Như vậy, Quy luật giá trị – là quy luật vận động của quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá. Quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá dưới chủ nghĩa xã hội, không phải là sự kết hợp duy nhất và cơ bản nhất của những người sản xuất hàng hoá; quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá dưới chủ nghĩa xã hội là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn khác hẳn với các kiểu quan hệ hàng hoá - tiền tệ trước nó. Vì vậy, ở đây quy luật giá trị không biểu hiện quan hệ sản xuất hàng hoá nói chung mà là một mặt biểu hiện của quan hệ sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa. Chính nhờ những tác dụng của quy luật giá trị đối với nền kinh tế mà kinh tế nước ta ngày càng phát triển.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1869 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy luật giá trị của Mac và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, và giá trị là cơ sở của giá cả. Hàng hoá nào mà hao phí lao động để sản xuất ra nó nhiều thì giá trị của nó lớn, do vậy giá cả thị trường sẽ cao và ngược lại. Ngoài ra, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như quan hệ cung cầu, tình trạng độc quyền trên thị trường. Tác động của các nhân tố trên làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. CacMac gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị. Trong vẻ đẹp này, giá trị hàng hoá là trục, giá cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh trục đó. Đối với mỗi hàng hoá riêng biệt, giá cả của nó có thể cao hơn, thấp hơn hoặc phù hợp với giá trị của nó. Nhưng cuối cùng, tổng giá cả phù hợp với tổng giá trị của chúng.
Phương thức hoạt động của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị hoạt động trong các hình thái xã hội khác nhau, và trong hệ thống các quan hệ kinh tế của mỗi hình thái đó, nó đóng một vai trò phụ thuộc – vai trò “phục vụ”.
Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, vì giá trị là cơ sở của giá cả. Tuy nhiên, ngoài sự phụ thuộc vào giá trị hàng hoá, giá cả còn phụ thuộc vào giá trị của tiền tệ.
Mối quan hệ thực tế giữa giá trị và giá cả được thể hiện trong nội dung của quy luật giá trị. Sản xuất và trao đổi hàng hoá được thực hiện theo giá trị. Điều này không có nghĩa là giá cả luôn trùng với giá trị. Giá cả chỉ “xoay quanh” giá trị mà thôi. Tức là, nhìn chung tỷ lệ trao đổi xấp xỉ bằng tỷ lệ giữa giá trị của các hàng hoá.
Quy luật giá trị dưới chủ nghĩa xã hội đòi hỏi việc trao đổi hàng hoá phải tiến hành trên cơ sở giá trị, tức là phải lấy giá trị xã hội để làm cơ sở của giá cả hàng hoá. Điều đó đòi hỏi giá cả phải phản ánh đúng đắn giá trị xã hội. Tức là trước hết phải bù đắp được chi phí sản xuất, chi phí lao động vật hoá cũng như lao động sống – theo những định mức kinh tế kỹ thuật được xã hội thừa nhận.
Phần giá trị do lao động thặng dư sáng tạo ra được phân phối trong giá cả dưới hình thức lợi nhuận không chỉ bảo đảm lợi ích riêng của xí nghiệp và người lao động xí nghiệp mà phải bảo đảm sự thống nhất hài hoà giữa ba lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể vầ lợi ích cá nhân của người lao động trong xã hội.
Như vậy, giá cả của một hàng hoá không nhất định phải hoàn toàn nhất trí với giá trị cá biệt hoặc giá trị xã hội của hàng hoá đó. Giá cả có khả năng tách rời giá trị hàng hoá, nhưng xét trên toàn xã hội tổng giá cả vẫn bằng tổng giá trị.
1.4.1. Biểu hiện của hoạt động quy luật giá trị trong điều kiện tự do cạnh tranh.
Trong giai đoạn này quy luật giá trị được biểu hiện dưới dạng tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân được hình thành dựa trên:
a, Cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Cạnh tranh là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhằm giành dật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Cơ sở của cạnh tranh là chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chế độ này đẻ ra cạnh tranh, chèn ép lẫn nhau “Cá lớn nuốt cá bé”. Dưới chủ nghĩa tư bản do có chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, cho nên tất yếu có cạnh tranh. Trong sản xuất tư bản chủ nghĩa tồn tại hai loại cạnh tranh: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Biện pháp cạnh tranh: Các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Kết quả của cạnh tranh nội bộ ngành là hình thành nên giá trị xã hội (giá trị thị trường) của từng loại hàng hoá. Điều kiện sản xuất trung bình trong một ngành thay đổi, kỹ thuật sản xuất phát triển, tỷ suất lợi nhuận giảm xuống.
Trong các đơn vị sản xuất khác nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện kỹ thuật, tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề …) khác nhau, cho nên hàng hoá có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá đều phải bán theo một giá trị thống nhất, bán theo giá trị thị trường. Vậy giá trị thị trường là gì ? CacMac giả thích như sau: “ Một mặt phải coi giá trị thị trường là giá trị bình quân của những hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện trung bình của khu vực sản xuất đó và chiếm một khối lượng lớn trong những sản phẩm của khu vực này”(1)
b, Cạnh tranh gữa các ngành
ã Cạnh tranh giữa các ngành: là sự cạnh tranh giữa các ngành tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
ã Biện pháp cạnh tranh: Tư do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức là tự phát phân phối tư bản (c và m) vào các ngành sản xuất khác nhau.
Kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành dần tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá trị sản xuất.
Do hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, làm cho ngành có cung (hàng hoá) lớn hơn cầu (hàng hoá) và giá cả giảm xuống, còn ngành có cầu (hàng hoá) lớn hơn cung (hàng hoá) thì giá cả tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân - tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
1.4.1.2. Sự chuyển hoá của giá trị thành giá cả sản xuất.
Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất.
Giá cả sản xuất của hàng hoá bằng chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân (giá cả sản xuất = k + p ).
Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển; sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.
Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hoá xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây, giá cả của hàng hoá lại xoay quanh giá cả của sản xuất. Về mặt lượng, ở mỗi ngành giá cả sản xuất và giá trị có thể không bằng nhau, nhưng trong toàn xã hội thì giá cả sản xuất bằng tổng giá trị hàng hoá. Chính trong mối quan hệ này giá trị vẫn là cơ sở, nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường.
