- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư mà không thành lập pháp nhân. Trong việc hợp doanh, các bên cùng nhau tiến hành nội dung hợp doanh, các bên thoả thuận trách nhiệm và phân bố kết quả kinh doanh tuỳ theo khả năng của mỗi bên. Bên nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo luật đầu tư nước ngoài. Bên Việt nam thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo các quy định của pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký.
Trong hợp đồng hợp tác kinh doanh các bên thoả thuận với nhau mềm dẻo hơn do các bên tham gia vẫn giữ nguyên tư cách của mình.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là một mối quan hệ bạn hàng ngắn hạn diễn ra có tính chất tức thời để thực hiện các hoạt động kinh doanh đơn lẻ, nhỏ hẹp.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh nhiều khi được gọi là liên doanh theo vụ việc.
4.2. Doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
33 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1103 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với các nước khác. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động chủ yếu trong đời sống kinh tế quốc tế hiện nay. Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế là một yếu tố khách quan, bắt nguồn từ sự khác biệt về điều kiện địa lý tự nhiên giữa các quốc gia trên thế giới và sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất dẫn đến sự mở cửa để hội nhập với các nền kinh tế quốc tế trở thành điều kiện bắt buộc để phát triển. Như vậy thì các quốc gia trên thế giới muốn tồn tại và phát triển thì không còn cách nào khác là phải tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là yêu cầu rất cấp bách để xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh ở nước ta. Muốn phát triển nền kinh tế lạc hậu, thiếu vốn, thiếu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài thì đầu tư nước ngoài đã trở nên một vấn đề quan trọng và cần thiết để phát triển nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài thì nước tiếp nhận đầu tư có thể tranh thủ huy động được nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại của nước ngoài, tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Không những thế đầu tư nước ngoài còn là cơ hội để tìm kiếm thị trường bên ngoài, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới.
Nắm bắt được tình hình thực tế đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đã đề ra những chính sách hết sức đúng đắn, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quan liêu bao cấp cũ. Một trong những bước chuyển biến lớn trong định hướng đổi mới kinh tế, thể chế hoá đường lối của Đại hội VI là việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987.
Từ khi được ban hành, luật đầu tư nước ngoài của nước ta đã được các nhà đầu tư coi là hấp dẫn, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên để phù hợp với thực trạng đầu tư ở từng giai đoạn, Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi bổ sung lần thứ nhất năm 1990 và lần thứ hai năm 1992, mặc dù vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Để thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài với quy mô lớn, chất lượng cao hơn phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì Nhà nước ta đã ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 thay thế cho các văn bản luật về đầu tư nước ngoài từ trước tới nay.
Trong nội dung của đề tài này chúng ta chỉ đề cập đến địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh, là một trong ba hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đề án này đã được trình bày như sau:
Chương I - Khái niệm doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Chương II - Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Chương III - Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh.
Chương I
Khái niệm doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
1 - Sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp liên doanh trước khi có luật đầu tư năm 1987.
Theo điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì chưa đưa ra khái niệm doanh nghiệp liên doanh mà chỉ nên ra hình thức đầu tư là: “xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp”. Hình thức này chính là tiền đề cho sự ra đời của xí nghiệp liên doanh được quy định trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987.
Về hình thức xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp luôn phải có hai loại chủ thể là bên nước ngoài và bên Việt Nam. Bên nước ngoài có thể là xí nghiệp, Công ty, tổ chức tư nhân, tổ chức Nhà nước, tổ chức quốc tế hoặc từng cá nhân. Bên Việt Nam là một tổ chức kinh tế quốc doanh Việt Nam. Hai bên hùn vốn lập một xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp dưới hình thức Công ty vô danh hoặc Công ty trách nhiệm có hạn.
Xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp là một pháp nhân, thành lập theo luật pháp Việt Nam, hoạt động theo các điều khoản của hợp đồng hợp doanh và điều lệ của xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp.
- Hình thức xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp quy định phần vốn do bên nước ngoài đầu tư góp vốn vào xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp là ít nhất phải bằng 30% và nhiều nhất không quá 49% tổng số vốn. Việc quy định phần vốn góp của bên nước ngoài tối đa không quá 49% là rất phi thực tế bởi vì các doanh nghiệp quốc doanh Việt Nam trong thời kỳ này rất thiếu vốn không thể nào góp được đến 51% tổng số vốn. Việc quy định như vậy đã trực tiếp cản trở đầu tư theo hình thức xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp.
Trong thời kỳ này Điều lệ về đầu tư nước ngoài năm 1977 ra đời chủ yếu là kêu gọi sự đầu tư của những nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cho nên có rất nhiều hạn chế. Trong điều lệ quy định chủ thể tham gia hình thức “xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp” chỉ bó hẹp trong các thể nhân và pháp nhân nước ngoài với tổ chức kinh tế quốc doanh Việt Nam. Đồng thời việc quy định thời hạn đầu tư ngắn từ 10 đ 15 năm.
Quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài không được bảo đảm thêm vào đó Nhà nước lại can thiệp sâu sắc vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 lại là văn bản dưới luật vì vậy nó không đảm bảo được tính có hiệu lực của nó.
Vì vậy, trong suốt 10 năm (từ 1977 đ 1987) kể từ khi ban hành Điều lệ về đầu tư nước ngoài năm 1977 thì không có một dự án đầu tư nào được thực hiện dưới hình thức đầu tư xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp.
2 - Sau khi có luật đầu tư năm 1987 cho đến nay.
2.1. Theo luật đầu tư nước ngoài năm 1987 thì hình thức đầu tư xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp đã được chuyển thành hình thức “xí nghiệp hoặc Công ty liên doanh, gọi chung là xí nghiệp liên doanh”.
“Xí nghiệp liên doanh” là xí nghiệp do bên nước ngoài và bên Việt Nam hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng kinh doanh hoặc hiệp định ký giữa chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với chính phủ nước ngoài.
