Trình độ của nền sản xuất xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định được thể hiện qua các phương thức sản xuất trong giai đoạn đó. Các hình thái kinh tế xã hội vận động, phát triển và thay thế nhau do tác động của quy luật khách quan . Trong đó, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một trong những quy luật cơ bản và quan trọng nhất. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là đIều kiện đầu tiên thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Một hình thái kinh tế xã hội không bao giờ mất đi khi sức sản xuất của nó chưa mất hết tác dụng . Lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định của phương thức sản xuất, nó luôn vận động , biến đổi và kéo theo nó là sự vận động thay đổi của quan hệ sản xuất cho phù hợp.
18 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trải qua hơn bốn ngàn năm lịch sử, con người tồn tại và phát triển được như ngày nay là nhờ vào lao động sản xuất. Sản xuất vật chất là điều kiện trước tiên đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ăng-ghen chỉ ra rằng: Các Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, nghĩa là tìm ra cái sự thật giản đơn... là trước hết con người phải ăn, uống, ở và mặc trước khi có thể lo đến làm chính trị , khoa học, nghệ thuật, tôn giáo... Những thứ đảm bảo cho nhu cầu này của con người hoàn toàn không có sẵn trong tự nhiên. Để có nó con người phải sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người thường xuyên tác động vào tự nhiên hình thành mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Mặt khác, con người cũng có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ hai mặt đó được biểu hiện thành quan hệ hai mặt của nền sản xuất xã hội: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đối với một nước đang phát triển như Việt Nam là một vấn đề nan giải cần được bàn tới. Với kiến thức có hạn, với một phạm vi hạn hẹp của một bài tiểu luận có lẽ bài nghiên cứu này của em vẫn còn mắc nhiều sai sót. Song em rất mong được sự góp ý của thầy giáo cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn!
I Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Con người chúng ta sinh ra là để hoạt động và hoạt động cơ bản nhất là sản xuất ra của cải vật chất đấy chính là cơ sở của đời sống xã hội. Vào mỗi thời kỳ lịch sử nhất định thì xã hội sẽ có những cách thức để thực hiện quá trình sản xuất vật chất và cách thức đó ta gọi là phương thức sản xuất. Đối với sự vận động lịch sử loài người cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi mang tính cách mạng. Khi đó các quá trình kinh tế xã hội... được chuyển sang một chất mới. Dựa vào phương thức sản xuất mà chúng ta có thể phân biệt được sự khác nhau của các thời đại kinh tế khác nhau. C. Mác nói: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất ra bằng cách nào, với những tư liệu sản xuất nào”.
Phương thức sản xuất, cách thức con người ta tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
*Lực lượng sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử , lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C. Mác gọi là “quan hệ song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội. Đó là quan hệ của con người với xã hội và quan hệ của con người với nhau
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là, trong quá trình sản xuất xã hội , con người chinh phục tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình. Sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng trong khái niệm lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất gồm có đối tượng lao động (là những cái mà con người tác động vào để cải tạo chúng thành các sản phẩm phục vụ cho cuộc sống con người) như đất đai tài nguyên khoáng sản hoặc những đối tượng trải qua quá trình lao động của con người nhưng chưa thành sản phẩm cuối cùng (như bông, sợi, quặng, thép...) và tư liệu lao động như công cụ lao động, các phương tiện lao động khác như nhà xưởng, kho tàng, bến bãi. Trong các yếu tố trên thì công cụ lao động là yếu tố đông nhất và quyết định. Đồng thời nó là thước đo trực tiếp trình độ của lực lượng sản xuất. Người lao động là những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất. Họ phải có một thế lực nhất định, một kỹ năng và thói quen nhất định, một trình độ hiểu biết.
Do đặc trưng xã hội riêng có của mình, con người trong nền sản xuất xã hội có sức mạnh và kỹ năng lao động. Trong lao động sức mạnh và kỹ năng ấy đã được gấp lên nhiều lần. Hơn nữa lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ. Trí tuệ của con người không phải là cái gì siêu nhiên mà là sản phẩm của tự nhiên và của lao động. Nhưng trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội loài người, trí tuệ hình thành và phát triển cùng với lao động làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Hàm lượng trí tuệ trong lao động đặc biệt là trong điều kiện khoa học công nghệ hiện nay đã làm cho con người trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản và vô tận
Cùng với con người, công cụ lao động cũng là một thàmh tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động theo Ăng- ghen là “khí quan của bộ óc con người”, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá” có tác dụng nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người. Bởi vậy khi công cụ lao động đã đạt tới trình độ tin học hoá, được tự động hoá thì vai trò ‘khí quan vật chất” của nó hết sức kỳ diệu.
Trong mọi thời đại, công cụ lao động luôn là yếu tố đông nhất của lực lượng sản xuất biểu hiện thành năng lực thực tiễn của con người ngày một tăng thêm. Chính sự chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa của mọi cải biến xã hội.
Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ tự nhiên của con người. Trong tác phẩm: “Sự khốn cùng của triết học”, C. Mác đã nêu ra một tư tưởng quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội. C. Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất . Do có được những lực lượng sản xuất mới, loàI người thay đổi phương thức sản xuất mới của mình. Và do thay đổi phương thức sản xuất , cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả các quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đang diễn ra rất mạnh mẽ. Khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Nó đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống xã hội. C. Mác dự kiến khoa học sẽ trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, trở thành “lực lượng sản xuất độc lập”. Tư tưởng ấy của Các Mác có ý nghĩa định hướng tích cực đối với cả hoạt động sản xuất lẫn hoạt động khoa học.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất và do vậy nó hoàn toàn có thể được coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
* Quan hệ sản xuất
Như đã nói ở trên, trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm lực lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối “ quan hệ song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội hay quan hệ của con người với tự nhiên. Còn khái niệm quan hệ sản xuất biểu thị mặt thứ hai của mối quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất.
