiều thập kỷ gần cuối thế kỷ 20 một số quốc gia trên thế giới như Pháp, Cộng hoà Liên ban Đức, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore...nhất là ở các nước đang phát triển, họ đặc biệt chú ý đến kế hoạch hoá theo ngành và kế hoạch hoá theo vùng lãnh thổ trên cơ sở các kế hoạch dài hạn, trung hạn và kế hoạch 5 năm. Điển hình là Hàn Quốc được coi là một nước sử dụng thành công công cụ kế hoạch hoá vào trong quá trình tái thiết và phát triển kinh tế.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Vấn đề quy hoạch đã được các nhà khoa học nước ta nghiên cứu cách đây khá lâu, ngay từ thời kỳ đất nước còn trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Vấn đề xây dựng quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ đã được đặt ra ngay từ khi xác định vai trò, vị trí của kế hoạch dài hạn và trung hạn trong công tác kế koạch hoá và được chú trọng từ những năm 1970 đến nay. Khi đó còn có bộ phận phân vùng, quy hoạch trực thuộc Chính phủ. Các địa phương cũng có Ban phân vùng, quy hoạch. Tuỳ theo yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và sự chỉ đạo của Chính phủ mà tìm ra các lãnh thổ - địa bàn giữ vai trò động lực hoặc những lãnh thổ còn trong tình trạng trì trệ, yếu kém cần có sự hỗ trợ để phát triển. Đấy chính là những địa bàn cần được ưu tiên phát triển.
Kể từ khi thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Ngay từ những năm 1989 - 1990 điển hình là Viện chiến lược Phát triển thuộc Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có nhiều công trình nghiên cứu và đã đề cập đến nhiều phương diện lý luận về kế hoạch hoá vĩ mô nền kinh tế. Vào giai đoạn từ 1990 –1995 có thể nói là giai đoạn có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn. Đồng loạt nhiều Bộ, ngành trong số đó có Bộ Thương mại và các địa phương theo chỉ đạo của Chính phủ đã tiến hành công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch cho ngành và địa phương mình. Từ đó cho đến nay còn nhiều công trình nghiên cứu khác của các nhà kinh tế, điển hình như công trình “ kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô” vào năm 2000 của Tiến sỹ Đặng Đức Đạm đã đề cập đến những khía cạnh lý luận cơ bản về quy hoạch trong nền kinh tế. Ngoài ra còn nhiều công trình khác được đăng tải trên tạp chí kế hoạch hoá và các báo khác của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tạp chí thương mại của Bộ Thương mại, tạp chí Kinh tế và Phát triển của trường đại học Kinh tế Quốc dân v.v.
3 – Mục tiêu nghiên cứu của đề tài :
1 - Làm rõ những luận cứ khoa học về quy hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung nêu rõ phương pháp luận về quy trình xây dựng, phương pháp, nội dung và tổ chức thực hiện quy hoạch thương mại của cả nước, quy hoạch phát triển thương mại vùng kinh tế, quy hoạch phát triển thương mại tỉnh, thành phố và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng thương mại.
2 - Đúc kết kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về quy hoạch phát triển thương maị nhằm rút ra những bài học có ích cho Việt nam để tham khảo và học hỏi.
3 - Đánh giá thực trạng quy hoạch phát triển thương mại ở nước ta 10 năm qua (từ 1995 –2004) nhằm nêu bật những mặt đã làm được, những mặt còn tồn tại chưa làm được và nguyên nhân của những mặt làm được, chưa làm được.
4 - Đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới quy hoạch phát triển thương mại cho giai đoạn tới.
4 - Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quy hoạch phát triển thương mại của Việt nam ( quan điểm, quy trình xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch...).
5 – Phạm vi nghiên cứu
Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về quy trình xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, trong đó trung tâm là :
- Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng thương mại ( mạng lưới chợ, trung tâm thương mại, siêu thị, hệ thống kho xăng, dầu...)
- Quy hoạch phát triển thương mại theo ngành và vùng.
5 - Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sẽ sử dụng các phương pháp chủ yếu sau :
- Nghiên cứu tài liệu trong và ngoài nước
- Phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp duy vật lịch sử, dựa trên thực tiễn quy trình, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch thương mại ở nước ta.
- Phương pháp mô hình hoá và sơ đồ hoá
- Phương pháp khảo sát thực tế ( điển hình)
- Ngoài ra còn sử dụng phương pháp xin ý kiến chuyên gia.