Trong luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định “Bên Việt Nam” là một bên gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân; các tư nhân Việt Nam có thể chung vốn với tổ chức kinh tế Việt Nam thành bên Việt nam để hợp tác kinh doanh với bên nước ngoài. Đối với “Bên nước ngoài” là một bên gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân nước ngoài. Như vậy ta có thể thấy chủ thể của bên Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh đã được mở rộng một cách đáng kể nó không chỉ bó hẹp là các tổ chức kinh tế quốc doanh Việt Nam mà bất cứ tổ chức kinh tế nào có tư cách pháp nhân đều có thể tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Hai bên tức là bên Việt Nam và bên nước ngoài được hợp tác với nhau để thành lập xí nghiệp liên doanh. Xí nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định phần góp vốn của bên nước ngoài vào vốn pháp định của xí nghiệp liên doanh không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của hai bên nhưng mức thấp nhất là không được dưới 30% tổng số vốn.
2.2. Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi bổ sung năm 1990 nên khái niệm “xí nghiệp liên doanh” là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với chính phủ nước ngoài hoặc là xí nghiệp mới do xí nghiệp liên doanh hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy luật đầu tư sửa đổi, bổ sung năm 90 đã thừa nhận mọi tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân được hợp tác kinh doanh với tổ chức cá nhân nước ngoài hay nói một cách khác là luật đã cụ thể hoá chủ thể đầu tư phía Việt Nam bằng cách quy định đó là các pháp nhân. Ngoài ra luật còn đề cập đến vai trò của doanh nghiệp tư nhân “các tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức cá nhân nước ngoài trong lĩnh vực điều kiện do Hội đồng bộ trưởng quy định” có thể nói việc quy định mở rộng các đối tượng của bên Việt Nam được tham gia hợp tác đầu tư đã làm cho nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng tìm kiếm đối tác để tiến hành liên doanh.
Về hình thức liên doanh nhiều bên thì luật đầu tư sửa đổi bổ sung năm 1990 đã thừa nhận hình thức liên doanh nhiều bên là bên Việt Nam và các bên Việt Nam hoặc là các bên nước ngoài và các bên Việt Nam.
Ngoài ra luật cũng đã cụ thể hoá hình thức liên doanh mới là “xí nghiệp liên doanh được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thành lập xí nghiệp liên doanh mới tại Việt Nam”.
Như vậy “hợp đồng liên doanh” là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên về việc thành lập xí nghiệp liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thành lập xí nghiệp liên doanh mới tại Việt Nam.
2.3. Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi bổ sung năm 1992 vẫn giữ nguyên khái niệm xí nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài sửa đổi bổ sung năm 1990. Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 chỉ có quy định lại về chủ thể “Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế”.
Như vậy, luật sửa đổi 92 đã mở rộng hơn nữa cho các đối tượng có địa vị pháp lý độc lập được phép hợp tác đầu tư với bên nước ngoài. Với quy định này thì các doanh nghiệp tư nhân cũng được coi là chủ thể chính thức của luật đầu tư.
3 - Khái niệm doanh nghiệp liên doanh.
Điều 2, khoản 7: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996: “Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ nước ngoài hoặc doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh”.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa Bên hoặc các Bên Việt Nam với Bên hoặc các Bên nước ngoài để đầu tư, kinh doanh tại Việt nam.
“Bên Việt Nam” là một bên gồm một hoặc nhiều hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp liên doanh mới là doanh nghiệp được thành lập giữa doanh nghiệp liên doanh đã được phép hoạt động tại Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài hoặc với doanh nghiệp Việt Nam hoặc với doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được phép hoạt động tại Việt Nam.
Trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký kế giữa chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với chính phủ nước ngoài.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam; mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
4 - So sánh doanh nghiệp liên doanh với các hình thức đầu tư khác.
4.1. Doanh nghiệp liên doanh với hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Giống nhau:
- Cả hai hình thức doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh đều là những hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996.
- Cả hai hình thức doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh đêù có sự hợp tác giữa hai bên hoặc nhiều bên có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng phân phối lợi nhuận và cùng chia sẻ rủi ro.
Khác nhau:
- Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
Doanh nghiệp liên doanh là một mối liên kết lâu dài giữa các bên để cùng thực hiện các hoạt động kinh doanh với thời hạn kéo dài hàng chục năm.
Các cam kế trong doanh nghiệp liên doanh chặt chẽ hơn cả về mặt kinh doanh lẫn về mặt pháp lý.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư mà không thành lập pháp nhân. Trong việc hợp doanh, các bên cùng nhau tiến hành nội dung hợp doanh, các bên thoả thuận trách nhiệm và phân bố kết quả kinh doanh tuỳ theo khả năng của mỗi bên. Bên nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo luật đầu tư nước ngoài. Bên Việt nam thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo các quy định của pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký.
Trong hợp đồng hợp tác kinh doanh các bên thoả thuận với nhau mềm dẻo hơn do các bên tham gia vẫn giữ nguyên tư cách của mình.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là một mối quan hệ bạn hàng ngắn hạn diễn ra có tính chất tức thời để thực hiện các hoạt động kinh doanh đơn lẻ, nhỏ hẹp.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh nhiều khi được gọi là liên doanh theo vụ việc.
4.2. Doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Giống nhau:
Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đều là những pháp nhân của nước Việt Nam và chịu sự quản lý của hệ thống pháp luật nước Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đều được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
Khác nhau:
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật nước sở tại.
Doanh nghiệp liên doanh có sự tham gia quản lý của bên nước sở tại. Các bên tham gia của nước sở tại trong doanh nghiệp liên doanh có quyền ra quyết định theo tỷ lệ góp vốn vào vốn pháp định tức là quyền lực của bên nước ngoài bị chia sẻ cho bên nước sở tại trong doanh nghiệp liên doanh.
Chương II
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996.
I - Vấn đề thành lập, giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp liên doanh
1. Vấn đề thành lập của doanh nghiệp liên doanh.
1.1. Thủ tục thành lập:
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở các bên tham gia liên doanh thoả thuận ký kết hợp đồng liên doanh. Nội dung của hợp đồng liên doanh phải có những nội dung chủ yếu sau đây:
- Quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh.
- Mục tiêu và phạm vi kinh doanh.