Thực chất của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
1.4.2. Biểu hiện ho ạt động của quy luật giá trị trong điều kiện độc quyền.
Do tư bản độc quyền nhất là tư bản tài chính, giữ vị trí thống trị trong sản xuất và lưu thông nên nó có thể không chỉ sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất vốn là những phạm trù kinh tế quen thuộc trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh mà nó sử dụng phương pháp cưỡng bức siêu kinh tế để thu lợi nhuận cao – lợi nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền là một hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, hình thành trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Song song với việc hình thành lợi nhuận độc quyền, các tổ chức độc quyền không bán hàng theo giá cả sản xuất, mà bán theo giá cả độc quyền (mặc dù lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất không mất đi vì cạnh tranh tự do vẫn tồn tại).
Giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện của giá trị hàng hoá trong giai đoạn độc quyền. Nó bao gồm chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Thông thường các tổ chức độc quyền bán hàng hoá với giá cả cao hơn giá trị hàng hoá; còn khi mua hàng hoá của xí nghiệp không độc quyền, của người sản xuất nhỏ trong nước và nước ngoài thì giá cả thường thấp hơn giá trị. Thông qua cơ chế mua bán theo cơ chế độc quyền các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Việc các tổ chức độc quyền mua bán theo giá cả độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền xét về thực chắt chỉ là sự biểu hiện mới, cao hơn, nó không làm giảm hiệu lực của lý luận giá trị và lý luận giá trị thặng dư, nếu chúng ta đặt nó trong sự cạnh tranh, phân phối lại giá trị và đặt nó trong các mối quan hệ trong và ngoài nước mà các tổ chức độc quyền có liên quan đến sản xuất và kinh doanh.
1.4.3. Một số vấn đề về sản xuất hàng hoá và quy luật giá trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Chuyển sản xuất nông nghiệp sang kinh tế hàng hoá là yêu cầu to lớn của phát triển sản xuất hàng hoá ở một nước tiến lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ. Đặc điểm lớn nhất của nước ta là nền kinh tế đang vận động từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Vấn đề cần giải quyết để phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta nhằm đáp ứng quan hệ phân công hợp tác quốc tế này là phải quy hoạch lại, sản xuất, kế hoạch hoá chặt chẽ, tập trung vào những trọng điểm để tạo nguồn hàng tham gia vào sự phân công và giải quyết nhu cầu trong nước. Sự hợp tác về mặt kế hoạch do vậy có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta. Phát huy tác dụng của quy luật giá trị trong kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế tác động của các quy luật giá trị trong kinh tế không xã hội chủ nghĩa là yều cầu của chính sách giá cả và quản lý thị trường ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ này do tồn tại ba loại quan hệ sản xuất nên tồn tại ba loại sản xuất hàng hoá, là quy luật của sản xuất hàng hoá quy luật giá trị tồn tại trong cả ba loại hình sản xuất hàng hoá đó. Tuy nhiên, như sự phân tích ở trên đây, quy luật giá trị trong các loại hình sản xuất hàng hoá đó có cùng một nội dung, phương thức và phạm vi hoạt động khác nhau, trong sản xuất hàng hoá giản đơn, quy luật giá trị có yêu cầu là bảo đảm lợi ích cá nhân người lao động riêng biệt, trong sản xuất tư bản chủ nghĩa quy luật giá trị có yêu cầu mang lại giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt cho nhà tư bản.
Trong sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích người lao động làm chủ xã hội, gắn liền với cuộc đấu tranh giữa ba loại hình sản xuất hàng hoá có công cuộc đấu tranh giữa các quy luật giá trị. Đó là cuộc đấu tranh về giá cả trên thị trường đã làm nảy sinh hai khuynh hướng phát triển: ổn định và rối loạn, có kế hoạch và vô chính phủ, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
Vấn đề đặt ra cần phải vận dụng quy luật giá trị trong kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế và hướng dẫn quy luật giá trị trong hai thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.
1.5. Vị trí và tác dụng của quy luật giá trị trong kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Sự phân tích trên đã xác định quy luật giá trị trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có nội dung căn bản khác với quy luật giá trị trong các nền kinh tế hàng hoá trước nó, khẳng định quy luật giá trị là quy luật giá trị của kinh tế xã hội chủ nghĩa tiến bộ hữu cơ với các quy luật giá trị kinh tế khác trong hệ thống quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội “ trong chủ nghĩa xã hội, dưới sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa tư liệu sản xuất, quy luật giá trị biểu hiện của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa giữa người và người hoạt động trong hệ thống quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, trong mối liên hệ lẫn nhau giữa các quy luật đó và được sử dụng để quản lý có kế hoạch nền sản xuất”(1). Sự khẳng định vị trí đó của quy luật giá trị không có nghĩa là thừa nhận chủ nghĩa xã hội mới có quy luật giá trị, không ghép quy luật giá trị vào nhóm quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội và cũng không phủ định quy luật giá trị là quy luật của nền kinh tế hàng hoá, rằng quy luật giá trị tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất xã hội khác nhau.
Quy luật giá trị là quy luật của kinh tế hàng hoá nên quy luật giá trị vẫn tồn tại trong xã hội chủ nghĩa ở đó vẫn tồn tại kinh tế hàng hoá. Xét theo góc độ này, quy luật giá trị là một quy luật chung tồn tại trong nhiều phương thức vì là quy luật chung, quy luật giá trị dưới chủ nghĩa xã hội có những nội dung chung giống với những quy luật giá trị trong các phương thức sản xuất trước đó. Đồng thời phép biện chứng về cái riêng là cái toàn thể, cái chung là cái bộ phận, cái chung nằm trong cái riêng lại cho phép khẳng định rằng quy luật giá trị dưới chủ nghĩa xã hội lại là một toàn thể vừa chứa đựng những nội dung giống nhau của các quy luật giá trị trước đó, vừa chứa đựng những nội dung riêng phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, quy luật giá trị trong chủ nghĩa xã hội không phải là sự tái hiện nguyên vẹn của quy luật giá trị mà là một quy luật khác, quy luật giá trị của kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa, quy luật chủ nghĩa xã hội.
Đối với sản xuất xã hội quy luật giá trị được thể hiện: Tính toán kinh tế để bố trí lực lượng sản xuất trong cả nước nhằm thực hiện tốt nhất yêu cầu của quy luật phát triển kinh tế có kế hoạch.
Quy định các cân đối không cơ bản, tác động đến việc hoàn thiện các cân đối cơ bản và đến sự hình thành các cân đối khác trong nền kinh tế.
Quy định các phương án kinh tế tối ưu trong thực hiện yêu cầu các quy luật kinh tế khác.