6 - Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương
Chương 1 : Những cơ sở lý luận về quy hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Chương 2 : Thực trạng xây dựng quy hoạch phát triển thương mại ở nước ta từ 1995 –2004
Chương 3 : Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy hoạch phát triển thương mại ở nước ta thời gian tới
Nội dung
Chương 1
Những cơ sở lý luận về quy hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1 Khái niệm, vai trò và vị trí của quy hoạch phát triển thương mại
1.1.1 Khái niệm
Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt nam có rất nhiều định nghĩa, cách hiểu và sử dụng thuật ngữ “quy hoạch” khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học đã định nghĩa như sau : “ Quy hoạch là sự bố trí, sắp xếp toàn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian làm cơ sở cho việc lập cơ sở dài hạn” ( Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, tr. 812-813). Theo T.S Đặng đức Đạm thì “ Quy hoạch là một đề án khoa học luận chứng các phương án phát triển theo ngành và theo lãnh thổ các vùng, tỉnh, thành phố, các quận và huyện nhằm đạt các mục tiêu chiến lược đã đề ra, cụ thể hoá chiến lược với những dự tính cần thiết cho sự phát triển của ngành, của địa phương đó”. Nhiều nơi cũng có cách hiểu khác nhau chẳng hạn quy hoạch thương mại theo vùng kinh tế hay quy hoạch các hoạt động thương mại theo vùng kinh tế. Nhiều Sở Thương mại địa phương dùng “ Quy hoạch thương mại tỉnh”, nhưng cũng có địa phương lại dùng “ Đề án phát triển thương mại tỉnh” v.v
1.1.2 Yêu cầu, vị trí và vai trò của quy hoạch phát triển thương mại
+ Đối với việc lập kế hoạch thương mại
+ Đối với công tác quản lý nhà nước về thương mại
Phương pháp luận về quy hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.1 Công tác kế hoạch hoá vĩ mô nền kinh tế
+ Ngành thương mại là ngành có chức năng phân phối và lưu thông các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Trong nền kinh tế quốc dân thì thương mại là một bộ phận và có vai trò quan trọng. Bởi vậy, phải đặc biệt coi trọng công tác kế hoạch hoá vĩ mô trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
+ Để thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá, cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng giữa trong nước và ngoài nước, giữa các doanh nghiệp (DN) của mọi thành phần kinh tế với nhau thông qua dòng vận động của hàng hoá. Bởi vậy, phải coi trọng quy hoạch phát triển thương mại
1.2.2 Quy hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.2.2.1 QHTM là một bộ phận của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. ( xem sơ đồ 1)
+ Mục tiêu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
+ Những đặc trưng cơ bản
+ Những nguyên tắc cơ bản
Sơ đồ 1 Quan hệ của quy hoạch thương mại trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội
Dự báo phát triển kinh tế –xã hội
( Tầm vĩ mô)
Quy hoạch vùng và lãnh thổ
Quy hoạch tổng thể ngành thương mại
( của quốc gia)
Quy hoạch thương mại theo vùng kinh tế
Quy hoạch thương mại tỉnh, thành phố, đặc khu
Quy hoạch thương mại quận, huyện, thị xã
Quy hoạch thương mại xã, phường
QHTM là một bản luận chứng khoa học về sự phát triển của ngành thương mại trên cả nước hoặc trên các vùng lãnh thổ với sự bố trí, sắp xếp một cách hợp lý các nguồn lực để tổ chức phân phối và lưu thông hàng hoá dịch vụ theo cơ chế thị trường sao cho có hiệu quả nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng của xã hội và dân cư, phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. QHTM cả nước có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở cho quy hoạch thương mại vùng, lãnh thổ, đặc khu hành chính kinh tế, tỉnh, thành phố của địa phương ( xem sơ đồ 1). QHTM phải thể hiện tầm nhìn xa và sự bố trí chiến lược cả về không gian và thời gian lãnh thổ để chủ động hướng tới mục tiêu, hiệu quả cao, phát triển nhanh và bền vững.
QHTM không thể đơn lẻ, tách rời mà phải xem xét trong mối tác động qua lại, bổ sung và phù hợp với nhau trong định hướng phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo sự hài hoà trên từng vùng lãnh thổ nhất định (xem sơ đồ số 1). Để có sự hài hoà, thống nhất về QHTM giữa ngành và lãnh thổ thì Nhà nước trung ương và chính quyền các cấp phải là người thực hiện sự kết hợp đó trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của các vùng kinh tế.
Mặt khác, giữa quy hoạch phát triển thương mại của cả nước với quy hoạch phát triển thương mại của các vùng kinh tế phải ăn khớp, đồng bộ và là một quá trình liên tục. Bởi vậy, phải được thường xuyên nghiên cứu, bổ sung và cập nhật số liệu cũng như các giải pháp cho phù hợp với điều kiện thay đổi thực tiễn. Quy hoạch thương mại của cả nước và của các vùng còn phải thể hiện các khả năng và phương án phát triển, xử lý các mâu thuẫn để tìm ra phương án bố trí sắp xếp tối ưu. Xử lý các mâu thuẫn trong phát triển nhằm tạo sự hài hoà, cân đối, tối ưu giữa cả nước, các vùng và các địa phương là một trong những chức năng quan trọng nhất của quy hoạch thương mại.
Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh là trong kinh tế thị trường, thương mại vận động theo quy luật cung cầu, những tụ điểm lưu thông hàng hoá mà không được thể hiện trong quy hoạch phát triển thương mại thì sẽ làm ách tắc giao thông, kìm hãm sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên quy hoạch cũng có tính định hướng cho sự phát triển, với nghĩa đó có lúc quy hoạch đi trước một bước thông qua việc tạo ra kết cấu hạ tầng thương mại.
+ Theo lãnh thổ, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội vùng ( vùng ở đây có thể áp dụng cho các vùng lớn, tỉnh, thành phố hoặc một lãnh thổ đặc biệt.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, quy hoạch phát triển thương mại có ý nghĩa rất lớn, thậm chí là khâu đột phá để phát triển sản xuất, tiêu dùng, xuất khẩu. Cần nhấn mạnh rằng, quá trình tái sản xuất vận động liên tục và như vậy phân phối và lưu thông có lúc chúng là điểm khởi đầu của sản xuất và tiêu dùng. Ngoài ra QHTM còn phải thể hiện tính địa phương, tính dân tộc, tính hiện đại và phải đảm bảo sự hội nhập kinh tế – thương mại với khu vực và quốc tế.