- Vốn đầu tư, vốn pháp định, tỷ lệ góp vốn pháp định, phương thức, tiến độ góp vốn và tiến độ xây dựng doanh nghiệp.
- Sản phẩm chủ yếu, tỉ lệ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước.
- Thời hạn hoạt động của doanh nghiệp.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên.
- Sửa đổi và chấm dứt hợp đồng, điều kiện chuyển nhượng, điều kiện kết thúc, giải thể doanh nghiệp.
- Giải quyết tranh chấp.
Hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư: Sau khi ký kết hợp đồng liên doanh thì các bên hoặc một trong các bên hoặc nhà đầu tư nước ngoài gửi cho cơ quan cấp Giấy phép đầu tư hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư. Hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư gồm có:
- Đơn xin cấp Giấy phép đầu tư.
- Hợp đồng liên doanh.
- Điều lệ doanh nghiệp liên doanh.
- Văn bản xác nhận tư cách pháp lý, tình hình tài chính của các bên tham gia liên doanh.
- Giải trình kinh tế - kỹ thuật.
- Các hồ sơ khác có liên quan.
Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư sau khi nhận được hồ sơ hợp lệ thì chậm nhất trong thời hạn 60 ngày phải xem xét và quyết định cho nhà đầu tư. Quyết định chấp thuận được thông báo dưới hình thức Giấy phép đầu tư. Giấy phép đầu tư là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Trong hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư phải có điều lệ của doanh nghiệp liên doanh cho nên các bên tham gia liên doanh phải lập điều lệ của doanh nghiệp liên doanh. Điều lệ của doanh nghiệp liên doanh phải có những nội dung chủ yếu sau:
- Quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh, tên, địa chỉ của doanh nghiệp.
- Mục tiêu và phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vốn đầu tư, vốn pháp định, tỷ lệ góp vốn pháp định, phương thức và tiến độ góp vốn pháp định.
- Số lượng, thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn và nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng giám đốc và các phó Tổng giám đốc của doanh nghiệp.
- Đại diện của doanh nghiệp trước toà án, trọng tài và cơ quan Nhà nước Việt Nam.
- Các nguyên tắc về tài chính.
- Tỷ lệ phân chia lãi và lỗ cho các bên liên doanh.
- Thời hạn hoạt động, kết thúc và giải thể doanh nghiệp.
- Quan hệ lao động trong doanh nghiệp, kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ, và công nhân.
- Thủ tục sửa đổi điều lệ doanh nghiệp liên doanh.
Như vậy doanh nghiệp liên doanh được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư. Sau khi được cấp Giấy phép đầu tư thì doanh nghiệp liên doanh phải công khai hoá hoạt động của doanh nghiệp bằng cách là phải bố cáo trên báo Trung ương và địa phương những thông tin chính được quy định trong Giấy phép đầu tư.
1.2. Bộ máy quản lý của doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh khi đi vào hoạt động thì phải tổ chức bộ máy quản lý của doanh nghiệp bao gồm:
- Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo của doanh nghiệp liên doanh. Hội đồng quản trị bao gồm đại diện của các bên tham gia liên doanh, chủ tịch hội đồng quản trị do các bên thoả thuận cử ra, các thành viên khác của Hội đồng quản trị là đại diện của các bên tham gia liên doanh cử ra theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Nhiệm kỳ của Hội đồng Quản trị do các bên tham gia liên doanh thoả thuận nhưng không được quá 5 năm.
Hội đồng quản trị họp mỗi năm ít nhất 1 lần. Cuộc họp của Hội đồng quản trị do chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập. Hội đồng quản trị có thể họp bất thường do 2/3 thành viên Hội đồng quản trị tham gia. Các thành viên của Hội đồng quản trị có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người đại diện tham gia cuộc họp và biểu quyết thay về các vấn đề đã được uỷ quyền. Chủ tịch Hội đồng quản trị có trách nhiệm triệu tập, chủ trì các cuộc họp của Hội đồng quản trị và giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể uỷ quyền cho phó chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập và chủ trì cuộc họp của Hội đồng quản trị.
Những vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh gồm: bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc thứ nhất, kế toán trưởng; sửa đổi, bổ sung điều lệ doanh nghiệp, duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình; vay vốn đầu tư do Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí giữa các thành viên Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp. Những vấn đề khác Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc biểu quyết quá bán số thành viên Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp.
- Ban giám đốc là cơ quan quản lý và điều hành công việc hàng ngày của doanh nghiệp liên doanh. Tổng giám đốc và các phó Tổng giám đốc của doanh nghiệp liên doanh do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, miễn nhiệm, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật Việt Nam về việc quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp liên doanh. Tổng giám đốc hoặc phó Tổng giám đốc thứ nhất phải là bên Việt Nam và là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về hoạt động của doanh nghiệp liên doanh.
2. Giải thể doanh nghiệp liên doanh:
Giải thể doanh nghiệp liên doanh là một hình thức chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp liên doanh, chấm dứt sự giàng buộc của các bên liên doanh với nhau trong một pháp nhân chung.
- Doanh nghiệp liên doanh chấm dứt hoạt động trong những trường hợp sau:
+ Hết thời hạn ghi trong Giấy phép đầu tư. Thời hạn hoạt động của doanh nghiệp được quy định trong Giấy phép đầu tư do nhà đầu tư đề nghị và được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chuẩn y.
+ Do đề nghị của một hoặc các bên và được cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài chấp thuận.
+ Theo quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài do vi phạm nghiêm trọng pháp luật và quy định của Giấy phép đầu tư.
+ Trong những trường hợp khác theo quy định của Pháp luật.
- Thủ tục giải thể doanh nghiệp liên doanh: Trong vòng 15 ngày kể từ ngày chấm dứt hoạt động, doanh nghiệp liên doanh phải thông báo trên báo Trung ương hoặc báo địa phương về việc chấm dứt hoạt động và tiến hành thanh lý tài sản của doanh nghiệp, thanh lý hợp đồng.