Sở dĩ quá trình sản xuất xã hội có thể diễn ra một cách bình thường chính là vì trong sự sản xuất đó, mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất. Trong sản xuất, mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thể hiện thành những trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mối quan hệ đó được xây dựng trên cơ sở thông qua những quan hệ khác nhau giữa người và người (quan hệ sản xuất).
Trong tác phẩm “Lao động làm thuê và tư bản”, C. Mác viết: “trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên , người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên tức là việc sản xuất”.
Như vậy, trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình con người ta dù muốn hay không cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với nhau. Những quan hệ này mang tính tất yếu và không phụ thuộc vào ý muốn của ai cả. Đó chính là quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất là do con người sáng tạo ra, nó tuân theo những quy luật tất yếu khách quan của sự vận động đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quyết định các quan hệ khác.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một vấn đề, đó là nền sản xuất xã hội , chúng có quan hệ biện chứng với nhau. Mác và Ăng-ghen đã nhận thấy rằng mối quan hệ bản chất tất yếu được xác lập giữa chúng là quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này chỉ rõ động lực và xu thế phát triển của lịch sử. Tư tưởng của Mác và Ăng-ghen về quy luật này tập trung ở một số vấn đề.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động và sức lao động. Khi công cụ sản xuất được từng cá nhân riêng biệt sử dụng để sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội, quá trình sản xuất này mang tính đơn lẻ không có sự tham gia của nhiều người thì lực lượng sản xuất có tính chất cá thể. Ngược lại, công cụ sản xuất được nhiều người sử dụng để sản xuất ra sản phẩm (nhiều người cùng tham gia vào quá trình sản xuất) thì lực lượng sản xuất mang tính xã hội.
Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh sảo và hiện đại của công cụ sản xuất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng, kỹ xảo của người lao động, trình độ phân công lao động xã hội, tổ chức quản lý sản xuất và quy mô của nền sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động càng sâu. Trình độ phân công lao động và chuyên môn hoá là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất
Để nâng cao chất lượng hiệu quả sản xuất và giảm bớt lao động nặng nhọc, con người không ngừng cải tiến hoàn thiện và chế tạo những công cụ sản xuất mới. Đồng thời với sự tiến bộ của công cụ, tri thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của con người lao động cũng tăng lên. Kết quả đó là nhờ hoạt động thực tiễn của con người, làm cho chính con người phát triển biến đổi. Yếu tố năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thích ứng với nó. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi không thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm thậm chí phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn tất yếu sẽ xảy ra. Biểu hiện của mâu thuẫn này trong xã hội có giai cấp đối kháng và mâu thuẫn giữa các giai cấp đôí kháng.
Lịch sử chứng minh rằng do sự phát triển của lực lượng sản xuất, loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất, gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã hội , dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội
3) Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất được sinh ra trên cơ sở của lực lượng sản xuất. Bản thân quan hệ sản xuất không phải là thụ động , chúng tác động tích cực vào lực lượng sản xuất, thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên cần chú ý rằng, không phải mọi quan hệ sản xuất mà chỉ có những quan hệ sản xuất mới , tiến bộ phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất mới thúc đẩy sự phát triển sản xuất xã hội. Còn những quan hệ sản xuất cũ lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản xuất không có tác dụng thúc đẩy mà còn kìm hãm, cản trở sự vận động tiến lên của lực lượng sản xuất.
Trong lịch sử loài người có những giai đoạn quan hệ sản xuất đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thí dụ: ở xã hội nô lệ khi quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, bằng những hình thức lao động tập trung khổ sai thích ứng với trình độ của lực lượng sản xuất lúc ấy, chế độ chiếm hữu nô lệ đã đạt được những kì tích to lớn trong lịch sử văn minh nhân loại.
Là sản phẩm tất yếu của lực lượng sản xuất phát triển ở một trình độ cao, quan hệ sản xuất ra đời sẽ phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên sự phù hợp này là sự phù hợp biện chứng, không loại trừ mâu thuẫn. Xuất phát từ lực lượng sản xuất chúng thường xuyên biến đổi cả trong những khuôn khổ của cùng một phương thức sản xuất. Những biến đổi ấy có thể là rất căn bản. Còn về những quan hệ sản xuất dù chúng có những biến đổi nhất định nhưng về cơ bản trong khuôn khổ của phương thức sản xuất ấy chúng vẫn không biến đổi.
Ví dụ: trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản trước kia lực lượng sản xuất đã biến đổi sâu sắc, trong khi đó quan hệ sản xuất trước kia cho đến tận bây giờ vẫn dựa vào chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Do tính chất bảo thủ, ổn định nhất định của quan hệ sản xuất nên quan hệ sản xuất không theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đến khi quan hệ sản xuất lạc hậu thì bắt đầu kìm hãm sự phát triển cuả lực lượng sản xuất, vai trò kìm hãm của quan hệ sản xuất ngày càng sâu sắc, gay gắt cuối cùng chuyển thành xung đột. Tính tất yếu là cuộc cách mạng xã hội sẽ xảy ra và tiêu diệt quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
Sự hoạt động của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong lịch sử.
Sự hoạt động của quy luật trong lịch sử đã tạo ra động lực đưa tới sự thay thế các phương thức sản xuất, các chế độ xã hội. Từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ đến xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến, đến xã hội tư bản chủ nghĩa và cao nhất là xã hội chủ nghĩa.