Về mặt không gian quy hoạch phát triển thương mại lại được chia thành : quy hoạch tổng thể ngành thương mại, quy hoạch thương mại theo vùng kinh tế, quy hoạch thương mại tỉnh, thành phố và quy hoạch thương mại quận, huyện.
- Quy hoạch tổng thể ngành thương mại thương mại phải bao quát toàn bộ hoạt động lưu thông hàng hoá và các hình thức dịch vụ của nền kinh tế quốc dân, phải phối hợp chặt chẽ, hợp lý và hiệu quả các dòng hàng hoá và các hình thức dịch vụ.
1.2.2.2 Quy hoạch thương mại (QHTM) là cơ sở cho việc lập kế hoạch thương mại và hoạch định các chính sách thương mại.
QHTM là căn cứ để hoạch định kế hoạch và nó khác kế hoạch ở chỗ không đưa ra những chỉ tiêu quá cụ thể, mà phải xác định được xu hướng phát triển, đưa ra những định hướng cơ bản “ linh hoạt hơn” để có thể điều chỉnh mở rộng bước đi và giải pháp vĩ mô phù hợp. Trong điều kiện kinh tế thị trường có nhiều biến động phức tạp, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự phát triển đa dạng về phương thức và hình thức tổ chức kinh doanh thương mại dịch vụ hiện đaị thì quy hoạch phát triển thương mại của cả nước, mỗi vùng và địa phương đòi hỏi phải có nhiều kịch bản và phương án khác nhau, thích ứng với những đặc điểm và bước đi khác nhau của từng thời kỳ.
1.2.2.3 Mối quan hệ giữa quy hoạch thương mại với chiến lược và kế hoạch thương mại.
Quy hoạch thương mại là cầu nối giữa chiến lược thương mại và kế hoạch thương mại. Chiến lược thương mại có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động quản lý thương mại của đất nước. Một chiến lược đúng đắn có thể giúp cho các chủ thể tham gia vào nền kinh tế có tầm nhìn xa trông rộng, biết được các mục tiêu thương mại cần đạt được, biết khó khăn và thử thách phía trước, biết được tiềm năng nội lực để từ đó có sự điều chỉnh, phối hợp, tập trung các nguồn lực thực hiện các mục tiêu đề ra. Quy hoạch thương mại ( QHTM) là sự cụ thể hoá của chiến lược thương mại cả về mục tiêu cần đạt tới và các giải pháp thực hiện. Về bản chất, quy hoạch và chiến lược giống nhau ở điểm xác định và lựa chọn mục tiêu và giải pháp. Tuy nhiên, quy hoạch là sự cụ thể hoá chiến lược thành các mốc, các điểm, các trung tâm giao lưu hàng hoá dịch vụ theo quy luật vận động của cung và cầu và xu hướng phát triển kinh tế – xã hội. Phải đồng bộ giữa mục tiêu và giải pháp. Xác định mục tiêu đã khó song tìm giải pháp đúng không phải dễ. Mục tiêu đặt ra là phải có giải pháp kèm theo thì chiến lược và quy hoạch mới có tính khả thi
Về mặt lý luận QHTM là sự cụ thể hoá của chiến lược thương mại và phải dựa trên những mục tiêu, quan điểm, những điểm đích cần đạt tới...của chiến lược thương mại. Như vậy, xét về mặt thời gian và trình tự thì chiến lược thương mại phải được gia đời sớm nhất để làm cơ sở cho việc xây dựng QHTM rồi mới đến việc xây dựng các kế hoạch thương mại theo trình tự Chiến lược – Quy hoạch – Kế hoạch thương mại. QHTM là căn cứ, cơ sở là tiền đề cho việc xây dựng và hoạch định các kế hoạch phát triển thương mại ( xem sơ đồ số 2 ).
Sơ đồ số 2 Mối quan hệ giữa quy hoach với chiến lược và kế hoạch thương mại
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
Các chương trình mục tiêu quốc gia
Chương trình xoá đói giảm nghèo và việc làm
Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường
Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình
Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa
Dự án trồng mới 5 triệu Ha rừng
.......................