3. Thanh lý doanh nghiệp liên doanh:
Vấn đề thanh lý tài sản của doanh nghiệp liên doanh được quy định như sau:
- Thời hạn thanh lý doanh nghiệp, không quá 6 tháng kể từ khi hết thời hạn hoạt động hoặc từ khi có quyết định giải thể doanh nghiệp. Trong trường hợp đặc biệt cần thiết được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chuẩn y, thời hạn này có thể kéo dài hơn, nhưng không quá một năm.
- Thủ tục thanh lý doanh nghiệp liên doanh thì chậm nhất là 6 tháng trước khi hết thời hạn hoạt động hoặc chậm nhất là 30 ngày sau khi có quyết định giải thể doanh nghiệp liên doanh trước thời hạn, Hội đồng quản trị có trách nhiệm thành lập ban thanh lý doanh nghiệp gồm đại diện của các bên liên doanh, quy định quyền hạn và nhiệm vụ của ban thanh lý. Các thành viên ban thanh lý có thể được chọn trong các nhân viên của doanh nghiệp liên doanh hoặc các chuyên gia ngoài doanh nghiệp liên doanh.
- Mọi chi phí về thanh lý doanh nghiệp do doanh nghiệp chịu và được ưu tiên thanh toán so với các nghĩa vụ khác.
- Các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự ưu tiên sau:
+ Lương và chi phí bảo hiểm xã hội mà doanh nghiệp còn nợ người lao động.
+ Các khoản thuế và các nghĩa vụ tài chính khác của doanh nghiệp đối với Nhà nước Việt Nam.
+ Các khoản vay (kể cả lãi).
+ Các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp.
- Sau khi kết thúc thanh lý, chậm nhất là 30 ngày doanh nghiệp liên doanh phải có trách nhiệm nộp lại Giấy phép đầu tư, báo cáo thanh lý, hồ sơ hoạt động cho cơ quan cấp Giấy phép đầu tư và nộp con dấu cho cơ quan cấp dấu. Báo cáo thanh lý phải được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chuẩn y.
4. Phá sản doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh bị tuyên bố phá sản thì được giải quyết theo pháp luật về phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình thanh lý, nếu xét thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì việc xử lý tài sản của doanh nghiệp liên doanh được tiến hành theo thủ tục của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.
II - Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập và hoạt động tại Việt Nam có quyền bình đẳng với các doanh nghiệp khác trước pháp luật. Có nghĩa vụ hoạt động đúng quy định ghi trong Giấy phép đầu tư, trong hợp đồng liên doanh, trong điều lệ doanh nghiệp và phù hợp với quy định của pháp luật. Việc quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể được thể hiện trong các lĩnh vực sau:
1. Góp vốn, tỷ lệ vốn góp, tiến độ góp vốn:
- Điều 7 Luật đầu tư nước ngoài quy định: Bên nước ngoài tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng:
+ Tiền nước ngoài, tiền Việt Nam có nguồn gốc từ đầu tư tại Việt Nam.
+ Thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng khác.
+ Giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật.
- Bên Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng:
+ Tiền Việt Nam, tiền nước ngoài.
+ Giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
+ Các nguồn tài nguyên, giá trị quyền sử dụng mặt nước, mặt biển theo quy định của pháp luật.
+ Thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng khác.
+ Giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật.
- Các bên liên doanh góp vốn pháp định theo sự thoả thuận của các bên nhưng phần vốn góp của Bên nước ngoài hoặc các Bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không dưới 30% vốn pháp định. Trừ những trường hợp, căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị trường, hiệu quả kinh doanh và các lợi ích kinh tế xã hội của dự án cơ quan cấp Giấy phép đầu tư có thể xem xét cho phép Bên nước ngoài tham gia liên doanh có tỷ lệ góp vốn pháp định thấp đến 20%.
Đối với doanh nghiệp liên doanh nhiều bên, tỷ lệ góp vốn tối thiểu của mỗi bên Việt Nam do chính phủ quy định.
- Tiến độ góp vốn: Vốn pháp định có thể được góp trọn một lần khi thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc từng phần trong một thời gian hợp lý. Phương thức và tiến bộ góp vốn phải được quy định trong hợp đồng liên doanh và phù hợp với quá trình kinh tế kỹ thuật, được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chấp thuận.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp liên doanh không được giảm vốn pháp định. Việc tăng vốn đầu tư, vốn pháp định, thay đổi tỷ lệ vốn góp của các bên liên doanh do Hội đồng quản trị của doanh nghiệp quyết định và phải được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chuẩn y.
2. Tổ chức kinh doanh:
Theo Điều 31 của luật đầu tư nước ngoài: “Doanh nghiệp liên doanh có quyền tự chủ kinh doanh theo mục tiêu quy định trong Giấy phép đầu tư”.
Như vậy, doanh nghiệp liên doanh có toàn quyền quyết định chương trình kế hoạch kinh doanh của mình, có quyền chủ động trong việc xuất nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm của mình để thực hiện dự án đầu tư theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp liên doanh có quyền chủ động trong việc tiêu thụ sản phẩm ở trong nước và ở nước ngoài, có thể trực tiếp tiêu thụ sản phẩm hoặc uỷ thác tiêu thụ sản phẩm. Về giá bán các sản phẩm thì do doanh nghiệp quyết định trừ những hàng hoá dịch vụ do Nhà nước quản lý thì giá bán phải theo khung giá bán do Nhà nước quy định.
Doanh nghiệp liên doanh được nhập khẩu thiết bị, máy móc, vật tư, phương tiện vận tải để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên khi nhập khẩu phải bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng và phải phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường, an toàn lao động và phải phù hợp với pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu.
Doanh nghiệp liên doanh phải thực hiện việc đăng ký hoạt động xuất nhập khẩu và đăng ký sản phẩm tiêu thụ trong nước với Bộ thương mại trong vòng 60 ngày sau khi được cấp Giấy phép đầu tư.
Doanh nghiệp liên doanh phải ưu tiên mua hàng hoá tại Việt Nam thay vì nhập khẩu nếu trong điều kiện thương mại như nhau.