Quy định các phương tiện kinh tế kích thích nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Quy luật giá trị tác động mạnh đến phân phối xã hội chủ nghĩa, phân phối theo lao động là quy luật của chủ nghĩa xã hội, là phương thức cơ bản để kết hợp hài hoà giữa các lợi ích trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Lưu thông hàng hoá dưới chủ nghĩa xã hội được thực hiện một cách có kế hoạch nhằm thực hiện yêu cầu quy luật giá trị cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Quy luật giá trị điều tiết tiêu dùng xã hội một cách rõ rệt và dưới hình thái giá bán lẻ, trở thành công cụ để nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện chính sách tiêu dùng phù hợp với điều kiện sản xuất từng thời kỳ.
Tác dụng của quy luật giá trị cũng như các quy luật kinh tế khác của chủ nghĩa xã hội đều tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, vào khả năng nhận thức, vận dụng và khả năng tổ chức các hoạt động kinh tế thực hiện của nhà nước, vào những điều kiện tự nhiên xã hội và cả những yếu tố phi kinh tế. Do được xã hội chủ nghĩa nhận thức và vận dụng một cách tự giác, cho nên tác động của quy luật giá trị đối với sự phát triển xã hội chủ nghĩa không gắn liền hữu cơ với sự phân hoá giầu nghèo của những người sản xuất hàng hoá.
1.6. Quy luật giá trị và sự vận dụng của nó đối với các nước khác trên thế giới.
1.6.1. Các nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs) Châu á.
Các nước NIEs Châu á nghèo tài nguyên thiên nhiên, chỉ có lực lượng lao
động đông đảo và giá rẻ làm lợi thế so sánh khi mở đầu chương trình công nghiệp hoá, đã giành được những thành tựu kinh tế đáng khâm phục. Để đạt tới những tiêu chí của xã hội trưởng thành về kỹ thuật (theo cách phân loại 5 giai đoạn trong tăng trưởng kinh tế W.W.Rostow). Các nước này chỉ đi một chặng đường khoảng 30 năm, rút ngắn hơn 60 năm của Nhật bản và càng rút ngắn hơn với 100 năm của nước Anh. Phát triển rút ngắn trở thành đặc trưng của NIEs Châu á và là kết quả của sự tác động bởi các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài. Xét về mức độ đô thị hoá, chúng ta thấy rõ các nước NIEs Châu á ngay từ đầu đã vận động theo cơ chế thị trường cùng với thời gian họ hiểu rõ hơn những quy luật kinh tế chi phối quá trình vận động đó và các chính sách đề ra đều chứng tỏ họ rất tôn trọng các quy luật khách quan, tôn trọng lợi ích cá nhân và dân tộc. Chính vì lẽ đó mà sự hình thành một thị trường trong nước đầy đủ chưa làm họ thoả mãn. Họ mở cửa vươn ra thế giới hơn là chỉ trông cậy vào nhu cầu nội địa, tranh thủ những cơ hội có thể để hoà nhập vào nền kinh tế thị trường trên quy mô quốc tế để đi xa và đi nhanh. Cúng với việc tôn trọng những quy luật khách quan của cơ chế thị trường, xây dựng nền kinh tế mở cửa mạnh mẽ là những điều khác biệt mà nhiều nước thuộc địa thế giới thư ba chưa làm hoặc không làm được.
1.6.2. Các nước Đông á.
Trong những thập kỷ gần đây, Đông á, một khu vực nghèo tài nguyên thiên nhiên, xuất phát ban đầu từ một nền kinh tế bị thất bại, bị chiếm đóng hay thuộc địa, lạc hậu, đã tạo ra một sự phát triển “thần kỳ” và rút ngắn quá trình công nghiệp hoá sau vài ba thập kỷ 80 với Anh gần hai thế kỷ, Mỹ hơn một thế kỷ. Tại sao khu vực lại làm được điều kỳ diệu đó? Đã có nhiều kiến giải rất khác nhau về vấn đề này. Theo chúng tôi, phải chăng các nước này, mặc dù có khác nhau về mức độ, song đã tập trung phát triển một nền kinh tế thị trường mở cửa dưới sự điều tiết của một Nhà nước mạnh, vì mục tiêu chung là tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Việc mô hình kinh tế thị trường Đông á có phù hợp với nước ta hay không còn là điều phải bàn song trong quá trình nghiên cứu, tiếp thu mô hình này thiết nghĩ cần hướng một số điểm:
Không nên tuyệt đối hoá mô hình phát triển, mỗi quốc gia có bước đi riêng của mình, mỗi giai đoạn đều có đặc thù riêng. Do đó, học tập một quốc gia khác, một mô hình phát triển nào đó chỉ nên học ở những nét đại cương, cho dù đó là một mô hình tỏ ra rất thành công trong thực tế và phải biết vận dụng có chọn lọc vào hoàn cảnh cụ thể của mình.
Hoàn toàn không có những “công thức” chính xác chứ không nói đến một “chìa khoá” duy nhất, vạn năng cho phát triển. Ngay cả những chính sách và chiến lược về cơ bản là đúng, là khôn ngoan cũng chỉ phát huy tác dụng được khi chúng đứng ở đâu đó trên một dải hành động có thể.
Song để tìm ra được vị trí đúng của những chính sách và những chiến lược đó, chúng ta phải dựa vào những quy luật kinh tế. Để phục tùng được các quy luật kinh tế đó, việc đầu tiên là phải xác định được khả năng có thực của mình là gì, có làm được không. Trong quá trình hành động, tín hiệu phản ứng của thị trường, vốn là biểu hiện của “các quy luật kinh tế” sẽ bảo cho chúng ta biết chúng ta có thể hành động đúng hay không và chúng ta nên đi theo hướng nào.
1.6.3. Phép lạ kinh tế Nhật Bản.
Mặc dù đã có nhiều ấn phẩm về Nhật Bản, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất những nguyên nhan của sự tăng trưởng kinh tế đặc biệt này. Nhiều nhà nghiên cứu đã lưu ý tới các nhân tố khác nhau của sự phát triển sau chiến tranh của nước Nhật.
Các giai đoạn “ thần kỳ “ của nền kinh tế Nhật Bản thường là kết quả của việc Chính phủ xác định một mục tiêu quốc gia thống nhất, phát triển một cơ sở hạ tầng toàn quốc như một cơ sở hạ tầng cho sự tăng trưởng kinh tế. Luôn duy trì một quan điểm hướng ngoại đối với các chính sách kinh tế…
Sự thật ngây thơ nếu cho rằng các chiến lược kinh tế của Nhật Bản có thể được chuyển giao nguyên xi cho bất cứ nước nào khác – dù người ta có thể xác định chính xác những nhân tố nào đóng góp chủ yếu vào thành công của Nhật Bản. Tất cả những nhân tố như những khác biệt văn hoá, sự sẵn có về nguồn lực, những cân nhắc về chính trị và hoàn cảnh lịch sử đều phải được tính đến. Song như vậy không có nghĩa là kinh nghiệm của Nhật Bản không có một bài học nào cho các nước kém phát triển ngày nay. Những chiến lược lớn như tăng trưởng hướng vào xuất khẩu và sự hợp tác giữa các khu vực công cộng và tư nhân là những bài học khả thi và hứa hẹn đối với các nước đang phát triển Châu á.