Chương trình, Đề án phát triển thương mại dài hạn (10 -20 năm)
Chiến lược thương mại
Chương trình, Đề án phát triển thương mại trung hạn (5 –10 - 15 năm)
Quy hoạch thương mại
Kế hoạch phát triển thương mại 5 năm
Kế hoạch thương mại
Kế hoạch phát triển thương mại hàng năm
Tóm lại, về mặt lý luận QHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa rất cơ bản vừa bức thiết. QHTM phải chỉ ra những xu thế và triển vọng vận động của thị trường trong nước và quốc tế, hoạch định mục đích, hướng đi và lộ trình của thương mại trong thời gian 10 năm thậm chí đến 20 năm. Quá trình xây dựng QHTM đòi hỏi phải phân tích và dự báo các điều kiện môi trường hiện tại cũng như tương lai, trong nước và ngoài nước, tiềm năng, khả năng và nội lực. QHTM phải hướng vào việc phân bổ khai thác có hiệu quả, hợp lý các nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu cao nhất. Đồng thời QHTM cũng chỉ ra việc tập trung các nguồn lực và cân đối nhu cầu với khả năng của nguồn lực. Sự cân đối nhu cầu và khả năng nguồn lực trong một thời gian dài sẽ cho phép chủ động đầu tư thay đổi cơ cấu mặt hàng, đầu tư chế biến sâu cho hàng hoá lưu thông nhất là đầu tư tạo nguồn lực mới phải tính toán cho thời gian dài mới có hiệu quả. QHTM còn tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ phát triển thương mại, làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Nhờ có QHTM mà các cơ quan quản lý của nhà nước có thể chủ động về các quyết sách của mình trước những diễn biến phức tạp và điều kiện về môi trường thường xuyên thay đổi. Song về mặt lý luận QHTM trong nền kinh tế thị trường đang tồn tại nhiều điểm bất cập :
12.2.4 Phương pháp luận về phân loại quy hoạch
1.3.1 Phân theo mục tiêu quy hoạch
Phân theo đặc trưng quy hoạch
Phân theo không gian
+ Theo không gian về mặt địa lý
+ Phân loại theo không gian lãnh thổ
- Quy hoạch phát triển thương mại cả nước
- Quy hoạch phát triển thương mại theo các vùng kinh tế
- Quy hoạch phát triển thương mại theo cấp địa phương ( tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã, thị tứ và xã phường
+ Theo ngành hay lĩnh vực, quy hoạch phát triển được phân theo : công nghiệp ( công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ...), nông nghiệp ( trồng trọt, chăn nuôi...), dịch vụ ( thương mại, du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng, tài chính...).
+ Phân loại theo địa bàn thị trường
Quy hoạch phát triển hương mại ở thị trường đô thị
Quy hoạch phát triển thương mại ở thị trường nông thôn :
- Thị trường nông thôn vùng đồng bằng
- Thị trường miền núi, vùng sâu, vùng xa
- Quy hoạch phát triển thương mại theo các tuyến hành lang kinh tế, theo tuyến giao thông ( tuyến đường Hồ Chí Minh).
+ Phân theo cấp độ quy hoạch
Quy hoạch phát triển thương mại tổng thể
Quy hoạch chi tiết
+ Phân theo thời gian
- Quy hoạch phát triển thương mại dài hạn ( 20 năm hoặc hơn nữa)
- Quy hoạch phát triển thương mại trung hạn ( 10 –15 năm)
1.3 Những yêu cầu cơ bản của quy hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
1.3.1 Yêu cầu về mặt thời gian
Về khoảng thời gian của quy hoạch phát triển thương mại phải thống nhất với khoảng thời gian của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, vùng và của cả nước. Thời gian cho quy hoạch có thể là 10 năm đến 15 năm, cũng có thể là 20 năm. Với thời gian nghiên cứu quy hoạch từ 10 đến 15 năm thì số liệu phân tích thực trạng tối thiểu cũng phải theo chuỗi số liệu từ 10 đến 15 năm trước.
1.3.2 Những yêu cầu về mặt nội dung
Thứ nhất, Phải đề ra hệ thống các mục tiêu phát triển thương mại.
Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất của công tác xây dựng quy hoạch nói chung và quy hoạch phát triển thương mại nói riêng
Thứ 2, Đối với công tác dự báo
Đối với công tác dự báo phải tập trung vào các dự báo quan trọng sau đây:
1 - Dự báo thị trường
Dự báo thị trường phải xem xét những hàng hoá XK và dịch vụ và những hàng hoá và dịch vụ có nhu cầu trong nước mà không sản xuất được tại chỗ để từ đó dự báo các các luồng hàng hoá vào - ra.
2 - Dự báo thị trường ngoài nước
+ Chỉ dự báo thị tường ngoài nước đối với những sản phẩm mà cả nước ( hay vùng lãnh thổ) có thể XK.
+ Dự báo các thị trường XK.
+ Dự báo nhu cầu sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có thể XK ra khỏi vùng, lãnh thổ.
+ Dự báo khả năng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có thể nhập khẩu của vùng, lãnh thổ.
3 - Dự báo thị trường trong nước ( hoặc theo vùng, lãnh thổ)
+ Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ của thị trường trong nước, có phân định các vùng, lãnh thổ.
+ Dự báo các chỉ tiêu tổng hợp về phát triển thương mại ( giá trị gia tăng và cơ cấu giá trị gia tăng thương mại); tỷ trọng thương mại trong tổng GDP, Tổng giá trị XNK, Tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ, tổng mức bán buôn, bán lẻ, mức tăng trưởng của giá trị gia tăng thương mại, mức đóng góp ngân sách chung của cả nước hoặc các vùng, lãnh thổ.
+ Dự báo các luồng khách vãng lai và các luồng hàng hoá và dịch vụ vãng lai qua vùng hoặc lãnh thổ
Thứ ba, kiến nghị các giải pháp
+ Tính toán tổng hợp đầu tư, các nguồn lực và phương án phát triển
+ Kiến nghị các chính sách thương mại chủ yếu để phát triển thương mại
+ Các giải pháp đối với quy hoạch phát triển thương mại cả nước, các vùng, tỉnh, thành phố, quận, huyện.
+ Các giải pháp đối với quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng thương mại ( mạng lưới chợ, các trung tâm thương mại và siêu thị, hệ thống kho tàng v.v).