3. Lao động:
Điều 25 luật đầu tư nước ngoài quy định: Doanh nghiệp liên doanh được tuyển dụng lao động theo nhu cầu kinh doanh và phải ưu tiên tuyển dụng công nhân Việt Nam; chỉ được tuyển dụng người nước ngoài làm những công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật và quản lý mà Việt Nam chưa đáp ứng được, nhưng phải đào tạo lao động Việt Nam thay thế.
Quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động làm việc trong doanh nghiệp liên doanh được bảo đảm bằng hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể và các quy định của pháp luật về lao động.
Người sử dụng lao động, người lao động Việt Nam và người lao động nước ngoài phải tuân thủ còn quy định của pháp luật lao động và pháp luật có liên quan; tôn trọng danh dự, nhân phẩm và phong tục của nhau (Điều 26).
Doanh nghiệp liên doanh phải tôn trọng quyền của người lao động Việt Nam tham gia tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 27).
4. Tín dụng, ngân hàng:
Điều 35, luật đầu tư nước ngoài quy định: Doanh nghiệp liên doanh mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tại ngân hàng liên doanh hoặc tại chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đặt tại Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt được ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận, doanh nghiệp liên doanh được phép mở tài khoản vốn vay tại ngân hàng ở nước ngoài.
5. Cân đối ngoại tệ:
Điều 33 luật đầu tư nước ngoài: Doanh nghiệp liên doanh tự bảo đảm nhu cầu về tiền nước ngoài cho hoạt động của mình.
Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sản xuất hàng thay thế và nhập khẩu thiết yếu và một số dự án đặc biệt quan trọng, Ngân hàng Nhà nước bảo đảm cho doanh nghiệp liên doanh được chuyển đổi tiền Việt Nam ra tiền nước ngoài để đáp ứng nhu cầu hợp lý theo đúng chế độ quản lý ngoại hối của Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh không thuộc đối tượng được bảo đảm hỗ trựo cân đối ngoại tệ nói trên, nếu có khó khăn trong việc cân đối ngoại tệ thì Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét cho phép chuyển đổi, mua ngoại tệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
6. Các vấn đề về tài chính.
6.1. Thuế lợi tức.
Điều 38 luật đầu tư nước ngoài quy định: Doanh nghiệp liên doanh phải nộp thuế lợi tức 25% lợi nhuận thu được. Trong trường hợp khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 20% lợi nhuận thu được. Trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 15% lợi nhuận thu được. Mức thuế lợi tức có thể là 10% lợi nhuận thu được nếu là trong trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư.
Tuỳ thuộc vào lĩnh vực đầu tư, địa bàn đầu tư theo quy định trong luật đầu tư thì có thể được miễn thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là hai năm, kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lãi và được giảm 50% thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là hai năm tiếp theo.
Nếu thực hiện dự án có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì được miễn thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 4 năm, kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lãi và được giảm 50% thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 4 năm tiếp theo. Nếu là trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư thì thời gian miễn thuế lợi tức tối đa là 8 năm.
Đối với lĩnh vực dầu khí và một số tài nguyền quý hiếm khác thì mức thuế lợi tức theo quy định của luật dầu khí và pháp luật có liên quan.
6.2. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài:
Điều 43: “Khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài nhà đầu tư nước ngoài phải nộp một khoản thuế là 5%, 7%, 10% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tuỳ thuộc vào mức vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh”.
6.3. Thuế xuất nhập khẩu:
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu của doanh nghiệp liên doanh được áp dụng theo luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (Điều 47).
Doanh nghiệp liên doanh được miễn thuế nhập khẩu đối với:
- Thiết bị, máy móc nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp.
- Phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp và phương tiện vận chuyển dùng để đưa đón công nhân.
- Linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, phụ kiện đi kèm với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng.
- Các giống cây trồng, giống vật nuôi, nông dược đặc chủng được phép nhập khẩu để thực hiện dự án nông, lâm, ngư nghiệp.
- Hàng hoá, vật tư khác dùng cho các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư theo quyết định của thứ trưởng chính phủ.
Doanh nghiệp chế xuất được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá từ khu chế xuất ra nước ngoài và từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất (Điều 48).
Doanh nghiệp chế xuất, doanh nghiệp liên doanh trong khu công nghiệp được hưởng các ưu đãi về thuế đối với trường hợp khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư.
6.4. Tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển:
Điều 46: Doanh nghiệp liên doanh sử dụng mặt đất, mặt nước, mặt biển phải trả tiền thuê; trong trường hợp khai thác tài nguyên phải nộp thuế tài nguyên theo qui định của pháp luật.
6.5. Các loại thuế khác:
Ngoài các loại thuế qui định tại luật đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh phải nộp các loại thuế khác theo qui định của pháp luật như: Thuế tài nguyên, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
Người nước ngoài và người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh phải nộp thuế thu nhập theo quy định củapháp luật (Điều 50).
7. Chính sách ưu đãi áp dụng cho người Việt nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước
- Điều 44: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của luật này được giảm 20% thuế lợi tức so với các dự án cùng loại, trừ trường hợp được hướng mức thuế lợi tức là 10%, được hưởng mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài.
8. Chuyển nhượng vốn.
Các bên trong doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng giá trị phần vốn của mình trong doanh nghiệp liên doanh. Khi chuyển nhượng vốn thì phải ưu tiên chuyển nhượng cho các bên trong doanh nghiệp liên doanh. Trong trường hợp chuyển nhượng cho doanh nghiệp ngoài liên doanh thì điều kiện chuyển nhượng không được thuận lợi hơn so với điều kiện đã đặt ra cho các bên trong doanh nghiệp liên doanh. Việc chuyển nhượng phải được các bên trong trong doanh nghiệp liên doanh thoả thuận (Điều 34).
Việc chuyển nhượng vốn chỉ có hiệu lực sau khi cơ quản quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài chuẩn y hợp đồng chuyển nhượng vốn.
Trong trường hợp chuyển nhượng vốn có phát sinh lợi nhuận thì bên chuyển nhượng nộp thuế lợi tức với thuế suất là 25% lợi nhuận thu được.
Trường hợp chuyển nhượng vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước của Việt Nam hoặc cho các doanh nghiệp mà trong đó Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì nhà đầu tư nước ngoài được miễn thuế lợi tức chuyển nhượng vốn.
Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài chuyển nhượng vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam không phải là các doanh nghiệp nói trên thì phải nộp thuế lợi tức chuyển nhượng vốn với mức thuế suất là 10%.
9. Chuyển lỗ:
Điều 40 quy định “Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp liên doanh được chuyển khoản lỗ của bất kỳ năm thuế nào sang năm tiếp theo và được bù khoản lỗ đó bằng lợi nhuận của những năm tiếp theo, nhưng không được quá 5 năm.
10. Kế toán thống kê: (Điều 37 luật đầu tư nước ngoài)
Doanh nghiệp liên doanh áp dụng chế độ kế toán Việt Nam. Trường hợp cần áp dụng chế độ kế toán thông dụng khác thì phải được bộ tài chính chấp thuận.
Doanh nghiệp liên doanh phải đăng ký chế độ kế toán áp dụng với Bộ tài chính và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính. Doanh nghiệp liên doanh phải gửi báo cáo tài chính hàng năm đến cơ quan cấp Giấy phép đầu tư, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Tổng cục thống kê trong vòng 3 tháng kế từ ngày kết thúc năm tài chính của doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp liên doanh phải được kiểm toán bởi một Công ty kiểm toán độc lập của Việt Nam hoặc Công ty kiểm toán độc lập khác được phép hoạt động tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về kiểm toán.
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp liên doanh đã được kiểm toán có thể được sử dụng làm cơ sở để xác định và quyết toán các nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước Việt Nam.
11. Bảo hiểm xã hội:
Điều 28, luật đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định: “Doanh nghiệp liên doanh bảo hiểm tài sản và trách nhiệm dân sự tại các Công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc tại các Công ty bảo hiểm khác được phép hoạt động tại Việt Nam”.
Doanh nghiệp liên doanh thực hiện việc bảo hiểm trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm ký với các Công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc Công ty bảo hiểm khác được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh thực hiện việc bảo hiểm tự nguyện và bắt buộc theo quy định của pháp luật.
12. Bảo vệ môi trường:
Điều 50, luật đầu tư nước ngoài 1996 quy định: “Doanh nghiệp liên doanh có trách nhiệm tuân thủ những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
13. Chuyển giao công nghệ:
- Việc chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong các dự án đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới dạng góp vốn bằng giá trị công nghệ hoặc mua công nghệ trên cơ sở hợp đồng, phù hợp với pháp luật về chuyển giao công nghệ (Điều 29 luật đầu tư nước ngoài).
- Giá trị cong nghệ chuyển giao dùng để góp vốn do các bên thoả thuận và trong mọi trường hợp không vượt quá 20% vốn pháp định.
- Việc góp vốn bằng công nghệ phải được cơ quan quản lý Nhà nước về công nghề và môi trường xem xét.
- Khi góp vốn bằng công nghệ, nhà đầu tư phải lập hồ sơ chuyển giao công nghệ.
14. Tái đầu tư:
Trường hợp tái đầu tư vào các dự án khuyến khích đầu tư sẽ được hoàn lại một phần hoặc toàn bộ thuế lợi tức đã nộp cho số lợi nhuận tái đầu tư (Điều 42).
Nhà đầu tư nước ngoài dùng lợi nhuận được chia để tái đầu tư được hoàn lại số thuế lợi tức đã nộp của số lợi nhuận tái đầu tư nếu đáp ứng được các điều kiện sau:
- Tái đầu tư vào các dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư.
- Vốn tái đầu tư được sử dụng từ ba năm trở lại.
- Đã góp đủ vốn pháp định ghi trong Giấy phép đầu tư.
Mức hoàn thuế lợi tức do tái đầu tư là có ba mức: 100%, 75% và 50%, tuỳ theo lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư.
15. Mở chi nhánh:
Điều 32, luật đầu tư nước ngoài quy định: “Doanh nghiệp liên doanh được mở chi nhánh ngoài tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính để thực hiện các hoạt động kinh doanh trong phạm vi, mục tiêu quy định trong Giấy phép đầu tư và phải được uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi mở chi nhánh chấp thuận.
16. Lập quỹ:
Điều 41 luật đầu nước ngoài: Sau khi nộp thuế lợi tức, doanh nghiệp liên doanh trích 5% lợi nhuận còn lại để lập quỹ dự phòng. Quỹ dự phòng được giới hạn ở mức 10% vốn pháp định của doanh nghiệp. Tỷ lệ lợi nhuận dành ra để lập quỹ phúc lợi và các quỹ khác do các bên thoả thuận và ghi trong điều lệ của doanh nghiệp.
17. Giải quyết tranh chấp:
Tranh chấp giữa các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh với nhau trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng và hoà giải giữa các bên.
Trong trường hợp hoà giải không thành, các bên tranh chấp có thể thoả thuận một trong các phương thức giải quyết sau:
- Toà án Việt Nam
- Trọng tài Việt Nam hoặc trọng tài nước ngoài, trọng tài Quốc tế.
- Trọng tài do các bên thoả thuận thành lập.
Chương III
Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh.
1. Tình hình thực hiện luật đầu tư nước ngoài trong 10 năm qua.
Đại hội VI của Đảng với chính sách đổi mới tư duy nói chung và tư duy kinh tế nói riêng đã thực sự phản ánh nhu cầu phát triển khách quan của xã hội. Chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng đã tạo ra bước chuyển biến quan trọng trong sự phát triển kinh tế, góp phần đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội để bước vào thời kỳ phát triển mới. Một trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự chuyển biến tích cực đó là việc thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một trong những bước chuyển biến lớn trong định hướng đổi mới kinh tế là việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 và được sửa đổi, bổ sung vào những năm 1990, 1992 và mới đây là năm 1996.
Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 được ban hành đến hết tháng 6 năm 1998, trên địa bàn cả nước đã có 2437 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 32,3 tỷ USD. Điều chỉnh tăng vốn với tổng số vốn là 3,86 tỷ USD, trong số các dự án cấp phép hiện còn 2009 dự án có hiệu lực với số vốn 33,4 tỷ USD. Tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn bổ sung đạt 36,16 tỷ USD.