Vào thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do công cụ sản xuất chủ yếu bằng đá thô sơ, trình độ hiểu biết hạn hẹp, để duy trì sự sống chống lại mọi tai hoạ của thiên nhiên, con người đã lao động theo cộng đồng cho nên đã hình thành quan hệ sản xuất cộng sản nguyên thuỷ. Công cụ bằng kim loại ra đời thay thế cho công cụ bằng đá đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động được nâng cao, sản phẩm thặng dư xuất hiện , chế độ chiếm hữu nô lệ dựa trên quan hệ sản xuất tư hữu đầu tiên ra đời.
Quan hệ sản xuất này với những hình thức lao động tập trung, khổ sai đã thích ứng với trình độ của lực lượng sản xuất lúc ấy. Do vậy mà chế độ chiếm hữu nô lệ đã đạt được những kỳ tích to lớn trong lịch sử văn minh nhân loại. Sau đó, do sự cưỡng bức tàn bạo của chủ nô đối với nô lệ đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa họ.
Quan hệ sản xuất phong kiến thay thế quan hệ chiếm hữu nô lệ, khi ấy thì người nô lệ lao động khổ sai đã trở thành nông nô. Sức lao động của nô lệ đã được giải phóng khỏi xiềng xích của xã hội nô lệ, lực lượng sản xuất có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, vào giai đoạn cuối của xã hội phong kiến ở các nước Tây Âu, lực lượng sản xuất mang yếu tố xã hội hoá gắn với quan hệ sản xuất phong kiến.
Mặc dù, hình thức bóc lột của các lãnh chúa phong kiến được thay đổi liên tục từ địa tô lao dịch đến địa tô hiện vật, địa tô bằng tiền. Song quan hệ sản xuất phong kiến chật hẹp không chứa đựng được nội dung mới của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế quan hệ sản xuất phong kiến.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời góp phần giải phóng sức lao động của người dân cá thể. Để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư giai cấp tư sản đua nhau mở rộng sản xuất cải tiến kỹ thuật, ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào tất cả các khâu của nền sản xuất xã hội. Trong thời kỳ hoàng kim của mình, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những khả năng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Sự mâu thuẫn của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chung, của lực lượng sản xuất vật chất, của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có hay đấy chỉ là những biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển”.
Theo Mác sự mâu thuẫn của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất trước hết phải diễn ra ở mâu thuẫn của lực lượng sản xuất với quan hệ sở hữu. Nhưng đây không phải là mâu thuẫn do quan hệ sản xuất tạo ra mà là mâu thuẫn do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến. Quan hệ sản xuất do tính thể chế, tính pháp luật nên chậm biến đổi trong khi đó lực lượng sản xuất lại thường xuyên biến đổi, phát triển không ngừng nên nó sẽ phá vỡ sự phù hợp trước tạo ra mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn tích cực, mâu thuẫn do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra đòi hỏi được tiếp tục phát triển. Lúc đó yêu cầu phù hợp của quy luật đòi hỏi phải thay quan hệ sản xuất cũ lạc hậu, lỗi thời bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Trong trường hợp ngược lại, quan hệ sản xuất mâu thuẫn với lực lượng sản xuất do chủ quan của con người gây ra vì gắn cho lực lượng sản xuất những quan hệ không phù hợp với trình độ của nó. Mác thường xuất phát từ công cụ sản xuất và đặt nó trong mối quan hệ với hình thức sở hữu để xem xét, để đánh giá sự phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, Mác và Ăng- ghen viết: “Chúng ta vẫn xuất phát từ công cụ sản xuất và ở đây đã thể hiện rõ tính tất yếu của sở hữu tư nhân ở những giai đoạn công nghiệp nhất định. Trong công nghiệp khai thác, sở hữu tư nhân hoàn toàn ăn khớp với lao động. Trong công nghiệp nhỏ và toàn bộ nông nghiệp, cho tới nay sở hữu là hậu quả tất yếu của những công cụ sản xuất và sở hữu tư nhân chỉ là sản vật của nền công nghiệp đã đạt tới trình độ phát triển cao mới có thể tạo ra mâu thuẫn ấy”.
Dù thừa nhận có tính chất cá nhân và tính chất xã hội trong lực lượng sản xuất nhưng Mác không xét tới tính chất của lực lượng sản xuất. Trong quy luật này, sự phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất có nguồn gốc phù hợp hay không phù hợp của hình thức sở hữu với một trình độ nhất định của công cụ sản xuất.
Việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Việc giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là nội dung quan trọng thứ hai cần được chú ý trong tư tưởng của Mác và Ăng-ghen về quy luật này. Quan hệ sản xuất phù hợp tạo điều kiện cho lực luợng sản xuất phát triển.Nhưng khi quan hệ sản xuất không phù hợp nữa , mâu thuẫn với lực lượng sản xuất thì “từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của lực lượng sản xuất . Khi đó bắt đầu một thời đại của một cuộc cách mạng xã hội”.
Khi đã mâu thuẫn, không những quan hệ sản xuất không cần thiết với lực lượng sản xuất mà trở thành những ràng buộc, cản trở, gây khó khăn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất .Vì vậy, cần phải phá vỡ quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất, tạo ra hình thức mới là môi trường phù hợp cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là cách giải quyết mâu thuẫn trường hợp quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Trong trường hợp này một khẳng định lực lượng sản xuất , điều quan trọng trước tiên Mác viết là để khỏi bị tước một trong những thành quả văn minh, những lực lượng sản xuất đã đạt được thì việc thủ tiêu những quan hệ cũ chỉ có thể diễn ra dần trong từng bước, không thể nhanh chóng hay ngay lập tức vì đó là quá trình đổi mới. Đến một lúc nào đó dấu vết cuối cùng của cái cũ sẽ không còn tìm thấy trong đời sống xã hội hiện tại. Do đó không thể dùng ý muốn chủ quan hoặc dùng các sắc lệnh để xoá bỏ hoặc xác lập một quá trình kinh tế xã hội mới nào đó.