+ Các giải pháp khác ( tuyên truyền trong cộng đồng ...)
1.4 Nội dung cơ bản của quy hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.4.1 Quy trình xây dựng quy hoạch phát triển thương mại
Xác định quy trình xây dựng quy hoạch phát triển thương mại chính là việc chỉ ra một trật tự khoa học về các giai đoạn và các bước cần phải tiến hành nhằm đảm bảo cho việc xây dựng QHTM đạt được chất lượng cao.
1.4.1.1 Các bước xây dựng quy hoạch phát triển thương mại
Bước 1 : Thu thập phân tích và dự báo về môi trường
Bước 2 : Tổng hợp kết quả phân tích nhằm định hướng các mục tiêu
Bước 3 : Đánh giá toàn diện thực trạng về các mặt kinh tế, chính trị đặc biệt là các hoạt động thương mại (đây là bước xác định các tiềm năng, nguồn lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, quy mô sản xuất, nguồn vốn đầu tư, nguồn nhân lực, xác định những luồng hàng hoá vào – ra, sức mua của dân cư v.v).
Bước 4 : Tổng hợp kết quả và đánh giá thực trạng hoạt động thương mại. Bước này nhằm phát hiện những mặt mạnh, yếu, nguyên nhân và xác định tiềm năng còn chưa khai thác v.v.
Bước 5 : Xây dựng hệ thống các mục tiêu định hướng và các quan điểm phát triển thương mại.
Bước 6 : Xây dựng các phương án ( các kịch bản khác nhau) phát triển thương mại
Đối với quy hoạch thương mại của ngành
Đối với quy hoạch thương mại của vùng
- Đối với quy hoạch thương mại của tỉnh, thành phố và các địa phương quận, huyện, thị xã, thị tứ v.v
Đối với quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng thương mại
Bước 7 : Phân tích so sánh, đánh giá và lựa chọn các kịch bản ( đây là bước cực kỳ quan trọng của cả quá trình xây dựng quy hoạch nhằm lựa chọn phương án tối ưu nhất, phù hợp nhất, khả thi cao nhất, phù hợp và thích ứng cao nhất trong tương lai).
Bước 8 : Xây dựng hệ thống các chính sách
Chính sách đối với thị trường trong nước
Chính sách đối với thị trường ngoài nước
Chính sách XK, NK
Chính sách tạo nguồn vốn đầu tư, thu hút đầu tư
.....................
Các chính sách và các giải pháp khác có liên quan như : thông tin, tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến thương mại....
Bước 9 : Điều kiện thực thi và điều chỉnh quy hoạch
Xác định những điều kiện cụ thể nhằm đưa quy hoạch đi vào đời sống một các khả thi. Điều chỉnh quy hoạch là vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải tuân thủ quy trình một cách khoa học nhằm phù hợp với tình hình thực tế.
1.4.1.2 Các giai đoạn
Thu thập và phân tích các thông tin về môi trường ( tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nói chung, tình hình thị trường trong và ngoài nước...) vì đây là cơ sở để đề ra mục tiêu, giải pháp phát triển thương mại.
Xây dựng các mục tiêu ( hệ thống các mục tiêu) và phương án ( các kịch bản phát triển thương mại).
Tổ chức triển khai thực hiện và điều chỉnh QHTM - Đây là khâu cực kỳ quan trọng, là khâu đưa quy hoạch vào thực tế đời sống. Nếu không làm tốt khâu này thì kế hoạh có chất lượng cao mấy cũng chỉ là quy hoạch treo.
1.4.2 Tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển thương mại
1.4.1 Đưa nội dung quy hoạch vào các kế hoạch thương mại 5 năm và hàng năm.
Thẩm định và phê duyệt các quy hoạch phát triển thương mại
1.4.3 Công khai hoá quy hoạch để các cấp các ngành, các doanh nghiệp và nhân dân tham gia, góp ý kiến và thực hiện.
1.4.4 Tổ chức giới thiệu quy hoạch đã được phê duyệt đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước
1.4.5 Tạo tính pháp lý cho các phương án quy hoạch và thực hiện việc giám sát quy hoạch
1.5 Một số bài học kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và một số quốc gia trên thế giới về xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển thương mại
Kinh nghiệm của Trung Quốc
1.5.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc
1.5.3 Kinh nghiệm của Nhật Bản
1.5.4 Kinh nghiệm của Singapore
1.5.5 Kinh nghiệm của Malaysia
1. 5.6 Kinh nghiệm của Đài Loan
1.5. 7 Kinh nghiệm của Cộng hoà Pháp
1.5.8 Kinh nghiệm của Cộng hoà liên bang Đức
Chương 2
Thực trạng quy hoạch phát triển thương mại ở nước ta thời gian qua (từ 1995 – 2004)
2.1 Khái quát chung thực trạng công tác xây dựng quy hoạch phát triển thương mại ở nước ta thời gian qua.
2.2 Thực trạng quy trình xây dựng quy hoạch phát triển thương mại.
Như trong phần lý luận đã trình bày ở trên thì chiến lược thương mại là vô cùng quan trọng đối với việc xây dựng QHTM. Đến nay mặc dù Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của cả nước giai đoạn 1991-2000 đã có, nhưng việc xây dựng chiến lược phát triển của ngành thương mại hầu như không được đề cập trước năm 1998. Nước ta đã tiến hành đổi mới được gần 20 năm ( kể từ năm 1986), nhưng cho đến nay ngành thương mại mới chỉ có "Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010" xây dựng xong vào tháng 9 năm 2000 nhưng vẫn chưa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đến tháng 3/2003 mới xây dựng xong đề án phát triển thị trường nông thôn và đã được Thủ tướng phê duyệt. Thực tế cho đến nay Ngành thương mại Việt Nam vẫn chưa có một chiến lược phát triển thương mại hoàn chỉnh và toàn diện, chưa có chiến lược đối với thị trường trong nước mà mới chỉ có đề án, chưa có chiến lược phát triển các loại hình dịch vụ. Các địa phương hầu như chưa triển khai xây dựng chiến lược thương mại mà chỉ mới bắt đầu quan tâm.