Chương II.
Thực trạng về việc vận dụng quy luật giá trị và những giải pháp cơ bản để thực hiện tốt quy luật giá trị ở nước ta.
2.1. Thực trạng của nền kinh tế trước và sau đổi mới ở nước ta.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường.
Đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên nước ta thiếu cái “cốt vật chất” của một nền kinh tế phát triển. Thực trạng của kinh tế được biểu hiện dưới dạng ở những mặt cơ bản như: cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, kém khả năng cạnh tranh, sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công mang nặng tính bảo thủ, trì trệ. Phân công lao động chưa sâu sắc, các mối liên hệ kinh tế kém phát triển, thị trường còn sơ khai, thu nhập của dân cư quá thấp, sức mua thấp, nhu cầu tăng chậm, dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh là khó tránh khỏi, thiếu một đội ngũ những người quản lý sản xuất, kinh doanh có khả năng tham gia cạnh tranh trong và ngoài nước.
Ngoài ra, kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy đã làm xơ cứng các mối liên hệ kinh tế, điều đó biểu hiện từ năm 1986 trở về trước.
Sau năm 1986, dưới sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước nền kinh tế của nước ta đã hướng theo lối đi mới. Đó là sự vận dụng các quy luật kinh tế vào sản xuất trong đó chủ yếu nhất là quy luật giá trị. Sự vận dụng quy luật vào nền kinh tế đã làm cho nền kinh tế nước ta đang dần dần hồi phục. Nó được thể hiện qua các mặt sau:
a, Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần.
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần là do còn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng IX đã khẳng định các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách Nhà nước hạn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo xu hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó việc “phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước về kinh tế xã hội”.
Nhận thức tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế là một yếu tố khách quan, từ đó có thái độ đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng có nghĩa là còn có các quy luật kinh tế khác nhau hoạt động. Sự vận động và phát triển của các thành phần kinh tế trong giai đoạn này chịu sự chi phối trực tiếp của các quy luật thị trường. Thông qua hoạt động của các quy luật thị trường mà nó đào thải những mặt yếu tố bất hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất.
b, Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Kinh tế “khép kín” thường gắn với nền kinh tế phong kiến gắn với sản xuất nhỏ, với tình trạng “bế quan toả cảng” tự cung tự cấp và với nền kinh tế “chỉ huy”. Nhìn chung, đó là một nền kinh tế kém phát triển, bảo thủ, trì trệ.
Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá đã làm phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín. Đặc biệt đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa, sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động gắn bó với thị trường thế giới. Chính sự giao lưu và các mối quan hệ kinh tế được mở rộng ra nước ngoài đã làm cho nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa có những bước phát triển nhanh chóng.
Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta như là một tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ khoa học kỹ thuật thế giới cho phép đáp ứng nhu cầu cả về sản xuất lẫn tiêu dùng. Thông qua mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong. Điều đó tạo điều kiện cho quá trình phát triển rút ngắn ở nước ta.
Việc “mở cửa” nền kinh tế đòi hỏi phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng tôn trọng lẫn nhau, đảm bảo chủ quyền và cùng có lợi.
c, Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua bản chất và vai trò quản lý của Nhà nước.
Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số … Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động trở lại, làm cản trở sự phát triển “ bình thường” của một xã hội mới nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy, sự tác động của Nhà nước – một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội. Thiếu sự “can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để cho nền kinh tế thị trường tự do hoạt động, thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ không thể có hiệu quả, cũng giống như người ta vỗ tay chỉ dùng một “bàn tay”.
2.2. Sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta.
2.2.1 Vận dụng quy luật giá trị điều tiết sản xuất lưu thông.
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn hình thành và phát triển cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Một trong những vấn đề trung tâm của cơ chế thị trường là giá cả. Giá cả chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau như giá trị, quan hệ cung cầu và sức mua của tiền… Nhưng giá cả cũng tác động đến sản lượng, cung cầu cũng như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Mặt khác, thị trường tự do, ngoài những tác động tích cực còn có những mặt ảnh hưởng tiêu cực lên giá cả, gây ra tình trạng mất cân đối mất ổn định kinh tế và tình trạng bất công bằng xã hội… Vì vậy, điều tiết giá cả là một nhiệm vụ không thể thiếu được của Nhà nước. Thuật ngữ “điều tiết giá cả của Nhà nước” được hiểu theo nghĩa rộng như hình thức tác động kinh tế vĩ mô của Nhà nước qua tác động vào giá cả bằng những công cụ, biện pháp nhất định.
Với những lý do trên đây, chúng ta đề cập đến những vấn đề được rất ít người nói đến hiện nay – vấn đề điều tiết giá cả của Nhà nước trên căn cứ lý luận giá trị gắn với phạm trù giá trị – phạm trù cơ sở lý luận kinh tế học nói chung – do đó giúp độc giả phần nào thấy rõ bản chất của những sai lầm trong chính sách giá cả ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng như thành công của các nước phát triển theo định hướng kinh tế thị trường, qua đó góp phần định hướng cho các chủ trương chính sách về giá cả.
Giá trị của hàng hoá được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất, nhưng nó chỉ được thực hiện qua trao đổi, thông qua thị trường – biểu hiện của giá trị trên thị trường là giá trị thị trường và giá cả sản xuất. ở đây mối quan hệ giữa giá trị thị trường, giá cả sản xuất với các giá trị cá biệt của các hàng hoá chỉ là biểu hiện cụ thể của lao động xã hội với lao động tư nhân, lao động trừu tượng với lao động cụ thể. Nếu giá trị thị trường phản ánh giá trị ở mức xã hội hoá lao động, trong phạm vi ngang giá thì giá cả sản xuất phản ánh trên phạm vi liên ngành, phạm vi toàn xã hội (quốc gia). Do đó, quy luật giá trị thị trường, giá cả sản xuất chính là những hình thái cụ thể của quy luật giá trị. Quy luật giá trị thị trường và giá cả sản xuất có tác dụng điều tiết sản xuất ở chỗ:
a, Trong phạm vi ngành vì giá cả thị trường xoay quanh giá trị thị trường nên những người sản xuất với giá trị cá biệt thấp hơn giá trị thị trường sẽ thu được “lợi nhuận siêu ngạch” còn những người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị thị trường sẽ bị lỗ, từ đó sẽ dẫn đến khuyến khích nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, cạnh tranh lẫn nhau nhằm mục đích giảm giá trị cá biệt của sản phẩm so với giá trị thị trường.
b, Đối với phạm vi xã hội, vì cơ sở của giá cả thị trường là giá cả sản xuất nên những ngành sản xuất với giá trị thị trường thấp hơn giá cả sản xuất (những ngành có cấu tạo hữu cơ cao, trình độ ứng dụng khoa học, kỹ thuật cao) sẽ thu được lợi nhuận cao. Ngược lại, những người có cấu tạo hữu cơ thấp sẽ có lợi nhuận bình quân thấp. Từ đó dẫn đến việc di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành kia có tác dụng điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất.