Nhìn lại hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 10 năm qua, ta có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài có những mặt tích cực đối với việc phát triển của nền kinh tế - xã hội trên một số mặt sau:
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ 1991 - 1995 chiếm bình quân 25,7% và từ năm 1995 đến nay chiếm gần 30% tổng số vốn đầu tư xã hội, đã góp phần đưa tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đạt 8,5% trong thời kỳ 1991 - 1997.
Tỷ lệ đóng góp của khu vực vốn đầu tư nước ngoài trong GDP tăng dần qua các năm, năm 1992 là 2%, năm 1993 là 3,6%, năm 1996 là 8,6%, đến năm 1997 đã lên đến trên 8,6%; nếu tính cả xây dựng cơ bản và dịch vụ khác, tỷ lệ này đạt khoảng 10% GDP.
Đóng góp của các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài vào nguồn thu ngân sách tiếp tục tăng: năm 1994 đạt 128 triệu USD, năm 1995 đạt 19,5 triệu năm 96 đạt 263 triệu USD và năm 1997 đạt 315 triệu USD. Chiếm khaỏng 6 - 7% tổng thu ngân sách hàng năm (nếu tính cả nguồn thu từ dầu khí, tỷ lệ này đạt trên 20%).
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh: năm 91 đạt 52 triệu USD, năm 95 đạt 440 triệu USD, năm 96 đạt 786 triệu USD và năm 1997 đạt 1500 triệu USD, chiếm 17% kim ngạch xuất khẩu của cả nước (chưa kể giá trị xuất khẩu dầu thô).
1.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển lực lượng sản xuất.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu đầu tư vào khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 48,5% và dịch vụ chiếm 47,5%, góp phần nâng cao tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế.
Nhờ hoạt động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều ngành sản xuất quan trọng của nền kinh tế đã xuất hiện như thăm dò, khai thác dầu khí, lắp ráp, sản xuất ô tô xe máy; ... Hiện nay, khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 100% về khai thác dầu thô; 53,8% cán thép; 24% xi măng.
Với năng suất lao động cao với khả năng tạo ra tối 25% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, với tốc độ tăng trưởng 21 - 24%/năm, khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động ngày càng lớn đến nền kinh tế.
1.3. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực. Tính đến nay khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu hút khoảng 27 vạn lao động trực tiếp; nếu tính cả lao động gián tiếp (cung ứng dịch vụ, xây dựng...) ước lên đến 35 - 40 vạn người. Thu nhập của người lao động trong khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước tính lên tới trên 300 triệu USD. Qua hợp tác đầu tư, người lao động việt nam có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp thu kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tác phong lao động công nghiệp.
1.4. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay đã có trên 60 nước và vùng lãnh thổ đã có dự án vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, bao gồm nhiều công ty và tập đoàn nôỉ tiếng trên thế giới.
1.2. Mặt hạn chế:
- Một là: Đầu tư nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu vào một số địa phương như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương... còn các vùng sâu, vùng xa, những vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, cơ sở hạ tần lạc hậu, thị trường chưa phát triển thì lượng vốn đầu tư rất hạn chế.
- Hai là: Trên phạm vi cả nước cũng như từng ngành, từng địa phương chưa có quy hoạch cụ thể về hợp tác đầu tư với nước ngoài và trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến việc không thống nhất ý kiến trong quá trình xét duyệt nhiều dự án giữa các cơ quan Nhà nước, đồng thời nhiều trường hợp đã không cân đối được sản xuất với thị trường, chưa kết hợp chặt chẽ nhu cầu phát triển kinh tế với yêu cầu bảo đảm quốc phòng.
- Ba là: Nhiều nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao vào Việt Nam công nghệ lạc hậu với giá cả cao. Việc đưa công nghệ lạc hậu vào Việt Nam một phần do sự kém hiểu biết của cán bộ Việt Nam và thiếu thông tin về giá cả, mặt khác do động cơ mưu lợi cá nhân của một số cán bộ Việt Nam và sự quản lý Nhà nước trong thẩm định công nghệ còn khiếm khuyến.
Theo kết quả thẩm định các dự án đầu tư đã được công bố, chỉ có trong một số lĩnh vực: vô tuyến viễn thông, lĩnh vực khai thác dầu khí thì công nghệ chuyển giao vào Việt Nam được đánh giá là tiên tiến. Trong các lĩnh vực khác thì công nghệ chuyển giao vào Việt Nam chưa phải là công nghệ tiên tiến. Cá biệt công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam là công nghệ lạc hậu gây ra hậu quả kinh tế là bị thua thiệt mà còn gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường.
- Bốn là: Việc triển khai dự án gặp nhiều khó khăn, không đúng hạn, vi phạm pháp luật của Việt Nam. Nó thể hiện đậm nét ở quá trình triển khai dự án: Cấp giấy phép sử dụng đất... về mặt khách quan: thị trường đầu tư ở nước ta chưa phải là một thị trường có sức mua lớn, vì vậy tính kinh tế theo quy mô của hoạt động đầu tư thấp, khả năng sinh lợi của đồng vốn đầu tư vừa không cao vừa không có triển vọng lâu dài.
Mặt khác, cơ sở hạ tầng của nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu mở rộng đầu tư nhất là hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, hệ thống điện nước...
- Năm là: Quá trình cải thiện môi trường đầu tư ở nước ta diễn ra chậm chạp, chủ yếu do thủ tục hành chính vẫn còn rườm ra, chính sách “mở cửa” trên thực tế vẫn chưa được thực hiện. Trách nhiệm của cán bộ trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư chưa được coi trọng, cơ chế xin - cho vẫn còn phổ biến. Các loại thủ tục về xin Giấy phép đầu tư, sử dụng đất, xây dựng doanh nghiệp, tín dụng, ngân hàng, thuế, ... còn rườm rà.