2.1.1.1 Thực tế quy trình xây dựng quy hoạch thương mại của Bộ Thương mại
Như sơ đồ 1 đã khái quát hoá quy trình và mối liên hệ khăng khít, chặt chẽ và gắn bó hữu cơ giữa QHTM với chiến lược và kế hoạch thương mại. Thực tiễn thời gian qua ngành thương mại chưa xây dựng Chiến lược thương mại cho toàn ngành nhưng lại trực tiếp đi ngay vào xây dựng “Quy hoạch tổng thể ngành thương mại Việt nam đến năm 2010”. Đây vừa là thiếu sót lớn vừa là một quy trình không hợp lý.
Mặc dù trong quá trình xây dựng quy hoạch tổng thể ngành thương mại chưa có chiến lược phát triển tổng thể của ngành. Nhưng công tác xây dựng quy hoạch thương mại ở nước ta đến cuối năm 1995 đã được tiến hành và thực tế Bộ Thương mại lần đầu tiên mới tiến hành xây dựng quy hoạch phát triển thương mại và đã hoàn thành được “ Bản quy hoạch tổng thể ngành thương mại đến năm 2010” vào tháng 9/1996. Nhìn chung, nội dung bản quy hoạch đó đã cố gắng bám sát các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về định hướng phát triển thương mại giai đoạn 2001-2010, đã cơ bản đánh giá được thực trạng thương mại thời gian trước để làm căn cứ đề xuất các đổi mới.
2.1.1.2 - Thực trạng quy trình xây dựng quy hoạch thương mại cấp tỉnh, thành phố
Sau khi có quy hoạch tổng thể của ngành, Bộ Thương mại đã chỉ đạo các Sở Thương mại xây dựng quy hoạch phát triển của địa phương. Thực tế quy hoạch phát triển thương mại tỉnh, thành phố mãi đến năm 1997 mới được các Sở Thương mại bắt đầu quan tâm. Đến tháng 3 năm 2002, đã có 100% Sở Thương mại xây dựng xong quy hoạch phát triển thương mại của địa phương mình. Tuy nhiên, nếu theo đúng tinh thần Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg và theo chỉ đạo của Bộ Thương mại thì mới có 23 địa phương hoàn thành (trong đó có TP Hà Nội), 18 địa phương đang hoàn thiện (trong đó có TP Hồ Chí Minh, TP Hải Phòng), 11 địa phương mới xong đề cương, 5 địa phương chưa điều chỉnh theo Chỉ thị trên và 4 địa phương chưa có báo cáo về Bộ. Cho đến nay (tháng 4 –2004) vẫn còn khoảng gần 10 địa phương nữa nếu xét theo tinh thần Chỉ thị số 22/2000/CT – TTg vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Như vậy, toàn bộ các Sở Thương mại đều không có chiến lược thương mại mà bắt tay ngay vào xây dựng QHTM. Bởi vậy, công tác xây dựng QHTM ở các tỉnh, thành phố không chỉ bất cập về lý luận, lúng túng về phương pháp, nội dung mà còn quy trình khi triển khai xây dựng QHTM không hợp lý và thực tiễn triển khai quá chậm chạp. Điều đó không thể đáp ứng yêu cầu nhiều mặt về phát triển kinh tế – xã hội của địa phương đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về thương mại.
Trong triển khai xây dựng quy hoạch, các Sở Thương mại địa phương ít căn cứ vào quy hoạch tổng thể ngành, thậm chí có trường hợp còn không tuân theo, do đó trên phạm vi toàn cục QHTM thiếu tính thống nhất và đồng bộ toàn ngành. Các Sở thương mại không chỉ thiếu thông tin hoặc không nắm vững không gian của nhau, dẫn đến tình trạng vừa khó khăn trong triển khai vừa có phần trùng lặp giữa các địa phương.
2.3 Thực trạng quá trình tổ chức thực hiện quy hoạch thương mại.
+ Đối với quy họach tổng thể
- Về cơ sở để xây dựng quy hoạch và và tính thực tiễn của quy hoạch tổng thể. Do bản quy hoạch tổng ngành thương mai một mặt vừa thiếu chiến lược thương mại, mặt khác lại đưa ra quá nhiều mục tiêu và nhiều chương trình ưu tiên trong điều kiện nguồn lực và vật lực còn nhiều hạn chế. Nhiều mục tiêu và chương trình ưu tiên trong bản quy hoạch này được xây dựng theo tư duy chủ quan, thiếu tính thực tiễn, không phù hợp với xu thế phát triển, tuy đã được chỉnh sửa song vẫn, không theo kịp với qúa trình thay đổi nhanh của các hoạt động thương mại trên thị trường nội địa đặcbiệt là trong hội nhập.