Bên cạnh thừa nhận quy luật giá trị, nhiều người cũng thừa nhận quy luật cung cầu vừa với tư cách quy luật hoạt động song song bên cạnh quy luật giá trị, vừa với tư cách là quy luật “phụ trợ” không thể thiếu được cho hoạt động của quy luật giá trị.
Nội dung cơ bản của quy luật này là: mức cầu có ảnh hưởng thuận còn mức cung có ảnh hưởng nghịch lên giá cả. mối quan hệ giữa cung, cầu, giá cả, giá trị thể hiện: cung = cầu thì giá trị = giá cả; cung > cầu thì giá cả giá trị.
2.2.2. Vận dụng quy luật giá trị để phát triển lực lượng sản xuất.
Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nhu cầu ngày càng tăng của xã hội được bảo đảm bằng cách tổ chức có kế hoạch việc sản xuất, phân phối và trao đổi sản phẩm: nhưng việc thực hiện nhu cầu đó còn do quy luật giá trị chi phối. Việc vận dụng quy luật giá trị để tính toán mức hao phí lao động được tiến hành bằng hình thức giá trị, do vậy sự bù đắp giá trị có tác dụng quyết định đến việc duy trì và mở rộng sản xuất của xí nghiệp và xã hội: việc phân phối thu nhập quốc dân và theo đó việc đạt đến những cân đối cần thiết của nền kinh tế quốc dân đang được thực hiện bằng cách đưa vào các hình thức giá trị, việc khuyến khích sản xuất nhằm bảo đảm các cân đối một cách có kế hoạch đang được thực hiện thông qua các quan hệ hàng hoá - tiền tệ dưới hình thức giá trị.
Quy luật giá trị kích thích sản xuất dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, nó thúc đẩy giảm những hao phí đó và phát triển sản xuất dựa trên cơ sở kỹ thuật ngày càng tiến bộ, việc lựa chọn và áp dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất đều được tính toán hiệu quả kinh tế về mặt giá trị.
2.2.3. Vận dụng quy luật giá trị để lựa chọn được người kinh doanh giỏi trên thị trường.
Vì trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt, làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, làm giầu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng thêm quy mô sản xuất, mở rộng doanh nghiệp của mình. Bên cạnh đó, những người làm ăn kém cỏi, không may mắn, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Như vậy, thông qua việc vận dung quy luật giá trị vào sản xuất chúng ta sẽ phân biệt được, bình tuyển, đánh giá người sản xuất.
Nó mang lại phần thưởng cho những người làm tốt, làm giỏi và hình phạt cho những người làm ăn kém cỏi.
2.3. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt việc vận dụng quy luật giá trị.
2.3.1 Hạch toán kinh tế là một giải pháp nhằm thực hiện tốt việc vận dụng quy luật giá trị.
Hạch toán kinh tế là phạm trù kinh tế gắn liền với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hoá, đồng thời hạch toán kinh tế là công cụ quản lý kinh tế vi mô. Trên ý mghĩa đó cần phải làm sáng tỏ bản chất của quan hệ này cùng với những điều kiện và nguyên tắc của nó, đặc biệt trong quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường.
Kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều đợt cải tiến công tác quản lý ở nước ta đã chứng tỏ rằng: không có hạch toán kinh tế thực sự chừng nào cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn thống trị, chừng nào chưa thừa nhận trên thực tế sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị và các phạm trù của nó. ở nước ta hiện nay sự chuyển đổi cơ chế kinh tế trên phạm vi toàn nền kinh tế ở tầm vĩ mô, gắn liền với nó là sự chuyển biến từ quan hệ bao cấp sang quan hệ hạch toán kinh tế. Hay nói cách khác là chuyển từ quan hệ theo chiều dọc từ trên xuống sang quan hệ theo chiều ngang mà trong đó mỗi doanh nghiệp là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập. Điều kiện tiền đề để thực hiện quá trình chuyển đổi này là phân định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng về tài sản và thực hiện quyền này về mặt kinh tế tức là các doanh nghiệp Nhà nước vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Nhà nước thực hiện quyền sở hữu về mặt kinh tế thông qua công cụ tài chính dưới hình thức: thuế, nộp lợi nhuận. Còn quyền sử dụng Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp có trách nhiệm bảo tồn duy trì vốn. Thực hiện quyền này doanh nghiệp tự mình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh tự nghiên cứu thị trường xác định mặt hàng sản xuất, lựa chọn công nghệ đến tiêu thụ sản phẩm. Dựa trên cơ sở tự chủ hoàn toàn mà nâng cao trách nhiệm vật chất của cả tập thể và cá nhân người lao động, thực hiện nghiêm ngặt chế độ thưởng phạt bằng vật chất, khuyến khích người lao động bằng lợi ích vật chất.
Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hoá, để đứng vững trên thị trường họ không thể không tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí… thường xuyên so đối chiếu đầu vào và đầu ra. Lợi nhuận luôn là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp. Để đặt được mục tiêu đó không có cách nào khác là phải hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hoá sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất và tăng năng suất lao động.
Hạch toán kinh tế là phạm trù kinh tế được xem xét dưới góc độ là những quan hệ kinh tế, đồng thời hạch toán kinh tế là công cụ kinh tế vi mô thì nó được xem xét từng khía cạnh là phương pháp quản lý của các doanh nghiệp Nhà nước. Đặc trưng của phương pháp này là:
Doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động kinh doanh là bù đắp chi phí và có lãi.
Chịu trách nhiệm vật chất và khuyến khích bằng lợi ích vật chất.