Do đó Mác chỉ xét mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Do đó, ông cũng chỉ bàn đến việc giải quyết trong trường hợp này. Khi cách mạng xã hội nổ ra là khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã cực kỳ gay gắt, lực lượng sản xuất khi đó đã phát triển cao đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất mới. Giai cấp cách mạng sau khi giành được chính quyền đưa những quan hệ -những quan hệ sản xuất mà đã tiến hành đấu tranh vào các quá trình kinh tế xã hội. Là có thể tạo nên sự phù hợp nhất định giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Khi mâu thuẫn đã được giải quyết thì cũng là lúc quá trình phù hợp mới được xác lập nhưng trên cơ sở trình độ mới của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn được giải quyết đến đâu thì sự phù hợp cũng được xác lập tới đó giống như việc giải quyết mâu thuẫn quá trình phù hợp cũng diễn ra dần dần từng bước, từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, từ một mặt đến toàn bộ. Khi sự phù hợp đạt được về cơ bản thì có thể nói là đã tạo ra một sự thống nhất giữa lực lưọng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong sự vận động của các quá trình sản xuất của xã hội, sự phù hợp và mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn chuyển hoá và thay thế lẫn nhau. Từ phù hợp đến mâu thuẫn và mâu thuẫn được giải quyết sẽ tạo ra sự phù hợp mới cao hơn. Đó là quá trình phát triển lớn lên của lực lượng sản xuất , quá trình đổi mới liên tục của quan hệ sản xuất. Quá trình thay đổi các phương thức sản xuất đã đưa xã hội chuyển từ phương hướng sản xuất này đến phương thức sản xuất khác tiến bộ hơn.
II. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam hiện nay.
1) Những sai lầm trong việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trước đại hội VI (12-1986).
Sau khi hoàn thành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại, giải phóng miền nam thống nhất đất nước. Cả nước ta cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội , chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng như hàn gắn lại vết thương chiến tranh khôi phục và phát triển sản xuất , xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển văn hoá giáo dục y tế. . . Tuy vậy hơn 10 năm sau chiến tranh thì nền kinh tế nông nghiệp vẫn lạc hậu mang nặng tính tự cung tự cấp.
Cơ cấu kinh tế mất cân đối, cơ chế tự cung tự cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề.
Nền kinh tế kém hiệu quả làm không đủ ăn phải đi xin viện trợ nước ngoài.Trong khoảng 10 năm (1976-1985) kinh tế tăng trưởng thấp (3,7%/năm) thu nhập quốc dân trong nước sản xuất chỉ đáp ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Cho nên nguồn viện trợ và đi vay bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng. Tính trung bình từ năm 1981-1985 thì nguồn nước ngoài chiếm 18,06% tổng thu ngân sách, nợ nước ngoài tăng lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD.
Điều đáng nói là vay nợ nước ngoài chồng chất nhưng bội chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần năm 1980 là 1,81% ; năm 1985 là 36,6% buộc phải bù đắp bằng phát hành tiền. Cũng trong năm đó những sai lầm trong chính sách giá cả và tiền lương đã làm cho nền kinh tế ở nước đó là siêu lạm phát, năm 1986 là 774,7%.Giá cả leo thang vô phương kiểm soát , nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, tiền lương không đủ sống, trật tự xã hội không được đảm bảo, tham nhũng và nhiều tệ nạn khác lan rộng, công bằng xã hội bị vi phạm , nếp sống văn hoá bị sói mòn, lòng tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước giảm sút.
Thực trạng trên là do nhiều nguyên nhân chẳng hạn như nền kinh tế nước ta có điểm xuất phát thấp, do hậu quả của chiến tranh để lại. Nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta vi phạm chủ quan duy ý chí, vi phạm các quy luật khách quan của cải tạo xã hội chủ nghiã đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Quá vội vàng khi chúng ta đề ra chủ trương xây dựng, nói chính xác hơn là áp đặt mối quan hệ sản xuất hoàn toàn không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta thời kỳ đó.
Quá chủ quan khi chúng ta đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản là phát triển sản xuất. Khi đó chúng ta đã thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn mà không chú ý đến vấn đề giải quyết lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Chúng ta đưa ra máy móc thiết bị về các huyện để góp phần phát triển công nghiệp ở địa phương nhưng chúng ta lại không chú ý đến trình độ tổ chức quản lý của cán bộ cho nên hiệu quả hoạt động của những máy móc thiết bị này rất thấp.
Đại hội V đã nhận thấy những sai lầm nhưng nghị quyết của đại hội lại không được nghiêm chỉnh cho nên chúng ta vẫn mắc sai lầm để cho những công trình lớn chưa thật cần thiết vẫn tiếp tục được xây dựng. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta đã có những quan niệm rất giản đơn, sơ lược về sự thích ứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Nghĩa là cứ có chuyên chính vô sản thì có thể xây dựng quan hệ sản xuất mới theo tốc độ và quy mô bất kỳ. Chính vì sự sai lầm này mà chúng ta đã xây dựng một quan hệ sản xuất tiên tiến rồi mới thúc đẩy, lựa chọn lực lượng sản xuất phát triển. Do đó lực lượng sản xuất của chúng ta thời kỳ đó kém phát triển làm cho phương thức sản xuất nói riêng và tiến bộ xã hội nói chung có bước thụt lùi.