- Về số liệu và các dự báo trong bản quy hoạch tổng thể. Do thiếu số liệu và mức độ cung cấp số liệu từ nhiều Bộ, ngành vừa không đầy đủ vừa không đảm bảo độ chính xác nhất là nguồn số liệu từ các địa phương, đặc biệt là thiếu hẳn nguồn thông tin về tình hình thị trường ngoài nước cho nên việc dự báo về : tình hình sản xuất hàng hoá trong nước, thu nhập, sức mua của dân cư và nhất là dự báo thị trường xuất khẩu trọng điểm và mặt hàng xuất khẩu chủ lực rất sơ sài không sát với thực tiễn những năm qua. Bởi vậy, dự báo các luồng hàng hoá vào – ra hoàn toàn không đầy đủ dẫn đến định hướng các quy hoạch chi tiết thiếu tính thực tiễn và điều kiện thực thi.
+ Đối với các quy họach chi tiết như : kết cấu cơ sở hạ tầng thương mại, hệ thống kho xăng dầu, kho thông dụng, hệ thống chợ trên các địa bàn nông thôn, miền núi, đô thị và các trung tâm thương mại, các siêu thị v.v cho đến nay rất khó triển khai vào thực tiễn nếu có triển khai thì gặp quá nhiều khó khăn không ít vướng mắc hoặc không đủ điều kiện thực thi.
Nhìn chung, Bản quy hoạch thương mại năm 1996 một mặt không đề cập toàn diện, tập trung quá cao vào các doanh nghiệp nhà nước, ít chú trọng đến các thành phần kinh tế khác, mặt khác lại đưa ra quá nhiều mục tiêu. Như vậy là không hợp lý, không khả thi. Đặc biệt là đề cập quá sơ sài quy hoạch thương mại các vùng kinh tế một mặt không đầy đủ, toàn diện mặt khác thiếu ăn khớp với quy hoạch tổng thể của toàn ngành, còn vênh rất lớn với quy hoạch thương mại của địa phương. Gần 10 năm qua tính thực tiễn cũng như tác dụng của bản quy họach thương mại năm 1996 là rất hạn chế như : chưa đủ độ tin cậy và căn cứ để cho các DN xây dựng kế hoạch thương mại, chưa đúng tầm là một công cụ trong quản lý nhà nước về thương mại.
2.4 Đánh giá việc thực hiện quy hoạch thương mai
Đây là khâu rất quan trọng để điều chỉnh quy hoạch kịp thời với tình hình thực tiễn. Để đánh giá tổ chức thực hiện QHTM phải xem xét cả quá trình, từ việc xem xét các mục tiêu đã đề ra đến sự phối hợp, phân bổ nguồn lực để thực hiện các mục tiêu đó nhất là kết quả thực hiện các kế hoạch phát triển thương mại. Về cơ bản tập trung vào 2 khâu trọng tâm là : quy trình xây dựng và khâu tổ chức thực hiện quy hoạc đối với từng loại quy hoạch thương mại.
2.5 Những bài học kinh nghiệm về công tác xây dựng QHTM
2.5.1 Những mặt đã làm được
2.5.2 Những mặt chưa làm được
2.5.3 Nguyên nhân
Chương 3
đề xuất Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy hoạch phát triển thương mại ở nước ta thời gian tới
3.1 Quan điểm
Từ trước đến nay, chúng ta vẫn coi QHTM là cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển thương mại. Hạn chế lớn nhất trong công tác xây dựng quy hoạch nói chung và QHTM nói riêng thời gian qua là không tính toán được đầy đủ những biến động trên thị trường trong nước nhất là những biến động lớn trên thị trường thế giới. Bởi vậy quy hoạch nói chung và QHTM nói riêng chỉ dừng ở mức dự báo, định hướng đặc biệt là tính khả thi không cao, thiếu điều kiện thực hiện. Khi thực thi và triển khai vào đời sống một phần do không theo quy hoạch, một phần làm theo phong trào mà đã gây ra nhiều hậu quả không tốt đối với đời sống kinh tế – xã hội. Bởi vậy, quan điểm xây dựng QHTM trong thời gian tới là :
- Quan điểm đầu tiên là phải thay đổi tư duy trong việc xây dựng QHTM mà trước hết là thay đổi nhận thức về các mục tiêu đề ra trong quy hoạch. Các mục tiêu trong QHTM chỉ mang tính dự báo và định hướng hoàn toàn không mang tính pháp lệnh. Việc thay đổi tư duy này không những góp phần làm cho quy hoạch mang tính khách quan mà còn làm cho quy hoạch thực sự là một công cụ quan trọng đối với công tác quản lý nhà nước về thương mại.
- Quan điểm thứ hai là quy hoạch phát triển thương mại cần phải được xây dựng theo hướng mở nhằm phát huy những lợi thế, tiềm năng chưa khai thác hết và hạn chế đến mức tối đa những bất lợi của đất nước nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng.
- Quan điểm thứ ba là tiếp tục đổi mới cả quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện lẫn điều hành và kiểm tra quy hoạch nhằm nâng cao vị trí, vai trò và tính hiệu lực, hiệu quả QHTM.