Sử dụng các phạm trù giá trị để nâng cao hiệu quả. Vậy hạch toán kinh tế là phương pháp quản lý kinh tế của các doanh nghiệp Nhà nước dựa trên cơ sở sử dụng các phạm trù giá trị và quy luật giá trị, đề cao trách nhiệm vật chất và quan tâm đến lợi ích vật chất của người lao động nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Tác dụng của hạch toán kinh tế:
Một là, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của tập thể cũng như của từng người lao động, do đó khai thác đầy đủ các tiềm năng của doanh nghiệp.
Hai là, kết hợp với lợi ích cá nhân, tập thể tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất. Do đề cao trách nhiệm vật chất và khuyến khích vật chất, người lao động sẽ quan tâm đến kết quả lao động.
Ba là, hạch toán kinh tế dựa trên cơ sở ứng dụng các phạm phù giá trị để tính toán, lựa chọn phương án tối ưu để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Bốn là, hoạt động của các đơn vị hạch toán kinh tế làm tăng thêm dung lượng thị trường. Đối với từng doanh nghiệp để đứng vững trong cạnh tranh phải không ngừng hạ thấp giá trị cá biệt bằng cách tăng năng suất lao động đồng thời giảm giá trị thị trường (giá trị xã hội) và do đó phải hạ thấp giá cả hàng hoá.
2.3.2. Với những chính sách giá cả hợp lý trong nền kinh tế thị trường.
Việc chuyển từ quan hệ bao cấp sang quan hệ hạch toán kinh tế là sự đổi mới có tính cách mạng trong lĩnh vực quản lý kinh tế trong các doanh nghiệp Nhà nước do chính sự tồn tại của chúng đòi hỏi. Sau để duy trì quan hệ này cần có những điều kiện bảo đảm, trong đó nổi bật nhất là phải có hệ thống giá cả và tiền tệ ổn định, giá cả có mặt bằng xã hội thống nhất bởi không thể so sánh đối chiếu, không thể xác định được hiệu quả nếu không có thước đo giá trị chính xác.
Mặt khác cũng như sự điều tiết kinh tế vĩ mô nói chung, điều tiết giá cả của Nhà nước theo cơ chế thị trường trong thời đại ngày nay là một tất yếu khách quan.
Tại sao Nhà nước theo cơ chế thị trường lại phải điều tiết giá cả và sự điều tiết đó có vai trò gì đối với Nhà nước, đối với xã hội… Sau đây là những lý do chính:
* Điều tiết giá cả của Nhà nước là bộ phận cấu thành của các hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô nói chung của Nhà nước theo cơ chế thị trường.
* Điều tiết giá cả của Nhà nước là hoạt động không thể thiếu được nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường trong lĩnh vực giá cả và góp phần khai thác tốt các nguồn lực quốc gia bằng công cụ giá cả.
* Lực lượng sản xuất đạt trình độ quốc tế hoá, quan hệ kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ là một trong những đòi hỏi quan trọng sự điều tiết giá cả của Nhà nước.
* Sức ép đấu tranh của các tầng lớp xã hội khác nhau cũng là nhân tố quan trọng đòi hỏi sự điều tiết giá cả của Nhà nước.
Sự điều tiết giá cả của Nhà nước là sự cần thiết khách quan và có rất nhiều tác dụng vai trò khác nhau. Đáng lưu ý nhất là vai trò trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, trước hết là mục tiêu sản lượng và trong việc thực hiện công bằng xã hội.
2.3.2.1. Thực trạng tổng thể các giải pháp đồng bộ thích ứng với nội dung đổi mới công tác quản lý giá của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Việc hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước về giá phải đặt trong sự đổi mới tổng thể các công cụ quản lý nền kinh tế quốc dân. Sự tác động đồng bộ của các hệ thống công cụ này sẽ tạo nên sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu trên phạm vi toàn xã hội, và do đó sẽ tác động đến sự hình thành và vận động của giá cả thị trường trên giác độ nền kinh tế quốc dân, giá cả chịu sự tác động qua lại của các nhân tố như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, biến động của khối lượng tiền trong lưu thông, tính cân đối của ngân sách, việc đầu tư xây dựng cơ bản tiền lương và thu nhập của người lao động, cán cân thanh toán đầu tư nước ngoài, tỷ giá hối đoái… Do đó, để bình ổn giá cả thị trường xã hội, chính phủ phải sử dụng nhiều chính sách, biện pháp điều tiết vĩ mô, tác động vào các nhân tố nêu trên, bảo đảm cân đối tổng cung và tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, từ đó tác động giá cả thị trường xã hội. Một nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng đến giá cả thị trường ở nước ta trong thời gian tới là việc vốn đầu tư nước ngoài tăng lên đòi hỏi trong nước phải có một lượng tiền và hàng để thực hiện tốt vốn đầu tư đó.
Như vậy xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân để bảo đảm cho giá cả thị trường ổn định, Nhà nước cần phải thường xuyên duy trì tổng thể các giải pháp sau.
a, Đảm bảo sự thống nhất hài hoà giữa chính sách thuế và chính sách giá.
Chính sách thuế là công cụ hết sức quan trọng để hướng dẫn và điều tiết cơ cấu sản xuất, phân phối thu nhập quốc dân, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp.
Chính sách thuế đặc biệt là thuế hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt có liên quan đến sự hình thành và vận động của giá cả thị trường. Tuy nhiên, chính sách thuế (thuế suất và căn cứ tính thuế) là một phần thu bắt buộc, thường được quy định ổn định trong một thời gian; trong khi đó giá cả hàng hoá, dịch vụ lưu thông trên thị trường thì thường xuyên biến động phụ thuộc vào quan hệ cung cầu. Do đó, cần điều tiết phần lợi nhuận siêu ngạch tạo ra trong các trường hợp giá cả tách rời xa giá trị hàng hoá.
b, Xây dựng và thực hiện một chính sách tiền tệ đúng đắn.
Chính sách tiền tệ tác động đến giá cả thị trường chủ yếu là thông qua việc điều hoà cung ứng tiền và chính sách lãi suất.
Từ năm 1990 trở về trước ngân hàng thường xuyên phải phát hành bù đắp bội chi ngân sách. Tỷ lệ phát hành cho tín dụng cũng lớn, đặc biệt là tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản nên đã gây sức ép lớn làm tăng giá trị thị trường và lạm phát cao. Từ năm 1991, lượng tiền phát hành do bội chi ngân sách và do tín dụng đầu tư đã giảm dần. Đến năm1992, việc phát hành bù đắp bội chi ngân sách đã chấm dứt, việc phát hành cho tín dụng cũng được kiểm soat chặt chẽ. Điều đó tác động chặt chẽ đến bình ổn gía thị trường.