- Sáu là: Đối với các doanh nghiệp liên doanh thì phía Việt nam trong quản lý tiến hành còn yếu kém và sơ hở gây ra những thua thiệt cho phía Việt Nam không những chỉ trong trước mắt và lâu dài. Tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh thấp gây ra những khó khăn cho bên Việt Nam trong quản lý doanh nghiệp liên doanh. ở nhiều doanh nghiệp liên doanh đã xảy ra tình trạng cán bộ quản lý nước ngoài lấn lướt cán bộ Việt Nam trong các quyết định quan trọng về hoạt động sản xuất kd của liên doanh. Mặt khác, các cán bộ Việt Nam trong liên doanh chưa đủ khả năng và trình độ đảm nhiệm các nhiệm vụ trong doanh nghiệp liên doanh.
2. Kiến nghị:
Trong bối cảnh cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực và trên thế giới gia tăng mạnh mẽ, việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư là một đòi hỏi khách quan nhằm tăng khả năng cạnh tranh của nước ta trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Để đạt được mục tiêu thu hút 13 đ 15 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (vốn thực hiện) đến năm 2000 cần thực hiện một số giải pháp sau đây nhằm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư:
Giải pháp 1: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư theo xu thế cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Mặc dù môi trường đầu tư đã được cải thiện đáng kể so với những ngày đầu thực hiện nhưng so với các nước trong khu vực môi trường đầu tư ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều điểm phải hoàn thiện theo xu hướng phát triển chung của việc thu hút vốn đầu tư của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, chính sách xây dựng để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa phải phù hợp với định hướng phát triển của Việt Nam, vừa phải so sánh, đối chiếu với các nước trong khu vực để tạo ra độ hấp dẫn cao hơn.
Giải pháp 2: Tập trung cao độ công tác quản lý, điều hành, tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án đang hoạt động. Đây là cách làm để thu hút các nhà đầu tư mới.
- Đối với các dự án đang làm thủ tục hành chính hoặc xây dựng cơ bản cần bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ không cần thiết. Cố gắng tập trung đầu mối tránh phá quyền cho quá nhiều cơ quan làm phức tạp quá trình xử lý, gây khó khăn phiền hà.
- Cho phép chuyển một số có lựa chọn liên doanh thua lỗ nặng mà phía Việt Nam không có khả năng cùng gánh chịu thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Thực hiện thoả đáng nguyên tắc không khởi tố đối với các dự án đã được cấp Giấy phép đầu tư trong những trường hợp sau khi dự án được cấp giấy phép mà luật mới của ta quy định cao hơn làm đảo lộn phương án kinh doanh của doanh nghiệp được cấp giấy phép.
Giải pháp 3: Bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hợp lý và coi trọng việc bảo hộ đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Gắn với việc bảo hộ nền kinh tế nói chung cần có những công cụ và biện pháp bảo hộ có chọn lọc đối với các ngành sản xuất quyết định lớn đến tiềm lực kinh tế Việt Nam, việc sử dụng công cụ bảo hộ cần kết hợp giữa bảo hộ thuế quan và bảo hộ phi thuế quan, bảo hộ thông qua chính sách hối đoái theo từng khu vực cần được khuyến khích phát triển.
Giải pháp 4: Đào tạo đội ngũ cán bộ là một giải pháp cực kỳ quan trọng, khi đầu tư nước ngoài đang từng bước đi vào chiều sâu và mức độ cạnh tranh giữa các nhà đầu tư ngày càng lớn. Các cán bộ đào tạo hiện nay không chỉ có cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ quản trị kinh doanh mà còn có cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề.
Giải pháp 5: Đầu tư vào công tác quy hoạch để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhanh chóng xây dựng quy hoạch cho từng ngành nghề, địa phương cũng những quy hoạch tổng thể trên phạm vi cả nước, xác định đúng thế mạnh của từng địa phương và trình độ phát triển của các ngành nghề, từ đó xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý.
Kết luận
Kể từ khi Nhà nước ta ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 cho tới nay đã được hơn 10 năm. Trong quãng thời gian này, đầu tư nước ngoài đã tạo ra những chuyển biến tích cực, góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế đất nước. Đầu tư nước ngoài góp phần gia tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế năm 1996 đạt 9,5% kim ngạch xuất khẩu tăng đáng kể (năm 1996 tăng 37% so với năm 1995) khu vực đầu tư nước ngoài chiếm phần đáng kể trong GDP của cả nước. Năm 1996 thì khu vực đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 13% GDP của toàn bộ nền kinh tế, 21,7% GDP của ngành công nghiệp, gần 1/4 tổng thu ngân sách, 19,4% về sản xuất bia và 20,7% về sản xuất vải, 100% sản lượng dầu thô, 60% về sản xuất thép, 63% về sản xuất xe có động cơ... Nguồn vốn đầu tư chảy vào nước ta tăng khá nhanh, năm 1988 mới chỉ đạt 365 triệu USD thì đến năm 1996 đạt 8 tỷ 538 triệu USD. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp của nước ngoài có biểu hiện chậm lại, 11 tháng đầu năm 1997 đã cấp giấy phép cho 288 dự án với tổng vốn đầu tư đạt 3,937 tỷ USD, chỉ bằng 76% vốn đầu tư cùng kỳ năm 1996.
Tính đến hết tháng 11 năm 1997, có 1887 dự án đang còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 32,328 tỷ USD.
Để có những thành tựu trên không thể không nói đến việc Nhà nước ta luôn chú trọng đến khâu hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư nói chung và luật đầu tư nói riêng. Từ khi ra đời cho đến nay, luật đầu tư đã qua những sửa đổi bổ sung năm 1996, 1997 và nhất là năm 1996 luật đầu tư đã được coi là khá hoàn thiện trước yêu cầu của đất nước.
Tuy nhiên đây là một lĩnh vực còn khá mới mẻ và phức tạp nên khâu hoàn thiện luật cũng khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế cần phải khắc phục.
Tài liệu tham khảo
1. Điều lệ về đầu tư nước ngoài năm 1977
2. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, 1990, 1992.
3. Luật công ty
4. Luật tư pháp quốc tế.
5. Nghị định số 12/CP của chính phủ: “Quy định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.
6. Tạp chí cộng sản
7. Bảo cáo tổng kết của Bộ kế hoạch và đầu tư.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6189.doc