3.2 Yêu cầu
Công tác xây dựng quy hoạch phát triển thương mại trong thời gian tới phải đáp ứng các yêu cầu sau :
- Xác định rõ các mục tiêu, quy trình, phương pháp, nội dung của QHTM trong sự nghiệp CNH, HĐH.
- Xác định rõ thẩm quyền của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát QHTM.
- Xác định rõ trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và tổ chức thự hiện QHTM.
- Từng bước nâng cao chất lượng xây dựng QHTM trên cơ sở đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống, toàn diện đặc biệt là nâng cao tính khả thi.
3.3 Phương hướng
3.3.1 Phương hướng đổi mới quy trình xây dựng các quy hoạch phát triển thương mại
- Xác định mục tiêu
- Nội dung
3.3.2 Phương hướng đổi mới tổ chức thực hiện các quy hoạch phát triển thương mại
3.4 Các giải pháp tiếp tục đổi mới công tác xây dựng quy hoạch tổng thể ngành thương mại
3.4.1 Các giải pháp về quy trình xây dựng
3.4.2 Các giải pháp về tổ chức thực hiện
Các giải pháp tiếp tục đổi mới công tác xây dựng quy hoạch vùng
3.5.1 Các giải pháp về quy trình xây dựng
3.5.2 Các giải pháp về tổ chức thực hiện
3.6 Các giải pháp tiếp tục đổi mới công tác xây dựng quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng thương mại
3.6.1 Các giải pháp về quy trình xây dựng
3.6.2 Các giải pháp về tổ chức thực hiện
3.7 Các giải pháp khác
+ Nhóm các giải pháp về quản lý nhà nước
- Hoàn thiện và đổi mới pháp luật
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý và chính sách
- Tiếp tục đổi mới cơ chế phối kết hợp
- Hoàn thiện và đổi mới cơ chế phê duyệt, kiểm tra, giám sát
- Tiếp tục đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực
+ Nhóm các giải pháp về tổ chức bộ máy
+ Nhóm các giải pháp về nguồn nhân lực
+ Nhóm các giải pháp về vai trò cộng đồng
9 - Khả năng áp dụng kết quả nghiên cứu
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở tham khảo đối với các cơ quan nhà nước trong việc hoạch định cơ chế chính sách và lập kế hoạch kế hoạch thương mại.
- Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học để Bộ Thương mại sử dụng vào việc hoàn thiện và đổi mới công tác xây dựng QHTM của cả nước, xây dựng quy hoạch vùng, đặc biệt là quy hoạch thương mại ở những vùng kinh tế trọng điểm có tính chất đầu tàu để nhằm tạo sự bứt phá.
- Kết quả nghiên cứu sẽ giúp các địa phương nhất là các tỉnh, thành phố có cơ sở để điều chỉnh, bổ sung kịp thời hoặc xây dựng mới quy hoạch thương mại của tỉnh, thành phố mình phù hợp với quy hoạch liên vùng và toàn ngành.
- Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở cần thiết để giúp cho các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế định hướng đầu tư trên nhiều phương diện như : chọn lĩnh vực đầu tư, lựa chọn mặt hàng chiến lược, quy mô đầu tư v.v
10 Sản phẩm cần đạt được của đề tài là :
- 01 bản báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu khoảng 100 –150 trang
- 01 Bản tóm tắt kết quả nghiên cứu khoảng 25-30 trang
- 01 Đĩa mềm để lưu tổng hợp và tóm tắt
11 Thời gian
Thời gian để hoàn thành đề tài này là 12 tháng ( 2004-2005), kể từ ngày đề cương được Hội đồng khoa học Bộ phê duyệt. Cụ thể như sau :
- Chuẩn bị tư liệu, xây dựng nội dung và các tiêu chí cho khảo sát thực tế 02 tháng.
- Khảo sát từ 5 –7 tỉnh, thành phố ở miền Bắc ( trong đó có một số tỉnh trung du, miền núi khoảng 01 tháng, 1,5 đến 2 tháng khảo sát ở miền Trung và miền Nam.
- Tổng hợp và xử lý số liệu và đến một số Bộ, ngành hữu quan để bổ sung thêm tư liệu khoảng 02 tháng.
- Viết báo cáo để tổ chức Hội thảo dự kiến vào tháng thứ 9 hoặc tháng thứ 10. Còn lại 2 tháng cuối là hiệu chỉnh báo cáo sau khi được hội đồng và các chuyên gia cho ý kiến đóng góp và chuần bị báo cáo nghiệm thu.
12 Lực lượng nghiên cứu
1 - Cơ quan chủ trì đề tài
+ Chủ nhiệm đề tài :
Chức vụ:
Học vị :
Đơn vị công tác :
+ phó chủ nhiệm đề tài :
Chức vụ:
Học vị :
Đơn vị công tác :
+ thư ký đề tài :
Chức vụ:
Học vị :
Đơn vị công tác :
+ Thành viên :
2 - Cơ quan phối hợp nghiên cứu
-
13 Kinh phí nghiên cứu
Tổng kinh phí là 150 triệu đồng, gồm:
Thuê khoán chuyên môn : 70 triệu đồng
Hội thảo : 20 triệu đồng
Khảo sát thực tế : 35 triệu đồng
Mua tài liệu : 10 triệu đồng
Công tác phí + chi khác : 15 triệu đồng
Hà nội, ngày 20 tháng 5 năm 2004
Chủ nhiệm đề tài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33661.doc