Để khắc phục tình trạng này, chính phủ cần có sự thay đổi hình thức kiểm soát việc phát hành tiền của ngân hàng: thay việc duyệt mức phát hành tiền bằng quy định cho Thống đốc ngân hàng chịu trách nhiệm về kiểm soát lạm phát theo chỉ tiêu Quốc hội phê duyệt. Như vậy, quyền hạn của Thống đốc được bảo đảm về thực chất và gắn chặt chẽ với nhiệm vụ cụ thể. Tất nhiên, việc giao quyền cho Thống đốc như vậy không làm giảm nhẹ vai trò điều hành của Chính phủ trong việc phối hợp hành động của các ngành các cấp để thực hiện nhiệm vụ bình ổn giá cả thị trường.
c, Hoàn thiện thường xuyên chính sách đối ngoại.
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, khi ngoại thương ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong lưu thông hàng hoá thì các chính sách trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, cụ thể là chính sách xuất nhập khẩu và chiến lược thu hút vốn đầu thị trường có ảnh hưởng quan trọng đến hệ thống giá nội địa.
Nhiệm vụ của Nhà nước là bằng nhiều biện pháp tác động vào thị trường để có một tỷ giá hợp lý cho từng giai đoạn và giữ ổn định tương đối tỷ giá này, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư thực hiện các hợp đồng (khế ước) kinh doanh và tính toán hiệu quả của mình bảo đảm lợi ích chính đáng của doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu.
2.3.2.2. Những hình thức can thiệp trực tiếp của Nhà nước đối với giá cả thị trường.
a, Thẩm định chi phí và quy định chế độ giá.
Việc chuyển từ định giá trực tiếp sang quản lý giá gián tiếp, một mặt làm giảm vai trò của Nhà nước trong quy định mức giá cụ thể của hàng hoá, mặt khác lại đề cao vai trò của Nhà nước trong việc kiểm soát giá cả một cách gián tiếp thông qua việc thẩm định chi phí do các doanh nghiệp kê khai, trong việc quy định chế độ tính toán chi phí và quy định giá. ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển (như các nước Phương Tây, một số nước Đông Nam á), Chính phủ lập ra cơ quan thẩm kế, Nhà nước tính toán các mức thu thuế (hoặc bù giá, trợ cấp…) kinh nghiệm này cần sớm áp dụng ở nước ta.
b, Định giá chuẩn và giá giới hạn.
Xuất phát từ luận điểm về sự hình thành, vận động của giá cả trong cơ chế thị trường phụ thuộc vào quan hệ cung cầu, Nhà nước thực hiện quản lý chủ yếu bằng các biện pháp quản lý gián tiếp tác động vào quan hệ cung cầu để giá cả vận động theo định hướng mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nước ta hiện nay, Nhà nước còn định giá một số ít vật tư, hàng hoá quan trọng và giá tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Bởi vì:
Một là nước ta mới bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, cơ cấu tổ chức sản xuất lưu thông còn mang nặng tính độc quyền, chưa có đủ điều kiện để phát huy tính cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Hai là, một bộ phận rất lớn tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân dưới nhiều hình thức cho đến nay chưa xác định được “ông chủ thực sự” thay cho chế độ làm chủ tập thể của người lao động.
Ba là, nền kinh tế còn nhiều mặt mất cân đối, giá cả thị trường còn nhiều biến động, nhiều vấn đề thuộc chính sách xã hội, miền núi dân tộc cần được giải quyết.
c, Đăng kí giá.
Nhà nước yêu cầu các doanh nghiệp phải đăng kí giá để đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô nền kinh tế. Chỉ khi nào nắm được sự vận động của của các yếu tố chi phí trong sự hình thành giá cả và các nhân tố chi phối giá cả thị trường, thì Nhà nước mới có thể chủ động đề ra các giải pháp bình ổn giá cả. Thông qua việc đăng kí giá, Nhà nước còn thực hiện chức năng kiểm soát chi phí, giám sát thực hiện các luật thuế, luật bảo vệ người tiêu dùng (ở nước ta đang xây dựng pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng). Phương hướng cơ bản là chuyển từng bước danh mục hàng hoá do Nhà nước quy định giá sang chức năng đăng kí giá.
d, Hiệp thương giá.
Một số nước có nền kinh tế thị trường phát triển đã vận dụng hình thức hiệp thương giá giữa người sản xuất và người tiêu dùng để đảm bảo lợi ích hợp pháp của họ, tránh tình trạng lợi dụng độc quyền hoặc liên minh độc quyền để tăng giá hoặc ép giá. Tại Pháp, chính quyền thành phố tổ chức hiệp thương giá bánh mỳ để đảm bảo bình ổn giá.
e, Niêm yết giá.
Đây là hình thức rất phổ biến ở các nước, cả các nước theo cơ chế thị trường lẫn các nước theo cơ kế hoạch hoá tập trung. Niêm yết giá là thực hiện văn minh thương nghiệp.
Trong chừng mực nhất định, niêm yết giá còn là một trong những biện pháp khuyến khích cạnh tranh làm lợi cho người mua và người bán. Điều rất quan trọng trong việc thực hiện niêm yết giá cả phải tương xứng với chất lượng và trọng lượng.
2.3.3. Cần khắc phục những tiêu cực trong nền kinh tế.
a, Độc quyền:
Cung có thể mâu thuẫn với cầu bởi những lí do rất tự nhiên của hoạt động kinh tế. Nhưng chúng cũng có thể mâu thuẫn do người sản xuất sử dụng khả năng đặc biệt của mình. Đó là trường hợp độc quyền. Độc quyền có thể tồn tại dưới hai dạng là độc quyền mua và độc quyền bán. Cả hai đều có khả năng giữ giá ở mức cố định có lợi cho mình. Điều này tạo khả năng giá cả sai lệch so với giá trị kinh tế.
b, Thủ đoạn kinh doanh.
Cũng giống như trường hợp độc quyền, mâu thuẫn giữa cung và cầu có thể do hoạt động cố ý gây ra của người kinh doanh nhằm thu lợi riêng, chẳng hạn như đầu cơ tích trữ… Điều này tất nhiên có thể tạo khả năng là giá cả sai giá trị kinh tế.
c, “Sức ỳ” của thể chế kinh tế.