Như vậy, sai lầm của chúng ta không phải là duy trì quan hệ sản xuất xã hội quá lạc hậu so với lực lượng sản xuất mà chúng ta đã đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho quan hệ sản xuất nó tách rời với trình độ còn thấp kém của lực lượng sản xuất. Qua đó, chúng ta có thể bổ sung vào mối quan hệ bản chất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu tố đi quá xa so với lực lượng sản xuất”.
Một đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ là kết cấu nền kinh tế có nhiều thành phần. Bởi vì kinh tế xã hội chủ nghĩa khi còn trong quá trình xây dựng thì chưa thể thay thế được ngay lập tức các thành phần kinh tế khác. Cho nên việc sử dụng có chọn lọc có lãnh đạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa là điều cần thiết và tất yếu khách quan. Tuy nhiên chúng ta lại bất chấp điều này. Vào thời kỳ đó chúng ta vẫn còn nhiều thành phần kinh tế nhưng chúng ta lại không quản lý thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, để các thành phần kinh tế này phát triển một cách tự phát.
Vấn đề đổi mới kinh tế
Trước tình hình trên, tại đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12-1986) chúng ta đã thấy được một trong những nguyên nhân làm cho sản xuất chậm phát triển. Đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn là do “không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải là sự phù hợp tuyệt đối không mâu thuẫn, không thay đổi. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất không phải là sự phù hợp chung mà sự phù hợp đó bao giờ cũng tồn tại dưới hình thức cụ thể, thích ứng với đặc điểm và trình độ của lực lượng sản xuất. Do vậy khi cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất bao giờ cũng phải gắn liền với sự phát triển từng bước của lực lượng sản xuất.
Để lực lượng sản xuất phát triển thì chúng ta phải xây dựng các quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế không phải là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng chưa phải là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Do vậy, trong thời kỳ quá độ này chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Để giải quyết những vấn đề đó thì Việt Nam chúng ta tiến hành đổi mới trên 3 lĩnh vực:
- Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá , quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chuyển từ nền kinh tế đơn thành phần lấy kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể làm trụ cột sang nền kinh tế nhiều thành phần
- Chuyển từ nền kinh tế xây dựng theo hướng có cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, quan hệ kinh tế đối ngoại được tiến hành chủ yếu với các nước xã hội chủ nghĩa sang một nền kinh tế mở ngày càng thông thoáng hơn, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Đồng thời chúng ta tiến hành những cải cách chính trị và cải cách hành chính trong khuôn khổ duy trì và ổn định xã hội theo hướng cải cách khuôn khổ pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao vai trò hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng cộng sản Việt Nam.
Và qua hơn 10 năm đổi mới , những thành tựu của nó đã giúp chúng ta khẳng định rằng : đường lối đổi mới của chúng ta là đúng đắn và phù hợp với xu thế vận động của thế giới ngày nay. Nhờ có đổi mới chúng ta đã vượt qua khỏi khủng hoảng kinh tế , kìm chế được lạm phát. Từ nền kinh tế siêu lạm phát, chỉ số lạm phát năm 1986 là 774,7% ; năm 1987 là 373% ; năm 1988 là 223,1%. Từ năm 1989 đến năm 1997 đã giảm nhanh đến năm 1995 chỉ còn 12,7% ; năm 1996 còn 4,5% ; năm 1997 còn3,6%. Tốc độ kinh tế tăng cao và ổn định, từ năm 1991 đến năm 1995 GDP tăng trung bình 8,2%/ năm. Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Năm 1990 nông nghiệp chiếm 38,74% GDP, công nghiệp chiếm 22,67% ; dịch vụ chiếm 38,59% đến năm 1997 nông nghiệp chiếm 27,75% ; công nghiệp chiếm 31,7% ; dịch vụ chiếm 42% GDP.
Cơ sở vật chất của nền kinh tế được tăng cường, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người tăng trên 10%/ năm, số hộ giàu tăng, số hộ nghèo giảm từ 50% năm 1989 xuống còn 19% năm 1997. Đáng chú ý là có nhiều huyện không còn hộ đói. Mười năm đổi mới đã tạo cho nước ta thế và lực mới, đã thay đổi sâu sắc xã hội và con người.
Nhờ đổi mới, chúng ta đã vượt qua sự bao vây cấm vận kinh tế đã thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế và trở thành một đối tác kinh tế ngày càng được coi trọng trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta đã chính thức gia nhập ASEAN, APEC chuẩn bị gia nhập WTO. . . Đầu tư nước ngoài vào ta tăng nhanh, từ khi có luật đầu tư nước ngoài (12-1987) đến năm 1997 chúng ta đã có 2300 dự án đầu tư với số vốn đăng ký trên 32 tỷ đô la.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được hai đặc trưng nổi bật đem lại chất lượng mới trong kinh tế và xã hội của hơn 10 năm đổi mới kinh tế vừa qua là: chuyển sang cơ chế thị trường, giải phóng lực lượng sản xuất trong nước và mở của hội nhập của nền kinh tế thế giới.
Tuy vậy, đấy mới chỉ là những thành công bước đầu trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Chặng đường trước mắt của chúng ta đang còn gặp nhiều khó khăn với đầy cơ hội và thách thức. Để đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội thì một trong những vấn đề cơ bản mà chúng ta phải giải quyết hiện nay là xây dựng lực lượng sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển lực lượng sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực trạng lực lưọng sản xuất ở nước ta hiện nay
Dân số nước ta hiện nay khoảng 76,4 triệu người (theo số liệu thống kê ngày 1/4/1999). Dân số trẻ, số người trong độ tuổi 16 - 34 chiếm 60% trong tổng số 35,9% triệu người lao động. Hàng năm nước ta có khoảng 1,24 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Tỷ lệ người lớn biết chữ khá cao 88%. Số năm đi học trung bình của người dân là 5 năm, trình độ dân trí được xếp vào loại trung bình khá trong khu vực.