Nếu theo các nhà kinh tế học cổ điển thì giá cả và tiền lương rất linh hoạt, do đó giá cả và tiền lương sẽ điều chỉnh rất mạnh để xoá bỏ trạng thái chênh lệch của giá cả so với giá trị kinh tế. Sự xoá bỏ với tốc độ nhanh như vậy coi như không có sự chênh lệch giữa giá trị kinh tế và giá cả. Keynes đã thực hiện một cuộc cách mạng trong quan niệm về giá cả. Ông phản đối tính linh hoạt của tiền lương và giá cả và khẳng định rằng chúng là cứng và do đó chênh lệch giá cả giá trị kinh tế tồn tại dai dẳng trong những khoảng thời gian không ngắn; không thể coi “không tồn tại”. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp làm giá trị kinh tế chênh lệch với giá cả. Nó xuất phát từ “sức ỳ” từ quán tính của thể chế kinh tế.
Ngoài ra, “sức ỳ” còn thể hiện qua tâm lý, qua tập quán trao đổi theo “giá cổ truyền” của những người sản xuất cũng là những yếu tố làm giá cả sai lệch với giá trị kinh tế.
d, Định giá chủ quan.
Sự sai lệch giữa giá cả và giá trị kinh tế còn có thể do tác động trực tiếp của việc định giá giữa người mua và người bán, do các nhân tố hết sức chủ quan quyết định. Tuy nhiên, đây là những hiện tượng rất ngẫu nhiên và kém ổn định, nhưng cũng cần biết đến để có cách giảm bớt.
e, Lạm phát và tiền tệ.
Lạm phát theo cách hiểu hiện nay là sự tăng lên một cách phổ biến của giá cả hàng hoá dịch vụ. Về mặt lý thuyết có thể coi lạm phát và sự tăng lên của mặt bằng giá chung, do đó cũng là sự giảm xuống của sức mua của đơn vị tiền tệ. Trong thực tế mặt bằng giá này được dùng chỉ số để đo lượng ( như chỉ số giá cả tiêu dùng CPI, chỉ số giá cả sc PPI…). Nhưng khi giá cả tăng lên một cách phổ biến thì cũng chưa có cơ sở cho phép ta khẳng định rằng nó dẫn đến sự sai khác của giá trị kinh tế và giá cả. Thật vậy, sẽ không có điều đó nếu sự gia tăng của giá cả bằng sự gia tăng của giá trị kinh tế. Nhưng trong thực tiễn thì sự gia tăng của giá trị kinh tế thường chậm chạp và ít đột biến, trong khi đó những thời kỳ chúng ta gọi là “lạm phát” thường là bạn đồng hành của đột biến tăng giá với tỷ lệ cao và mang tính hỗn độn… Do đó, lạm phát cần được xem như sự sai lệch một cách phổ biến của giá cả so với giá trị kinh tế, giá cả tăng lên theo tỷ lệ nhanh hơn với tỷ lệ tăng của giá trị kinh tế. Trong trường hợp ngược lại là giảm phát.
Lạm phát còn được hiểu như là sự phát hành “quá lạm” tức là số lượng tiền giấy được phát hành ra vượt quá với mức được đảm bảo bằng giá trị thực tế. Sự phát hành đó làm cho giá trị thực tế của mỗi đồng tiền giảm xuống so với giá trị danh nghĩa của nó. Nhưng trên thị trường người ta vẫn trao đổi theo giá trị danh nghĩa trị giá mà trước đây nó vẫn được đảm bảo bằng giá trị thực tế. Trong trường hợp này rõ ràng sự trao đổi không còn theo nữa. Phát hành tiền “không” chính là một trong những nguyên nhân của sự trao đổi không theo giá trị kinh tế.
Kết luận
Như vậy, Quy luật giá trị – là quy luật vận động của quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá. Quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá dưới chủ nghĩa xã hội, không phải là sự kết hợp duy nhất và cơ bản nhất của những người sản xuất hàng hoá; quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá dưới chủ nghĩa xã hội là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn khác hẳn với các kiểu quan hệ hàng hoá - tiền tệ trước nó. Vì vậy, ở đây quy luật giá trị không biểu hiện quan hệ sản xuất hàng hoá nói chung mà là một mặt biểu hiện của quan hệ sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa. Chính nhờ những tác dụng của quy luật giá trị đối với nền kinh tế mà kinh tế nước ta ngày càng phát triển.
Trên cơ sở nghiên cứu về quy luật giá trị trên đây, chúng ta đã có những định hướng cho tương lai của nền kinh tế, tiếp tục phát huy những điểm mạnh, hạn chế những điểm yếu để Việt Nam luôn sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Danh mục tài liệu tham khảo
Phần tiếng Việt
1. Mai Ngọc Cường – Lê Văn Sang ( chủ biên ), Các lý thuyết kinh tế học phương Tây hiện đại, NXB Thống Kê, 1993.
2. Nguyễn Trí Dũng ( chủ biên ), Vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế các nước ASEAN, NXB Thống Kê, 1993.
3. Võ Đại, Chống lạm phát và quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
4. Nguyễn Tiến Hoàng, Vai trò và phương thức điều tiết giá cả của nhà nước, Tạp chí thời báo Kinh tế Việt Nam – Số 32 tháng 4/1993.
5. Nguyễn Tiến Hoàng, Học thuyết giá trị của CMac trong thời đại ngày nay, NXB Học viện CTQG HCM, trung tâm TT – TL, 1993.
6. Nguyễn Tiến Hoàng, Một số vấn đề quản lý giá cả của Nhà nước ta hiện nay, trong sách “Góp phần tìm hiểu một số vấn đề kinh tế – xã hội dưới ánh sáng đổi mới của Đảng”, NXB Học viện CTQG HCM, 1993.
7. PTS. Nguyễn Văn Kỷ, Một số lý luận về kinh tế chính trị và phát triển kinh tế Việt Nam, NXB Học viện CTQG, 1995.
8. C.Mac, Tư bản Q1-3, NXB Sự thật, 1973, 1978.
9. Nghị quyết đại hội Đảng VI (Văn kiện), NXB Sự thật, 1987.
10. Nghị quyết đại hội Đảng XI (Văn kiện), NXB Chính trị QG, 2001
11. Tạp chí thị trường giá cả.
12. Kinh tế chính trị Mác-Lênin, NXB Giáo Dục, Tập I, II.
Phần tiếng nước ngoài
13. L.A-ro-xkai-a, Kinh nghiệm điều tiết giá cả của Nhà nước, T/c “Các khoa học kinh tế” số 11/1991.
14. P.Bezbakh, Lạm phát và giảm lạm phát, NXB Khoa học và kỹ thuật, 1992
15. C.Mac-xan, Các nguyên lý của kinh tế học Tập 1-2, NXB Tiến Bộ, 1983.
16. A.Đ.Xméc-nốp (chủ biên), Phê phán các quan điểm phi Macxit trong kinh tế chính trị, 1990.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21152.doc