Người Việt nam có truyền thống cần cù thông minh, ham học hỏi, có ý thức tự lực, tự cường dân tộc, phát triển khá về thể lực và trí lực, có tính cơ động cao có thể tiếp thu nhanh khoa học công nghệ hiện đại.
Tuy nguồn lao động Việt nam dồi dào, nhưng chúng ta mới sử dụng hết 50% tiềm lực. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị năm 1997 là 6,1% ; 27,65% lao động nông thôn thiếu việc làm. Trong đội ngũ thất nghiệp 80% lại là thanh niên mà phần đông chưa qua đào tạo nghề.
Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 2,3% lực lượng lao động. Tỷ lệ lao động được đào tạo năm 1997 là 16%. Cơ cấu lao động ở nước ta hiện nay khá bất hợp lý, lĩnh vực sản xuất công nghiệp chiếm 10% lao động xã hội nhưng chiếm 46% lao động kỹ thuật ; nông nghiệp chiếm 73% lao động xã hội nhưng chỉ có 15% lao động kỹ thuật. Số công nhân có trình độ bậc 4 trở lên chỉ bằng 1/3 số công nhân kỹ thuật, công nhân có trình độ bậc 7 trở lên chỉ có khoảng 4000 người mà đa phần tuổi đã cao. Trình độ lao động của nước ta vừa yếu, vừa thiếu, vừa bất hợp lý về cơ cấu đào tạo, vừa phân bố không đồng đều giữa các ngành các vùng, các thành phần kinh tế.
Đó là thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay. Còn về tư liệu sản xuất thì hiện nay công nghệ nước ta đang ở mức trung bình kém, ở các ngành công nghiệp hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 - 4 thế hệ so với thế giới. Các chỉ tiêu về hao mòn nguyên nhiên vật liệu gấp 1,5 - 2 lần mức trung bình thế giới. Tài sản cố định trong các doanh nghiệp bị lão hoá rất nhiều, theo tài liệu điều tra mới đây 50% doanh nghiệp nhà nước có hệ số hao mòn tài sản cố định trên 50%, trong đó 27% doanh nghiệp trên 60%. Bên cạnh đó cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất rất yếu kém, thể hiện rõ nhất ở hệ thống đường giao thông, sân bay bến cảng, thông tin liên lạc, điện. Trong số 200 nghìn km đường chỉ có 8,5% đường rải nhựa, 65% đường rải đá, còn lại là đường cấp phối, đường đất, 90% cầu có trọng tải dưới 10 tấn trong đó 70% dưới 5 tấn.
Cảng biển sân bay vừa thiếu về số lượng, vừa kém về chất lượng. Các dịch vụ bưu điện trong những năm qua đã tăng tốc nhưng kết quả còn khiêm tốn chỉ có 1,5 máy điện thoại/ 100dân. Các công trình thuỷ lợi trong nông nghiệp mới chỉ đảm bảo tưới 2,4 triệu ha và tiêu 1,4 triệu ha trong tổng số 7,3 triệu ha đất nông nghiệp. Hơn 50% các công trình thuỷ nông đã xuống cấp.
Giải pháp phát triển lực lượng sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Đặc điểm lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại vừa trải qua chiến tranh nên điều kiện tiền vốn và khoa học công nghệ còn rất hạn chế. Cho nên chúng ta không thể thay thế lực lượng sản xuất cũ bằng lực lượng sản xuất tiên tiến ngay được. Do vậy mà lực lượng sản xuất truyền thống vẫn cần cù được duy trì và khai thác. Bên cạnh đó, thì lực lượng sản xuất tiên tiến cũng phải được bổ sung dần. Để xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại thì chúng ta cần phải kết hợp yếu tố truyền thống lẫn yếu tố hiện đại của lực lượng sản xuất đảm bảo tính phủ định có kế thừa, tiếp thu có chọn lọc cho phép lực lượng sản xuất phát triển ổn định bình thường.
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghệ khoa học kỹ thuật trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Nó cho phép nước ta có thể tranh thủ vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, nhập khẩu tư liệu sản xuất hiện đại, chuyển giao công nghệ thông qua liên kết hợp tác với kinh tế nước ngoài. Từ đó chúng ta có thể tạo ra được sự tiến bộ về lực lượng sản xuất. Sự kết hợp có chọn lọc từ bên ngoài với những cơ sở vật chất và lực lượng sản xuất hiện có trong nước có thể giúp nước ta đẩy nhanh quá trình phát triển tự nhiên của lực lượng sản xuất, vươn lên kịp trình độ thế giới.
Để phát triển lực lượng sản xuất, việc phát triển yếu tố nguồn nhân lực là rất quan trọng vì con người vừa tham gia vào quá trình sản xuất vừa là chủ thể có ý thức trong sản xuất. Do vậy, chúng ta phải có những giải pháp phát triển nguồn nhân lực hợp lý. Các giải pháp đó là:
- Giải pháp về đào tạo: chúng ta phải khẳng định đào tạo là giải pháp quyết định nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực. Hiện nay, ở nước ta lao động có chuyên môn nghiệp vụ chỉ chiếm 16% tổng lực lượng lao động. Do vậy, chúng ta cần mở rộng các hình thức đào tạo của các ngành nhằm đào tạo nghề mới, đào tạo lại công nhân kỹ thuật bằng các khoá huấn luyện bồi dưỡng dài ngày hoặc ngắn ngày, đào tạo bằng kèm cặp tại chỗ ở xí nghiệp công xưởng. Duy trì quy mô đào tạo nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng, trên đại học hiện có. Tăng cường kiểm tra đánh giá, thanh tra chất lượng cao đào tạo và xác minh dư luận xã hội ở các trường đại học đặc biệt là đại học dân lập, đại học mở, các hệ đào tạo đại học không chính quy, để lập lại kỷ cương của nhà nước trong giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng của sản phẩm đào tạo.
- Giải pháp sử dụng, quản lý nhân lực: khi mà đã có nhân lực qua đào tạo rồi thì nhà nước phải có chính sách sử dụng nhân lực hợp lý, cần phải tạo ra nhiều việc làm. Để giải quyết vấn đề đó thì không gì khác ngoài việc phát triển kinh tế, phát triển sản xuất trong nước cần tạo môi trường, điều kiện kinh tế pháp lý để mở rộng ngành nghề tăng cường chống buôn lậu để bảo vệ sản xuất trong nước.
- Bên cạnh đó, chúng ta phải có chính sách tiền lương hợp lý nhằm giúp người lao động có cuộc sống ổn định, tạo ra động lực kích thích năng lực sáng tạo của người lao động.
Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như chúng ta đều biết sự phát triển của một nền kinh tế không chỉ bắt đầu thay đổi và phát triển trong cấu trúc lực lượng sản xuất mà còn bắt đầu từ sự thay đổi và phát triển trong cấu trúc của quan hệ sản xuất mà sự phù hợp giữa chúng là động lực. Bởi vậy, giữ vững tính hệ thống và tính đồng bộ trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới có ý nghĩa. Chúng ta không chủ trương xây dựng một hệ thống quan hệ sản xuất bất kỳ và trìu tượng mà xây dựng một hệ thống quan hệ sản xuất mới mà con đường đi lên của nó ngày một rõ nét.
Lịch sử và kinh nghiệm chuyển kinh tế của nhiều nước cho thấy, khi chuyển sang kinh tế thị trường và “mở cửa” việc xử lý vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối có liên quan đến sự chuyển hoá giữa trục sở hữu và trục quyền lực liên quan đến sự sống còn của thể chế chính trị. Bởi vậy, việc nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi xây dựng quan hệ sản xuất mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là rất cần thiết và có ý nghĩa về nguyên tắc cần được coi trọng. Do vậy, khi xây dựng quan hệ sản xuất mới thì chúng ta đồng thời giải quyết trên cả 3 mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ quản lý về kinh tế và quan hệ phân phối sản phẩm.
a. Về quan hệ sở hữu
Không thể tiếp tục đổi mới và phát triển các thành phần kinh tế nếu không xử lý một cách nghiêm túcvà khoa học vấn đề sở hữu, cơ cấu sở hữu vì nó là cơ sở kinh tế, là một trong những căn cứ quan trọng để xác định thành phần kinh tế. Do vậy, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách nền kinh tế nhiều thành phần, tất yếu phải nhất quán cơ cấu sở hữu đa dạng nhằm “giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân”
Cơ cấu sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay bao gồm: sở hữu hợp nhà nước, sở hữu hợp tác, sở hữu hỗn hợp, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu cá thể tiểu chủ trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tính đa dạng của sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong cơ cấu sở hữu về tư liệu sản xuất, một hình thức sở hữu mang tính phổ biến cần được coi trọng trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là hình thức sở hữu hỗn hợp về tư liệu sản xuất. Hình thức sở hữu này được thực hiện thông qua các hình thức tổ chức hợp tác liên doanh giữa nhà nước với các hợp tác xã, giữa nhà nước với tư bản trong nước và tư bản nước ngoài.
Cho đến nay, hình thức tổ chức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và các hợp tác xã phát triển chưa nhiều. Trong thời gian tới chúng ta cần xúc tiến mạnh mẽ việc hình thành và phát triển các tổ hợp và các hợp tác xã kiểu mới nhất là hợp tác xã cổ phần trong các ngành công nghiệp chế biến, giao thông vận tải, thương mại, tín dụng, ngân hàng, dịch vụ.
Song song với việc tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc, tồn tại để mở rộng hình thức tư bản nhà nước thông qua các hình thức hợp tác liên doanh, cho thuê, xây dựng- kinh doanh, chuyển giao, gia công, đặt hàng, đại lý. . . với tư bản nước ngoài, cần có những chủ trương chính sách khuyến khích phát triển tư bản tư nhân trong nước để họ có điều kiện tham gia hợp tác liên doanh với kinh tế nhà nước nhằm đáp ứng vốn cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong cơ cấu sở hữu về tư liệu sản xuất, một hình thức sở hữu đóng vai trò quan trọng đặc biệt liên quan đến việc thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa đó là hình thức sở hữu nhà nước. Để hình thức sở hữu này thực sự giữ vai trò chủ đạo cần xử lý đúng đắn các vấn đề mấu chốt sau:
- Một là, tiếp tục đổi mới các doanh nghiệp nhà nước theo hướng tăng quyền lực của chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước thông qua việc xác lập và hoàn thành các chức năng nhiệm vụ của Tổng cục cục quản lý vốn và tài sản nhà nước.
- Hai là, cần phân biệt cổ phần hoá với tư nhân hoá. Cổ phần hoá không phải là một giải pháp để chuyển các doanh nghiệp nhà nước thành các công ty tư nhân mà là sang hình thức công ty cổ phần. Nó là sản phẩm tất yếu của quá trình xã hội hoá sở hữu, là sản phẩm của quá trình tích tụ và tập trung vốn, là một điều kiện cần thiết cho sự hình thành và phát triển thị trường chính khoán, thị trường chủ yếu gắn với vốn.
Về quan hệ quản lý kinh tế.
Quan hệ quản lý kinh tế là nội dung của quan hệ sản xuất mới cần được xây dựng. Thực chất của việc xây dựng quản lý kinh tế mới trong điều kiện kinh tế thị trường, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là “tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Qua hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế , từ thực tiễn Đảng ta đã rút ra một số nhận thức về quan điểm và nội dung cơ chế quản lý kinh tế mới trong thời gian tới ở nước ta:
- Xây dựng đồng bộ các yếu tố thị trường chính là việc xây dựng đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế. Đây là một vấn đề quan trọng bởi lẽ nền kinh tế thị trường chỉ hoạt động có hiệu quả trong điều kiện các loại thị trường như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường chuyển nhượng đất đai, thị trườg công nghệ.
- Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản theo đúng luật đất đai, phát triển thị trường vốn nhằm thu hút các nguồn vốn dài hạn qua ngân hàng công ty tài chính, công ty cổ phần và chuẩn bị các điều kiện để từng bước xây dựng thị trường chứng khoán phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
- Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế theo hướng ban hành mới, sử đổi bổ sung một số luật và pháp lệnh. Coi trọng tính nghiêm mimh trong công tác tư pháp, “quốc pháp vị thân” và đặt dưới sự kiểm kê, kiểm soát qua đại diện hoặc trực tiếp của nhân dân từ dưới lên trên.
- Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ và giá cả theo hướng lành mạnh hoá ngân sách nhà nước, thực hiện nghiêm ngặt chế độ kế toán, kiểm toán, thanh tra, kiểm tra tài chính, đIều hoà lưu thông tiền tệ, giảm dần lãi xuất nhằm thúc đẩy đầu tư. Hoàn thiện hệ thống giá cả trên cơ sở tăng cường lực lượng dự trữ quốc gia, xây dựng hình thành quỹ.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả về quản lý kinh tế: định hướng sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục mặt hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội.
c. Về quan hệ phân phối thu nhập.
Khi nói về phân phối thu nhập, Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Đồng thời, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội”
Đối với khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác thì trong thời gian tới cần tiếp tục cải cách chế độ tiền lương theo hướng tiền lương danh nghĩa phù hợp với năng suất lao động và tiền lương thực tế. Trong các doanh nghiệp là công ty cổ phần hoặc hợp tác xã cổ phần, ngoài việc phân phối theo hiệu quả kinh tế , phân phối cho các quỹ theo quy định còn phải dành một phần lợi nhuận để phân phối cho các cổ đông hoặc các xã viên dưới hình thức lợi tức cổ phần.
Đối với các thành phần kinh tế khác thì nhà nước thừa nhận và bảo hộ quyền hưởng thu nhập theo nguồn vốn đóng góp.
Ngoài các hình thức phân phối nói trên, với chức năng công bằng xã hội, nhà nước cần thông qua các hình thức phúc lợi xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Không để quan hệ này “biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập”, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm
Kết luận
Trình độ của nền sản xuất xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định được thể hiện qua các phương thức sản xuất trong giai đoạn đó. Các hình thái kinh tế xã hội vận động, phát triển và thay thế nhau do tác động của quy luật khách quan . Trong đó, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một trong những quy luật cơ bản và quan trọng nhất. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là đIều kiện đầu tiên thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Một hình thái kinh tế xã hội không bao giờ mất đi khi sức sản xuất của nó chưa mất hết tác dụng . Lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định của phương thức sản xuất, nó luôn vận động , biến đổi và kéo theo nó là sự vận động thay đổi của quan hệ sản xuất cho phù hợp.
Trong trường hợp nào đó, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sự phù hợp ở đây có thể là do quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc quá cao so với lực lượng sản xuất, khi đó mâu thuẫn giữa chúng sẽ nảy sinh. Việc giải quyết mâu thuẫn này làm cho xã hội tiến thêm một bước.
Do tốc độ vận động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất khác nhau nên sự phù hợp giữa chúng là tạm thời, tương đối còn mâu thuẫn giữa chúng mới là tuyệt đối, vĩnh viễn. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chỉ được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng. Còn trong xã hội chủ nghĩa mâu thuẫn đó được Đảng, nhà nước, quần chúng nhân dân tự giác nhận thức và vân dụng quy luật khách quan để chủ động giải quyết, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất không ngừng phát triển.
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện đường lối đổi mới nhằm đưa nước ta thành một nước công nghiệp vào năm 2020, thì việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vào thực tiễn nước ta mang ý nghĩa quyết định.
Đối với mỗi sinh viên hiện nay để góp phần vào công cuộc đổi mới mà chúng ta đang thực hiện thì ngay bây giờ phải cố gắng học tập tốt, tham gia phòng chống tệ nạn xã hộ để sau này ra trường xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình triết học Mác- Lê nin, nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia năm 1999.
Giáo trình triết học Mác- Lê nin dùng trong các trường Đại học và Cao đẳng khối kinh tế, nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia năm 1997.
Đề cương giới thiệu văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
Tư bản, Các- Mác , nhà xuất bản sự thật năm 1973
Tạp chí triết học số 5,6 năm 1997
Tạp chí cộng sản số 4 năm1998, số 2 năm 1999
Tạp chí nghiên cứu lý luận số 3 năm 1998
10)Trích tác phẩm kinh điển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35072.doc